Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tìm Mình Trong Thế Giới Hậu Tuổi Thơ

Tìm mình trong thế giới hậu tuổi thơ dẫn người đọc vào thế giới của người trẻ trên dưới hai mươi tuổi, lứa tuổi không còn trẻ con, nhưng cũng chưa thực sự là người lớn. Trong thế giới đó có những run rẩy của va chạm thân thể lần đầu, có lấp lánh của tình yêu, có những đêm dài, những chuyến đi xa, những hoang mang và băn khoăn hiện sinh. Nhưng bao trùm lên tất cả, như một tấm màn lớn, là nỗi đau. Nỗi đau từ sự cô đơn của đứa con vẫn được xã hội khen là “trưởng thành” và “ngoan,” từ sự trống rỗng nội tâm của đứa trẻ lớn lên trong một gia đình lạnh lẽo, từ sự tuyệt vọng của người trẻ bị giam cầm trong nhà tù mang tên tình yêu cha mẹ. Vang lên như những bài hát khi buồn đau khi dữ dội, những chân dung trong cuốn sách cùng các phân tích tâm lý học của tác giả sẽ khiến cha mẹ, thầy cô và tất cả những ai có người trẻ trong cuộc sống của mình phải thức tỉnh, phải ngồi xuống lắng nghe con em mình và suy ngẫm về bản thân, để học cách chữa lành và yêu thương đích thực. *** 1. “TÔI MUỐN MỌI NGƯỜI BIẾT RẰNG CÓ NHIỀU ĐỨA TRẺ VẪN ĐANG CHỐNG CHỌI TỪNG NGÀY ĐỂ LỚN LÊN THÀNH NGƯỜI TỬ TẾ” (Phương Anh, 20 tuổi, bỏ đại học)* Bạn đã xem Gordon Ramsay chửi như điên trong bếp, đúng không? Fuck! Fuck! Fuck! Fuck! Gordon Ramsay trong Master Chef ấy. Tôi cũng nóng tính như vậy. Hôm trước tôi rẽ qua tiệm bánh, nơi tôi làm bán thời gian kể từ khi bỏ Đại học Thương Mại để học làm bánh và quản lý nhà hàng. Tôi sẽ không kể là bố mẹ tôi phản ứng như thế nào, nhưng khi cấp Hai bạn học trường điểm và cấp Ba chuyên Chu Văn An thì bạn có thể đoán là chuyện bạn đi học nghề nó kinh khủng với bố mẹ như thế nào. Đến giờ tôi vẫn phải nói dối bạn bè của bố mẹ để giữ sĩ diện cho họ. Chỗ tiệm bánh tôi đang làm cũng có tới bảy, tám đứa bỏ đại học hoặc bảo lưu. Tôi hơi giật mình, “Có nhiều đứa giống mình vậy à?” Chưa bao giờ tôi hối hận. Từ khi học nghề tôi biết trân trọng lao động hơn. Tôi không ngại việc. Tôi chấp nhận một mức lương bèo bọt hay một công việc nặng nhọc nếu như tôi được học hỏi. Và tôi không phàn nàn khi phải đợi đồ uống lâu ở nhà hàng nữa, tôi biết là họ đang rất bận, họ đang rất cố gắng. Vậy là hôm đó tôi tới tiệm bánh, và thấy một cái bánh được làm rất cẩu thả. Tôi hỏi bọn chạy bàn, đứa nào làm bánh, rồi cầm cái đĩa lừ lừ vào bếp, đứng trước mặt nó. “Đ. con mẹ mày, làm cái đĩa bánh thế này à?” Nó giương mắt lên, “Làm sao?” “Làm sao cái con c.! Mày đéo biết nhìn à? Đ.m. mày mày xếp thế này à, mày vẽ thế này à? Mày có vấn đề gì không đấy?” Nó đổ cho đứa phục vụ làm đổ bánh khi bê ra. Tôi gọi đứa phục vụ vào, nó ngơ ngác, “Ơ không, em đi bình thường mà…” Tôi quay ra đứa làm bánh, “Bây giờ mày bỏ một trăm nghìn mày mua một cái đĩa bánh mà nhìn hình thức nó xấu, ăn vào nó đéo ra cái gì, mày có chịu được không? Không, đúng không? Mày tiếc tiền, đúng không? Mày có quay lại không? Không bao giờ!” Tôi chửi to lắm, bọn ở ngoài cũng sợ luôn. Ngoài anh sếp ra thì tôi là chủ lực ở tiệm bánh. Mỗi