Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thám Tử Rời Sân Khấu - Agatha Christie

Thám tử rời sân khấu (Curtain: Poirot's Last Case hoặc Curtain) là một tiểu thuyết hình sự của nhà văn Agatha Christie được hãng Collins Crime Club xuất bản lần đầu tại Anh tháng 9 năm 1975. Đây là tiểu thuyết cuối cùng của Agatha Christie về nhân vật thám tử Hercule Poirot cũng như Arthur Hastings với bối cảnh là điền trang Styles, nơi từng diễn ra vụ án đầu tiên trong loạt truyện về Hercule Poirot. Tác phẩm này được Agatha Christie viết từ đầu thập niên 1940 trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai với ý định làm đoạn kết cho toàn bộ loạt truyện về Hercule Poirot, nữ nhà văn giữ nó trong nhà băng suốt hơn 30 năm rồi mới cho ấn hành chỉ một năm trước khi bà qua đời. *** Ghi chú của đại úy Arthur Hastings Bốn tháng sau cái chết của Hercule Poirot một văn phòng luật gia mời tôi đến gặp tại trụ sở. Tại đây, họ làm theo yêu cầu của khách hàng của họ, trao cho tôi một phong bì kín, bên trong có văn bản mà tôi chép lại sau đây: Văn bản của Hercule Poirot Bạn thân mến, khi anh đọc những dòng này, tôi đã mất được bốn tháng. Tôi chần chừ không muốn viết, nhưng sau lại thấy cần phải nói cho ai đó biết sự thật về những gì xảy ra ở Styles. Chắc rằng đến lúc đọc bài này, anh đã đặt ra đủ các loại giả thuyết một cách chật vật hòng đi đến kết quả. Song xin nói để anh biết rằng lẽ ra anh đã sớm tìm ra sự thật, vì tôi đã cố ý cung cấp những dấu hiệu để dẫn anh tới đó. Nếu anh chưa tìm ra được, ấy là tại vì bản chất anh quá tin người, trước sau anh vẫn vậy! Ít nhất anh cũng phải biết ai đã giết Norton chứ, dù là còn tù mù về cái chết của Barbara Franklin. Nhưng hãy nói từ đầu. Tôi mời anh đến Styles, nói là tôi cần anh. Đó là sự thực. Tôi bảo anh phải là tai, là mắt cho tôi. Đó cũng là sự thực, nhưng có lẽ không hẳn theo nghĩa mà anh hiểu. Anh phải nhìn thấy những gì tôi muốn anh nhìn, nghe thấy những gì tôi muốn anh nghe. Anh phàn nàn về chuyện tôi không nói thật hết với anh khi trình bày vụ việc. Đúng, tôi không chịu nói rõ lai lịch tên X. Nhưng tôi phải làm thế, mặc dù ở đây cũng vậy, lý do tôi viện ra với anh không phải là lý do thực. Lý do thực, rồi anh sẽ hiểu ngay bây giờ. Tôi đã chuyển cho anh bản tóm tắt năm vụ án khác nhau. Tôi đã nêu bật nhận xét rằng trong mỗi vụ án đó, người bị kết án hoặc bị nghi ngờ dường như không phải thủ phạm thực. Tôi lại nêu rõ một điều quan trọng nữa, trong mỗi vụ, X đã có mặt tại chỗ hoặc ở quanh quẩn đâu đó. Anh đã vội suy diễn ngay ra một điều, trớ trêu thay, vừa đúng vừa sai. Anh nghĩ X là người đã trực tiếp phạm các tội ác đó. Nhưng bạn ơi, hoàn cảnh xảy ra là trong mỗi vụ, duy nhất chỉ có người bị kết tội mới có cơ hội làm việc đó. Như vậy, sẽ giải thích sự có mặt của X như thế nào? Trừ phi là người có dính dáng đến cảnh sát hoặc là một nhóm người quyền chức sa đọa, rất khó cho một người nào lại dính liên tiếp đến năm vụ án khác nhau. Điều đó không thể xảy ra anh hiểu không? Không ai lại đến gặp anh mà nói: "Tôi trực tiếp quen biết năm kẻ giết người". Không, không thể có như vậy. Thực ra, chúng ta đứng trước một hiện tượng xúc tác kỳ cục. Phản ứng giữa hai chất chỉ xảy ra khi có mặt chất thứ ba, chất này có vẻ như không đóng vai trò gì và không hề bị biến đổi. Tình hình là như thế: khi X có mặt, là án mạng xảy ra, nhưng X không mó tay trực tiếp. Đây là một tình hình kỳ lạ, hoàn toàn bất bình thường. Và tôi hiểu ra là vào cuối đời, mình đã gặp một hung thủ tạm gọi là "hoàn hảo" hắn đã thực thi một kỹ thuật tinh vi làm cho hắn không bao giờ có thể bị vạch mặt. Kỹ thuật đó là đáng ngạc nhên, nhưng không mới. Đã có những trường hợp tương tự. Và đây là một chỉ dẫn đầu tiên tôi để lại cho anh. Vở kịch Othello. Trong kịch này, có một điển hình như hệt X. Đúng, Iago là tên giết người hoàn hảo. Cái chết của Desdémone, của Cassio rồi của cả Othello nữa, là những tội ác của Iago do hắn trù liệu. Vậy mà không ai chịu nghi ngờ hắn. Lẽ ra hắn còn được "tại ngoại" mãi, cho đến khi người đồng hương vĩ đại của anh - thi hào Shekaspeare - phải dùng đến một biện pháp thô thiển nhất, là đưa chiếc khăn tay ra mới lật mặt được hắn. Phải, án mạng được nâng lên thành nghệ thuật hoàn hảo. Không có một lời kích động trực tiếp nào. Iago còn khéo léo ngăn mọi người chớ dùng bạo lực và gieo mối nghi ngờ vào lòng người khác rồi lại làm bộ gân cổ bác bỏ! Cách làm ấy ta lại thấy trong màn ba tuyệt vời của vở John Fergueson, trong đó chàng ngố Clutie John kích động người khác giết người mà hắn không ưa. Kiểu gợi ý về tâm lý đó là một công trình tuyệt hảo. Anh Hastings, anh cần hiểu điều này: mỗi người chúng ta đều là một hung thủ tiềm ẩn. Trong mỗi chúng ta thỉnh thoảng lại nỗi lên sự muốn giết nhưng không nhất thiết kèm theo sự dám giết. Đã bao lần ta nghe thấy người này người kia nói: "Mụ ấy làm tôi tức lộn ruột, muốn giết mụ ngay lập tức!" - "Tôi sẽ giết nếu nó dám nói thế!" - "Tôi ấy à, tôi sẽ bẻ gẫy cổ hắn!" Nhưng lúc đó, ý của ta thật rõ ràng: muốn giết cho chết. Nhưng ta không làm việc ấy, vì lý trí ta không đồng tình với tình cảm. Ở trẻ nhỏ cái máy hãm lý trí ấy có khi không hiệu quả. Tôi biết một thằng bé bực mình với con mèo, thốt lên: "Nằm im, không tao đập cho một cái vào đầu chết tươi!". Nói rồi làm thật. Để sau đó mới hoảng hồn vì con mèo đẵ chết. Vì thật ra, thằng bé rất yêu con vật ấy. Tóm lại trong mỗi chúng ta đều có một tên hung thủ nằm ngủ. Và nghệ thuật của X không phải chỉ gợi lên ý muốn mà còn thủ tiêu sự kháng cự của lý trí. Nghệ thuật đó được rèn giũa trải qua thực tế lâu dài. Hắn biết dùng một từ chính xác, một câu nói thích hợp, giọng nói tính toán làm sao để gây áp lực liên tục lên một điểm yếu! Trong khi đó, nạn nhân không ngờ vực chút nào. Đây không phải là thôi miên; thôi miên chưa chắc đã ăn. Nó là một cái gì lắc léo hơn, đáng sợ hơn: sự tập hợp tất cả sức lực của một con người để mở rộng một khe hở chứ không bịt nó lại. Anh phải biết điều đó chứ, vì nó đã xảy ra với anh. Có thể anh đã bắt đầu hiểu ý nghĩ một số nhận xét của tôi mà anh cho là lạ. Khi tôi nói có một vụ án sắp xảy ra không phải lúc nào tôi cũng ám chỉ một vụ giống nhau. Tôi nói rằng tôi đến Styles nhằm một mục đích nhất định, vì ở đó sắp xảy ra án mạng. Và anh đã hết sức ngạc nhiên thấy tôi đoán chắc như thế. Nhưng sở dĩ tôi chắc như vậy, vì vụ án mạng đó sẽ do tôi tiến hành. Phải, kỳ lạ thật, anh nhỉ. Và kinh khủng nữa. Tôi là người phản đối tội ác, người luôn luôn tôn trọng cuộc sống con người, thế mà tôi lại kết thúc sự nghiệp của mình bằng gây ra án mạng! Hay bởi tôi quá đạo đức giả, quá ý thức về sự ngay thẳng của mình mà cuối cùng phải đứng trước sự lựa chọn sinh tử đó. Vì, anh Hastings ơi, bao giờ cũng có mặt phải, mặt trái. Nhiệm vụ của đời tôi là cứu người bị oan, ngăn ngừa tội phạm và tôi chỉ có thể làm được việc đó bằng một cách duy nhất. Vì - anh chớ quên điều này - X không thể bị pháp luật trừng trị. Hắn có chỗ trú an toàn. Tôi không nghĩ ra cách nào khác khác để đánh bại hắn, buộc hắn vĩnh viễn không thể tác oai tác quái. Song tôi vẫn do dự. Biết rõ cần làm gì, nhưng chưa dám quyết làm. Giống như Hamlet, tôi cứ trì hoãn mãi giờ phán xét cuối cùng. Thế là xảy ra một mưu toan khác, định làm hại bà Luttrell. Tôi nóng chờ xem anh, vốn thính nhạy với sự thật hiển nhiên, lần này có hiểu ra không. Và anh đã hiểu: phản ứng đầu tiên của anh là nghi cho Norton, dù rất mơ hồ. Anh đã đoán đúng: Norton chính là người chúng ta tìm. Không có bằng chứng gì để xác minh giả thuyết đó, trừ một nhận xét dụt dè của anh rằng hắn là con người vô vị. Song lúc đó chính là lúc anh đã tới gần sự thật. Tôi đã nghiên cứu kỹ lai lịch của hắn. Hắn là con của một bà mẹ độc đoán và áp chế, nên không lúc nào hắn có dịp tự khẳng định hoặc áp đặt tính cách của mình cho ai. Hắn bị tật nhẹ ở chân, nên ngay lúc đi học không tham gia tích cực được vào các trò chơi của bạn học. Một điều có ý nghĩ mà anh kể lại với tôi là hắn bị bạn bè chế nhạo vì buồn nôn khi nhìn con thỏ bị lột da. Tôi cho rằng chuyện ấy đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng hắn. Hắn sợ máu và bạo lực, nên bị "kém thớ". Trong tiềm thức, hắn chờ dịp để tự khẳng định, báo thù lại bằng cách tỏ ra táo bạo, thậm chí tàn ác. Tôi hình dung hắn sớm nhận ra mình có khả năng gây ảnh hưởng tới người khác. Hắn biết bình tĩnh lắng nghe, gợi được cảm tình, mọi người không chú ý hắn lắm, song không ghét bỏ. Hắn nhận ra là nếu dùng những lời thích hợp và nhấn vào đúng chỗ, thì rất dễ gây ảnh hưởng tới người khác. Chỉ cần hiểu họ, nắm được ý nghĩ của họ,lường trước những phản ứng và những ý nghĩ âm ỉ của họ. Anh có thấy không, một sự khám phá như vậy làm cho hắn có cảm giác như thế nào về quyền lực của mình! Hắn là Stephen Norton, người vừa được yêu mến vừa bị coi thường, nay có khả năng thúc đẩy người khác làm những việc họ không muốn làm hoặc tưởng là không muốn làm. Tôi hình dung hắn bắt đầu đem cái sở trường đó ra thực hành, rồi lâu dần thành quen, thích thú với việc thông qua nguời khác để gây ra những hành vi bạo lực, những việc mà hắn không tự làm được vì thiếu sức mạnh thể chất. Và cái trò quỷ đó cứ lên mãi thành niềm đam mê, không làm không được. Như một thứ ma túy, nghiện rồi không thể bỏ. Norton con người vốn bản tính hiền lành, trở thành tên bạo sát dấu mặt. Giống như người nghiện, hắn phải có suất tiêm chích hằng ngày, luôn tìm hết nạn nhân này tới nạn nhân khác. Tôi tin là con nhiều vụ khác, ngoài năm vụ mà ta đã biết. Và trong mỗi vụ, hắn đều có vai trò giống nhau. Hắn quen biết Etherington; hắn đã ở suốt mùa hè ở cái làng Riggs ở,thỉnh thoảng uống rượu với anh này ở quán. Trong một chuyến du ngoạn, hắn làm quen với Freda Clay và làm như nói chuyện bâng quơ, đã gợi ý cho cô ta thấy nếu bà cô chết đi thì nhất cử lưỡng tiện: chẳng những bà già được giải thoát, mà cô