Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hoa Của Phế Tích

Hoa của phế tích là một trong bộ ba tiểu thuyết được phanbook phát hành vào năm nay. Từ câu chuyện một đôi vợ chồng trẻ tự sát vì những lí do bí hiểm mở ra một cuộc điều tra, theo đó là những bước chân lần theo những khu phố cũ, những đại lộ, những tòa nhà… đậm dấu tích của quá khứ. Giọng văn chậm rãi với những câu chữ buồn mà đẹp đến nao lòng của Modiano mang đến cho độc giả những dư âm mãi váng vất. Để từ đó người đọc có thể thấy được văn chương của Patick Modiano là văn chương của ký ức, bất định tương lai. *** Patrick Modiano là Nhà văn Pháp với hơn 30 tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, kịch bản phim,... các tác phẩm của ông đã được dịch 36 thứ tiếng trên thế giới, đạt nhiều giải thưởng danh tiếng, phải kể đến giải Nobel Văn học năm 2014. "Lối viết văn của Modiano rất dễ đọc. Các tác phẩm của ông trông có vẻ đơn giản bởi vì nó tinh tế, thẳng thắn, đơn giản và rõ ràng. Bạn mở sách đọc một trang, và sẽ nhận ra ngay là sách của ông ta, rất thẳng thắn, câu văn ngắn gọn, không cầu kỳ - nhưng nó rất là tinh vi trong cách đơn giản của nó."_ Bí thư thường trực của học viện Nobel Peter Englund Con chó mùa xuân là một trong bộ ba tiểu thuyết được phanbook phát hành vào năm nay. Vẫn với lối viết đơn giản mà tinh tế, Patick Modiano đã dần người đọc vào một hành trình lạ lùng khi hai con đường ngược nhau, cắt nhau nơi ký ức. Như một tất định của đời sống, có tồn tại rồi sẽ có lãng quên, cuối cùng thì không gì có thể níu kéo được hiện hữu thuộc về quá khứ, và tất cả được chứa đựng trong lặng im vĩnh viễn. Để từ đó người đọc có thể thấy được văn chương của Patick Modiano là văn chương của ký ức, bất định tương lai. *** Kho đựng nỗi đau (tựa gốc: Remise de peine, viết năm 1988), Hoa của phế tích (tựa gốc: Fleurs de ruine, 1991), Con chó mùa xuân (tựa gốc: Chien de printemps, 1993) được nhà văn Patrick Modiano (giải Nobel Văn học, 2014) hoàn thành trong ba mốc thời gian khác nhau, nhưng mang đầy đủ những nét đặc thù của không khí, phong cách văn chương ông. Kho đựng nỗi đau lần đầu tiên bức chân dung thời thơ ấu của chú bé Patrick cùng em trai sống trong căn hộ của những diễn viên xiếc ở vùng ngoại vi Paris. Hoa của phế tích là cuộc lần theo manh mối về một vụ tự sát với lý do bí hiểm của đôi vợ chồng kỹ sư trẻ tuổi vào một ngày tháng 3 năm 1933. Còn Con chó mùa xuân là cuộc dò tìm của một người viết tiểu thuyết trẻ tuổi với nỗ lực phục dựng bản tiểu sử của Jasen - một nhiếp ảnh gia sống và ghi chép về Paris nhưng căn cước cá nhân lại nhiều điểm mù bởi dư chấn của thời Đức tạm chiếm… Ba cuốn tiểu thuyết này là dẫn chứng xuất sắc, thuyết phục cho điều mà Patrick Modiano viết trong diễn từ nhận giải Nobel Văn học vào năm 2014: “Người ta có thể lạc lối hoặc biến mất trong một đô thị. Người ta thậm chí có thể thay đổi căn cước và sống một đời khác. Người ta có thể lao mình vào một cuộc điều tra rất dài lâu để tìm lại những dấu vết của một ai đó, và lúc khởi đầu chỉ có một hoặc hai địa chỉ trong một khu phố đã mất biệt. Chỉ dấu ngắn ngủi đôi khi hiện lên trên những phiếu tra cứu luôn luôn tìm được một âm hưởng trong tôi: Nơi cư trú cuối cùng được biết.” Trong lần ấn hành ba tiểu thuyết này, Phanbook cũng phát hành hộp giấy đựng sách Patrick Modiano với thiết kế đẹp, trang nhã dành cho độc giả sưu tầm đủ ba tác phẩm. *** VỀ NHÀ VĂN PATRICK MODIANO Patrick Modiano là nhà văn người Pháp, sinh năm 1945. Ông đạt giải Nobel văn học năm 2014. Nhiều tác phẩm của Modiano đã được in tại Việt Nam. Ba tác phẩm của Patrick Modiano do Phanbook ấn hành: Kho đựng nỗi đau, Hoa của phế tích, Con chó mùa xuân, đều do Hoàng Lam Vân dịch. *** Buổi tối Chủ nhật tháng Mười một ấy, tôi ở trên phố Abbé-de-l’Épée. Tôi đi dọc theo bức tường lớn của Học viện dành cho người câm điếc. Bên trái là tháp chuông nhà thờ Saint-Jacques-du-Haut-Pas cao cao. Tôi còn giữ kỷ niệm về một quán cà phê nơi góc phố Saint-Jacques, tôi hay đến đó sau khi xem phim, rạp Studio des Ursulines. Trên vỉa hè, lá rụng. Hoặc cũng có thể là các trang đã cháy thui của một quyển từ điển Gaffiot[1] cũ. Đây là khu phố của các trường và các tu viện. Vài cái tên cổ kính quay trở lại trong ký ức tôi: Estrapade, Conttescarpe, Tournefort, Pot-de-Fer... Tôi cảm thấy e sợ khi phải băng ngang những chốn tôi chưa từng đặt chân kể từ tuổi mười tám, hồi tôi còn hay lai vãng một trường trung học trên đồi Sainte-Geneviève[2]. Tôi có cảm giác các địa điểm vẫn cứ ở trong tình trạng mà tôi đã để chúng lại từ đầu thập niên sáu mươi, chúng bị bỏ hoang cùng quãng đó, cách đây đã hơn hăm lăm năm. Phố Gay-Lussac - cái phố im lìm ấy, nơi trước đây người ta từng dỡ đá lát và dựng chiến lũy[3] - cửa ra vào một khách sạn đã bị xây bịt lại và phần lớn cửa sổ không còn kính. Nhưng biển