lần làm một loại bánh mới thì tôi sẽ đích thân mang ra giới thiệu cho khách. Hoặc khi có khách phàn nàn thì cũng lại phải tôi ra nói chuyện với họ. “Tại sao bây giờ cái bánh nó lại bé thế này?” Khách hỏi. Bọn nhân viên sẽ ú ớ. Tôi sẽ tỏ ra chuyên nghiệp, “Bọn em cắt giảm kích thước của bánh là để tăng lượng topping lên và cái size bánh sẽ phù hợp hơn, khi mà anh ăn hết cái đĩa bánh này thì bla… bla…” Khi bánh ế hoặc gần hết đát mà cần đẩy thì tôi cũng được cử ra để nói. Tôi là người hoạt ngôn. Hồi cấp Ba tôi đã hay đứng ra gánh team. Chữ này trong game ra, nghĩa là mình đứng ra cáng đáng, chèo lái cho team. Tôi học tốt văn sử địa nên trong các tiết đó tôi hay giơ tay hỏi cái này cái nọ, làm cô bận rộn, bọn còn lại làm việc riêng. Tôi vừa được học vừa giúp cho bạn ngủ. Tôi cũng hay bị cho là bướng. Hồi lớp 11 tôi bị tụt một bậc hạnh kiểm vì hay đánh son. Cô giáo nhắc liên tục, “Phương Anh xóa son đi.” Cô cho rằng do tôi mà bọn con gái trong lớp đánh son theo. Ở trường nhiều đứa ghét tôi, chúng nó bảo xinh thế mà học chuyên thì thế nào cũng chạy điểm. Tôi tự cho mình có một chút nhan sắc: da trắng, tóc dài, dáng cao ráo, chỉ có bắp chân thì hơi to, tôi không thích bắp chân to mặc dù nó rất tốt khi mình tập võ. Nhưng nhiều đứa lại quý tôi vì tôi hay lên tiếng. Hồi đầu cấp Ba, có thằng trong lớp tôi rất phá phách. Một hôm, cô giáo nói, “Anh lên đây, anh viết bản kiểm điểm cho tôi.” Nó bỗng đứng dậy, xồng xộc lao tới, giật cái ghế nhựa lên. Cả lớp cuống quýt, “Thôi, mày! Thôi, mày!” Tôi nhảy lên bục giảng, đứng trước mặt nó, quát, “Mày định làm gì thế?” Cô giáo sợ chạy ra chỗ khác. Tôi xách cổ nó, đẩy ra, “Mày về chỗ ngồi!” Tôi biết là nó sợ tôi. Trước đó, có lần ngoài sân trường nó cầm con chuột chết gí vào bọn con gái làm chúng sợ chạy chết khiếp, có đứa còn phát khóc. Đợi lúc nó không để ý tôi tới gần, giật con chuột rồi nhét vào trong áo nó. Nó hét, “Đ.m. mày làm cái gì đấy.” “Đ.m. mày không chịu được sao mày trêu những đứa kia?” Lúc đó là giờ thể dục, nó vớ cái vợt cầu lông quật. Tôi né. Hai đứa giằng co cái vợt, nó ngã xuống, tôi bẻ gãy cái vợt, nó là vợt đểu, vụt liên tiếp vào người nó. Mọi người đứng kín xung quanh cổ vũ, “Phương Anh cố lên! Phương Anh cố lên!” Sau lần đó thì tôi bắt vía được nó. Mắng đứa nhân viên kia xong, tôi tập trung vào làm một mẻ su kem. Giờ đây thì chỉ có mỗi trong chuyện làm bánh là tôi có thể dõng dạc tuyên bố mình đầy nhiệt huyết, tôi yêu nó nhất trên đời. Tôi đã thử hai mẻ, nhưng đều phải bỏ đi vì nó không được phồng. Đến lúc gần hết ca, lôi mẻ bánh ra thì tôi thở phào, người mềm nhũn ra vì mệt. Anh sếp chắp tay trước tôi như là vái sư phụ. Tôi nhớ rõ vì hôm đó anh ấy nhận được một túi nấm và một túi đá ship từ Sài Gòn ra. “Phương Anh đâu, lấy kéo ra đây,” anh ấy bảo, rồi cắt túi ra kiểm tra. Mọi người ngỡ ngàng, “Uầy, anh Thành chơi đá.” Anh ấy cầm một cây nấm, “Chúng mày… Hôm nay Phương Anh làm tốt, anh sẽ thưởng cho Phương Anh.” Giơ điện thoại raĐây là lô bánh thứ ba của tôi. Đây là thành phẩm lần nướng thứ hai. Bạn