sẽ được sống ung dung, thoải mái. Hắn cũng là bạn của Litchfield, và gợi cho Margaret thấy nếu giải thoát được cho các em gái, cô sẽ là người hùng. Tôi tin là, không ai trong số những người đó sẽ giết người, nếu không bị Norton tác động. Bây giờ ta trở lại những sự kiện ở Styles. Tôi đã theo dõi Norton một thời gian. Và khi hắn làm quen với Franklin, tôi thấy ngay mối nguy. Với Norton, vợ chồng Franklin mở ra những khả năng rất thú vị, có thể nói là đủ các loại khả năng. Bây giờ thì chắc anh đã hiểu điều mà bất cứ người nào đầu óc bình thường phải hiểu ngay, đó là Franklin và con gái anh yêu nhau. Cử chỉ bất thường của bác sĩ, cái cách ông ta không bao giờ nhìn thẳng vào Judith, bỏ qua mọi kiểu đối xử xã giao với Judith, tất cả những cái đó phải cho anh thấy là ông ta yêu con gái anh. Nhưng đó là một người có nghị lực và thẳng thắn. Có thể ăn nói hơi cục cằn, nhưng có những nguyên tắc nhất định. Theo ông, người chồng phải chung thủy với người vợ mình đã chọn. Về phía Judith nó mê tít ông bác sĩ. Tôi tưởng anh đã biết chuyện ấy rồi, và Judith cũng tưởng thế, cái hôm anh gặp nó trong vườn hồng. Do đó nó với cáu kỉnh. Tính cách như nó không chịu để ai thương hại, thậm chí thông cảm. Rồi Judith hiểu là anh tưởng nó yêu Allerton, và nó không cần đính chính, cứ để mặc cho khỏi gây lôi thôi. Nó chấp chới với Allerton như để tìm trong đó một niềm an ủi tuyệt vọng, mặc dù biết Allerton là loại người nào. Nó chỉ đùa cợt thế thôi, chứ không hàm ý tình cảm gì. Tất nhiên Norton hiểu tất cả, hắn dự kiến khai thác tình hình đó. Tôi cho là hắn đã tìm cách ảnh hưởng đến Franklin, nhưng thất bại. Bác sĩ là loại người duy nhất không chịu tác động gì từ phía Norton. Ông có trí óc cực kỳ tỉnh táo. Hơn nữa, niềm đam mê lớn nhất đời ông là công việc. Với Judith, Norton thành công hơn bằng cách khéo léo khích cái lý thuyết về những cuộc đời vô dụng. Judith thành thật tin vào thuyết này, và hắn tỏ ra cực kỳ gian manh, làm bộ chủ trương thuyết trái lại và nói khích Judith, cho là cô ta không đủ táo bạo để đưa lý thuyết vào thực hành. "Đó là loại lý thuyết ta hay có lúc trẻ, nhưng không bao giờ dám thực hiện". Cách nói ấy mang tính kích động thô thiển, ấy vậy mà có khi hiệu quả. Bọn trẻ ấy mà, chúng còn non nớt quá! Nếu bà Barbara vô dụng bị loại trừ, con đường với Franklin và Judith sẽ rộng mở. Điều ấy không được nói toạc ra, người ta còn bản rằng lý thuyết này không ám chỉ trường hợp cá nhân nào, vì nếu Judith biết là có ám chỉ, nó sẽ phản ứng quyết liệt. Nhưng với một môn đệ của tội ác như Norton thì một vụ là chưa đủ. Hắn đã tìm ra một chỗ nữa để thử tài, đó là vợ chồng Luttrell. Ta hãy quay trở lại trước nữa. Hastings, anh có nhớ ván bài anh tham gia tối hôm mới đến. Sau ván bài, Norton đã nói mấy câu rất to khiến anh lo là ông đại úy nghe thấy. Nhưng đó là hắn cố tình muốn vậy: Luttrell phải nghe thấy! Norton không bỏ lỡ cơ hội nào để bình phẩm tính cách bà Luttrell, cố tình nhấn mạnh một cách tự nhiên. Và cuối cùng ý đồ của hắn đã thành kết quả. Việc ấy xảy ra ngay trước mũi anh, mà anh không hay biết. Nền móng của sự việc đã được sắp đặt sẵn: sự áp bức quá đáng của bà vợ, sự xấu hổ, bực bõ của ông chồng... Anh hãy thử nhớ chính xác mà xem. Norton kêu khát. Hẳn là hắn biết bà Luttrell đang ở quanh đó và chắc chắn sẽ ra mặt. Ông đại tá đáp ứng ngay, tỏ rõ bản chất chủ nhà rộng rãi của mình. Ông xin đãi một chầu rượu và vào tìm chai. Các anh đều ngồi gần cửa sổ. Bà Luttrell bước vào phòng ăn, thế là xảy ra cuộc cãi vã, chì chiết. Luttrell biết là mọi người nghe thấy hết. Ông ta trở vào. Lẽ ra mọi người phải tìm cách xoa dịu sự việc. Hoặc Boyd Carrington, hoặc chính anh, Hastings có thể làm điều đó. Nhưng Norton đã cướp lời, và khéo léo đổ thêm dầu vào lửa. Hắn nói trở lại về ván bài - làm Luttrell cảm thấy mình bị lấn át - rồi nói chuyện tai nạn đi săn. Thế rồi, cái ông Boyd Carrington đần độn vô tình mắc bẫy, lao ngay vào kể chuyện tên cận vụ giết ông anh của mình. Câu chuyện đó, chính Norton đã để cho Boyd, hắn biết rằng Boyd sẽ kể lại như là của chính mình vào lúc nào có người khéo gợi. Thành ra gợi ý cuối cùng không phải do Norton nói ra! Vậy là mọi thứ đã được dọc sẵn. Và điểm bùng nổ đã tới. Bị sỉ nhục trước mặt mọi người, nghĩ rằng ai nấy đều cho mình là thiếu dũng khí chống lại, ông Luttrell nghĩ cách để thoát ra. Thì đấy - có ngay những chuyện tai nạn đi săn, chuyện anh lính giết anh ruột. Rồi bất thần đằng cuối vườn, sau lùm cây, thấp thoáng cái đầu của bà vợ... không sợ gì cả... coi như tai nạn... Ta phải tỏ cho họ biết ta là ai... cho bà ấy chết cho xong! Nhưng bà ấy không chết. Tôi cho là, lúc bóp cò, ông ta đã bắn trượt bởi trong thâm tâm, ông muốn bắn trượt. Lập tức ý tưởng phản ứng tan ra mây khói. Bởi vì dù thế nào, ông ta vẫn yêu vợ. Đó là một trong những vụ án mạng mà Norton đã dự liệu không thành. Nhưng còn âm mưu tiếp theo! Hastings biết không, lần này hắn nhằm vào anh đó! Hãy nhớ lại đi, ông bạn thật thà ạ. Norton đã thấy ra tất cả các điểm yếu của anh, và cả những tính tốt của anh là ngay thẳng và đạo đức. Allerton thuộc loại người mà anh căm ghét và e ngại một cách tự nhiên, như cólinh tính. Và những điều anh nghĩ về hắn, biết về hắn, đều đúng. Norton liền kể anh nghe một câu chuyện khác - chuyện này có thực, theo như tôi biết - về một con gái bị Allerton tình phụ. Chuyện đó ngay lập tức gây ấn tượng mạnh với anh. Allerton đúng là thằng tồi, thằng đểu chuyên quyến rũ, cưỡng bức con gái, dồn họ đến chỗ phải tự vẫn. Mặt khác, Allerton gợi ý Boyd Carrington nói chuyện với anh về Judith. Và anh cảm thấy cần nói chuyện nghiêm chỉnh với con gái. Và, như anh đã lường trước, nó cãi lại, nói rằng việc đời nó, nó lo. Anh càng cuống. Giờ anh hãy bình tĩnh xem xét Norton đã lợi dụng những gì ở anh: tình yêu con gái, ý thức trách nhiệm của người cha... anh tự nhủ: "Ta phải hành động ngay, kẻo hối không kịp". Anh lại nghĩ đến vợ, thấy không thể lẩn tránh trách nhiệm trông nom con cái mà người vợ yêu quý đã để lại. Còn có cả sự ghen tuông tự nhiên và vô lối của phần lớn các ông bố khi có kẻ địch cướp con gái mình. Thấy chưa, Norton đã nhấn vào những phím đàn nhạy cảm, đúng là một nhạc trưởng bậc thầy. Và anh cứ thế lao vào. Hastings, anh có tật cả tin vào bề ngoài của sự vật. Chẳng suy nghĩ gì, anh tin ngay là Allerton hẹn gặp Judith hôm sau ở London. Nhưng anh không nhìn thấy Judith, không nghe Judith nói. Vậy mà sáng sớm hôm sau, anh vẫn còn tin như thế, và tỏ ý mừng là Judith đã đổi ý. Song nếu anh chịu khó xem xét, anh sẽ thấy ngay là Judith không hề có ý định đi đâu hôm đó. Và anh cũng bỏ qua không thấy một sự việc nhỏ khác; có một người định đi hôm đó, nhưng không đi được, nên tỏ ra vô cùng bực dọc. Đó là cô Craven y tá. Đúng thế! Allerton không chỉ tán tình một phụ nữ. Quan hệ giữa hắn và cô Craven đã tiến triển khá xa, xa hơn nhiều so với việc hắn lơ mơ tí chút với Judith. Và người hắn hẹn gặp ở London chính là cô ta! Một mẹo nữa của Norton. Anh trông thấy Allerton hôn Judith, Norton liền thúc anh đi vòng quanh góc nhà, vì hắn biết Allerton hẹn hò cô Craven gần nhà kính. Sau khi làm bộ níu anh lại, Norton để anh đi. Nhưng hắn đi theo anh. Hắn hiểu câu nói mà anh vừa nghe được từ miệng Allerton góp thêm thuận lợi vào kế hoạch của hắn. Cho nên hắn vội kéo anh đi nhanh để anh không kịp nhận ra rằng người phụ nữ ở đó không phải là Judith. Đúng là mưu mẹo bậc thầy! Phản ứng của anh là tức thời: anh quyết giết Allerton. May thay, anh có một người bạn trí óc còn minh mẫn. Và không chỉ trí óc mà thôi, như anh sắp thấy đây. Ngay ở đầu bản viết này, tôi đã nói anh không tìm ra sự thật, vì tính anh dễ tin quá. Ai nói gì, anh tin ngay. Tôi, tôi nói gì, là anh tin. Song tìm ra sự thật, đâu có khó với anh. Tôi đã đuổi George đi. Tại sao? Thay bằng một anh hầu ít từng trải hơn, và rõ ràng kém thông minh hơn. Tại sao? Tôi vốn là người rất chăm lo súc khỏe, tôi không để bác sĩ nào theo dõi, và từ chối không chịu để bác sĩ nào khám như anh khẩn khoản yêu cầu. Tại sao? Bây giờ thì anh hiểu tại sao tôi cần anh đến Styles chứ? Tôi cần có một người tin như đinh đóng cột tất cả những gì tôi nói. Tôi nói đi dưỡng bệnh ở Ai Cập về, sức khỏe vẫn tồi như trước. Anh tin. Thựa ra là sai: tôi trở về Anh khá hơn rất nhiều. Chịu khó để ý một chút, anh sẽ thấy ngay. Nhưng không, anh đã tin. Sở dĩ tôi chia tay với George, là vì nếu nó ở lại, tôi không thể nói dối với nó rằng chân tôi bị liệt. Hastings, anh hiểu chưa? Tôi giả vờ bị tật, đánh lừa tất cả mọi người, kể cả Curtiss, thực ra tôi vẫn đi lại được. Hơi tập tễnh môt chút. Rồi đến cái tối đáng nhớ đó, tôi nghe tiếng chân anh lên gác, chần chừ một lát rồi lẻn vào phòng Allerton. Tôi cảnh giác ngay, vì đang rất lo cho tâm trạng của anh. Curtiss đang xuống ăn dưới nhà, tôi có một mình. Không bỏ phí một giây, tôi ra khỏi phòng, băng qua hành lang. Tôi nghe tiếng anh làm gì trong buồng tắm của Allerton, và phải dùng cái cách mà anh thường phản đối - quỳ xuống nhìn qua lỗ khóa. May quá, chìa không có trong ổ. Và tôi nhìn thấy anh. Anh mó máy mấy cái lọ, và tôi hiểu ngay anh đang mưu đồ gì. Phải hành động ngay. Tôi trở về phòng mình chuẩn bị các thứ. Lúc Curtiss lên, tôi sai hắn sang tìm anh. Anh vừa vào vừa ngáp, nói là đau đầu. Tôi liền gây chuyện rối tinh, yêu cầu anh phải uống thuốc. Để cho xong chuyện, anh đồng ý uống một tách sôcôla thật ngọt. Anh uống một ngụm hết, vì đang vội về. Có điều là, tôi cũng biết dùng những viên thuốc ngủ! Về phòng, anh đã ngủ ngồi trên ghế. Sáng hôm sau thức dậy, trí óc anh tỉnh táo trở lại, bây giờ anh mới phát hoảng vì chuyện tày đình định làm. Thế là anh thoát hiểm, vì không thể nào lặp lại việc ấy lần thứ hai khi người ta đã lấy lại lý trí. Nhưng điều ấy đã làm tôi, tôi phải quyết định. Vì tất cả những gì tôi biết về những người khác không áp dụng với anh. Anh không phải