hiệu thì vẫn gắn ở đó, trên tường: Khách sạn Tương lai. Tương lai nào? Là tương lai, đã chấm dứt, của một sinh viên hồi những năm ba mươi, thuê lấy một căn phòng nhỏ tại khách sạn ấy, lúc vừa rời trường Sư phạm, và tối thứ Bảy thì mời các bạn học cũ đến chơi. Và họ đi vòng qua mấy khối nhà để tới rạp Studio des Ursulines xem một bộ phim. Tôi đi qua trước rào sắt và ngôi nhà màu trắng nhiều chớp cửa sổ, với rạp chiếu phim chiếm tầng trệt. Sảnh vào sáng đèn. Hẳn tôi có thể đi tiếp tới Val-de-Grâce, cái vùng yên bình ấy, nơi chúng tôi từng trốn, Jacqueline và tôi, để ông hầu tước không có cơ may gặp được nàng. Chúng tôi sống tại một khách sạn nằm đầu phố Pierre-Nicole. Chúng tôi tằn tiện với số tiền mà Jacqueline kiếm được bằng cách bán chiếc măng tô lông thú của nàng. Phố ngập nắng, vào buổi chiều Chủ nhật. Đám thủy lạp của ngôi nhà gạch nhỏ, đối diện trường Sévigné. Dây thường xuân phủ kín các ban công khách sạn. Con chó ngủ trong hành lang lối vào. Tôi đi đến phố Ulm. Nó hoang vắng. Có tự nhủ rằng vậy thì đâu có gì kỳ cục vào một tối Chủ nhật, tại cái khu phố chuyên cần và nhiều chất tỉnh lẻ này, thì tôi vẫn tự hỏi mình có đang còn ở Paris hay không. Trước mặt tôi là vòm tròn của Panthéon. Tôi sợ lại thấy chỉ có độc mình tôi, dưới chân tòa công trình cho người chết ấy, dưới ánh trăng, thế là tôi vội rẽ sang phố Lhomond. Tôi dừng lại trước trường Ái Nhĩ Lan. Một cái chuông điểm tám tiếng, có lẽ chuông của giáo đoàn Thánh Linh mà mặt tiền đồ sộ đang ở kia, bên tay phải tôi. Thêm vài bước nữa, tôi bước vào quảng trường Estrapade. Tôi tìm số 26 phố Fossés-Saint-Jacques. Một tòa nhà hiện đại, kia, trước mặt tôi. Chắc hẳn tòa nhà cũ đã bị phá đi chừng hai mươi năm về trước. Ngày 24 tháng Tư năm 1933. Cặp vợ chồng trẻ tự sát vì những lý do bí hiểm. Đúng là một câu chuyện lạ thường, những gì đã xảy ra đêm qua trong tòa nhà số 26, phố Fossés-Saint-Jacques, gần Panthéon, ở nhà ông và bà T. Ông Urbain T., kỹ sư trẻ tuổi, tốt nghiệp thủ khoa trường Hóa học, cách đó ba năm lấy cô Gisèle S., hăm sáu tuổi, hơn ông một tuổi. Bà T. là một phụ nữ xinh đẹp tóc vàng, cao và thanh mảnh. Về phần chồng bà, ông thuộc típ đàn ông tóc nâu đẹp trai. Cặp vợ chồng hồi tháng Bảy vừa rồi chuyển vào sống ở tầng trệt số 26, phố Fossés-Saint-Jacques, trong một cái xưởng được họ cải tạo thành nhà ở. Cặp vợ chồng trẻ rất gắn bó với nhau. Dường như chẳng mối lo lắng nào nhuốm lên hạnh phúc của họ. Tối thứ Bảy, Urbain T. quyết định cùng vợ ra ngoài đi ăn tối. Họ rời khỏi nhà vào quãng bảy giờ. Mãi khoảng hai giờ sáng họ mới về, cùng hai cặp khác. Gây ồn ào chối tai, họ đánh thức các hàng xóm vốn dĩ chẳng mấy quen thuộc với những biểu hiện ầm ĩ như vậy từ phía những người thuê nhà thông thường rất kín đáo. Chắc hẳn bữa tiệc đã có các biến cố bất ngờ. Quãng bốn giờ sáng, những người khách đi khỏi. Trong vòng nửa tiếng sau đó, vốn dĩ trôi qua trong im lặng, hai phát nổ sượng đục vang lên. Chín giờ, một hàng xóm, ra khỏi nhà, đi qua trước cửa nhà của vợ chồng T. Bà ta nghe thấy có tiếng rên rỉ. Đột nhiên nhớ đến những tiếng nổ trong đêm, bà ta thấy lo lắng nên đập cửa. Cửa mở ra và Gisèle T. xuất hiện. Máu chầm chậm chảy từ một vết thương thấy rõ dưới vú trái. Cô thì thầm: “Chồng tôi! Chồng tôi! Chết rồi”. Một lúc sau, ông Magnan, cảnh sát trưởng, tới nơi. Gisèle T. rên rỉ, nằm trên một cái đi văng. Trong phòng bên cạnh, người ta phát hiện xác chồng cô. Anh vẫn giữ chặt một khẩu súng ngắn trong bàn tay co quắp. Anh ta đã tự sát bằng một viên đạn bắn thẳng vào tim. Bên cạnh anh, một bức thư nguệch ngoạc: “Vợ tôi đã tự sát. Chúng tôi đã say rượu. Tôi tự sát đây. Đừng tìm...”.   Dường như, theo cuộc điều tra, Urbain và Gisèle T., sau bữa tối, đã đến một quán bar ở Montparnasse. Tối hôm trước, từ phố Fossés-Saint-Jacques, tôi đã đi bộ tới giao lộ nơi có quán Dôme và quán Rotonde, sau khi để lại sau lưng khu vườn Đài Thiên văn tối tăm. Vợ chồng T. hẳn đã đi theo cùng con đường như tôi, vào cái đêm năm 1933 ấy. Tôi chợt thấy mình đang ở một cái nơi mà tôi đã tránh kể từ những năm sáu mươi. Cũng như khu Ursulines, khu Montparnasse làm tôi nghĩ đến tòa lâu đài của nàng công chúa trong khu rừng ngủ. Tôi từng có cùng cảm giác ấy, hồi hai mươi tuổi, khi thuê phòng để trú vài đêm tại một khách sạn trên phố Delambre: Thời ấy Montparnasse đối với tôi đã có dáng vẻ của một khu phố sống sót sau chính nó và đang chậm rãi thối rữa, cách xa khỏi Paris. Những lúc trời mưa trên phố Odessa hay phố Khởi Hành, tôi thấy như thể mình đang ở một bến cảng vùng Bretagne, dưới làn mưa phùn. Từ nhà ga, hẵng còn chưa bị phá hủy, bốc lên những bụm không khí của Brest hay Lorient. Bữa tiệc, ở đây, đã kết thúc từ lâu. Tôi còn nhớ rằng biển hiệu của quán Jimmy’s ngày xưa vẫn còn treo trên bức tường của phố Huyghens, và nó bị rơi mất dăm ba chữ, gió