Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

PDF Thơ văn Cao Bát Quát - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ

Công trình Thơ văn Cao Bá Quát sẽ dựa trên cơ sở văn bản sách Thơ chữ Hán Cao Bá Quát do GS. Vũ Khiêu chủ biên (Nxb Văn học, H., 1970. Tái bản, 1984) để tiếp tục chỉnh lý, bổ sung, hoàn thiện. Sự nghiệp thơ văn Cao Bá Quát ở đây sẽ được tuyển chọn khá phong phú, với nhiều mảng tác phẩm: thơ chữ Hán, thơ phú Nôm, văn xuôi chữ Hán, giai thoại văn học. Trên cơ sở hệ thống tư liệu, công trình sưu tập văn bản và dịch thuật lưu ý phân bố phù hợp các mục tác phẩm tiêu biểu cho các thể loại, sát đúng với mỗi giai đoạn sáng tác cụ thể của Cao Bá Quát.Cao Bá Quát (1809? – 1855), tên tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, biệt hiệu là Mẫn Hiên. Ông là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương (nay thuộc thị xã Sơn Tây, Hà Nội), và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong văn học Việt Nam.Thuở nhỏ, Cao Bá Quát sống trong cảnh nghèo khó, nhưng nổi tiếng là trẻ thông minh, chăm chỉ và văn hay chữ tốt. Năm 14 tuổi, ông trúng tuyển kỳ thi khảo hạch ở Bắc Ninh. Năm Tân Mão (1831) đời vua Minh Mạng, ông thi hương đỗ Á Nguyên tại trường thi Hà Nội, nhưng đến khi duyệt quyển, thì bị bộ Lễ kiếm cớ xếp ông xuống hạng cuối cùng trong số 20 người đỗ Cử nhân. Sau đó trong chín năm, cứ ba năm một lần, Cao Bá Quát vào kinh đô Huế dự thi Hội, nhưng lần nào cũng bị đánh hỏng.Ngay khi Cao Bá Quát tham gia cuộc khởi nghĩa ở Mỹ Lương (Sơn Tây), các tác phẩm của ông đã bị triều đình nhà Nguyễn cho thu đốt, cấm tàng trữ và lưu hành, nên đã bị thất lạc không ít. Tuy vậy, trước 1984, nhóm biên soạn sách Thơ văn Cao Bá Quát, đã tìm đến kho sách cổ của Thư viện Khoa học kĩ thuật trung ương (Hà Nội), và sau khi loại trừ những bài chắc chắn không phải của ông, thì số tác phẩm còn sót lại cũng còn được trên ngàn bài được viết bằng thứ chữ Nôm và chữ Hán.Cụ thể là hiện còn 1353 bài thơ và 21 bài văn xuôi, gồm 11 bài viết theo thể ký hoặc luận văn và 10 truyện ngắn viết theo thể truyền kỳ. Trong số này về chữ Nôm, có một số bài hát nói, thơ Đường luật và bài phú Tài tử đa cùng (Bậc tài tử lắm cảnh khốn cùng).Về chữ Hán, khối lượng thơ nhiều hơn, được tập hợp trong các tập:-Cao Bá Quát thi tập-Cao Chu Thần di thảo-Cao Chu Thần thi tập-Mẫn Hiên thi tập----------------------------------Thơ Cao Bá QuátNXB Văn Học 1984193 TrangFile PDF-SCAN