kẻ giết người, thế mà suýt nữa bị kết tội giết người, vụ giết này do người thứ ba chủ trương, nhưng hắn hoàn toàn vô tội trước pháp luật. Anh người trung thực, thật thà, tận tụy, đáng kính như thế, mà cũng suýt nhúng tay vào tội ác! Vậy tôi phải hành động ngay. Tôi biết mình không còn nhiều thời gian nữa, nhưng xét cho cùng, như thế lại tốt. Vì cái mệt nhất, ấn tượng nhất trong một vụ án mạng là tác động của nó đối với hung thủ. Mọi việc dẫn đến chỗ là tôi, Hercule Poirot tự thấy mình như một người được Thượng Đế chỉ định để trừng phạt những người khác. May thay, điều đó sẽ không xảy ra, vì đã đến lúc tôi cũng sắp phải ra đi. Nhưng tôi sợ Norton lại thàng công nữa cái trò ma quái của hắn khi nhằm vào một người thân của cả anh và tôi. Đó là con gái anh. Và bây giờ, ta nói đến cái chết của Barbara Franklin. Dù anh nghĩ thế nào mặc anh, tôi cho là anh chưa lúc nào ngờ tới sự thật. Vì Hastings ơi, chính anh đã giết Barbara. Phải, chính anh. Vì thực ra, còn một khía cạnh khác của hình tam giác một khía cạnh mà tới lúc đó, tôi chưa quan tâm đúng mức. Cả anh cả tôi đều không phát hiện hành tung của Norton theo hướng đó. Song tôi tin rằng hắn đều đã thực hiện cả. Anh có bao giờ tự hỏi, tại sao bà Franklin lại muốn đến ở Styles? Nơi này đâu phải là chỗ thích hợp với bà. Bà thích tiện nghi, thích ăn ngon, thích chơi bời giao thiệp... ở Styles làm gì có những thứ đó. Nhưng bà lại cố đòi đến nghỉ hè tại đây. Đó là, như tôi đã nói, còn một cạnh khác của hình tam giác: Boyd Carrington. Bà Franklin là một phụ nữ bị vỡ mộng, đó là nguyên nhân khiến bà bi tâm thần. Bà ôm nhiều tham vọng về bậc thang xã hội và về tài chính. Bà lấy bác sĩ Franklin hy vọng ông có tương lại, sự nghiệp xán lạn. Ông đúng là người xuất sắc theo kiểu ông, nhưng không như vợ mơ ước. Ông có tài, nhưng chẳng bao giờ được báo chí nói đến, chẳng bao giờ có nổi một phòng khám bệnh tư ở phố Harley. Ông chỉ được dăm bảy đồng nghiệp biết tiếng, và đăng các công trình khoa học của mình trên những tạp chí thông thái không mấy người đọc. Và ông sẽ không bao giờ giàu có. Nhưng rồi Boyd Carrington từ phương Đông về, lại mới được phong tước hiệu, thừa kế một dinh cơ đồ sộ và gia tài lớn. Ông ta vẫn giữ trong lòng tình cảm thắm thiết với cô gái mười bảy tuổi hồi xưa, mà ông suýt hỏi làm vợ. Ông ta định nghỉ tại Styles - trong khi chờ công việc trùng tu dinh thự Knatton hoàng thành - và gợi ý mới vợ chồng Franklin cùng tới nghỉ. Barbara đồng ý ngay. Hiển nhiên là dưới mắt người đàn ông giàu có và tráng kiện này, bà Franklin vẫn còn đầy xuân sắc và hấp dẫn. Song ông thuộc người của thế hệ trước, không thể xui bà ly dị chồng. John Franklin cũng không chấp nhận ly hôn. Nhưng nếu ông ta chết đi, Barbara Franklin có thể trở thành phu nhân Boyd Carrington hạnh phúc xiết bao. Và tôi hình dung Norton đã nhìn thấy ở bà một công cụ dễ sai khiến. Bây giờ ngẫm lại, sao mà mọi việc rõ ràng quá. Hãy nhớ lại bà Franklin luôn tỏ ra mình gắn bó như thế nào với chồng, còn tô đậm thêm, nói muốn chết để khỏi là gánh nặng cho chồng. Sau đó bà lại dùng chiến thuật khác: giả bộ lo lắng rằng chồng sẽ tự lấy thân mình làm thí nghiệm với các chất độc. Phải, lẽ ra ta phải thấy rõ! Bà ta chuẩn bị tư tưởng để mọi người thấy Franklin chết vì chất physostigmine. Ồ! Không có ai đầu độc ông ấy đâu! Chỉ là thí nghiệm khoa học. Ông ấy dại dột ống thử chất ancalôít đó, rồi tử nạn. Nhưng rồi, dồn dập có diễn biến. Chính anh cho tôi biết bà Franklin rất không bằng lòng thấy lúc họ đi Knatton về, Boyd Carrington để cho cô Craven xem tướng tay. Cô y tá này còn trẻ và khá hấp dẫn, rất khéo làm duyên với đàn ông. Cô đã thử bắt tình với bác sĩ Franklin, nhưng không xong. Vì thế cô ta ghen ghét với Judith. Cô ta lại bắt tình với Allerton, dù biết anh này là người không đúng đắn. Và cuối cùng cô ta xoay sang để ý đến Boyd Carrington, ông này còn đẹp mã lắm. Mà ông ta thì có lẽ sẵn sàng xiêu lòng, vì anh thấy rồi đấy, ông đã từng khen cô y tá là người tươi tắn, đáng yêu. Vì thế bà Barbara sinh lo và quyết định ra tay sớm. Hastings anh biết không, tôi cảm thấy cây đậu calabar thật là đáng nể. Lần này, nó đã thực sự phát huy quyền lực: tránh người vô tội, đánh kẻ ác tâm. Tối hôm đó, bà Franklin mời mọi người lên uống cà phê trong phòng mình, và bà ta đã chuẩn bị sẵn thuốc độc. Theo lời anh nói lại, tách của bà đặt ngay cạnh bà, còn tách ông chồng đặt phía bên kia tủ sách nhỏ. Rồi có chuyện ra xem sao đổi ngôi. Mọi người đổ xô ra ban công. Mình anh ở lại, lúi húi điền ô chữ và ngẫm nghĩ. Và anh xoay cái tủ sách để tìm một câu viết của Shakespeare. Mọi người trở vào. Bà Franklin uống tách cà phê lẽ ra dành cho chồng, còn chồng lại uống tách của bà Barbara. Tôi đã hiểu ngay chuyện gì đã xả ra, nhưng không thể chứng minh. Song nếu người ta cho bà Franklin chết không phải do tự tử, thì mọi nghi ngờ sẽ tập trung vào Franklin và Judith. Nghĩa là vào hai người hoàn toàn vô can. Vì thế tôi nghĩ mình có quyền bịa ra chuyện trông thấy bà Frankin cầm lọ trong tay và nhắc lại những lời bà thường than vãn - dù là vờ vĩnh - muốn chết cho xong. Có lẽ tôi là người duy nhất làm thế được, vì tôi được tiếng là có kinh nghiệm về hình sự, lời chứng của tôi nhất định có sức nặng. Tôi nói là tự tử, mọi người chấp nhận ngay và tỏ vẻ hài lòng. Nhưng, trời ơi, anh không hề nghi vấn gì vì mối hiểm nguy thực sự. Tôi chết đi rồi, anh còn suy nghĩ đến nó nữa không, như con rắn độc thỉnh thoảng ngóc đầu dậy và ton hót: "Hay Judith đã làm việc đó...". Có thể lắm. Vì vậy tôi quyết định phải viết ra. Cần phải để cho anh biết rõ sự thật. Có một ngưới khác không hài lòng về kết luận tự tử; đó là Norton. Vì hắn cảm thấy bị lấy mất "thành tích". Như tôi đã giải thích bên trên, hắn là một tên bạo sát, muốn hưởng tất cả lạc thú của sự kinh hoàng, ngờ vực, khiếp sợ mà vụ giết người gây ra. Đằng này không thế. Vụ giết người mà hắn dự tính đã xoay chuyển một cách thảm hại, không theo ý hắn. Tuy nhiên hắn tính được ngay cách để đền bù. Và hắn lại bắt đầu ton hót, lắt léo. Mấy hôm trước, hắn đã làm bộ nhìn thấy điều gì bất thường qua ống nhòm. Lúc đó hắn định để anh tưởng là Allerton và Judith trong tư thế thân mật nào đó. Nhưng do không nói rõ hắn có thể sử dụng sự việc đó theo cách khác. Ví dụ, hắn sẽ nói đã trông thấy Franklin cặp kè với Judith. Như vậy sẽ chiếu thêm ánh sáng mới - rất thú vị - lên cái chết của Barbara và gây nghi ngờ rằng bà này chết không phải vì tự tử. Vì thế, tôi quyết định ra tay ngay lập tức. Tôi nhờ anh bảo Norton đến gặp tôi tối hôm đó. Bây giờ tôi sẽ kể chuyện gì xảy ra giữa chúng tôi. Hẳn Norton khấp khởi sẽ nói những gì hắn muốn để đánh lừa tôi. Tôi không để hắn kịp nói. Tôi nói toạc không vòng vo, những gì tôi biết về hắn và hành động của hắn. Hắn không chối điều nào. Hắn bình thản ngồi trên ghế, mỉm cười một cách mãn nguyện thách thức. Rồi hắn hỏi tôi định làm gì? Tôi đốp chát trả lởi luôn là tôi muốn chặn tay hắn lại, trừng trị hắn. - A! Hắn ngạo nghễ. Bằng lưỡi dao hay bằng thuốc độc? Lúc đó, chúng tôi đang chuẩn bị uống sôcôla. Hắn vốn nghiện món này mà. - Cách đơn giản nhất, là một chén thuốc độc. Và tôi đưa hắn tách sôcôla vừa rót. Hắn nói: - Nếu vậy, tôi muốn uống tách kia cơ, tách của ông, được không? - Không sao, tôi đáp. Quả là không sao thật. Như đã nói, tôi cũng hay dùng thuốc ngủ. Nhưng vì từ lâu tối nào cũng dùng, nên cơ thể tôi đã quen, liều đối với tôi không nghĩ lý gì, vẫn làm Norton ngủ mệt. Tôi đã cho thuốc ngủ vào liễn sôcôla, cả hai chúng tôi cùng uống. Tách của Norton sau đó sẽ có tác dụng, còn tác dụng rất ít đối với tôi, nhất là sau đó tôi lại uống một thuốc khác để trung hòa. Chúng ta sắp tới chương cuối. Khi Norton đã thiếp đi, tôi đặt hắn lên xe lăn của tôi, đẩy sát vào góc cửa sổ, phủ rèm che. Rồi Curtiss đến, giúp tôi lên giường. Chung quanh yên tĩnh rồi, tôi nhỏm dậy, đẩy Norton về phòng của hắn. Bây giờ chỉ còn trông vào tai mắt của ông bạn hastings nữa là xong. Chắc anh không để ý, tôi đã mang tóc giả từ nhiều năm nay. Và anh càng không biết nữa, là râu mép của tôi cũng giả. (Ngay George cũng không biết việc này). Thật vậy, ngay sau khi mượn Curtiss, tôi đã cố tình vô ý làm cháy râu, và cho thay bằng râu giả y hệt. Tôi liền khoác bộ áo ngủ của Norton, bộ áo này màu sắc đặc biệt không lẫn vào đâu được. Tôi làm cho tóc bù xù lên giống Norton, đi dọc hành lang, đến gõ cửa phòng anh. Đúng như tôi dự đoán, anh mở cửa nhìn ra ngoài, mắt còn ngái ngủ. Và anh nhìn thấy Norton từ phòng tắm đi ra, tập tễnh băng qua hành lang để về phòng. Cửa đóng rồi, anh còn nghe tiếng chìa khóa xoay trong ổ. Tôi liền cởi bỏ bộ áo, mặc lại cho Norton đang ngủ. Sau đó tôi bê hắn lên giường trừng phạt hắn bằng khẩu súng nhỏ tôi có từ khi ở nước ngoài. Từ khi đến Styles tôi đã cất giấu cẩn thận, trừ hai hai lần tôi biết Norton đang đi chơi xa, tôi mang súng cố tình đặt hớ hênh trên bàn của hắn, để cô hầu phòng nhìn thấy mà khai sau này. Tồi tôi bỏ chìa khóa vào túi Norton, lấy lại xe lăn, khóa cửa lại bằng chiếc khóa thứ hai mà tôi đã cho làm từ trước. Từ lúc ấy tôi lo thảo văn bản này dành cho anh. Tôi mệt lắm rồi: bao cố gắng nỗ lực đã làm tôi kiệt sức, và chắc chẳng còn bao lâu nữa tôi sẽ... Tuy nhiên, còn một số chi tiết nữa tôi cần nói rõ. Các vụ giết người do Norton chủ trương là những tội ác hoàn hảo, còn vụ giết người của tôi không được như thế. Cách dễ nhất, tốt nhất để thủ tiêu Norton là làm công khai, ví dụ gây ra một vụ tai nạn với khẩu súng của tôi. Lúc đó tôi sẽ giả bộ hốt hoảng, tiếc nuối, và mọi người sẽ bình phẩm: "Ông già thật lẩm cẩm, không nhớ là súng đã lên đạn." Tôi không muốn làm như vậy, và xin giải thích lý do. Bởi vì tôi muốn "chơi đẹp" như trong thể thao. Đúng, anh không đọc nhầm đâu. Lúc này tôi đang làm tất cả nhưng việc mà anh đã trách tôi không chịu làm. Tôi đang nói toẹt ra với anh. Thực ra anh đã có