Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Hoa Tiêu trên Sông Danube - Jules Verne

  *** Jules Verne sinh ngày 8 tháng hai năm 1828 tại Nantes, mất ngày 24 tháng Ba năm 1905 tại Amiens (Pháp). Ông là nhà văn Pháp nổi tiếng, người đi tiên phong trong lịch sử thể loại Khoa học viễn tưởng. Năm 1863, cuốn tiểu thuyết đầu tay Năm tuần trên khinh khí cầu của Jules Verne được xuất bản tại nhà xuất bản Pierre- Jules hetzel, một trong những nhân vật quan trọng nhất trong ngành xuất bản Pháp thời bấy giờ và đã gặt hái thành công vang dội vượt ra ngoài biên giới nước Pháp. Sau thắng lợi đầu tiên đó, Jules Verne đã ký với hetzel hợp đồng 20 năm sáng tác các tiểu thuyết cho tờ Tạp chí giáo dục và giải trí chuyên dành cho giới trẻ. Trong vòng 40 năm, Jules Verne đã sáng tác loạt tiểu thuyết Những chuyến du hành kỳ thú (Voyages extraordinaires) bao gồm 62 tiểu thuyết và 18 truyện ngắn. Các tiểu thuyết của Jules Verne được đánh giá rất cao; chúng tiên đoán về cuộc sống hiện đại và các thành tựu khoa học kỹ thuật. Jules Verne đã viết về những chuyến du hành bằng máy bay hay tàu ngầm trong không gian, dưới lòng đất hay dưới nước... trước khi những phương tiện này được phát minh. Theo Index Translationum, ông là tác giả thứ hai được dịch nhiều nhất trên thế giới với tổng số 4.702 bản dịch các thứ tiếng, chỉ sau Agatha Christie. Năm 2011, ông là tác giả Pháp được dịch nhiều nhất trên thế giới. Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày mất của tác giả, năm 2005 được gọi là “Năm Jules Verne”. *** Vào ngày đó, thứ bảy 5 tháng tám 1876, cả một đám đông người ồn ào tụ tập tại quán rượu “Cuộc gặp mặt của các ngư dân”. Những tiếng hát, tiếng ly tách, tiếng hoan nghênh, tiếng la hét trộn lẫn thành sự ồn ào kiinh khủng, chốc chốc lại bật lên những tiếng thét to: “Hô!” bộc lộ niềm vui tràn ứ. Những ô cửa sổ nhỏ của quán rượu trông thẳng ra sông Danube, ven sông là một thành phố nhỏ tuyệt diệu của Ditmaringen, thủ phủ cua triều đại Phổ, tọa lạc bên nguồn sông vĩ đại vùng Trung Âu. Sau khi đeo xong tấm biển, được kẻ bằng những kiểu chữ Gô-tích thật đẹp, treo trên cửa ra vào, các hội viên của “Hội vùng sông Danube” đi vào quán rượu. Đây là một hội quốc tế bao gồm những ngư dân thuộc nhiều quốc gia khác nhau nằm ở ven sông Danube. Nếu không có sự đánh chén thì cuộc nhóm họp nào cũng mất đi phần náo nhiệt vui tươi – thức uống phải ngon nhất hạng. Thế nên ở đây người ta uống bia Huyn-khen hảo hạng và rượu ngon Hungary – ly cốc nào cũng luôn đầy tràn. Họ phì phà thuốc lá và những ống điếu dài lúc nào cũng nhả khói thơm lựng ngập tràn cả gian phòng lớn mời tố. Nếu những người nói chuyện không nhìn thấy mặt nhau, ắt họ cũng nghe được tiếng nhau, nhất là đối với những người không bị nặng tai. Là những con người điềm tĩnh và lặng lẽ khi bắt tay vào việc, những ngư dân này sẽ hóa thành những người ồn ào nhất trên đời, khi họ đã xếp mọi dụng cụ đồ lề của mình sang một bên. Họ không chịu thua bọn thợ săn trong các câu chuyện về những chiến công vĩ đại, mà đây là điểm mạnh của cánh săn bắn. Đến lúc tàn tiệc sáng khá là ngon lành, mà tụ hội quanh những cái bàn là hàng trăm khách được mời đến – những dũng sĩ của cái cần câu, những người ủng hộ nhiệt tình con nước, những lẻ si mê cái móc câu. Khỏi phải nói, những chiến công giờ sáng này đã hong khô cổ họng của họ, cứ theo số lượng