ngoài khơi đã thổi tung chúng đi mất. Đó là lần đầu tiên - theo các báo hồi tháng Tư năm 1933 - cặp vợ chồng trẻ bước vào một quán ban đêm của khu Montparnasse. Họ đã hơi quá chén trong bữa tối chăng? Hoặc giả, hết sức đơn giản, họ muốn phá vỡ, dẫu chỉ trong một buổi tối, dòng chảy êm đềm cuộc đời họ? Một nhân chứng khẳng định đã trông thấy họ, quãng mười giờ tối, tại quán Café de la Marine, một sàn dancing, ở số 243, đại lộ Raspail; một người khác, ở quán cabaret tên là Isles, trên phố Vavin, đi cùng hai phụ nữ. Cảnh sát cho công bố ảnh họ nhằm kêu gọi những lời chứng rất có nguy cơ cần phải được thẩm tra kỹ vì có rất nhiều phụ nữ trẻ tóc vàng và chàng trai tóc nâu, như Urbain và Gisèle T. Trong vòng vài ngày, người ta tìm cách xác định hai cặp trai gái mà vợ chồng T. đã đưa về nhà họ, trên phố Fossés-Saint-Jacques, rồi cuộc điều tra được khép lại. Gisèle T., trước khi chết vì các vết thương, đã cất tiếng nói, nhưng những kỷ niệm của cô mơ hồ. Đúng, họ đã gặp, tại Montparnasse, hai phụ nữ, hai người xa lạ mà cô chẳng hề biết gì... Và những người đó đã lôi kéo họ tới Le Perreux, tại một sàn dancing nơi có hai người đàn ông đến với họ. Rồi họ tới một ngôi nhà, ở đó có một cái thang máy màu đỏ. Tối nay, tôi đi theo dấu chân họ trong một khu phố ủ dột được tòa tháp Montparnasse phủ tấm màn tang tóc. Trong ngày, nó che giấu mặt trời và phóng cái bóng của nó lên đại lộ Edgar-Quinet cùng các phố lân cận. Tôi để lại sau lưng quán Coupole mà người ta đang phá đi dưới một mặt tiền bằng bê tông. Tôi thấy thật khó mà tin rằng Montparnasse xưa kia từng biết đến một cuộc sống về đêm... Chính xác thì vào thời nào tôi từng sống ở cái khách sạn trên phố Delambre kia? Quãng năm 1965, khi tôi làm quen với Jacqueline và không lâu trước khi tôi lên đường đi Viên, bên Áo. Căn phòng bên cạnh phòng tôi được thuê bởi một người đàn ông trạc ba lăm tuổi, một người đàn ông tóc vàng mà tôi hay gặp trong hành lang, rốt cuộc tôi cũng bắt đầu quen biết ông ta. Tên ông ta? Cái gì đó giống như Devez hay Duvelz. Lúc nào ông ta cũng ăn vận hết sức chỉn chu và đính một huy chương trên hàng cúc áo. Nhiều lần, ông ta từng mời tôi uống một cốc, rất gần khách sạn, tại một quán bar, Rosebud. Tôi không dám từ chối, ông ta có vẻ rất thích nơi đó. - Ở đây tuyệt quá... Ông ta nói giọng nhiều âm răng, giọng của một người con nhà gia giáo, ông ta đã kể với tôi là ông ta từng ở hơn ba năm “vùng bưng biền”[4] và tại đó, ông ta đã kiếm được tấm huy chương kia. Nhưng cuộc chiến tranh Algérie khiến ông ta thấy lộn mửa. Ông ta đã cần rất nhiều thời gian thì mới hồi phục được từ đó. Ông ta sắp sửa kế tục bố ông ta làm chủ một doanh nghiệp dệt sợi lớn trên miền Bắc. Rất mau chóng, tôi nhận ra rằng ông ta không nói cho tôi sự thật: Về “doanh nghiệp dệt sợi” ấy, ông ta luôn luôn mơ hồ. Và ông ta tự nói ngược với chính mình, một hôm khẳng định với tôi là từng tốt nghiệp trường Saint-Maixent, ngay trước khi sang Algérie, rồi, tới hôm sau, rằng ông ta đã hoàn toàn học bên Anh. Đôi khi, cái giọng đầy âm răng của ông ta nhường chỗ cho giọng đớt của một kẻ bán hàng rong. Chắc cần phải có chuyện tôi bước đi, tối Chủ nhật ấy, trong khu Montparnasse, thì cái tay Duvelz - hay Devez - kia mới có thể đột nhiên hiện ra từ hư vô như thế. Một hôm, tôi còn nhớ, chúng tôi đã tình cờ gặp nhau trên phố Rennes, và ông ta đã mời tôi một bốc bia - như ông ta nói - tại một trong những quán cà phê thuộc giao lộ Saint-Placide buồn thảm. Quán cabaret tên Isles, trên phố Vavin, nơi hẳn người ta phải để ý thấy sự hiện diện của cặp vợ chồng, chiếm tầng hầm của tiệm Vikings. Bầu không khí đậm màu sắc Scandinavia cùng gỗ ốp tường sáng màu của Vikings trông thật tương phản với cái quán rượu nhọ nhem ấy. Chỉ cần đi xuống hết cầu thang: Từ những ly cocktail và các món nhẹ Na-uy ở tầng trệt, người ta sục thẳng vào giữa những điệu nhảy Martinique. Có phải vợ chồng T. đã gặp hai người phụ nữ ở đó? Tôi có cảm giác phải là tại Café de la Marine, đại lộ Raspail, về phía Denfert-Rochereau. Tôi còn nhớ căn hộ nơi Duvelz từng dẫn chúng tôi, Jacqueline và tôi, đến, cũng nằm ở đầu đại lộ Raspail đó. Cả lần ấy nữa, tôi cũng không dám từ chối lời mời của ông ta. Trong vòng gần một tuần, ông ta đã nằn nì cả hai chúng tôi một tối thứ Bảy nào đó cần phải tới nhà một người bạn gái của ông ta, ông ta rất muốn giới thiệu chúng tôi với người ấy. Bà mở cửa cho chúng tôi và, trong bóng tối lờ mờ của tiền phòng, tôi không nhìn rõ khuôn mặt bà. Phòng khách lớn, nơi chúng tôi bước vào, khiến tôi choáng váng vì vẻ xa xỉ của nó, chẳng hề tương hợp với căn phòng nhỏ của Duvelz, trên phố Delambre. Ông ta ở đó. Ông ta giới thiệu chúng tôi với nhau. Tôi đã quên mất tên bà: Đó là một phụ nữ tóc nâu đường nét hài hòa, một bên mặt, ở đoạn gò má, có vết sẹo lớn. Chúng tôi, Jacqueline và tôi, ngồi