đủ các quân bài chủ trong tay để khám phá sự thật. Nếu còn chưa rõ, tôi xin kể sau đây những chỉ dẫn mà tôi đã để lại cho anh. Anh biết, vì tôi đã nói với anh là Norton đến đây sau tôi. Anh biết vì tôi đã nói với anh rằng sau khi tôi đến Styles chìa khóa phòng tôi bị mất và tôi phải làm một chìa khác. Vì vậy, khi anh tự hỏi: "Ai có thể giết Norton? Ai có thể đi ra khỏi một phòng đã khóa từ bên trong?" thì câu trả lời là như sau: - Là Hercule Poirot, vì hắn có chiếc chìa khóa thứ hai của một trong hai phòng. Bây giờ tôi nói về người anh trông thấy ngoài hành lang. Tôi đã hỏi anh có chắc là Norton không. Anh tỏ vẻ ngạc nhiên về câu hỏi ấy và hỏi tôi chẳng nhẽ tôi cho là người khác. Tôi đã trả lời đúng sự thật; đó không hề là ý định của tôi (tất nhiên, vì tôi đã phải thi thố nhiều mẹo để làm anh tưởng đó là Norton). Tiếp đó tôi đã nêu vần đề vóc dáng và đưa ra nhận xét rằng tất cả những người ở Styles đều cao hơn hắn. Nhưng có một người thấp hơn đó là Hercule Poirot. Song muốn cao hơn hai ba phân thì quá dễ: chỉ cần độn thêm đế vào giầy. Anh cũng hoàn toàn cho rằng tôi không thể đi lại một mình. Nhưng tại sao? Chỉ tại tôi bảo anh như thế. Cuối cùng, tôi đã cho George về, và để lại chỉ dẫn cuối cùng: "Hãy đi gặp George". Othello và Clutie John nói lên rằng tên X bí mật ấy không ai khác ngoài Norton. Vậy ai là người có thể giết Norton? Chỉ là Hercule Poirot! Chỉ cần anh thoáng ngờ vực như vậy là mọi mảnh sẽ khớp lại với nhau: những điều tôi đã nói và làm, cả những điều tôi dè dặt chưa nói, lời các bác sĩ Ai Cập và bác sĩ London nói là tôi không đi lại được, lời George nói là tôi mang tóc giả, và việc tôi đi tập tễnh hơn cả Norton. Tất cả chi tiết đó lẽ ra phải làm anh hiểu. Cuối cùng, có phát súng tôi bắn: đây là điểm yếu duy nhất của tôi. Tôi thừa biết rằng đáng lẽ phải áp nòng súng vào thái dương Norton. Nhưng tôi khó chấp nhận sự mất cân xứng ấy, cho nên tôi nhắm vào đúng giữa trán. Ôi, chỉ riêng việc đó đủ để làm anh thấy ra sự thật. Nhưng biết đâu anh đã chẳng ngờ ngợ thế rồi. Biết đâu anh đã chẳng biết rõ sự thật trước đọc những dòng này. Song... tôi lại nghĩ là chưa. Bởi vì anh thật thà quá, dễ tin quá, bởi vì bản chất anh quá tốt. Tôi còn nói gì nữa đây? Franklin và Judith - tôi chắc rồi anh sẽ thấy - biết rõ sự thật, nhưng họ không nói với anh đâu. Họ sẽ không giàu có, trước mắt phải lo đối mặt với muỗi và sốt rét, nhưng mỗi người chúng ta đều có những ý kiến riêng về cách quyết định về mình, phải không nào? Thế còn anh, anh Hastings cô đơn, tội nghiệp? Tim tôi đau quặn mỗi khi nghĩ tới anh. Một lần cuối, anh có muốn nghe lời khuyên của Poirot này không? Nếu muốn thì sau khi đọc hết những dòng này, hãy đáp xe lửa - hoặc xe hàng, xe hơi - đi gặp Elizabeth Cole tức Elizabeth Litchfield. Đọc cho cô ấy nghe văn bản này, giải thích cho cô ấy rằng, nếu là anh, anh cũng sẽ làm như Margaret chị cô. Tiếc rằng chị cô ấy không có một người như Poirot để bảo vệ. Nói tất cả cho Elizabeth để cô ấy rũ bỏ hết những ác mộng ám ảnh cô suốt bấy lâu nay. Làm cho cô ấy hiểu là bố cô không chết vì tay con gái lớn, mà là do ông bạn quý hóa của gia đình: Stephen Norton. Vì thật là không công bằng một phụ nữ còn trẻ, đẹp như cô ấy lại không muốn sống chỉ vì nghĩ mình là người có số mệnh đen đủi. Không phải vậy. Hãy nói thế nhé, anh bạn, anh vẫn còn dư sức hấp dẫn với phụ nữ... Thôi, tôi không còn gì để nói. Tôi không biết việc tôi làm có chính đáng hay không. Thực sự không biết. Trong thâm tâm tôi nghĩ là một người không có quyền làm thay pháp luật. Nhưng mặt khác, tôi cũng là một phần của pháp luật. Hồi trẻ, lúc còn phục vụ ở Sở Cảnh sát Bỉ, tôi đã bắn hạ một tên tội phạm, hắn đứng trên mái nhà bắn xuống người qua đường. Trong trường hợp khẩn cấp chí nguy, tôi đã cứu được nhiều mạng người khác... Thôi, vĩnh biệt anh bạn. Tôi đã vứt bỏ những ống thuốc trợ tim trước nay vẫn giữ trong tầm tay đề phòng trường hợp nguy cấp. Tôi muốn buông xuôi, phó mặc đời mình cho Chúa. Mong Người hãy trừng phạt - hay cứu vớt - thật nhanh. Chúng ta sẽ không cùng nhau sát cánh nữa. Anh nhớ không, vụ án đầu tiên mà chúng ta cùng hợp tác để phá, diễn ra tại đây. Và cũng lại ở đây, là vụ án cuối cùng... Ôi, cái thời tươi đẹp!... Mời các bạn đón đọc Thám Tử Rời Sân Khấu của tác giả Agatha Christie.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Việc Máu - Michael Connelly
Terry McCaleb không ở  đỉnh cao phong độ của một đặc vụ FBI dày dặn kinh nghiệm. Ông mới ngoài bốn mươi tuổi, lẽ ra vẫn còn có thể tiếp tục cày xới thế giới tội  ác ở Los Angeles, nhưng trái tim của ông đã  đầu hàng, ông phải thay tim và thấy trước mặt  mình một cuộc sống khác hẳn. Rồi người phụ nữ  đó xuất hiện, không hề báo trước, ngay tại nơi trú ẩn tuổi già của ông. Và McCaleb buộc phải gắng gượng tìm lại phong độ tưởng chừng đã vĩnh viễn mất đi, lần mò theo những lối  đi gian nan nhất của sa mạc và của trí tuệ, với một trái tim của người khác đập trong lồng ngực. Terry McCaleb và Graciela Torres bỗng chốc khám phá ra rất nhiều điều bí ẩn của các tội ác, cũng như bí ẩn trong mối quan hệ tình cảm con người. Michael Connelly ở độ chín của tài năng và phong cách, một cuốn tiểu thuyết trinh thám có nhịp điệu mạnh liên hồi, tàn khốc nhưng không mất đi sự mềm mại, nhân bản, thậm chí là lãng mạn. *** Michael Connelly sinh ngày 21.7.1956. Ông là một nhà văn, nhà báo Mỹ. Văn đàn thế giới coi M. Connelly là "ông hoàng trinh thám Mỹ", có lẽ bởi nhiều tác phẩm thuộc thể tài này của ông đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng và bản thân M. Connelly đã đoạt nhiều giải thưởng văn học quan trọng nhờ số truyện trinh thám mà ông đã viết. Người biết M. Connelly nói ông viết truyện trinh thám không phải do tình cờ, cũng chẳng phải do sự bồng bột, một "tình yêu sét đánh nào đó", mà là do ông có vốn sống giàu có về lĩnh vực điều tra tội phạm. Tất cả bắt đầu từ khi M. Connelly tốt nghiệp Đại học Florida năm 1980 và khởi đầu sự nghiệp bằng những bài viết trên tờ Daytona Beach News Journal về vấn đề tội phạm Mỹ, sau đó là viết cho tờ Fort Lauderdale News and Sun-Sentinel, cũng về lĩnh vực này. Những giải thưởng đầu tiên đến với M. Connelly vào năm 1985, khi bài phỏng vấn những nạn nhân còn sống sót sau vụ rớt máy bay Delta Flight 191 của ông lọt vào danh sách đề cử giải Pulitzer - giải thưởng báo chí danh giá bậc nhất dành cho một nhà báo. Hai năm sau, chuyển đến sống tại California, M. Connelly cho ra đời tác phẩm trinh thám đầu tay của mình và gần như ngay sau đó, cuốn The Black Echo được xuất bản và đoạt giải Edgar Award năm 1992. *** McCaleb thấy nàng trước khi nàng thấy ông. Ông đang bước xuống ụ tàu chính, băng qua dãy thuyền của cánh nhà binh thì nhìn thấy người đàn bà đứng trên mũi chiếc Biển Theo Ta. Lúc đó là mười rưỡi sáng một ngày thứ Bảy, tiếng thì thầm ấm áp của mùa xuân khiến nhiều người rời khỏi nhà kéo đến các ụ tàu ở San Pedro. McCaleb đang sắp hoàn tất cuộc đi dạo vào mỗi sáng - đi trọn một vòng quanh Cabrillo Marina, dọc theo đê chắn sóng xây bằng đá rồi quay về. Đến đoạn này thì ông đã mệt bở hơi tai, nhưng ông bước còn chậm rì hơn khi tiến lại gần thuyền. Ý nghĩ đầu tiên của ông là bực bội - người phụ nữ đó đã lên thuyền ông mà không đợi ai mời. Nhưng khi đến gần hơn, ông gạt ý nghĩ đó qua bên mà tự hỏi nàng ta là ai, nàng muốn cái gì. Nàng không mặc quần áo dùng để đi thuyền. Nàng mặc bộ đầm mùa hè suông nhẹ dài tới giữa đùi. Làn gió nổi lên từ mặt nước cứ chực tốc váy nàng khiến nàng phải ép một tay vào hông để giữ yên. McCaleb không thấy hai bàn chân nàng, nhưng qua đường nét cơ bắp săn chắc ông nhìn thấy nơi đôi chân rám nắng của nàng, ông đoán nàng không mang giày dùng để đi thuyền. Nàng nhón gót lên. McCaleb lập tức hiểu ra, nàng đứng đây nhằm để gây ấn tượng với ai đó. McCaleb thì ăn mặc sao cho chẳng gây ấn tượng gì. Ông mang chiếc quần jeans cũ rách te tua vì mặc quá lâu chứ không phải để làm dáng, áo phông mặc từ hồi dự giải Catalina Gold Cup tận mấy mùa hè trước. Quần áo lấm bê lấm bết, chủ yếu là máu cá, đôi phần là máu của chính ông, axit hydrochloric, nhựa poliuretan và dầu máy. Bộ đồ này ông thường mặc để đánh cá nhưng cũng mặc cả khi sửa máy. Cuối tuần này ông định sẽ sửa máy trên thuyền nên ông đang mặc bộ đồ phù hợp. Ông bắt đầu có ý thức hơn về ngoại hình mình trong khi lại gần thuyền và thấy người đàn bà rõ hơn. Ông rút hai miếng mút của máy nghe nhạc ra khỏi tai rồi tắt CD giữa lúc bài “I Ain’t Superstitious” qua giọng Howlin’ Wolf đang phát nửa chừng. “Tôi giúp gì được cho cô?” ông hỏi trước khi bước xuống thuyền của mình. Giọng ông dường như khiến nàng giật mình, đang đứng nơi cánh cửa trượt dẫn vào buồng khách của thuyền nàng liền quay phắt lại. McCaleb đồ rằng nàng gõ lên mặt kính vì cứ nghĩ ông đang ở trong đó. “Tôi tìm Terrell McCaleb.” Nàng là một phụ nữ hấp dẫn ngoài ba mươi đôi chút, trẻ hơn McCaleb tròn chục tuổi hay hơn. Trông nàng quen quen, nhưng ông không nhớ ra ai. Chỉ là ngờ ngợ như quen, thật ra chưa chắc đã phải. Đồng thời ông lại thấy dường như ký ức mình bị đánh động khiến cho ông nhận ra, nhưng rồi điều đó qua nhanh và ông biết mình lầm, ông không quen biết người đàn bà này. Ông thường nhớ được mặt người ta. Mà cô nàng này thì mặt đủ xinh để ông không quên được. Nàng phát âm sai tên ông, đáng lẽ Mác-cây-lép thì nàng nói Mác-ca-lớp, rồi thì nàng lại dùng tên ghi trên giấy tờ của ông, cái tên chẳng ai dùng trừ cánh báo chí. Chính khi đó ông bắt đầu hiểu. Giờ thì ông biết điều gì đã đưa nàng tới con thuyền. Lại một linh hồn lạc lõng đến nhầm nơi phải đến. “McCaleb,” ông chữa lại. “Terry McCaleb.” “Xin lỗi. Tôi, ờ, tôi cứ nghĩ ông đang ở trong thuyền. Tôi không biết nếu bước lên thuyền mà gõ cửa thì có được không.” “Thì cô vẫn làm đó thôi.” Nàng lờ đi lời trách mà nói tiếp. Cứ như thể những điều nàng đang làm và những gì nàng phải nói, nàng