chai đặt ra trong phiên tráng miệng. Sau đó đến lượt hàng lố chai rượu mùi được quyết định dùng đồ uống thay cho cà phê. Đồng hồ gõ ba tiếng – khi khách khứa rời bàn. Thật tình mà nói, trong số họ đã có vài người loạng choạng và họ không thể cất bước nổi nếu không có tay dìu của bạn bè. Nhưng số đông vẫn còn cứng cựa, như những vị khách quen mắt dũng mãnh và bướng bỉnh của các phiên họp thần thánh kéo dài mà hàng năm đều tái diễn vài lần nhân các cuộc thi của “Hội vùng sông Danube”. Danh tiếng của những cuộc thi (đã chuyển thành những cuộc chè chén) này vang dội trên suốt chiều dài con sông trứ danh, không kém gì những âm điệu luân vũ của Strauss. Tụ hội lại đây là các đấu thủ từ công địa Bađanh, từ Vuốctemhéc, Bavaria, Áo, Hungary, từ Rumani, Xecbi và thậm chí từ những tỉnh thuộc Thổ - Bungary và Bexarabia. Hội đoàn này tồn tại đã năm năm. Dưới sự cai quản của vị chủ tích Micletxcô, người Hungary, hội đoàn rất phát đạt. Tài lực của Hội tăng tiến đã cho phép đưa ra những giải thưởng lớn tại các hội thi, và lá cờ của hội nổi bật lên nhờ vô số những huy chương giành được trong sự đấu tranh bền bỉ với các hội đoàn những người câu cá khác. Ban chấp hành các giám đốc của hội, những người rất am hiểu các đạo luật về sự câu cá trên các vùng sông, đã ủng hộ những người đồng chí khi thì chống lại nhà nước, lúc lại chống phía tư nhân và bảo vệ các quyền hạn, đặc lợi của họ bằng một sự kiên trì đáng kể, dám nói rằng, bằng một sự bướng bỉnh hết sức chuyên nghiệp, vốn là đặc tính của giống hai chân trội hẳn trong giống người đặc biệt say mê sự đánh bắt cá bằng cần câu. Cuộc thi vừa được diễn ra, đây là lần thứ hai trong năm 1876. Vào lúc 5 giờ sáng, những đối thủ đã rời khỏi thị trấn và tụ tập trên bờ trái sông Danube gần Ditmarigen. Họ thảy đều ăn bận theo đồng phục của hội đoàn: áo choàng ngắn không làm gò bó các cử động, quần dài được nhét ống vào đôi ủng đế cao, mũ với phần lưỡi trai lớn. Đương nhiên, họ có trong tay cả bộ các loại dụng cụ khác nhau mà đã được liệt kê trong “Sách chỉ nam của người câu cá”. Những cần câu, những vợt phụ, chỉ câu được bó lại trong các túi da nai, những cái phao đủ mọi độ sâu, những hạt chì đủ mọi kích thước cho hòn chì, những con ruồi nhân táo, những sợi dây nhỏ, dây gân Florentina. Sự câu cá được tự do, bất cứ con cáo nào câu được cũng được tính điểm, và mỗi người câu cá đều có thể cho nó ăn thêm gì cũng được. Khi đồng hồ điểm sáu giờ, chín mươi bảy đấu thủ đều vào chỗ với cần câu trên tay, chuẩn bị ném móc câu. Khi kèn trỗi nhạc hiệu, thí chín mươi bảy sợ chỉ câu đồng loạt vút lên trên mặt sông. Vài giải thưởng đã được công bố tại hội thi, hai giải đầu, mội người được 100 phloring, được quy định phát cho người câu cá câu được số cá nhiều nhất, và cho người câu được con cá lớn nhất. Hoàn toàn không có diễn biến gì xảy ra cho đến hồi kèn hiệu thứ hai. Hội thi kết thúc vào lúc 11g. Số cá câu được của mỗi người đều được giao lại cho ban giám khảo gồm chủ tịch Micletxco và bốn hội viên của “Hội vùng sông Danube”. Dù rằng những người đánh cá bằng cần câu là những người nóng nảy nhất trên đời, song hoàn toàn không có một ai nghi ngờ đến sự hết sức công bằng của những nhân vật cao cấp và có uy thế này, nên không có một sự phản kháng nào xảy ra. Chỉ phải trang bị bằng lòng kiên nhẫn để nhận biết kết quả của cuộc thẩm xét tận tâm: sự phân