xuống trường kỷ. Duvelz và người phụ nữ, trong phô tơi, đối diện với chúng tôi. Chắc bà khoảng ba lăm, cùng độ tuổi với Duvelz. Bà tò mò nhìn chúng tôi. - Em có thấy họ thật duyên dáng không, cả hai?, Duvelz hỏi, bằng giọng nói nhiều âm răng của mình. Bà chăm chăm nhìn chúng tôi. Bà hỏi chúng tôi: - Hai người có muốn uống gì không? Giữa chúng tôi xuất hiện một quãng ngại ngần. Bà rót rượu porto mời chúng tôi. Duvelz uống một ngụm lớn. - Thoải mái đi, ông ta nói. Đây là một người bạn lâu năm... Bà ném về phía chúng tôi một nụ cười rụt rè. - Thậm chí chúng tôi từng đính hôn với nhau. Nhưng cô ấy đã phải lấy người khác... Bà không hề nhíu mày. Bà vẫn ngồi rất thẳng ở phô tơi, tay cầm ly rượu. - Chồng cô ấy hay đi vắng... Chắc chúng ta có thể tận dụng điều đó để đi chơi chung cả bốn người... Các bạn nghĩ sao? - Đi chơi đâu? Jacqueline hỏi. - Nơi nào các bạn muốn... Thậm chí chúng tôi còn không có nhu cầu ra ngoài. Ông ta nhún vai. - Ở đây thật hay... Phải không? Bà vẫn ngồi rất thẳng ở phô tơi. Bà châm một điếu thuốc lá, có lẽ để che giấu sự căng thẳng. Duvelz đã lại làm thêm một ngụm porto nữa. Ông ta đặt ly của mình lên cái bàn thấp, ông ta đứng dậy và bước về phía bà. - Cô ấy thật xinh đẹp, phải không? Ông ta đưa ngón tay trỏ lướt trên vết sẹo ở má. Rồi ông ta cởi cúc cái áo của bà và vuốt ve hai vú. Bà không hề động cựa. - Hồi trước chúng tôi đã gặp một tai nạn ô tô rất nghiêm trọng, ông ta nói. Bà hất tay ông ta ra bằng một động tác dữ tợn. Bà lại mỉm cười với chúng tôi. - Chắc hai người đói rồi... Giọng bà trầm và thoáng có âm sắc nước ngoài, dường như vậy. - Anh có thể giúp em mang bữa tối vào đây không? bà hỏi ông ta, giọng khá xẵng. - Tất nhiên rồi. Họ đứng dậy, cả hai. - Toàn đồ lạnh thôi, bà nói. Hai người thấy có được không? - Rất được, Jacqueline đáp. Ông ta đã choàng tay quanh vai bà và kéo bà ra khỏi phòng khách, ông ta thò đầu qua khe cửa mở. - Các bạn có thích sâm banh không? Ông ta đã đánh mất cái giọng nhiều âm răng. - Rất thích, Jacqueline đáp. - Có ngay đây. Chỉ còn lại chúng tôi trong phòng khách, vài phút, và tôi dồn hết nỗ lực ký ức để tập hợp lại càng nhiều chi tiết càng tốt. Những cửa sổ bệ thấp nhìn xuống đại lộ mở hé vì trời nóng. Đó là số 19 đại lộ Raspail. Năm 1965. Một cây đàn piano loại có đuôi đặt tận về cuối phòng. Trường kỷ và hai phô tơi đều làm bằng cùng một thứ da màu đen. Cái bàn thấp, bằng kim loại dát bạc. Một cái tên như là Devez hay Duvelz. Vết sẹo trên má. Cái áo bị cởi cúc. Một làn ánh sáng rất rực của đèn chiếu, hay nói đúng hơn là của đèn pin. Nó chỉ rọi sáng một mảnh nhỏ của décor, một giây phút đơn lẻ, mà để những gì còn lại trong bóng tối, bởi chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được đoạn sau các sự kiện và nói cho đúng thì hai người kia là ai. Chúng tôi lẻn ra khỏi phòng khách và, thậm chí còn không khép cửa lại, chúng tôi đi xuống cầu thang. Lúc nãy, chúng tôi đã dùng thang máy để lên, nhưng nó không màu đỏ, giống cái thang máy mà Gisèle T. từng nhắc đến. Mời các bạn đón đọc Hoa Của Phế Tích của tác giả Patrick Modiano & Hoàng Lam Vân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Boss, Nơi Đó Không Thể Cắm
Hãy tưởng tượng! Bạn "được" xuyên không Một chuyện thú vị biết dường nào, gay cấn biết dường nào, hồi hộp biết bao, kích động biết bao... Bạn đang nghĩ mình sẽ xuyên tới thời đại nào á??? Thôi khỏi nghĩ, hiện đại thôi Vậy sao gọi là xuyên nhỉ??? Ừ được mà, xuyên vào phim đó! Phim rất rất rất rất máu chó đó nhaaaaaa Chà, vậy làm nữ chính hay nữ phụ? Cũng không phải *lật bàn* cuối cùng là saoooooo? Ấy ấy chỉ là xuyên thành điện thoại di động thôi mà 。◕_________◕。 Thế là nữ chính của chúng ta oanh liệt biến thành chiếc điện thoại của nam phụ trong một bộ phim truyền hình đầy máu chó Hiuuu thế này chẳng khác nào nữ chính của chúng ta lúc nào cũng "trần truồng" nhỉ? Đã vậy còn bị anh giai "sờ mó" khắp người nhể? Chưa hết nha... Khi hết pin thì phải "sạc" nha. "Cắm" dây vào nhaaa =))))))) - Nhân vật phản diện Boss: Tiểu Bảo Bảo, anh muốn nhìn **! - Cái máy: Boss, điện thoại di động không có công năng ấy! - Nhân vật phản diện Boss: Cho nên, yêu nghiệt, em còn không mau mau biến thân đi?!! - Cái máy: "......" Sớm biết không kể cho anh ta chuyện Tây Du Ký rồi. - Nhân vật phản diện Boss: Tiểu Bảo Bảo, anh muốn xem phim sex!  - Cái máy: Boss, điện thoại di động không có tính năng ấy!  - Nhân vật phản diện Boss: Cho nên, yêu nghiệt, em còn không mau biến thân đi?!!  - Cái máy: "......" Sớm biết không nói cho anh ta chuyện Tây Du Ký rồi.  *** Mỗ nữ trọng sinh, lại trọng sinh vào một bộ phim truyền hình cẩu huyết của Đài Loan. Được rồi, thể loại này bạn đã từng xem qua? Vậy bạn đã thấy qua heo nái biến thành điện thoại di động chưa? Không sai, mỗ nữ đã biến thành điện thoại di động, sau đó điện thoại ấy lại bi kịch trở thành vật sở hữu của nam phụ phản diện ~~~ BOSS phản diện: Bé cưng, anh muốn xem phim 3X! Mỗ điện thoại: BOSS, điện thoại không có chức năng đó! BOSS phản diện: Cho nên, yêu nghiệt, em còn không mau biến thân!!! Mỗ điện thoại: “…” Biết thế không kể Tây Du Ký cho anh nghe. Truyện này có một cái cốt truyện điên rồ hết sức, cực kì điên rồ. Nữ chính xuyên vào một cái phim Đài Loan dài tập, dài lê thê đã chẳng, đi dính với nam phản diện đã chẳng, lại còn không được làm người mà bị nuốt quách vào một cái điện thoại. Bạn không nghe lầm đâu, nữ chính biến thành một cái ĐIỆN THOẠI. Nữ chính có hai lần nâng cấp, nên dần dà cũng trở thành dạng người. Ban đầu, nữ chính nhập vai vào game chăm sóc trẻ em, vai đứa trẻ con cho nam chính giải sầu. Nam chính này cũng hơi bị bựa bựa, khùng khùng, thân là phản diện nhưng bị bệnh thích trẻ con có điều bề ngoài lạnh lùng, chả ai ưa mà cho trẻ con lại gần. Anh đành phải chơi game cho đỡ ghiền. :)) Sau khi nữ chính thành người thì còn khó đỡ hơn khi cô vẫn còn chỗ cắm sạc đằng sau mông và vẫn là một cái điện thoại, khó đỡ cực kì luôn. Mà không có đủ điện sạc là cô sẽ chết, thế là mỗi lần sạc lại phải … cắm. Truyện này ngay từ cái tựa đề đã toát lên sự quái dị và biến thái rồi, bựa một cách kinh hồn, mới đọc sẽ bị ngã ngửa vì mớ logic trong truyện nó đi lệch khỏi mọi motif thường thấy. Nữ chính tiểu bạch thỏ, ngây thơ nhưng không ngu ngốc, đọc yêu cực kì. Nam chính thì vừa bựa vừa điên, hài hước không đỡ được. “Boss, chỗ đó không thể cắm vào” về phương diện hài hước thực sự là một món ăn giải trí rất tốt cho não của bạn sau những ngày căng thẳng mệt mỏi hoặc chìm trong ngược thân ngược tâm với cuộc đời. Hài đau ruột, hài đến nội thương. Kể cả mấy đoạn có sắc thì vẫn cứ hài được. Sau khì nữ chính giúp anh nam chính thoát kiếp nam phụ phản diện trong phim, rồi hai người cũng yêu nhau và có cái kết HE nên yên tâm.  *** Linh hồn của nữ chính Kim Nguyên Bảo bị xuyên vào chiếc điện thoại di động của nam chính Ngôn Sóc – nhân vật phản diện trong phim Em, cô gái socola mà mẹ cô đang xem. Tại đây cô gặp Baidu và “tiểu thư” Hệ thống. Cô còn trở thành nhân vật trong game Hệ thống bồi dưỡng cục cưng, trở thành “cục cưng” Bảo Bảo. Chi tiết này làm mình nhớ tới phim Chàng hoàng tử tôi yêu (Trung Quốc), nam chính cũng khá giống như Kim Nguyên Bảo bị xuyên qua máy trò chơi của nữ chính. Nam chính có vẻ ngoài lạnh lùng nhưng lại thích trẻ con, mà chẳng đứa trẻ nào dám lại gần anh, nên mới chơi game này. Mình xem truyện này vì tên truyện quá đặc sắc, khá mập mờ =) Cốt truyện mới lạ nữa, nên mình bỏ qua những cmt chê mà nhảy hố luôn. Thế nhưng mình khá thất vọng vì chẳng thấy hài hước gì cả, cốt truyện mới lạ nhưng chẳng biết do giọng văn của tác giả hay do editor mà văn phong nhàm chán, nội dung khó hiểu. Mình cố đọc tới chương 20, nhưng đành bỏ cuộc vì giọng văn và nội dung. Mình chỉ cho truyện này 1.5/5 điểm thôi.   Mời các bạn đón đọc Boss, Nơi Đó Không Thể Cắm của tác giả Cẩm Chanh.
Anh, Em Sai Rồi
Tô Tiểu Lai: Anh, em sai rồi. Trình Thiếu Phàm: Sai thế nào? Tô Tiểu Lai: Em không nên đi học muộn, không nên thường xuyên trốn học. Trình Thiếu Phàm: Chỉ có vậy? Tô Tiểu Lai: Thỉnh thoảng đêm không về ký túc xá. Trình Thiếu Phàm: Là thỉnh thoảng sao? Tô Tiểu Lai: Em thề với ánh trăng, tuyệt đối chỉ thỉnh thoảng. Trình Thiếu Phàm: 3 năm đại học có 81 đêm không về ký túc xá, chỉ là thỉnh thoảng? Tô Tiểu Lai: Ách… Anh, em sai rồi. Trình Thiếu Phàm: Sai thế nào? Tô Tiểu Lai: Thế nào cũng đều sai rồi … Nhận xét cá nhân: Cuối cùng cũng tìm được bộ truyện thích. Truyện này hài hước, dễ thương, không hề đau buồn, lâm ly bi đát gì.  *** Lâm Vi Vi bước vào cửa ký túc xá nhìn ghé vào thấy Tô Tiểu Lai đang nằm hấp hối trên bàn, Lâm Vi Vi cảm thấy không đúng tí nào, hình ảnh Tô Tiểu Lai lúc này, giống như vừa bị ngộ độc thức ăn, cô chưa bao giờ thấy qua, cô biết Tô Tiểu Lai là một thanh niên tràn đầy sức sống tươi trẻ năng động, là người gặp chuyện bất bình thì kêu la, là kẻ đến người giết người quỷ giết quỷ cũng không sợ trời không sợ đất, là người một ngày ăn năm bát cơm, đến nửa đêm còn như bị ma đói quấn thân đứng dậy tìm đồ ăn bỏ vào bụng, là học sinh nổi tiếng trốn học toàn bộ các môn lại còn không biết xấu hổ nói to : Không cần sủng bái chị, chị đây chính là huyền thoại, là người mặc bộ đồ 13 ngày không đổi hóa màu xám cũng chỉ là chuyện vặt ....... Lâm Vi Vi không thể không nhìn vào người chị em tốt cùng ăn cùng ngủ ba năm nay mà bày tỏ an ủi, kỳ thật chủ yếu chính mình cũng muốn tám chuyện một chút, ngẫm lại phòng 308 đã bao lâu rồi không được nghe tin tức nào mới mẻ, cho nên Lâm Vi Vi liếc mắt một cái đã nhận ra Tô Tiểu Lai hôm nay là bị chuyện cũ hành hạ. Kết quả phải bắt đầu cuộc đối thoại. Mời các bạn đón đọc Anh, Em Sai Rồi của tác giả Hoàng Hôn Tứ Hợp.