đã phải tập đi tập lại nhiều lần. “Tôi cần nói chuyện với ông.” “Ồ, hiện giờ tôi hơi bận.” Ông chỉ tay về phía cánh cửa dẫn xuống hầm thuyền vẫn đang mở toang, may phước là cô nàng chưa lọt xuống, chỉ tay vào đống đồ nghề ông đã trút ra trên một tấm vải màn cạnh cửa sổ đuôi tàu. “Tôi đi loanh quanh tìm cái thuyền này gần cả tiếng rồi,” nàng nói. “Không lâu đâu mà. Tên tôi là Graciela Rivers, tôi chỉ muốn...” “Này, cô Rivers,” ông nói, giơ hai tay lên ngăn lại. “Thực sự là tôi... Cô đọc được về tôi trên báo có đúng không?” Nàng gật. “Thôi được, trước khi cô bắt đầu chuyện của cô, tôi phải nói với cô rằng cô không phải người đầu tiên tới đây tìm tôi hay kiếm số phôn của tôi mà gọi tôi. Và với tất cả những người khác tôi nói gì thì với cô tôi cũng nói thế thôi. Tôi không phải đang tìm việc. Thành thử nếu chuyện là cô muốn thuê tôi hay nhờ tôi giúp cách này cách nọ thì rất tiếc, tôi không làm được. Tôi không phải đang tìm loại việc ấy.” Nàng chẳng nói gì và ông cảm thấy lòng xốn xang cảm thông với nàng, cũng như ông từng cảm thấy với những người khác tới tìm ông trước nàng. “Này, tôi có biết vài ba điều tra viên tư, tôi có thể giới thiệu họ với cô. Hội này giỏi đấy, làm ăn chăm chỉ, họ không lừa cô đâu.” Ông bước lên mép đuôi thuyền, nhặt chiếc kính râm ông quên mang theo khi đi bộ, đeo vào, ra hiệu rằng cuộc nói chuyện thế là dứt. Nhưng cử chỉ và lời lẽ của ông cứ như nước đổ lá khoai đối với nàng ta. “Bài báo nói ông tốt bụng. Nói rằng bất cứ khi nào có kẻ chuồn được là ông ghét cay ghét đắng.” Ông thọc tay vào túi quần, nhún vai. “Cô phải nhớ một điều. Không bao giờ chỉ mình tôi cả. Tôi có người cộng tác, tôi có đội xét nghiệm, tôi có cả Cục ở sau lưng hỗ trợ tôi. Khác xa cái kiểu anh chàng đơn thân độc mã làm gì cũng lầm lũi một mình. Khác nhiều lắm. Dù có muốn, e tôi cũng không giúp cô được.” Nàng gật đầu nên ông đinh ninh đã làm nàng ta thấu hiểu rồi, và với cô này tới đây là hết chuyện. Ông bắt đầu nghĩ tới cái van trên một trong các động cơ thuyền mà ông đang thao tác dở, ông định sẽ làm cho xong nội cuối tuần này. Nhưng ông đã lầm về nàng. “Tôi nghĩ ông có thể giúp tôi,” nàng nói. “Có khi còn giúp chính ông nữa.” “Tôi không cần tiền. Tôi kiếm đủ.” “Tôi không nói chuyện tiền nong.” Ông nhìn nàng trong khoảng một nhịp tim trước khi đáp. “Tôi không biết cô nói thế là ý gì,” ông nói, cố tình tỏ ra cáu kỉnh. “Nhưng tôi không giúp cô được. Tôi không còn phù hiệu, mà cũng chả phải là điều tra viên tư. Tôi mà làm việc như điều tra viên tư hoặc nhận tiền mà không có giấy phép của nhà nước thì sẽ là bất hợp pháp đấy. Nếu đã đọc bài báo thì ắt cô biết chuyện gì đã xảy ra với tôi. Thậm chí tôi còn không được lái xe nữa kìa.” Ông trỏ xuống bãi đỗ xe bên ngoài dãy ụ tàu và cầu tàu. “Cô thấy cái xe trùm kín mít như quà Giáng sinh kia không? Xe tôi đó. Nó sẽ còn nằm đó chừng nào tôi chưa được bác sĩ chuẩn y cho lái xe lại. Đến nước này thì tôi còn là cái thứ điều tra viên nào nữa chứ? Đến mà phải đi xe buýt suốt.” Nàng lờ đi lời phản đối của ông, chỉ nhìn ông với vẻ kiên quyết khiến ông lúng túng. Ông chẳng biết làm cách nào điệu nàng ta đi khỏi thuyền ông được đây. “Để tôi đi lấy tên mấy người kia cho cô.” Ông đi vòng qua nàng rồi đẩy cánh cửa trượt của phòng khách ra. Vào trong rồi, ông đóng chặt cửa sau lưng mình. Ông cần sự ngăn cách. Ông đi tới chỗ mấy ngăn kéo dưới bàn vẽ hải đồ, bắt tay tìm cuốn danh bạ điện thoại. Đã quá lâu không cần tới nên bây giờ ông chẳng biết nó nằm ở đâu nữa. Ông liếc ra ngoài qua cánh cửa, quan sát cô nàng bước tới chỗ đuôi tàu, tựa hông vào ô cửa sổ nhỏ trong khi chờ đợi. Trên mặt kính cửa có lớp màng phản chiếu. Nàng không thể thấy ông đang quan sát nàng. Cảm giác quen quen lại xâm chiếm tâm trí ông và ông cố nhớ ra xem mình đã gặp khuôn mặt này ở đâu. Ông thấy nàng thật nổi bật. Đôi mắt hình quả hạnh sẫm màu vừa có vẻ u sầu lại vừa có vẻ thấu hiểu điều bí mật nào đấy. Ông biết giá như ông từng gặp nàng hay thậm chí chỉ từng quan sát nàng trước đây thì hẳn ông sẽ dễ dàng nhớ ra nàng. Nhưng ông chẳng nhớ được gì cả. Mắt ông bất giác chuyển sang hai bàn tay nàng, tìm xem có chiếc nhẫn nào không. Không có. Về chuyện giày dép của nàng thì ông đoán đúng. Nàng mang xăng đan có gót làm bằng bần, cao năm phân. Móng chân nàng sơn màu hồng, nổi bật trên làn da màu nâu mềm mại. Ông tự hỏi có phải lúc nào nàng cũng trông thế này không, hay nàng ăn mặc thế chỉ để nhử ông nhận làm cho nàng. Ông tìm ra cuốn danh bạ điện thoại trong ngăn kéo thứ hai, liền nhanh chóng tìm mấy cái tên Jack Lavelle và Tom Kimball. Ông ghi lại tên và số điện thoại của họ vào một tờ rơi quảng cáo cũ của hãng dịch vụ tàu biển rồi mở cánh cửa trượt. Nàng đang mở ví trong khi ông ra khỏi buồng khách. Ông chìa tờ giấy cho nàng. “Đây là tên hai người. Lavelle là thám tử Los Angeles đã nghỉ hưu còn Kimball hồi trước làm ở FBI. Tôi từng làm việc với cả hai, người nào cũng có thể làm việc tốt cho cô. Chọn một người mà gọi. Nhớ bảo anh ta rằng cô có được tên anh ta là nhờ tôi. Anh ta sẽ lo cho cô.” Nàng không nhận mấy cái tên từ tay ông. Thay vì vậy nàng rút một tấm ảnh ra khỏi ví chìa cho ông. McCaleb cầm lấy không nghĩ ngợi gì. Ông nhận ra ngay đó là một sai lầm. Trong tay ông là bức ảnh một phụ nữ mỉm cười ngắm một đứa bé trai đang thổi tắt nến trên cái bánh sinh nhật. McCaleb đếm được bảy ngọn nến. Đầu tiên ông nghĩ đó là ảnh của Graciela hồi trẻ hơn bây giờ vài tuổi. Nhưng rồi ông nhận ra không phải là nàng. Người phụ nữ trong ảnh mặt tròn hơn, môi mỏng hơn. Cô ta không đẹp như Graciela Rivers. Tuy cả hai đều có mắt màu nâu sẫm, nhưng mắt người phụ nữ trong ảnh không có cái vẻ mãnh liệt như mắt người đàn bà đang quan sát ông lúc này. “Em gái cô à?” “Phải. Và con của nó.” “Người nào?” “Sao cơ?” “Người nào chết?” Câu hỏi đó là sai lầm thứ hai của ông, làm trầm trọng thêm sai lầm thứ nhất bởi nó lôi ông dấn vào sâu hơn nữa. Ngay lúc hỏi, ông đã biết rằng đáng lẽ ra ông nên khăng khăng đòi nàng ta nhận lấy họ tên hai thám tử tư kia rồi chấm dứt mọi chuyện ở đây. “Em tôi. Gloria Torres. Cả nhà tôi gọi nó là Glory. Đây là Raymond, con của nó.” Ông gật đầu rồi đưa trả bức hình nhưng nàng không nhận. Ông biết nàng muốn ông hỏi chuyện gì đã xảy ra, nhưng cuối cùng ông kịp kìm lại. “Nào, thế này chả ích gì đâu,” rốt cuộc ông nói. “Tôi biết cô đang làm gì rồi. Chả ích với tôi đâu.” “Ý ông là ông không hề có lòng thông cảm phải không?” Ông ngần ngừ trong khi cơn giận sôi lên trong họng. “Tôi có lòng thông cảm. Cô đã đọc bài báo, cô biết chuyện gì đã xảy ra với tôi. Xưa nay tôi gặp rắc rối gì cũng đều do thông cảm mà ra cả.” Ông nuốt khan và cố gột sạch mọi cảm xúc khó chịu. Ông biết cô nàng này đang bị nỗi thất vọng khủng khiếp làm cho héo hon tiều tụy. McCaleb từng biết hàng trăm người như nàng. Những người thân yêu bị tước đi khỏi họ chẳng vì lý do nào hết. Không bắt bớ, không buộc tội, không phá án. Một vài người trong số đó chỉ còn như cái thây sống, đời họ bị thay đổi vô phương cứu chữa. Những linh hồn lạc lõng. Graciela Rivers giờ đây là một người như thế. Chắc chắn nàng là thế, không thì nàng đã chẳng tìm mọi cách lùng ra tung tích của ông. Ông biết, dù nàng nói gì với ông hoặc dù ông có tức giận đến mấy, nàng cũng không đáng phải hứng chịu thêm những cơn thất vọng của chính ông. “Thôi nào,” ông nói. “Tôi không làm được đâu mà. Tôi rất tiếc.” Ông đặt một tay lên tay nàng để đưa nàng trở lại bậc lên xuống thuyền. Da nàng ấm. Ông cảm nhận được bắp cơ khỏe mạnh dưới sự mềm mại đó. Ông lại đưa nàng tấm ảnh, nhưng nàng vẫn từ chối không chịu cầm. “Xem lại đi. Xin ông làm ơn. Chỉ thêm một lần thôi, rồi tôi sẽ để ông yên. Nói cho tôi biết liệu ông có cảm thấy gì khác không?” Ông vừa lắc đầu vừa phác một cử chỉ yếu ớt bằng bàn tay như muốn nói đằng nào thì cũng vậy thôi. “Tôi là cựu nhân viên FBI chứ không phải nhà ngoại cảm.” Nhưng ông vẫn làm ra vẻ giơ tấm ảnh lên nhìn. Người phụ nữ và chú bé xem chừng hạnh phúc. Là tiệc sinh nhật mà. Bảy ngọn nến. McCaleb nhớ rằng hồi ông bảy tuổi cha mẹ ông còn ở với nhau. Nhưng sau đấy thì không ở với nhau lâu nữa. Mắt ông bị hút vào đứa bé nhiều hơn vào người phụ nữ. Ông tự hỏi bây giờ không có mẹ thì thằng nhỏ sống ra sao. “Tôi xin lỗi, cô Rivers ạ. Thực sự là tôi rất tiếc. Nhưng tôi chẳng làm gì được cho cô hết. Cô có muốn lấy ảnh này lại không?” “Tôi có hai cái. Ông biết đấy, rửa một tặng một mà. Tôi tưởng ông sẽ giữ lại một cái.” Lần đầu tiên ông cảm thấy có cái gì đó ngầm ẩn trong dòng cảm xúc. Có cái gì đó hệ trọng nữa đây, nhưng ông không biết là gì. Ông nhìn kỹ cô Graciela Rivers và có cảm tưởng rằng nếu dấn thêm một bước, hỏi cái câu hỏi thật hiển nhiên, ông sẽ bị cuốn hẳn vào. Ông không kìm được. “Sao tôi lại muốn giữ tấm ảnh dù tôi sẽ không thể giúp cô được?” Nàng mỉm cười một cách buồn bã thế nào đó. “Bởi nó là người đàn bà đã cứu mạng ông. Thỉnh thoảng tôi lại nghĩ, hẳn ông cần tự nhắc mình nhớ cô ta trông thế nào, cô ta là ai.” Ông nhìn nàng chằm chằm một hồi lâu nhưng thật ra ông không nhìn Graciela Rivers. Ông đang nhìn vào bên trong mình, lục lọi trong ký ức và hiểu biết của mình điều nàng vừa nói, nhưng vẫn không hiểu được ý nghĩa của nó. “Cô nói cái gì vậy?” Ông chỉ hỏi được có thế. Ông có cảm giác quyền kiểm soát cuộc nói chuyện và mọi thứ khác đều đang tuột khỏi ông mà trượt qua boong tàu về phía nàng. Cái dòng chảy ngầm kia đã tóm được ông. Nó đang đưa ông đi. Nàng giơ tay lên, nhưng rướn tay qua bức ảnh ông vẫn đang chìa ra cho nàng. Nàng đặt lòng bàn tay lên ngực ông, miết tay dọc xuống ngực áo ông, mấy ngón tay nàng lần theo vết sẹo giống như đoạn thừng dày cộm sau lần áo. Ông để yên cho nàng làm vậy. Ông đứng như hóa đá mà để nàng làm vậy. “Trái tim ông,” nàng nói. “Nó từng là của em tôi. Nó là người đã cứu mạng ông.” ... Mời các bạn đón đọc ​Việc Máu của tác giả Michael Connelly.