có thấy sự khác nhau? Khó nhất của việc làm bánh là cảm nhận được nhiệt độ của cái lò và thay đổi nó. Chuyển ảnh Còn cái bánh này là Saint Honore. Cái này là Eclair. Còn cái này, tôi dùng nho đen không hạt, bột than tinh tre và đường bột để tạo điểm nhấn. Tôi rời tiệm bánh thì trời đã tối. Tôi lái xe chậm chậm, những sợi tóc bay lượn sóng. Những ký ức liên quan tới con đường bắt đầu trở về, tất cả cùng một lúc. Mỗi kỷ niệm như một trang sách, vô số trang cứ chồng mãi, chồng mãi lên nhau. Tôi biết là mình say cần bởi trước đó tôi đã nhìn vào màn hình có con bướm mà anh sếp gí vào mặt tôi. “Khi nào em thấy con bướm vỗ cánh bay đi thì lúc đó em phê rồi đó.” Suy nghĩ của tôi rời con đường thẳng và bắt đầu phủ kín không gian đa chiều. Hình ảnh tôi rời quán cafe với Dũng, cảnh tôi ngồi sau xe của anh, chúng chồng chéo lên nhau. Tất cả đã qua, tôi cảm thấy thật buồn. Tôi nhớ cái lần tôi và anh ấy ăn chung một cái bánh và sững sờ. Nó ngon kiểu mộc mạc. Tôi nói với Dũng, ôi, cái vị ngọt này vừa vặn, nó chỉ dừng ở đầu lưỡi thôi, nó không bị ngọt quá, còn cái kết cấu này, tại sao lại ra được cái kết cấu này nhỉ, bình thường bánh phô mai thì phải có vị như thế này nhưng sao cái này lại có một vị khác, và tại sao sự xuất hiện của nó lại đặc biệt… Cái bánh trông bình thường đến tầm thường nhưng bên trong thì có rất nhiều bất ngờ. Hồi mới quen nhau, chúng tôi đi tàu tới Quảng Bình chơi. Không hôn, không sex, chỉ là bạn thôi, nhưng tôi có cảm giác mình có thể sống với người bạn này cả đời. Khoang ngủ của chúng tôi ở trên cùng, rất thấp, nên bọn tôi ra chỗ rửa tay của toa ngồi chơi, trêu nhau, rồi đứng ở cửa sổ vẫy tay chào người đi đường. Cả ba ngày tôi không chạm tới cái điện thoại, chúng tôi hút cần liên tục. Buổi tối tôi say rượu, Dũng đợi tôi nôn hết xong mới dìu tôi về phòng. “Em đi được, em đi được,” tôi luôn miệng nói, nhưng vấp chảy máu ngón chân cái. Xong rồi tôi lại nôn tiếp lên giường, Dũng nói, “Oh shit.” Vậy là chúng tôi ngủ cùng nhau trên giường của Dũng. Anh ấy gãi gãi vào đầu tôi để tôi ngủ. Ngày thứ ba, ngày cuối cùng, chúng tôi mặc đẹp để lượn phố biển. Dũng mặc áo sơ mi trắng và quần skinny, đi giày converse đen trắng kiểu old school. Dũng rất để ý tới ăn mặc, ra đường thì phải đẹp, không cần lồng lộn lên, nhưng phải có style gì đấy. Tôi nói, hôm nay anh muốn em mặc cái gì, rồi chúng tôi cùng nhau tìm đồ cho tôi. Cuối cùng tôi mặc cái áo phông đen của anh ý, đi cùng quần bò đen. Chúng tôi lượn biển và ngồi ở một quán cafe kiểu bảo vệ môi trường, không ống hút. Một con phố đơn giản, mọi người đang sống cuộc sống của mình, không có trung tâm thương mại, không ai cắm mặt vào điện thoại. Trông họ không giàu có, nhưng tôi yêu cuộc sống của họ, nó hiền hòa, không giống cuộc sống ở thành phố lớn khiến người ta cứ phải căng thẳng. Buổi sáng cuối cùng thì chúng tôi có hôn nhau. Bọn tôi nằm cạnh nhau, anh ấy xoa xoa đầu tôi, rồi tự nhiên môi chạm nhau. Tôi thấy vui vui, trong tôi không dâng lên cảm xúc yêu đương, nhưng tôi hơi bối rối và tự hỏi, “Ơ, như