Kim Vân Kiều Truyện
LỜI DẪN VỀ VĂN BẢN C húng ta ai cũng biết rằng, dựa trên cơ sở văn bản Kim Vân Kiều truyện do Thanh Tâm tài nhân biên thứ, Nguyễn Du đã tái tạo thành thi phẩm nổi tiếng Đoạn trường tân thanh. Vì vậy, muốn hiểu Nguyễn Du một cách đầy đủ và khách quan, đặc biệt là muốn hiểu những nỗi “đau đớn lòng” trước thời cuộc “bể dâu” mà ông đã từng “trải qua”, từng “trông thấy”, rồi đem thể hiện chúng qua ngòi bút thiên tài của mình thì không thể không đọc Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân. Hiện nay có nhiều văn bản Kim Vân Kiều truyện và bản nào cũng ghi là Thanh Tâm tài nhân biên thứ. Song khi đọc, ta không khỏi ngạc nhiên, bởi chúng không chỉ khác nhau ở một vài chi tiết mà khác nhau cả về nội dung cũng như cách ngắt hồi. Tựu chung, có hai loại văn bản về Kim Vân Kiều truyện: loại in từ nửa đầu thế kỉ XX trở về trước và loại in từ giữa thế kỉ XX trở lại đây. Loại thứ nhất, về cơ bản chúng giống nhau, sự dị biệt về chữ nghĩa là không đáng kể. Chỉ có điều khác là, bản do Quán Hoa Hiên tàng bản thì không có lời đề tựa cùa một người tên hiệu là Thiên Hoa Tàng chủ nhân và lời bình luận của Quán Hoa đường; còn bản do Đại Liên đồ thư quán thì ngược lại, không có lời bình của Quán Hoa đường, nhưng lại có lời đề tựa của Thiên Hoa Tàng chủ nhân. Loại thứ hai, chẳng hạn, bản do Đinh Hạ hiệu điểm, hoặc bản do Xuân Phong văn nghệ xuất bản... về cơ bản cũng gồm 20 hồi như các bản Quán Hoa hiên, Đại Liên... nhưng dài hơn, có nhiều chi tiết hơn tạo nên sự hoàn thiện cho tác phẩm, nâng giá trị vể nội dung cũng như về nghệ thuật của tác phẩm cao hơn, đặc biệt tạo nên mạch lôgíc gần gũi với lối tư duy của người hiện đại. Hơn nữa, có bản, chẳng hạn bản do Đinh Hạ hiệu điểm, cách ngắt hồi cũng khác với hai bản Quán Hoa Hiên và Đại Liên. Điểu này tạo nên sự phức tạp, thậm chí rối loạn khi nghiên cứu - so sánh giữa Đoạn trường tân thanh với Kim Vân Kiều truyện. Dĩ nhiên, công việc của chúng tôi không phải là phê phán các văn bản Kim Vân Kiều truyện hoặc đưa ra phương pháp nghiên cứu - so sánh mà chỉ muốn giới thiệu một bản dịch Kim Vân Kiều truyện. Ở Việt Nam ít nhất đang lưu hành ba dịch bản Kim Vân Kiểu truyện. Bản thứ nhất do Hùng Sơn Nguyễn Duy Ngung dịch, in năm 1925. Bản thứ hai được dịch bởi các cụ Nguyễn Khắc Hanh, Nguyễn Đức Vân, in rônêô năm 1962, sau đó năm 1994 Nhà xuất bản Hải Phòng in lại và La Sơn Nguyễn Hữu Sơn giới thiệu. Bản thứ ba do cụ Tô Nam Nguyễn Đình Diệm dịch, in năm 1971. Trong ba bản dịch kể trên thì bản dịch của cụ Hùng Sơn bị bỏ mất ba hồi và cũng khá tuỳ tiện thêm bớt; bản của cụ Tô Nam ra đời sau, lại bỏ mất những lời bình của Quán Hoa đường, bản của các cụ Nguyễn Khắc Hanh, Nguyễn Đức Vân ra đời trước bản của Tô Nam, lại có đầy đủ cả bài tựa và lời bình. Vì vậy, chúng tôi chọn bản này để giới thiệu. Tuy nhiên, bởi dựa vào bản chép tay kí hiệu A.953 có duy nhất vào thời kì bấy giờ để dịch nên bản của các cụ Nguyễn Khắc Hanh và Nguyễn Đức Vân không khỏi có một vài sai sót mà ông Phạm Đan Quế trong Truyện Kiều đối chiếu đã nêu: “…Có một số sai khác, lược bỏ một vài đoạn ngắn của một số bài thơ..”[1]. Nay may mắn, được Nhà giáo Nhân dân - Giáo sư Nguyễn Đình Chú, giảng viên khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội cho mượn văn bản Kim Vân Kiều truyện do Tiểu Hoa Hiên tàng bản, Quán Hoa đường bình luận và được Giáo sư cùng nhà văn Siêu Hải thay mặt gia đình hai cố dịch giả[2] cho phép tôi hiệu chỉnh lại dịch bàn cùa hai cụ. Tôi đã hiệu chỉnh theo ba nguyên tắc sau đây: 1. Bổ sung những đoạn mà dịch giả thiếu, có thể do bản chép tay A.953 bỏ sót... 2. Điều chỉnh những chỗ khác biệt khá xa với nguyên bản. 3. Điều chỉnh các xưng hô. Đối với người Việt Nam, cách xưng hô biểu hiện thái độ của người giao tiếp với đối tượng mình đang giao tiếp. Không phải ngẫu nhiên Thanh Tâm tài nhân toàn gọi Mã giám sinh là Mã Bất Tiến, hoặc Mã Quy, trừ trường hợp duy nhất mụ mối giới thiệu y với gia đình Thúy Kiều mới gọi là Giám sinh họ Mã. Đối với Thúy Kiều cùng vậy, lúc tác giả gọi