Sáu Ngày Của Condor - James Grady
James Grady là nhà văn tiến bộ Mỹ. Ông sinh năm 1949 tại một thị trấn nhỏ thuộc bang Montana. Ngày nhỏ sống tại quê nhà. Sau khi tốt nghiệp đại học Montana, J. Grady trở thành nhà báo. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế trường đại học, ông đã say mê tìm hiểu các môn khoa học xã hội - chính trị và sử học. Tuy rất có năng khiếu về văn chương, nhưng J. Grady vẫn không dám sống bằng nghề cầm bút, vì ông vốn biết chắc mười mươi rằng "phàm đã là nhà văn thì khó lòng được sống một cuộc đời no đủ". Bởi thế, J. Grady xin vào làm trợ lý các vấn đề lập pháp tại Uỷ ban soạn thảo hiến pháp bang Montana. Tiếp đó, suốt nhiều năm liền ông đã làm qua đủ mọi nghề: khi thì công nhân, khi thì chuyên gia bài trừ tệ nạn phạm pháp trong trẻ em, khi thì phóng viên báo chí. Cuộc sống của ông cứ tiếp tục trôi qua như thế cho mãi đến năm 1974, năm J. Grady công bố cuốn truyện đầu tay, làm chấn động dư luận: "Sáu ngày của Condor" 1 (trong những lần tái bản sau này được đổi tên thành "Ba ngày của Condor"). Cuốn tiểu thuyết đã đem lại cho tác giả danh tiếng ấy lập tức được đạo diễn Mỹ có tên tuổi là Sydney Pollack đưa lên màn ảnh và càng làm xôn xao dư luận. Năm 1975, J. Grady cho ra mắt bạn đọc thiên tiểu thuyết thứ hai: "Cái bóng của Thần Ưng". Nhân vật chính ở đây vẫn là anh chàng Ronald Malcolm quen thuộc mà một nhà phê bình đã từng tặng cho danh hiệu là "gã điệp viên đáng mến và hấp dẫn nhất, nhưng đồng thời cũng lại là tên điệp viên khó gặp và phi hiện thức nhất trong lịch sử tồn tại của cơ quan CIA". Ngay cả khi tác phẩm đầu tay đã có tiếng vang rộng khắp, J. Grady vẫn còn nấn ná khá lâu mãi tại quốc hội Mỹ với chức vụ trợ lý của một hạ nghị sĩ. Còn hiện thời, J. Grady đang làm thư ký riêng cho một nhà báo Mỹ lừng danh. Ông chỉ sáng tác truyện trinh thám những khi rỗi việc. Các cốt truyện trong sáng tác của ông thường xây dựng trên chất hiện thực. Những gì được hư cấu hoàn toàn không phải nhằm mục đích "thêm nhưn thêm nhị" mà chỉ là phương tiện để gắn kết các biến cố thực lại với nhau cho bố cục tác phẩm được cân xứng, thật hài hoà. Năm 1980, tác phẩm thứ ba của J. Grady ra đời: "Bắt lấy ngọn gió lành". Mùa xuân năm 1981, lại một tiểu thuyết hấp dẫn nữa của nhà văn, thiên truyện thứ tư ra mắt bạn đọc: "Kẻ trốn chạy ngoài phố". Những biến cố trong "Sáu ngày của Condor" bắt đầu từ việc một nhân viên trong một tiểu ban của CIA (gọi là "Hội Văn Sử") phát hiện ra một vụ gian lận về chứng từ, sổ sách, và muốn làm "sáng tỏ", anh bèn viết một tờ trình ngắn gởi lên cấp trên. Tờ trình rơi vào tay một "ông lớn" ở Tổng hành dinh CIA. Nhân vật này cho thi hành "những biện pháp khẩn cấp nhằm huỷ diệt hết tất cả các "khoản" cùng những hồ sơ lưu trữ có liên quan đến công việc, lẫn những nhân viên của cái tiểu ban có dính đến câu chuyện nêu trong "tờ trình". Thế là ngay đêm hôm đó, nhân viên viết tờ trình bị thủ tiêu tại nhà. Và sáng hôm sau thì toàn bộ người của tiểu ban bị giết một cách thảm khốc, trừ mỗi một mình anh chàng Malcolm, vì sáng hôm đó đi vắng, nên thoát chết. Trở về trụ sở và chứng kiến cảnh giết chóc tàn khốc nọ, Malcolm với biệt danh Thần Ưng (Condor), đã dùng điện thoại báo động. Báo động! Báo động khẩn cấp! Phong toả ngay căn cứ!... Và từ đó bắt đầu cuộc săn lùng, cuộc đấu trí, chung quanh cái trục là Malcolm, "người hùng" trong một tình thế bắt buộc, như anh thú nhận: "không có con đường nào khác". Cả hai phía; phía "chính thống" và phía "buôn lậu ma tuý" đều lùng sục Malcolm, bởi vì anh là người nắm được đầu mối của cái tấn kịch khủng khiếp. Malcolm, cái anh chàng "thư lại" ấy, bỗng chốc phải đối phó với hàng trăm tình huống gay cấn - và tình huống cũng đã buộc anh phải hành động mưu trí, sáng tạo để thoát chết và để khám phá ra bọn thủ phạm vụ án. Vấn đề là trong khi hành động như thế, Malcolm cũng dần dần hiểu ra một điều cơ bản là cả hai phía săn lùng anh cùng có chung một bản chất: "Maronic là đứa giết người thuê. Malcolm bỗng nhớ lại giọng nói của những nhân viên nhà nghề ở đầu đường dây "Báo động", những người cũng y hệt như Maronic vậy. "Không", anh nghĩ bụng, - cuộc săn lùng từ trước đến giờ chỉ nhằm vào mỗi một mình mình. Vấn đề đặt ra chỉ có thế này họ chống lại mình, họ hại mình" (chương Thứ ba (đêm) - Thứ tư (Rạng sáng)). Thông qua toàn bộ câu chuyện, J. Grady cũng phơi bày được một bộ mặt bản chất của xã hội Mỹ: đó là một xã hội với những tội ác kinh điển, thường trực, một xã hội đầy dẫy bọn buôn lậu, bọn găng- xtơ thích máu, mà đối với chúng việc giết người "chỉ là công việc làm ăn, không hơn không kém" và "họ không xúc động mảy may nào về những hậu quả do họ gây nên". Điều đáng chú ý nữa là cái bọn tội phạm ấy lại chính là những nhân vật có cỡ nằm ngay trong nội bộ CIA. Đúng hơn, một số nhân vật có cỡ trong CIA đã móc ngoặc với bọn găng xtơ, làm ăn phi pháp và gây tội ác. Và việc chúng khử cả một tiểu ban của CIA một cách lạnh lùng, tàn bạo… để bịt đầu mối, đã nói lên cái bản chất của những con người trong cái công cụ đáng nguyền rủa ấy của nước Mỹ. Qua cuốn tiểu thuyết, nội tình của CIA, cái mặt trái của tổ chức cồng kềnh này, đã bị phơi trần. Nó có nội gián. Nó mọt ruỗng từ bên trong. Nó kém hiệu lực mặc dù hùng hổ. Đứng trước sự khủng hoảng, nó đối phó lúng túng. Cái gì sẽ xảy ra nếu không có anh chàng Malcolm? Nhân vật "ông già hiền hậu" chỉ là nhân vật tỉnh táo gần như duy nhất, trong trường hợp ấy cũng sẽ chẳng làm nên chuyện gì. Còn Malcolm? Anh là "người hùng" trong một tình thế bắt buộc, như anh thú nhận: "không có con đường nào khác". Cái kết thúc phần nào "có hậu"của cuốn truyện, tuy không hẳn đã phản ảnh chân xác lô- gich của xã hội Mỹ, nhưng cái kết thúc ấy cùng với phần nào cái chất lương thiện trong con người bình thường Malcolm, biểu tượng của khát vọng về lẽ phải và lòng nhân đạo của nhân dân Mỹ, đã đem lại cho người đọc cảm tình và hy vọng. Đó là một tích cực đáng nói của cuốn truyện này Hội Văn nghệ Quảng Nam - Đà Nẵng Mời các bạn đón đọc Sáu Ngày Của Condor của tác giả James Grady.