chia các giải thưởng khác nhau căn cứ theo số cân hay số lượng cần phải đươc giữ trong bí mật cho đến tận lúc phát giải mà trước đó là bữa tiệc hữu nghị giữa những người dự thi. Giờ ấy đã đến. Những người câu cá – đó là không nói đến những người Ditmaringen tò mò – ngồi yên lặng chờ đợi trước bục diễn đàn gồm vị chủ tịch và các hội viên khác của hội đoàn. Quả thật, nếu có đủ ghế tựa, ghế dài và ghế đẩu, thì sẽ có khá đủ những chiếc bàn, mà trên cac bàn đã bày ra những vại bia, những chai rượu đủ các loại, những ly, cốc đủ cỡ lớn và nhỏ. Khi mọi người đã yên vị, và các ống tẩu đã bắt đầu nhả khói, vị chủ tịch đứng lên. - Nghe nào! Nghe nào! Những tiếng hoan hô vang động. Ngài Micletxco uống cạn cốc bia, bọt bia vẫn còn lòng thòng trên ria mép ông ta. - Thưa các bạn đồng nghiệp – ông nói bằng tiếng Đức, thứ ngôn ngữ mà các hội viên đều biết; không phân biệt các dân tộc – các bạn đừng mong mỏi ở tôi lời lập luận cấu trúc theo cách cổ điển với lời vào đề, phần nội dung chính, rồi đến đoạn kết bài. Không, chúng ta có mặt ở đây không phải để thưởng thức những ngôn từ nghi thức trang trọng mà tôi sẽ chỉ nói đến các công việc nhỏ bé của chúng ta theo tình bằng hữu, thậm chí sẽ nói, theo tình anh em, nếu như cách diễn đạt như thế lại thích hợp hơn đối với một hội đoàn quốc tế. Đáp lại hai câu nói quá dài này – như thường lệ mỗi khi bắt đầu diễn từ, thậm chí khi người phát ngôn không muốn làm người lắm lời – là tràng vỗ tay đồng lòng vang lên kèm theo với hàng loạt những tiếng la “Hay lắm!”, “Hô!” bị đứt quãng bởi những tiếng nấc cục. Tiếp đó ngài chủ tịch nâng cốc và toàn bộ những cái cốc cùng cạn sạch. Tiếp tục bài diễn văn, ngài Micletxco đã sắp xếp những người đánh cá bằng cần câu lên hàng đầu của nhân loại. Ông ta nhấn mạnh tất cả những phẩm chất, tất cả những đức tính mà những người câu cá đã được thiên nhiên hào phóng ban cho, ông ta chỉ rõ ràng phải cần đến biết bao nhiêu là sự nhẫn nại chịu đựng, sự nhanh trí, tính lạnh lùng, trình độ trí thức cao, để đạt được thành tích trong nghệ thuật bắt cá, bởi lẽ đây là cái lớn hơn nghề nghiệp, đây chính là nghệ thuật, và nó còn cao hơn nhiều so với các chiến công mà những thợ săn đã huênh hoang một cách vô ích. - Có thể so sánh nghề đi săn với sự đánh bắt cá được hay sao? – ông ta lớn tiếng. - Không! Không! – những cử tọa đồng loạt ứng tiếng. - Công trạng như thế nào khi phải giết một chú gà gô hay một cô thỏ, khi các ngài nhìn thấy chúng trong tầm bắn và khi con chó – mà chẳng lẽ chúng ta có con chó? – đi tìm thú săn cho các ngài? Các ngài nhận định con thú săn ấy từ xa, các ngài không bắn ngay nó vội, và các ngài sẽ vãi ra một số lượng đạn chì không đếm xuể, phần lớn những viên đạn chì ấy bay đi một cách vô ích… Trái lại, để đánh bắt con cá thì các ngài sẽ không thể theo dõi bằng cái nhìn… con cá ẩn náu dưới mặt nước… Phải nhờ đến rất nhiều kỹ xảo, mưu mẹo, trí tuệ và sự lém lỉnh để buộc con cá phải cắn câu, để giật nó, để lôi nó lên khỏi mặt nước, lúc thì nó treo lơ lửng bất động trên đầu sợi cước, lúc thì rung rung giãu giụa tựa như đang hoan nghênh các ngài vì chiến thắng. Lời này, lời đáp lại là những tiếng hô muốn vỡ phòng: “Hoan hô!”