là Thúy Kiều, lúc lại gọi là phu nhân hoặc Vương phu nhân. Điều đó đều do dụng ý nghệ thuật của tác giả. Cách xưng hô còn biểu hiện trình độ văn hoá và quan hệ của người xưng hô với đối tượng giao tiếp. Hoạn Thư là con nhà gia giáo, có phong cách của bậc tiểu thư con quan Thượng thư bộ Lại, dù có ghét Thúy Kiều đến đâu nàng cũng không thể mày tao chí tớ với Thúy Kiều; Bạc Hạnh dù có cố phình nịnh để lừa Thúy Kiều thì y cũng không thể xưng anh anh em em với nàng... Gặp các trường hợp tương tự như vậy, tôi đều hiệu chỉnh lại. Ngoài ba nguyên tắc nêu trên, những chỗ nguyên bản không có mà dịch bản có, tôi cũng lược bỏ đi. Sau khi hiệu chỉnh xong, tôi đã đưa để Giáo sư Nguyễn Đình Chú duyệt lần cuối cùng. Nguyện vọng của tôi là chỉ muốn cung cấp cho bạn đọc một dịch bản Kim Vân Kiều truyện càng ít sai sót và càng gần với bản Nguyễn Du dùng để sáng tạo Đoạn trường tân thanh bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Tuy nhiên, mong muốn là một chuyện, còn có đạt được mong muốn ấy không, lại là vấn để khác vì nó phụ thuộc vào tình hình tư liệu và trình độ của người hiệu chỉnh. Văn bản dùng dể hiệu chỉnh là Kim Văn Kiều truyện do Tiếu Hoa Hiên tàng bản. Dù có cố gắng bao nhiêu, tôi cũng biết rằng, khó tránh khỏi những thiếu sót. Mong được sự chỉ giáo của độc giả gần xa. Cuối cùng, có được bản Kim Vân Kiều truyện này là nhờ sự giúp đỡ của Giáo sư Nguyễn Đình Chú và nhà văn Siêu Hải - thân nhân của hai cố dịch giả Nguyễn Khắc Hanh, Nguyễn Đức Vân và Nhà xuất bản Đại học Sư phạm. Nhân đây xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó. Hà Nội, ngày 03 - 01 - 2000 Người hiệu chỉnh PGS.TS. NGUYỄN ĐẢNG NA *** Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc được Thanh Tâm Tài Nhân viết vào đời Thanh; truyện được mang sang nước ta từ lâu và Nguyễn Du đã mượn cốt truyện mà viết nên Truyện Kiều bằng chữ Nôm. Việc này là bình thường, nhất là khi tác phẩm viết sau lại nổi tiếng, hơn hẳn gốc ban đầu. Văn chương thế giới đã có nhiều trường hợp tương tự. Trường hợp thường được nhắc đến nhất là nhà soạn kịch tài danh của Pháp Corneille đã dùng Las  Mocedades del Cid của Guillen de Castro, người Tây Ban Nha để viết nên tuồng Le Cid rất nổi tiếng… Tiếp tục mạch bài về cách hiểu Truyện Kiều của Nguyễn Du, nhất là các đoạn được trích trong sách giáo khoa, hôm nay, Tòa soạn giới thiệu bài viết thứ 7 của thày giáo, nhà nghiên cứu Nguyễn Cẩm Xuyên về chủ đề này. Các bài viết này, không chỉ có giá trị tham khảo trong giảng dạy cho các thày cô giáo, mà còn là những góc nhìn, phân tích rất thú vị của riêng tác giả đối với tác phẩm bất hủ của đại thi hào Nguyễn Du. Trân trọng giới thiệu cùng độc giả. Ở nước ta Truyện Kiều được phổ biến rộng nên Kim Vân Kiều truyện cũng được các dịch giả chú ý dịch ra quốc ngữ; trước sau có đến khoảng 4, 5 bản dịch khác nhau: có lẽ bản dịch đầu tiên là của Hùng Sơn Nguyễn Duy Ngung do Phan Bá Cẩn xuất bản năm 1925, Tân Dân tái bản năm 1928, tiếp đến là bản dịch của Nguyễn Đức Vân và Nguyễn Khắc Hanh do Viện Văn học in ronéo năm 1962, NXB Hải Phòng tái bản năm 1994 và NXB Đại học Quốc gia Hà Nội năm 1999. Ở miền Nam, có bản dịch của Tô Nam Nguyễn Đình Diệm được Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa xuất bản năm 1971. Gần đây có Tình sử Vương Thuý Kiều (Phong Tình Cổ Lục) do Mộng Bình Sơn khảo dịch, NXB Văn học xuất bản năm 2000. Truyện Kiều đối chiếu của Phạm Đan Quế, NXB Hà Nội xuất bản năm 1991, NXB Hải Phòng tái bản năm 1999… *** Thanh Tâm Tài Nhân (青心才人) sống vào đời nhà Minh. Ông quê ở huyện Sơn Âm, tỉnh Chiết Giang, học giỏi, hiểu biết rộng, nhưng đi thi không đỗ, bèn làm mặc khách của Hồ Tông Hiến. Sinh thời đã có lần Thanh Tâm Tài Nhân thảo tờ biểu "Dâng hươu trắng" cho vua nên trở thành nổi tiếng. Ngoài tác phẩm chính Kim Vân Kiều truyện, ông còn có loạt kịch Tứ thanh viên (Vượn kêu bốn tiếng) gồm 4 vở kịch: Ngư dương lộng, Thúy nương mộng, Hoa mộc lan và Nữ trạng nguyên. Mời các bạn đón đọc Kim Vân Kiều Truyện của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân.