Thánh Giá Rỗng - Higashino Keigo
Đằng sau mỗi vụ án mạng luôn có một câu chuyện đau lòng và đầy nước mắt. Nhưng liệu rằng tử hình có phải là hình phạt thích đáng cuối cùng cho mọi tội ác? Công lý có thực sự được thực thi? Liệu rằng khi lời tuyên bố án tử được vang lên trước tòa, thân nhân của người bị hại có thực sự thấy yên lòng, nỗi đau có phần nào được bù đắp và kẻ gây nên tội ác có chút nào ăn năn, hối cải? Nếu bạn cũng băn khoăn và chưa tìm được lời giải cho những câu hỏi này, hãy tự đi tìm câu trả lời trong cuốn tiểu thuyếtThánh giá rỗng của nhà văn bậc thầy trinh thám hàng đầu Nhật Bản - Higashino Keigo. Thánh giá rỗng là câu chuyện xoay quanh hai vụ án mạng tàn khốc trong cùng một gia đình. Ngày 21 tháng 9 của mười một năm về trước, cô bé Manami ngây thơ, vô tội đã bị sát hại tại nhà riêng. Đúng mười một năm sau, mẹ cô bé - Sayoko, cũng bị giết hại dã man trên con đường thuộc quận Koto. Nakahara - một người chồng, một người cha bất hạnh đã hai lần phải cảm nhận nỗi đau mất người thân. Cái chết đầy uẩn khúc của Sayoko đã khiến anh tạm gác lại niềm riêng để bước vào cuộc hành trình tìm kiếm sự thật. Trên con đường tìm lời giải đáp cho mọi thắc mắc của mình, Nakahara vô tình tìm ra mối liên hệ giữa vụ án mạng của vợ anh và một bí mật động trời khác đã được chôn giấu suốt hai mươi mốt năm trời. Bằng giọng văn giản dị nhưng không kém phần sắc bén Higashino Keigo lại một lần nữa dẫn dắt người đọc đi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, lần tìm về quá khứ để từng bước, từng bước gỡ những nút thắt chưa được giải. Không có những pha rượt đổi gay cấn đến nghẹt thở, không có những màn phá án li kì đến xuất thần, nhưng Thánh giá rỗng - cuốn sách có mặt trong top 5 các tiểu thuyết trinh thám hay nhất do Shukan Bunshun bình chọn, bằng một cách rất riêng vẫn ám ảnh và lôi cuốn người đọc vào những câu chuyện cảm động, đầy nước mắt của tình bạn, tình yêu, và tình phụ tử thiêng liêng... *** Higashino Keigo sinh ngày 4/2/1958 tại Osaka. Ông được biết đến như một trong những tác giả nổi tiếng nhất Nhật Bản ở thể loại trinh thám - li kì. Sức lan tỏa và tầm ảnh hưởng của ông với các độc giả Nhật Bản có thể được ví như James Patterson hay Dean Koontz với nhiều thế hệ độc giả Mĩ. Năm 1985, Higashino Keigo giành giải Edogawa Rampo lần thứ 31 cho tác phẩm trinh thám hay nhất với tiểu thuyết Houkago (tạm dịch: Sau giờ học). Năm 1999, ông đoạt giải Mystery Writers of Japan với tiểu thuyết Bí mật của Naoko. Năm 2006, ông tiếp tục nhận giải Naoki lần thứ 134 cho Phía sau nghi can X. Trong năm 2006, Phía sau nghi can X cũng mang về cho Higashino Keigo giải Honkaku Mystery Award. Năm 2012, ông tiếp tục nhận giải thưởng văn nghệ Chuokoron lần thứ 7 cho tiểu thuyết Điều kì diệu của tiệm tạp hóa Namiya. Các tác phẩm của Higashino Keigo có lối tiếp cận rất độc đáo, cuốn hút độc giả dõi theo từng chi tiết, từng nét chuyển biến dù là mong manh nhất trong tâm lí và tình cảm của các nhân vật. Không chỉ là những câu chuyện độc nhất vô nhị đầy ám ảnh, các tác phẩm của ông còn khiến độc giả suy nghĩ về những vấn đề phức tạp của xã hội và mối quan hệ giữa người với người. Rất nhiều trong số các tác phẩm của Higashino Keigo đã được chuyển thể thành phim và mang về cho nhà sản xuất những thành công rực rỡ về cả mặt thương mại cũng như tính nghệ thuật. Cuốn Thánh giá rỗng (tên gốc: Utsuro na Jujika) bạn đang cầm trên tay là một trong những tác phẩm mới nhất của Higashino Keigo. Cuốn sách được ra mắt lần đầu tiên tại Nhật năm 2014 và nhanh chóng có mặt trong top 5 các tiểu thuyết trinh thám hay nhất do Shukan Bunshun bình chọn. Sẽ thế nào nếu một người thân yêu của chúng ta ra đi vì "bị giết?" Liệu án tử hình là cần thiết hay không hề hiệu quả? Phạt tù là sự trừng phạt hay giải thoát những nỗi đau? Sinh mệnh của đứa trẻ còn chưa lọt lòng thuộc về ai? Ngay cả khi hiểu được động cơ của kẻ gây án, ngay cả khi hắn đã phải chịu án phạt tử hình, thì liệu ngày mà tất cả thực sự được cứu rỗi có đến? Có lẽ không chỉ những người thân xung quanh người bị hại, mà gia đình thủ phạm cũng chỉ là nạn nhân. Sau khi gấp lại những trang cuối cùng và ta buộc phải suy nghĩ về những chủ đề nặng nề như một con đường hầm không thấy ánh sáng như vậy, bạn chỉ có thể thốt lên rằng: Thật đúng là Higashino! Skynovel Iguchi Saori hầu như không nhớ gì về mẹ mình, khi cô bé bắt đầu nhận thức được thế giới xung quanh, bà đã không còn trên đời. Saori vẫn nhớ hồi mẫu giáo cô bé đã ghen tị với đám bạn như thế nào vì chúng có mẹ đến đón mà mình thì không. Đến lúc học tiểu học, cô bé mới hay mẹ đã mất năm mình 3 tuổi, và mãi lên lớp 5 cô bé mới biết bà mất vì bệnh u não khi chỉ vừa 31 xuân xanh. "Mẹ con nấu ăn rất ngon, lại vô cùng dịu dàng. Bà ấy vốn là người rất khỏe mạnh, lúc đó ba cũng không dám nghĩ mẹ con lại mắc bệnh đó", Yosuke - ba của cô bé vẫn luôn nói về mẹ cô như vậy. Yosuke là kỹ sư làm việc tại một công ty chuyên về sản phẩm công nghiệp hóa chất. Trụ sở chính của công ty đặt ở Osaka, nhưng công xưởng Fuji, nơi anh làm việc lại nằm ngay ở thành phố Fuji gần đó, vì thế hàng ngày anh đi ô tô đến công xưởng. Đến năm lớp 4, anh vẫn gửi Saori ở trường giáo dục trẻ em¹. Giờ trả học sinh của trường là 6 giờ 30 phút, nhưng ngày nào Yosuke cũng đến đón cô bé sát giờ trường đóng cửa. Mỗi ngày nhìn thấy mặt ba là cô bé lại an tâm phần nào. ____________________________ (1) Là một dạng trường dành cho trẻ em cấp 1 sau khi tan học nếu về nhà không có người bảo hộ thì sẽ tới đây cho đến khi có người nhà tới đón Khi Saori lên lớp 5, cô bé không đến trường giáo dục trẻ em nữa mà đi thẳng từ trường tiểu học về nhà. Cô bé không chán ghét việc ở nhà một mình, chỉ cần đọc sách, xem đĩa phim là thời gian sẽ mau trôi qua. Ở trường cô bé cũng có bạn, nhưng Saori vốn thích được ở một mình như vậy. Cũng từ lúc đó, Yosuke về nhà muộn hơn. Trước đây, anh vẫn làm bữa sáng và bữa tối đều đặn, nhưng vì công việc càng ngày càng bận rộn, nên có những lúc anh mua cơm hộp ở cửa hàng tiện lợi để hai ba con ăn tối, cũng có những khi Saori một mình gọi pizza vừa ăn vừa đợi ba về. Được một thời gian, Saori nhận ra mình nên tự nấu cơm. Một ngày nọ, Saori đi siêu thị mua thức ăn, rồi ghé qua thư viện mượn một quyển sách dạy nấu ăn. Bữa tối hôm đó cô bé đã làm món thịt hầm khoai tây, canh miso và cơm trắng. Hôm ấy, Yosuke hiếm hoi có một ngày về sớm, mắt anh ánh lên tia lấp lánh, miệng liên tục khen con gái "Saori giỏi quá!". Và dù món thịt hầm thực ra hơi nhạt, canh miso cũng không thể nói là ngon, nhưng chỉ cần nghĩ mình đã giúp được ba cũng khiến cô bé cảm thấy vui vẻ. Từ đó trở đi, Saori trở thành người chăm lo chuyện cơm nước trong gia đình. Không phải ngày nào cô bé cũng có thể nấu, vì thế có những lúc, trước khi Yosuke đi làm cô bé sẽ dặn ba rằng, "Ba, hôm nay ba ăn tối ở ngoài nhé. Con sẽ mua bánh kẹp ở cửa hàng tiện lợi ăn tối". Ngoài nấu cơm, Saori cũng dần dần làm cả việc dọn dẹp hay giặt giũ trong nhà. Cô bé không cảm thấy có gì khổ cực, ngược lại làm việc nhà còn khiến cô bé cảm thấy vui vẻ. Có lẽ Saori hợp với công việc nội trợ gia đình. Yosuke vẫn thường khen con mình đầy tự hào rằng, "Saori sau này sẽ trở thành cô con dâu tốt đây, ba cũng rất yên tâm". Thế nhưng, sau câu khen đó, anh không quên nói thêm, "Nhưng ngoài việc nhà ra, Saori còn phải làm rất nhiều việc khác. Bây giờ điều quan trọng nhất là con phải học tập thật chăm chỉ, như thế sau này con mới được hạnh phúc. Việc nhà hay chuyện của ba, con xếp thứ hai cũng được". Nói như vậy, nhưng Yosuke cũng yên tâm khi con gái quán xuyến việc trong gia đình. Anh về nhà muộn hơn trước, có lẽ vì công việc trở nên bận bịu hơn. Thậm chí khi đã về đến nhà, anh vẫn nhận được những cuộc gọi liên quan đến công việc, số ngày lễ phải đi làm cũng tăng dần, các chuyến công tác qua đêm cũng trở nên thường xuyên. Khi Saori lên cấp hai, cuộc sống ở nhà của Yosuke chỉ là về nhà để ngủ. Cũng vì thế, hai ba con hiếm khi có thể nhàn nhã ngồi nói chuyện với nhau. ... Mời các bạn đón đọc Thánh Giá Rỗng của tác giả Higashino Keigo.
Người Đàn Bà Đáng Ngờ - Erle Stanley Gardner
Cô Ambler cứ nằng nặc đề nghị vạch bụng cho luật sư trứ danh Perry Mason xem vết sẹo với sự chứng kiến của nhà thám tử tài ba Paul Drake. Ngay sau đó Ambler ra phi trường Los Angeles bắn ba phát súng đạn giả ở nơi đông người rồi chạy biến vào khu vệ sinh. Cảnh sát ập tới bắt được một cô gái có thân hình, mặt mày, trang phục giống hệt như Ambler nhưng lại là - cô gái triệu phú Minerva Minden …  *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [Perry Mason #78 The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) *** Cô Della Street - thư ký riêng của Perry Mason - bước vào văn phòng và nói: - Trong văn phòng của luật sư, người ta thấy có quá nhiều chuyện kỳ cục. - Thật ư? Nhưng sao cô lại có ý kiến như vậy? - Có một cô Dorrie Ambler nào đó. Cô ta đang ngồi ở phòng đợi và mong muốn gặp ông. - Cô ấy bao nhiêu tuổi? - Khoảng 23 hay 24. Trẻ, khỏe, đẹp, trải đời rồi. - Thế cô ta đã nói gì để cô có nhận xét như vậy? - Cô ta vừa mổ ruột thừa và muốn vạch bụng cho ông xem vết sẹo. - Để kiện người giải phẫu ư? - Không, hoàn toàn không phải như thế. Cô ta nghĩ là việc nhận dạng của cô không được chắc chắn lắm nên khi cho ông xem vết sẹo, cô ta muốn ông cấp một bản xác nhận chứng tỏ cô là ai hay chính xác hơn cô khòng phải là ai đó. - Một chuyện đùa giỡn hay một âm mưu làm tiền đây? Chắc chắn là tôi không cho một cô gái trẻ cởi quần áo trong văn phòng của tôi để… - Cô ta đề nghị tiến hành việc đó trước mặt một người làm chứng. Trong đám người khoái chứng kiến cái cảnh như vậy có ông Paul Drake. Tôi mời ông ta đến nhé? - Della, khoan hãy gọi vội, chờ tôi nói chuyện một chút với cô Ambler nào đó đã… - Trước khi đưa cô ta vào gặp ông, tôi xin báo trước với ông một việc… - Việc gì? - Trong túi xách của cô ta có một khẩu súng lục. - Làm sao cô biết? - Gertie, cô gái phụ trách tổng đài tuyệt vời của chúng ta đã báo cho tôi điều đó. Trong khi chọn xem một tờ tạp chí, cô Ambler đã để rơi chiếc xắc xuống sàn. Tiếng rơi nghe thật nặng và cô ta giật mình lo ngại nhìn quanh xem có ai chú ý đến điều đó không. Gertie kết luận vật nặng trong xách phải là một khẩu súng. Luật sư nói với vẻ hăng hái: - Ai mà được biết