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Tuồng Cải Lương Cửu Nhĩ Mạo Châu Kỳ PDF (NXB Sài Gòn 1927) - Lê Văn Tiếng
Cửu Nhĩ Tân Vương (?–427, trị vì 420–427) là vị quốc vương thứ 19 của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. Ông là con trai cả của Thiển Chi Vương và Bát Tu phu nhân. Thời gian trị vì của Cửu Nhĩ Tân Vương dựa theo Tam quốc sử ký (Samguk Sagi). Tuy nhiên, dựa trên các sử sách Trung Hoa đương thời, sử gia J. W. Best cho rằng mốc thời điểm 414–429 hay 430 là hợp lý hơn. Theo Bách Tế truyện trong Tống thư, năm 425 (Nguyên Gia thứ 2), Bách Tế không đến triều cống hàng năm cho Lưu Tống. Năm 430 (Nguyên Gia thứ 7), Lưu Tống phong Cửu Nhĩ Tân tước hiệu "sứ trì tiết, đô đốc, Bách Tế chư quân sự, Trấn Đông đại tướng quân, Bách Tế Vương".Cửu Nhĩ Mạo Châu Kỳ (Tuồng Cải Lương)NXB Sài Gòn 1927Lê Văn Tiếng50 TrangFile PDF-SCAN
Cười Gượng 2 Quyển PDF (NXB Đức Lưu Phương 1935) - Hồ Biểu Chánh
Năm 1928, là lúc bắt đầu thuật truyện nầy, thì thím giáo Điểu đã được 39 tuổi, còn đứa con gái lớn của thím, tên là Đặng Thị Hảo, được 18 tuổi, đứa con trai giữa, tên Hòa được 12 tuổi và đứa con trai út, tên Hiếu, được 7 tuổi. Đặng thị Hảo ở nhà một mình, cô buồn nên nằm trên võng đưa cọt-kẹt, mặt buồn hiu. Tuy cô là con nhà nghèo, thường ngày phải nấu cơm, xách nước, bửa củi, quét nhà, đến mùa làm ruộng lại còn phải phụ với mẹ mà cấy gặt, song cô đã sẵn có dung nhan tuấn tú, nước da trắng đỏ, cặp mắt sáng ngời, gò má như miếng bầu, chơn mày như bán nguyệt, bàn tay dịu nhĩu mà ngón lại thon như mũi viết, mái tóc đen thui mà hơi quăn như dợn sóng, tướng đi yểu điệu, tiếng nói trong ngần, bởi vậy dầu cô lam lũ mà sắc cô không phai, hết thảy đờn bà trong làng ai cũng trầm trồ khen cô là gái đẹp. Cô đã có sắc, mà lúc còn nhỏ nhờ có cha kềm dạy, nên cô lại biết chữ nho, biết làm thi nôm, sự học thức ấy làm cho cao phẩm giá của cô, bởi vậy những con nhà nghèo, hoặc con hương-chức nhỏ trong làng không có một mặt nào dám gắm ghé.Cười Gượng (2 Quyển)NXB Đức Lưu Phương 1935Hồ Biểu Chánh172 TrangFile PDF-SCAN
Mài Dao Giậy Vợ PDF (NXB Minh Tuân 1951) - Hải Lân
Đây là truyện cũ từ ngàn xưa lưu lại, người ta hằng thuật cho nhau nghe trong những khi nhàn rỗi. Truyện này cũng như nhiều câu truyện cổ khác của Việt Nam là truyện luân lý để răn đời. Vốn là truyện truyền khẩu nên người ta thuật lại thường khác nhau nhưng đầu đề và mục đích vẫn là một. Với cái đầu đề Mài Dao Giậy Vợ ta có hai truyện được lưu lại. Ở đây chúng tôi xin chép ra cả hai truyện ấy.Mài Dao Giậy VợNXB Minh Tuân 1951Hải Lân52 TrangFile PDF-SCAN
Một Linh Hồn Đàn Bà PDF (NXB Tân Dân 1940) - Lê Văn Trương
Nhà văn Lê Văn Trương (1906-1964), bút hiệu Cô Lý, là nhà báo, nhà văn Việt Nam thời tiền chiến. Ông sinh tại làng Đồng Nhân, nay là khu phố Thịnh Yên, quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội. Cha ông gốc người Hà Đông, lên lập nghiệp ở Bắc Giang. Trước Cách mạng Tháng Tám, Lê Văn Trương làm rất nhiều nghề: Công chức Sở Dây thép, khai khẩn đồn điền, thầu khoán, buôn bò, buôn ngọc, buôn lậu... ở nhiều nơi, có khi sang tận Campuchia, Thái Lan, Trung Quốc. Song, về sau, ông cộng tác với nhiều báo như: Trung Bắc tân văn, Tiểu thuyết thứ Bảy, Phổ thông bán nguyệt san, Ích hữu, Truyền bá, Việt Nam hồn… Sau Cách mạng Tháng Tám, ông theo kháng chiến, làm Chủ tịch Ủy ban Đãi vàng Bắc Bộ, vào bộ đội, công tác ở Tiểu ban Văn nghệ, Ban Tuyên huấn thuộc Phòng Chính trị Liên khu III. Sau bị bệnh, ông xin phép về Hà Nội chữa bệnh. Đầu năm 1954, ông vào Sài Gòn làm thầu khoán, viết báo, tái bản sách cho đến cuối đời.Những Tác Phẩm HayMột Linh Hồn Đàn BàNXB Tân Dân 1940Lê Văn Trương195 TrangFile PDF-SCAN