. Nhất định la ngài chủ tịch biết làm rung nảy lên tình cảm của các hội viên. Hiểu rằng không thể đi quá xa trong những lời tán dương các bạn đồng nghiệp của mình, ông ta đã đánh bạo mà không sợ bị buộc tội cường điệu – đặt ra cho họ phần công việc tao nhã cao hơn mọi người khác, tâng bốc lên tận trời xanh các nghề đánh cá khoa học của những người nhiệt thành và thậm chí ông ta còn quay lại để tưởng nhớ vị nữ thần tuyệt vời được đưa lên hàng đầu bởi những người hâm một trẻ tuổi của cổ La Mã tại các kỳ hội lớn của những người đánh cá. Những điều ám chỉ này có hiểu ra được hay không? Có lẽ thế, bởi vì họ đã gây nên làn sóng phấn khởi thật tình. Sau đó, vừa lấy lại hơi thở và sau khi uống cạn thêm một cốc vại bia sủi bọt nữa. Ông ta tiếp tục; - Tôi chỉ còn một điều là chúc mừng các bạn nhân sự phát đạt của hội đoàn mà hang năm đều được bổ sung thêm nhiều hội viên mới và tiếng tăm của hội đã được lặp nên một cách vững chãi trên toàn Trung Âu. Tôi sẽ không nói với các bạn về thành tích của chúng ta. Các bạn đã biết rõ chúng, cac bạn đã tham gia làm nên chúng, và đó là vinh dự lớn để nhập cuộc thi. Báo cí Đức, Tiệp, Rumani đều không tiếc lời ca ngợi, đánh giá hết sức cao, và tôi xin nói thêm là, hết sức xứng đáng! Tôi xin nâng cốc chúc mừng, và xin các bạn hãy ủng hộ với tôi, các nhà báo đã hết sức tận tụy với công việc quốc tế của “Hội vùng sông Danube”! Tất nhiên, mọi người đồng thanh đáp lại lời của ngài chủ tích. Những chai rượu được dốc cạn vào các cốc, còn những cái cốc thì được lật úp vào những cái cổ họng cũng hết sức nhẹ nhàng như thế, như nước sông vĩ đại và ngọn nguồn của nó tuôn ra biển cả. Có thể chấm dứt được vào chỗ này, nếu như bài diễn văn của ngài chủ tịch đã được kết thúc bằng lời chúc rượu sau cùng. Nhưng những lời chúc rượu khác được tuôn ra có lẽ là rất ư hợp thời. ... Mời các bạn đón đọc Người Hoa Tiêu trên Sông Danube của tác giả Jules Verne.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hành Tinh Màu Da Cam - Lưu Văn Khuê
Từ sao Thiên vương, các nhà khoa học Việt Nam đã phóng tàu vũ trụ Thăng Long 5 về phía hệ sao Ca-pê-ri-en. Họ đã tới hành tinh có ánh sáng màu da cam thuộc hệ sao này. Tại đây, các nhà khoa học Việt Nam cùng với một số nhà khoa học khác đã gặp rất nhiều khó khăn, có người hy sinh nhưng cuối cùng mọi người vẫn hoàn thành nhiệm vụ và trở về Trái Đất an toàn. *** Tác giả Lưu Văn Khuê đã có gần 30 năm cầm bút sáng tác truyện cho thiếu nhi với những cuốn truyện vừa Hành tinh màu da cam (NXB Kim Đồng - 1991) - tác phẩm đoạt Giải thưởng của Trung ương Đoàn và Hội Nhà văn Việt Nam Có một mùa bóng đá (NXB Kim Đồng - 1990) mới đây được Hãng phim Giải Phóng dựng thành phim U14 đội bóng trong mơ. Đầu mùa thu năm nay Lưu Văn Khuê có liền 2 tiểu thuyết mới được NXB Hải Phòng cho ra mắt bạn đọc. Tiểu thuyết Mạc Đăng Dung viết về thân thế và sự nghiệp một danh tướng đã lập lên vương triều Mạc cùng những thăng trầm của đất nước ta trong thế kỉ XVI. Còn tiểu thuyết Một thời vệ quốc viết về những năm tháng của đất nước trong thời kì "ngàn cân treo sợi tóc". Tác giả dựa trên tư liệu lịch sử về những sự kiện diễn ra ở Hải Phòng từ sau Cách mạng tháng Tám đến ngày nổ ra “Sự kiện Hải Phòng” ngày đánh dầu cho thành phố Cảng mở đầu ở Miền Bắc bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp. *** Nhà ga vũ trụ I. A. Ga-ga-rin là một vệ tinh nhân tạo của sao Thiên vương. Đây là nhà ga của Liên Xô và cũng là nhà ga lớn nhất trong vũ trụ hiện nay. Ga dựng theo hình dáng mà Phôn Brao, người Đức, đã vẽ từ năm 