trước thì sẽ cẩn thận gấp đôi, Della, cô cứ dẫn cô ta vào đây. Dorrie Ambler đúng là một cô gái thật đẹp, cô có mái tóc màu hung, đôi mắt màu hạt dẻ. - Ồ! Thưa ông luật sư Mason, ông thật là khả ái mới vui lòng tiếp đón tôi… - Mời cô ngồi, thưa cô… Theo tôi hiểu thì cô cần gặp tôi để nhờ xác định căn cước của cô phải không? Ý cô muốn nhờ tôi chứng nhận cô đúng là cô chứ gì? - Dạ vâng. - Vì lý do gì cô phải làm như vậy? - Có kẻ định làm tôi lẫn lộn với một người khác. Mason liếc nhìn Della Street và chỉ rõ: - Dấu vân tay của cô là cách tốt nhất để tránh chuvện đó. Cô gái trẻ kêu lên như bị xúc phạm: - Ồ! Biện pháp đó làm tôi có cảm giác như mình là kẻ phạm tội. Mason lắc đầu: - Không đâu! Cô chỉ việc gửi dấu vân tay đến cơ quan F.B.I đề nghị họ xếp vào hồ sơ loại không phạm tội. Đó là cách thức quen thuộc mọi người đều làm như vậy vì nó giúp cho nhà chức trách biện pháp nhận dạng một cách chính qui. - Biện pháp đó có mất nhiều thời gian không? - Lấy dấu tay của cô và gửi đến F.B.I ấy à? Ồ! Không lâu đâu. - Tôi ngại mất nhiều thời gian… Do đó tôi mới đến xin gặp ông… Tôi muốn… ơ… ông xem vết sẹo tôi vừa mổ ruột thừa. Lại một lần nữa Mason trao đồi ánh mắt với Della Street. - Này cô Ambler, tôi muốn biết thực sự cô có ý định gì? Ambler trịnh trọng nói: - Sau này nếu khi gặp lại lôi, ông có nhận ra tôi không? - Tôi nghĩ rằng có. - Thế còn cô, thưa cô Street? - Ồ! Chắc chắn như vậy - Della Street gật đầu xác nhận. - Nhưng trong trường hợp như thế này, ai cùng muốn có một sự xác nhận thật đảm bảo. Tôi biết khi cần phải xác nhận căn cước của một người, người ta thường hay dùng đến vết sẹo. Như vậy tôi cũng có một vết… - Và cô muốn cho chúng tôi xem? - Vâng, nhưng cần phải có một người khác chứng kiến vì theo tôi hiểu thì một vị luật sư không thể làm chứng cho khách hàng phải không ạ? Mason xác nhận: - Đúng vậy, luật sư không thể làm chứng cho thân chủ được. Luật sư nhìn cô thư ký và nói tiếp: - Nếu cô muốn, chúng tôi mời ông Paul Drake, giám đốc hãng trinh thám Drake làm chứng. Văn phòng của ông ta ở ngay bên cạnh trong cùng mội lầu, tôi hay nhờ ông ta cộng tác trong công việc. Dorrie hơi lưỡng lự nói: - Một phụ nữ làm chứng thì tốt hơn. Nhưng thôi thưa ông Mason, tôi hoàn toàn tin tưởng ở ông và để tùy ông quyết định. Luật sư nói với cô thư ký: - Tôi ghi vài chữ đề nghị ông ta giúp đỡ. Della, cô đưa mảnh giấy nầy cho ông Paul Drake. Trên mảnh giấy, Mason ghi vội: Anh Paul thân! Cô Della sẽ kể cho anh nghe câu chuyện nhưng tôi muốn anh cử một hay nhiều nhân viên, theo dõi cô gái khi cô ta rời khỏi văn phòng của tôi. Việc theo dõi cứ tiến hành cho đến khi có lệnh mới của tôi. Còn Della, cô cố thử xem trong túi xách của cô gái có súng không. Ông đưa mảnh giấy cho Della và cô biến nhanh qua cửa thông ra hành lang. Vắt chéo đôi chân tuyệt đẹp, Dorrie Ambler nhìn ông vẻ thăm dò và hỏi: - Thưa ông luật sư Mason, chắc ông lấy làm lạ về tôi lắm nhỉ? - Phải nói là hơi không bình thường một chút. - Tôi ngại có kẻ định dùng tôi làm một thứ để tế thần. Luật sư cười: - Đối với cô, chữ con dê không thích hợp. Phải gọi là con nai mới tương xứng. - Con nai tế thần? - Cô Ambler nhắc lại. – Vâng, chữ dùng thật đẹp nhưng tôi không thể chịu để sử dụng như thế. - Cô Ambler, chắc chắn như vậy rồi. Chính tôi cũng không chịu ở vào một tình trạng rắc rối như thế… Cô đã ghi địa chỉ cho cô thư ký của tôi rồi chứ? - Vâng… Ơ… tôi đã cho cô trực tổng đài biết. - À cô Gertie… Cô sống ở đâu nhỉ? - Chung cư Parkhurst, căn hộ số 907. - Cô có chồng, sống độc thân hay đã ly hôn? - Độc thân. - Chủ nhà hay người quản lý ngôi nhà có thể nhận dạng cô được chứ? Cô gái gật đầu xác nhận. - Cô ở đó được bao lâu rồi? - Ồ! Khoảng 6 tháng thì phải. - Cô có bằng lái xe hơi không? - Dạ có. - Cho tôi xem qua được chứ? Dorrie Ambler mở xắc lấy bằng lái xe. Perry Mason dù chú ý nhưng không thể nhìn thấy trong đó có gì. ­Ông chăm chú xem tấm bằng và nhận xét: - Bằng này đã cấp được 5 tháng. - Vâng, nhằm đúng vào ngày sinh của tôi. Thế là ông đã biết tuổi tôi rồi đấy. - Hồi đó sao cô không phản đối chuyện lấy dấu tay vì theo đúng quy định của bang Californie, dấu ngón tay cái của cô đã in vào tấm bằng rồi? - Thưa ông Mason, ông hiểu sai lời tôi rồi. Tôi không phản đối chuyện lấy dấu tay mà chỉ không thích được gửi đến F.B.I thôi. - Nhưng dầu sao dấu ngón tay cái của cô cũng đủ để xác định căn cước của cô một cách tốt nhất rồi. Cô gái nhìn vào ngón tay cái và nói: - Thưa ông luật sư Mason, ông xem dấu tay có rành không ạ? - Không, nhưng ông Paul Drake đúng là một chuyên viên trong lĩnh vực đó đấy. Còn tôi, tôi chỉ có khả năng so sánh các dấu vân tay thôi. Trên người cô còn vết sẹo nào khác nữa không? - Dạ không. Chỉ có một vết mổ ruột thừa thôi. Della và Paul Drake cùng đi vào. Mason giới thiệu nhà thám tử tư với cô Ambler rồi giải thích: - Paul, sự việc hơi đặc biệt một chút. Cô gái này muốn một người xác định căn cước của cô. Cô đề nghị anh quan sát cô thật kỹ và xem vết sẹo cô mới mổ ruột thừa. Drake trịnh trọng nói: - Được rồi. - Tôi vừa giải thích dấu ngón tay cái của cô trên tấm bằng lái xe do bang Californie cấp là đủ xác định nhận dạng của cô một cách hợp pháp rồi. Drake nói: - Dĩ nhiên như vậy rồi, dấu ngón tay cái đủ xác định căn cước nhưng nếu cô cứ thích… - Vâng đúng đấy ạ. - Dorrie Ambler hăng hái nói chen vào. Nếu ông muốn so sánh vân ngón tay cái với dấu tay trên tấm bằng thì đây… Nhưng tôi không muốn ấn ngón tay cái vào mực dấu đâu. Tôi có cảm tưởng như mình là một kẻ phạm tội. Ông có thể so sánh chính ngón tay cái với dấu tay trên tấm bằng được chứ ạ? Drake lấy trong túi ra một chiếc kính lúp: - Được, nhưng làm thế hơi mất thì giờ. Thật giản dị nếu như… Cô Ambler cười gượng gạo và nói van vỉ: - Không, tôi xin ông! Không dùng mực! Nhà thám tử gật đầu: - Tùy ý cô thôi! Paul chăm chú so sánh vân ngón tay cái với dấu tay trên tấm bằng trong một lúc rồi quay lại Mason, anh gật đầu nói: - Ok.Cô gái này đúng là Dorrie Ambler. Nào bây giờ cô cho tôi xem vết sẹo. Cô gái vội đứng lên đi ra góc phòng: - Tôi không thích đứng ở cạnh cửa sổ. Sau khi cởi áo Jakét mặc ngoài, cô vén cao áo trong lên để lộ một ít da trắng nõn phía trên chiếc váy nhưng lại bối rối thả vội áo xuống. Mason nói: - Dấu ngón tay cái là đủ rồi. - Không, không, tôi muốn ông… (Cô lại cười gượng). Thôi được, một vị luật sư cũng như một vị thầy thuốc thôi. Tôi đã quen cởi quần áo trước mặt bác sĩ riêng rồi. Cô kéo fermeture để vạch ra phần trên cái váy và vén áo lên. Trong vài giây, cô để ba người xem một vết sẹo đỏ trên làn da mượt như nhung. Rồi vừa lắc đầu cô vừa vội kéo váy lên và nói to: - Tôi không biết vì sao nhưng có cảm giác bối rối ghê gớm như ở tư thế hoàn toàn khỏa thân ấy. - Cô cứ yên tâm, - Drake nói, - trong vài tháng, khi vết sẹo không còn nữa, nó sẽ lặn mất gần như chẳng nhìn thấy đâu. Dầu sao chúng tôi cũng đã xem và với vết sẹo cùng dấu ngón tay cái, tôi có thể xác nhận nhận dạng cho cô. - Vâng, đó chính là điều tôi đề nghị. Trong khi cô Ambler quay mặt vô phía tường để chỉnh đốn lại y phục, Della lợi dụng thời cơ mở túi xách của cô gái rồi đóng lại sau khi đã liếc nhìn qua. Bắt gặp ánh mắt của Mason cô khe khẽ gật đầu. - Paul! Thế anh sẵn sàng chứng nhận cô gái này đúng là Dorrie Ambler chứ? - Vâng, nhưng tôi muốn biết chuyện này để làm gì vậy? - Tôi cũng thế! - Dorrie Ambler nói chen vào. - Tôi chỉ biết có một người giống tôi như đúc hay là người ta cố tạo ra tôi giộng hệt cô ta và… và tôi thấy sợ… Mason hỏi: - Làm sao người ta có thể buộc cô trở thành một người giống như đúc người khác được? - Vâng, bộ quần áo tôi mặc trên người kể cả tất, đồ lót đều là của người ta đưa cho tôi. Và tôi phải làm theo đúng lời chỉ dẫn của họ. Mason hỏi: - Trên quần áo có dấu hiệu của nhà giặt ủi hay của hiệu nhuộm nào không? - Tôi không chú ý đến chuyện đó… - Có thể nó có ích đấy. Chắc chắn cần phải nhờ ánh đèn rọi qua nhưng… - Ồ! Thưa ông Mason, tôi có một kế hoạch nho nhỏ cần làm gấp. Vì vậy, tôi sẽ xin gặp lại ông sau… - Kế hoạch gì vậy? Dorrie Ambler lắc đầu: - Chắc chắn ông sẽ phản đối kế hoạch đó nên tôi chưa cho ông biết vội, vì tôi muốn buộc họ phải lộ mặt. Bỗng cô cấm lấy túi xách và đưa tay xem giờ: - Thưa ông luật sư Mason, tôi phải trả bao nhiêu tiền? - Cô Ambler, cô thư ký sẽ đưa cô tờ hóa đơn 10 đôla. Khi cánh cửa tiền phòng khép lại sau lưng hai cô gái. Mason quay lại hỏi Drake: - Anh cử người theo dõi cô ta rồi chứ? - Rồi, một cậu trong số những nhân viên có năng lực nhất của tôi: Jerry Nelson. Ngoài ra tôi đã cử một cậu khác ngồi trong xe hơi. Trời đất! Cô gái này mới đẹp làm sao! Theo anh thì đây là chuyện gì vậy? - Tôi cũng đang suy nghĩ… Có thể người ta định biến cô gái này thành một cô gái khác để dễ dàng trong việc ly hôn. Tôi phải chờ người của anh gửi báo cáo đến mới có thể phán đoán được. - Ồ, chắc chắn lúc này cô ta về tới nhà rồi… Drake kêu lên: - Sao, anh nói sao? - Đúng đấy, Gertie có linh cảm như vậy và Della đã kiểm tra chuyện đó khi mở xắc ra. Lúc anh cứ đứng ngây người vì làn da cô ta ấy. - Perry, khi nào lại có khách hàng muốn biểu diễn ‘màn thoát y’ anh nhớ gọi tôi nhé. Anh biết đấy, tôi rất khoái giúp đỡ anh trông công việc mà. Khi Della quay lại phòng, Mason hỏi cô: - Cô ta đi rồi chứ? - Vâng. - Cô có nhìn thấy khẩu súng không? - Có, tôi thấy súng được lắp đạn nhưng là đạn giả. Tôi nhìn thấy rõ ổ đạn chứa toàn đạn không đầu. Đó là khẩu súng nhỏ, chắc thuộc cỡ 22 ly. Drake huýt một tiếng sáo dài, Mason hỏi thêm: - Cô đưa cho cô ta phiếu nhận 10 đôla rồi chứ? - Vâng, đó là tiền dịch vụ. Cô ta muốn đưa thêm cho tôi một số liền 100 đôla nói là để trả cho những việc sau này, nhưng tôi bảo không có quyền nhận, cô ta cần phải trao đổi với ông trước đã. Cô ta nói Ià không hề chi và liền sau đó, cô ta vội vã đi ngay vì đã đến giờ… Mason trầm ngâm nói: - Hy vọng trong kế hoạch của cô ta không xảy ra vụ giết người. Dĩ nhiên cô ta không thể thực hiện nổi chuyện đó với loại đạn giả, nhưng này, Paul, có cái gì đó thầm mách bảo cho tôi biết bản báo cáo của Jerry Nelson và người cộng tác của anh ta không thuộc loại báo cáo bình thường. Anh hãy cho tôi biết ngay khi họ đem tin tức về. ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #69: Người Đàn Bà Đáng Ngờ của tác giả Erle Stanley Gardner.