Trả Hoa Hồng Cho Đất
Trả hoa hồng cho đất của Nguyễn Thị Diệp Mai là 1 trong 2 tác phẩm đoạt giải B (không có giải A) cùng với Trên đồi cao chăn bầy thiên sứ của Nguyễn Ngọc Thuần tại cuộc thi "Sáng tác văn học cho tuổi trẻ" lần 2 của Nhà xuất bản Thanh Niên (2002 -2004). Trả hoa hồng cho đất của Nguyễn Thị Diệp Mai đầy ắp kỷ niệm, chứa chan tình người. Đấy là câu chuyện tình cảm của những thanh niên trẻ quê ở Kiên Giang nhưng đã sống quãng đời đẹp nhất ở đất Hà thành với nhiều mâu thuẫn, xung đột đan cài ngẫu nhiên, bất ngờ. Có lẽ vì vậy mà tiểu thuyết còn nặng trĩu sự khắc khoải, nhớ thương. Sóng gió của tuổi trẻ trôi qua như một giấc mơ, trong đó có những cơn ác mộng đã đẩy con người xuống tận địa ngục. Và người phải chịu đựng nhiều nhất là Vy – một cô gái có “nét là lạ ưa nhìn”, sống cá tính và luôn hết lòng vì người khác. Không phải ngẫu nhiên mà Vy thường viết câu thơ “Nếu không còn yêu anh. Hoa hồng kia xin trả về cho đất.”... Mộc mạc và tinh tế, Nguyễn Thị Diệp Mai đã thể hiện thành công khát vọng và những ngộ nhận trong tình cảm, tình yêu của những người trẻ tuổi. Mỗi nhân vật là một thế giới cực kỳ phức tạp, sống hết mình, yêu hết mình, tình yêu đích thực luôn ở bên mà hạnh phúc vẫn đến muộn. Câu chuyện không dài nhưng gợi cảm giác man mác, buồn vui như trải ra vô tận bởi nhiều người dễ tìm thấy một phần mình trong đó... *** R ạch Giá, Mùng một Tết Vy đang sửa lại bình hoa trên bàn, chuẩn bị bánh kẹo để đón những người bạn đầu tiên đến nhà ngày đầu năm mới. Vy vừa thò tay định mở hộp bóc kẹo ăn thì nghe tiếng cô em út la lên: - Chị Hai không được ăn, phải để khách mở trước! - Cái gì mà ghê vậy? – Vy nhăn mặt. – Thì hồi nãy chị bóc kẹo bỏ ra hộp chứ ai. - Không được ăn là không được ăn. Chị mà ăn thì cả năm sẽ không có ai đến thăm nhà mình đâu. – Con bé lắc đầu cương quyết. – Xui lắm! Vy phì cười: - Không đến thì đỡ tốn chứ gì mà xui? - Tại chị không biết thôi. Chị đi biền biệt, mỗi ngày cha mẹ đi làm tới tối mới về. Chỉ có em và chị Mỹ thay phiên nhau vừa đi học vừa giữ nhà.. Ở nhà một mình buồn thấy mồ, lâu lâu có khách đến chơi cũng vui. Nghe My nói, Vy thấy thương em quá. Ở nhà, hai đứa nhỏ đã gánh giùm cô bao công việc gia đình để cô có thể yên tâm xa nhà suốt bốn năm học đại học. Bây giờ mới học được một năm rưỡi mà cô đã thấy hai đứa em mình đã trưởng thành hẳn. Gia đình công chức, cha mẹ đi làm ngày tám tiếng, tối còn phải làm them. Hai đứa em của Vy chịu thương chịu khó chăm lo vườn tược, heo gà giúp cha mẹ. Vy không biết làm sao để đỡ gánh nặng cho hai em. Một năm cô đã mất hết mười tháng ở Hà Nội, thời gian được ở nhà quá ít ỏi. Về nhà Vy chỉ còn biết cố làm tất cả những gì có thể để cha mẹ và hai em cảm thấy vui. Vy cười khì bỏ viên kẹo trở vào hộp: - Không cho ăn thì thôi! Trời đất, ai tô son cho My vậy? Son trèo hết ra ngoài vành môi rồi kìa. Thôi vô buồng bôi sạch đi chị ô lại cho! Cô bé chạy tuốt vô buồng, vừa soi gương vừa cãi nhau chí chóe với chị Mỹ của nó. Vy phẩy tay kêu trời. Mùng Một Tết mà đã cãi nhau rồi, thật là không ra thể thống gì nữa! Cô đành đứng dậy đi vàô buồng dàn xếp cuộc đấu khẩu. Vy lấy khăn giấy lau hết son trên môi bé My rồi chọn màu son nhạt tô lại. Mỹ cũng chụm vào xem. Vy vừa trang điểm xong cho em thì nghe có tiếng xe máy dừng trước cổng. Cô bảo hai em tự đi thay quần áo rồi ra mở cổng. Vy gật đầu chào người thanh niên dắt xe đi sau Uyên. Anh ta mỉm cười, gật đầu chào lại. Uyên nheo mắt nhìn hai người: - Ủa có quen không mà nhìn nhau cười tươi vậy? - Người chở chị đến thì chắc là bạn của chị rồi. Trước không quen thì sau cũng phải quen thôi. Uyên cười khì chỉ tay vào người thanh niên, giới thiệu: - Anh Huy. Còn đây là Vy mà em thường kể đó. - Anh Huy! – Vy tròn xoe mắt nhìn người khách lạ. Uyên nắm tay Vy kéo tuốt lên sa-lông, bỏ mặc người khách lạ tìm chỗ dựng xe. Uyên với tay lấy hộp bánh lên ngắm nghía rồi mở nắp hộp bốc một cái bánh bột đầu, đưa lên miệng. Vy ngồi quan sát người thanh niên. Anh có một kiểu cười khóe môi hơi nhếch lên nửa thân thiện, nửa lạnh lung ngạo mạn. Nụ cười đó đặt trên một gương mặt sạm nắng. Cằm hơi dài với đôi lông mày rậm nhíu ở đầu, đuôi mắt ẩn dưới đôi mày ấy. Khổ người to cao với mái tóc dợn sóng - dân của miền biển. Chiếc áo sơ-mi màu nâu nhạt với những đường sọc đên nhã nhặn, đi kèm với chiếc quần may đúng mốt. Huy có vẻ hơi trầm lặng và kín đáo. Bé My từ phòng trong ào ra mừng Uyên, tíu tít cười nói quên cả chào khách. Vy bảo em: - Đi vô trong làm mấy ly nước ngọt đãi khách đi! - Đợi em đi khuất, Vy phân bua. - Bé My xem chị Uyên như người nhà nên hay đùa giỡn lắm, anh Huy đừng phiền. - Đâu có gì mà phiiền, - Huy mỉm cười, - cô bé dễ thương lắm! - Còn em thì sao? – Uyên vừa nhai bánh vừa hỏi – Hai mươi mốt tuổi rồi em dự định gì đây Vy? - Xì, - Vy trề môi nguýt dài. – Hơn người ta chưa tới bốn tuổi mà ra vẻ quá vậy? Chị lo cho chị đi. Ăn nhiều tròn trùng trục coi chừng anh Huy chê bỏ đó. - Huy không bỏ chị đâu – Uyên đưa cho Huy một miếng mứt bí trắng muốt – Anh đâu bao giờ bỏ Uyên phải không anh? Mời các bạn đón đọc Trả Hoa Hồng Cho Đất của tác giả Nguyễn Thị Diệp Mai.