1953, có cải tiến nhiều. Nhà ga như một bánh xe khổng lồ được nối với quả cầu lớn ở chính tâm bằng bốn đường ống. Từ quả cầu ở tâm, có hai đường ống khác chạy dọc theo phương Bắc - Nam như trục của Trái đất. Nhà ga quay quanh trục ấy nên con người có cảm giác sống không khác gì ở Trái đất. Đỉnh Bắc của trục là một cái đĩa rất lớn, đó là sân ga. Đỉnh Nam lại có một quả cầu khác nhỏ hơn quả cầu ở chính tâm. Hai quả cầu là nơi làm việc của các nhà khoa học còn "bánh xe" là nơi sinh hoạt và ăn ở. Những đường ống là các trục giao thông. Nhà ga vũ trụ Ga-ga-rin tỏa sáng như một vì sao, hiên ngang trong vũ trụ đã gần hai mươi năm nay. Ai ai từ những nơi khác nhau trong vũ trụ đến nhà ga, đều đứng yên lặng giây lát trước bức tượng Ga-ga-rin để tưởng nhớ tới nhà du hành vũ trụ đầu tiên của loài người. Hơn sáu mươi năm sau chuyến bay anh hùng của anh, con người đã nối nhau bay vào vũ trụ mênh mông. Những người sau này tuy bay xa hơn, hay lâu hơn anh rất nhiều, nhưng không ai có thể quên được những giờ phút ngắn ngủi của anh trong vũ trụ. Bởi vì, một điều rất đơn giản, anh chính là người chiến sĩ đầu tiên, mở cửa vũ trụ cho con người bay vào khoảng không bao la vô bờ bến. ... Mời các bạn đón đọc Hành Tinh Màu Da Cam của tác giả Lưu Văn Khuê.
Giã Từ Vũ Khí - Ernest Hemingway
Giã từ vũ khí  là một tiểu thuyết bán tự truyện của nhà văn Ernest Hemingway viết vào năm 1929. Nhiều nhà phê bình xem là một trong những tiểu thuyết chiến tranh vĩ đại nhất mọi thời đại, câu chuyện được thuật lại thông qua lời kể của trung úy Frederic Henry, một người Mỹ nhưng lái xe cứu thương trong quân đội Ý vào thời đệ nhất thế chiến. Toàn bộ nội dung cuốn tiểu thuyết là một câu chuyện của hai người nam nữ gặp nhau tại một nơi xa lạ, nhưng đây không hẳn là một câu chuyện tình và các chủ đề của tác phẩm gồm tình yêu, chiến tranh, các giá trị con người và sự tỉnh ngộ. “Vào cuối hạ nǎm ấy chúng tôi đóng quân trong một ngôi nhà ở làng trông sang sông và trông sang cánh đồng chạy dài đến chân núi. Lòng sông trong vắt, nhiều sỏi, đá cuội, long lanh ngời sáng dưới ánh nắng mặt trời và nước thì ngả màu xanh cuồn cuộn chảy...” Đoạn vǎn mở đầu cho cuốn tiểu thuyết là hình ảnh về làng quê yên bình đằng sau những đoàn quân vừa tiến qua làm tung lên những lớp bụi mờ mịt. từng tham gia chiến tranh, E.Hemingway thấu hiểu sự tàn bạo của chiến tranh phi nghĩa, ông đã giành cả cuộc đời của mình để chống lại những cuộc chiến tranh như vậy: điều đó được thể hiện rất nhiều trong các tác phẩm của ông, mà "Giã từ vũ khí" là một cuốn sách như thế. *** Ernest Hemingway (1899 - 1961) là nhà văn, nhà báo người Mỹ. Ông từng tham gia chiến đấu trong Chiến tranh thế giới lần thứ Nhất, sau đó ông được biết đến qua "Thế hệ đã mất", nhận được giải thưởng báo chí Pulitzer năm 1953 với tiểu thuyết Ông già và biển cả, và giải Nobel văn học năm 1954. Hemingway để lại ấn tượng sâu sắc đối với bạn đọc qua nguyên lý tảng băng trôi, văn phong của ông được mô tả bởi sự kiệm lời nhưng có nhiều tầng ý nghĩa, phải suy nghĩ thật sâu mới có thể hiểu hết được những gì tác giả gửi gắm. Nhiều tác phẩm của ông hiện nay được coi là những tác phẩm kinh điển của nền văn học Mỹ. Từ nhỏ Hemingway đã không thích học đàn mà thích đấu võ quyền Anh, bản tính chuộng chủ nghĩa cá nhân đã thể hiện nơi con người Hemingway bằng các phản kháng nhỏ nhặt, để rồi trong cuộc đời sau này, đã hiện ra bằng các hành động trên tầm vóc lớn hơn. Năm 1950, Hemingway xuất bản cuốn sách "Qua sông và vào trong rừng" nhưng không gây dấu ấn với độc giả. Năm 1952, cuốn tiểu thuyết "Ông già và biển cả" đã mang lại ngôi vị cho ông trên văn đàn, giúp ông nhận được giải thưởng báo chí danh giá Pulitzer năm 1953. Năm 1954 ông được viện Hàn lâm Thụy Điển trao tặng giải Nobel văn học vì thể văn mạnh mẽ dùng trong nghệ thuật kể chuyện mới lạ và thể hiện gần đây nhất qua tác phẩm "Ông Già và Biển Cả". Thời gian này người ta vẫn thấy ông đầy sức sống nhưng thực tế ông không hạnh phúc. Hemingway đã phải dưỡng bệnh dài hạn tại bệnh viện Mayo, ông bị ám ảnh vì cao huyết áp và suy sụp tinh thần. Tháng 7 năm 1961, ông thức dậy sớm và tự sát bằng một khẩu súng săn tại một nơi vắng vẻ của thị trấn Ketchum, Idaho. Ông ra đi mà không để lại lời trăn trối nào ngoài hình ảnh của các nhân vật trong nhiều cuốn tiểu thuyết mà ông đã sáng tạo ra. • Các Tác Phẩm Đã Xuất Bản Tại Việt Nam Ông già và biển cả (2000) Chuông nguyện hồn ai (Chuông gọi hồn ai) (2001) Giã từ vũ khí (2001) Hạnh phúc ngắn ngủi của Mác Cômbơ (2003) Truyện ngắn - Ernest Hemingway (2004) Truyện cực ngắn của Ernest Hemingway (2004) Hội hè miên man (2004)  *** Một đêm tôi thức giấc quãng ba giờ và nghe Catherine trở mình trên giường. - Em có bị ốm không, Catherine? - Em thấy hơi đau, anh ạ. - Đau liền liền hả em? - Không, đau từng chập. - Nếu đau liền liền thì phải đi bệnh viện. Tôi buồn ngủ quá nên nằm ngủ lại. Một lát sau tôi lại thức giấc: - Anh nên gọi bác sĩ thì hơn. Em nghĩ chắc là đúng rồi. Tôi quay số gọi điện thoại cho bác sĩ. - Có đau liên tục không Cat? - Hình như độ mười lăm phút. Vị bác sĩ nói: - Vậy thì ông phải đưa bà đến bệnh viện ngay. Tôi sẽ mặc quần áo và đến đó bây giờ. ... Mời các bạn đón đọc Giã Từ Vũ Khí của tác giả Ernest Hemingway.
Buồn Ơi Chào Mi - Françoise Sagan
“Mùa hè năm ấy, tôi mười bảy tuổi và hết sức hạnh phúc.”    Elsa bước vào một mùa hè ngập nắng cùng với cha và người tình của cha tại một biệt thự bên bờ Địa Trung Hải. Kỳ nghỉ tưởng chừng như êm dịu đó lại ẩn chứa những đợt sóng ngầm khi có sự xuất hiện của Anne, một người phụ nữ thanh lịch, chỉn chu, ngược hẳn với cách sống dễ dãi, phóng túng của cha con Elsa. Kịch tích bắt đầu khi cha Elsa ngã vào lòng Anne với mong muốn cưới người phụ nữ sẽ đưa bố con ông vào khuôn khổ. Một kế hoạch hình thành trong đầu Elsa, cô gái đang say nồng trong mối tình tuổi trẻ, để rồi khi kết thúc… “Một cái gì đó dâng lên trong lòng tôi và tôi đón chào nó bằng chính tên của nó, mắt nhắm lại: Buồn ơi chào mi.”   Buồn ơi chào mi gây chấn động trên toàn thế giới ngay khi xuất hiện. Cho đến giờ, độc giả vẫn không ngừng bị cuốn hút bởi nhạc điệu u buồn trong lối viết uể oải đặc trưng của Françoise Sagan.  Cécile, nhân vật người kể chuyện trong Buồn ơi chào mi là một cô gái trẻ rất được cưng chiều. Buồn chán vì trượt thi, cô bé cùng bố về nghỉ hè tại một khu biệt thự ở miền Nam nước Pháp. Raymond, bố cô, là một người đàn ông ngoài 40, góa vợ và hào hoa. Những mối tình chớp nhoáng của ông với các cô nhân tình, mà người cuối cùng là Elsa, đang sắp sửa chấm dứt khi ông định làm đám cưới với Anne Larsen – một người bạn cũ của vợ. Vốn sống phóng khoáng, yêu tự do và thù ghét cuộc sống thanh bình, Cécile không chịu nổi lối sống mực thước, gò bó mà Anne định liệu, cô bé tìm cách chọc tức Anne. Nhờ sự giúp đỡ của Cyril – một chàng sinh viên luật say đắm mình – Cécile sắp đặt cho Anne nhìn thấy cảnh bố cô “thân mật” với Elsa. Kế hoạch thành công, Anne bực tức, lao xe điên loạn trên đường và tử nạn. Cécile cùng bố trở về Paris, bỏ lại sau lưng cát trắng, biển xanh, nỗi buồn và cả những tháng ngày nồng nàn với Cyril.  *** Nhận định “Tôi đã biết đến vinh quang khi 18 tuổi trong 188 trang giấy…”  - Françoise Sagan khi nói về Buồn ơi chào mi *** Françoise Sagan, tên thật là Françoise Quoirez, sinh năm 1935 tại Cajarc và mất năm 2004. Bà trải qua thời thơ ấu tại Paris trong một gia đình khá giả. Năm 18 tuổi, bà viết tiểu thuyết đầu tay, Buồn ơi chào mi, ngay lập tức gặt hái được thành công vang dội. Ngay trong năm đầu xuất bản tại Pháp, cuốn tiểu thuyết đã bán được 850.000 bản, được cả công chúng lẫn giới phê bình đánh giá cao. Kể từ đó, thế giới bắt đầu biết đến bút danh Sagan - được lấy theo tên một nhân vật của Proust - của bà. Sự nghiệp sáng tác của bà khá đồ sộ với khoảng hơn 50 tiểu thuyết, 30 triệu bản sách bán được riêng tại Pháp, và được chuyển ngữ ra nhiều thứ tiếng. Được coi là một trong những thành viên của Làn Sóng Mới, bà còn tham gia viết kịch và lời thoại phim. Tác phẩm đầu tay của bà được nhận giải Prix des Critiques do một hội đồng nổi tiếng trao tặng và năm 1985 bà nhậnđược giải Prix de la Fondation Prince Pierre của Monaco cho toàn bộ tác phẩm của mình. Françoise Sagan được coi như một huyền thoại mà danh tiếng đã vượt ra ngoài nước Pháp, là totem của một giai đoạn tự do và vô lo. *** Đám tang cử hành ở Paris một ngày đẹp trời. Vẫn là đám đông những người hiếu kỳ vận y phục đen. Cha tôi và tôi bắt tay các người bà con lớn tuổi của Anne. Tôi thú vị quan sát họ; lẽ ra họ sẽ đến nhà chúng tôi dùng trà mỗi năm một lần. Mọi người nhìn cha tôi với ánh mắt thương xót. Chắc Webb đã loan truyền cuộc hôn nhân bất thành của cha tôi. Tôi thấy Cyril tìm tôi sau buổi lễ, nhưng tôi lẫn tránh. Biết rằng oán hận anh là vô căn cứ, nhưng tôi không thể làm khác hơn. Mọi người đều thương tiếc tai nạn thảm khốc vô nghĩa ấy, và, vì tôi vẫn không chắc đó là một tai nạn, nên tôi thấy nhẹ lòng hơn. Trong xe trên đường lái về nhà, cha tôi cầm tay tôi và xiết chặt. Tôi nghĩ: "Bây giờ chỉ còn lại cha với mình. Chúng ta cô độc và không hạnh phúc." Lần thứ nhất tôi khóc. Nước mắt xoa dịu hồn tôi. Chúng không giống chút nào cõi hư vô kinh khủng mà tôi cảm nhận ở bệnh viện trước bức tranh Venice. Cha tôi lẳng lặng đưa khăn tay cho tôi. Gương mặt của ông tan nát thảm sầu. Trong một tháng chúng tôi sống như một ông góa và đứa con mồ côi, ăn chung tất cả bửa ăn và ngồi rịt trong nhà. Thỉnh thoảng chúng tôi nhắc tới Anne. "Có nhớ ngày mà ..." Chúng tôi cẩn thận lựa lời, và tránh nhìn vào mắt nhau, e rằng sẽ gợi lên những niềm đau, hay một thứ gì không thể sửa đổi sẽ chen vào giữa. Sự thận trọng và dè dặt của chúng tôi đưa đến một đền bù. Chẳng bao lâu chúng tôi đã có thể nhắc đến Anne như một người bạn yêu quý, người mà chúng tôi có thể chia sẻ hạnh phúc, nhưng Chúa đã sớm gọi về Trời. Tôi viết là Chúa, không phải định mệnh -- nhưng chúng tôi không tin Chúa. Trong những trường hợp này, chúng tôi lấy làm biết ơn là chúng tôi tin vào số phận. ... Mời các bạn đón đọc Buồn Ơi Chào Mi của tác giả Françoise Sagan.
Nơi Cuối Cầu Vồng - Cecelia Ahern
Đôi bạn thân thiết Alex và Rosie từ khi bảy tuổi đã bắt đầu trao nhau những bức thư chia sẻ  mọi điều buồn vui trong cuộc sống, từ chuyện con chó cưng của Alex cho tới cô Casey có cái mũi to xấu xí. Tuổi thơ láu lỉnh và nghịch ngợm trôi qua, cho tới thuở mười lăm, mười sáu ẩm ương với những xúc cảm hồi hộp và lãng mạn chớm nở… tất cả được gói gọn trong những lá thư dấu kín dưới hộc bàn lớp học. Rồi đột ngột, cha Alex được thăng chức, cậu đành phải miễn cưỡng theo gia đình chuyển tới Boston, rời xa Rosie và những ngày tháng ngọt ngào... Nơi cuối cầu vồng, cuốn tiểu thuyết viết lên từ những dòng thư, những cuộc chat và những tấm bưu thiếp qua năm tháng, đã tiếp tục đưa Cecelia Ahern trở thành một tác giả bestselling trên khắp thế giới. Nồng ấm tình bạn, tình yêu, đầy ắp những rung cảm mãnh liệt và những chi tiết bất ngờ, Nơi cuối cầu vồng không chỉ là một cuốn sách hấp dẫn, mà còn lời nhắn gửi dành riêng cho những tâm hồn tri kỷ phải vượt qua mọi thử thách để đến với nhau, và đủ dũng cảm nói lên những lời chân thật. *** Cecelia Ahern, sinh ngày 30-9-1981, là con gái của cựu Thủ tướng Bertie Ahern Ireland, bắt đầu viết tiểu thuyết từ năm 2004. Ngoài ra, cô còn có nhiều truyện ngắn in trong các tuyển tập, mà tất cả nhuận bút đều được dành để làm từ thiện. Năm 2000, cô từng tham gia một ban nhạc về thứ ba trong cuộc thi nhạc pop toàn quốc để chọn ứng viên tham dự cuộc thi Eurovision Song. Trước khi bắt đầu viết văn, cô đã tốt nghiệp đại học ngành báo chí và truyền thông đại chúng. Năm 2002, Cecelia Ahern viết tiểu thuyết đầu tay, PS, I Love You, được xuất bản năm 2004, và sau đó trở thành sách bán chạy số 1 ở Ireland, Vương quốc Anh, Mỹ, Đức và Hà Lan. Nó cũng được bán ở hơn 40 nước khác. Cuốn sách cũng đã được chuyển thể thành phim và ra rạp năm 2007. Tiểu thuyết thứ hai của cô, Where Rainbows End (Nơi cuối cầu vồng), cũng là sách bán chạy số 1 ở Ireland và Vương quốc Anh, và giành giải CORINE của Đức năm 2005. Tiểu thuyết mới nhất của cô là 'The Gift' và đã được xuất bản cuối năm 2008. *** Rosie đọc bức thư có đến lần thứ một triệu trong đời, gập lá thư lại thành những hình vuông gọn gàng và nhét trở vào phong bì. Mắt cô dõi theo từng chồng thư từ, bưu thiếp, email được in ra, những đoạn chat in ra, những tờ fax và cả những ghi chú nguệch ngoạc từ hồi đi học của cô. Có đến hàng trăm lá trải ra trên sàn nhà, mỗi lá lại kể câu chuyện riêng mình về niềm vui hay nỗi buồn, mỗi lá đại diện cho một giai đoạn trong đời cô. Cô đã giữ lại tất cả. Cô ngồi trên một tấm thảm da cừu phía trước lò sưởi trong phòng ngủ của mình ở Connemara, và tiếp tục xếp những dãy chữ đang trải ra trước cô. Cuộc đời cô viết bằng mực. Cô đã mất cả đêm đọc lại tất cả, và lưng cô đau nhức vì cúi khom xuống và mắt cô cay xè. Cay xè vì mệt mỏi và vì nước mắt. Những người cô yêu quý đã quay trở lại thật sống động trong tâm trí cô suốt những giờ ấy khi cô đọc thấy nỗi sợ hãi, cảm xúc và những suy nghĩ của họ, những thứ từng là thật nhưng bây giờ đã ra khỏi cuộc đời cô. Những người bạn đã đến rồi đi, đồng nghiệp, bạn học, người yêu và các thành viên gia đình. Cô đã ôn lại cả cuộc đời mình đêm đó chỉ trong chừng ấy giờ đồng hồ. ... Mời các bạn đón đọc Nơi Cuối Cầu Vồng của tác giả Cecelia Ahern.