thế này là thế nào nhỉ?” Anh ấy bảo, “Cứ nên để mọi thứ tự nhiên.” Đến khi về Hà Nội thì chúng tôi làm tình. Thực ra tôi đang trong giai đoạn không thiết gì tới sex, thậm chí còn hơi sợ. Nhưng Dũng đã làm tôi thay đổi. Hôm đó chúng tôi nằm cạnh nhau trong phòng của anh ấy, nghe nhạc, hút cần. Tôi nghĩ, “Nếu bây giờ làm tình thì mình chỉ làm tình được với anh ấy thôi.” Tôi xin lỗi, tôi ăn nốt miếng bánh. Ăn bánh Tôi mất trinh năm lớp Mười một. Ở tuổi mười bảy, nhu cầu tình dục là lẽ tự nhiên. Hormone của mình nó đẩy lên, nó làm mình muốn có những hoạt động đó. Tôi và bạn trai - tôi quen nó được hơn một tháng, rất thích nó mặc dù biết sẽ không lâu dài với cậu ta - “hành sự” trong một quán cafe phim. Tôi thấy hồi hộp và hiếu kỳ. Không được hướng dẫn bao giờ, chúng tôi mất rất nhiều thời gian với cái bao cao su vì không biết mặt nào là đúng. Tôi thấy đúng là thốn. Thốn là dở khóc dở cười. Vừa buồn cười vừa xấu hổ, giống như bạn bị bóng đá vào chỗ kín ở ngay sân trường ấy. Hồi đó bạn cùng lớp của tôi đã có quan hệ tình dục hết rồi, trừ thằng Minh. Nó là nerd. Thỉnh thoảng tôi lại trêu nó, “Chén đi! Yêu đứa nào đó rồi làm chuyện đó đi. Trải nghiệm ở tuổi này thì không phải là sớm nữa, nếu để muộn quá thì ông lại thành một thằng thiếu kinh nghiệm…” Thế mà cô giáo chủ nhiệm của tôi còn dặn dò, “Các em có thích nhau thì chỉ nên dừng lại ở mức nắm tay thôi bởi vì các em còn quá nhỏ. Vấn đề tình dục nó rất là nhạy cảm và các em chưa đủ bản lĩnh để đối mặt.” Cả lớp nhìn nhau. “Thế nên là,” cô lại nói tiếp, “nếu như các bạn nữ có bị gạ gẫm thì hãy khéo léo từ chối.” Khôi hài chết mất! Khi hai người có tình cảm với nhau thì làm tình sẽ rất thăng hoa. Tôi đã từng trải qua cái thăng hoa đó và tôi rất trân trọng nó. Ngược lại, năm ngoái tôi quay lại làm tình với một bạn trai cũ, sau khi hai đứa đã chia tay nhau được một năm. Lúc đó tình cảm đã vơi đi nhiều rồi, nên rất là chán. Những va chạm rất là bản năng. Cho nên tôi không mặn mà với tình một đêm hay lên Tinder chat vu vơ để lên giường với ai đấy. Nó không xấu, nhưng nó trần tục. Tôi vẫn hay khuyến khích mọi người là hãy đến với tình dục bằng cảm xúc. Nhưng thực ra tình dục không phải là cái quan trọng nhất. Cảm giác hai người có khi ở cạnh nhau, đó mới là cái quan trọng nhất. Tôi nhớ mãi lần tôi và Dũng ngồi ở ven hồ Tây. Chúng tôi im lặng, nhìn ra hồ và hơi mỉm cười, điếu cần chuyển từ tay người này tới tay người kia. Chả có gì xảy ra cả, mà tôi thấy hạnh phúc, buồn cười thế. Ký ức đầu tiên về bố mẹ đánh nhau là khi tôi năm tuổi. Tôi đơ ra nhìn, miệng vẫn đầy cơm, không khóc, không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Hồi cấp Hai thì ban đêm tôi hay bật dậy vì nghe tiếng mẹ gọi từ phòng bên, “Phương ơi, cứu mẹ!” Mở cửa phòng, tôi thấy hoặc bố đang túm tóc mẹ, hoặc mẹ nằm dưới chân giường, bật đèn lên thì thấy người mẹ tím tái. Có lần tôi gắt, “Điên à, tại sao lại hành người ta như thế? Con mệt lắm rồi, để cho con ngủ!” Mấy năm sau thì thỉnh thoảng ban đêm hai mẹ con phải dựng nhau dậy vào bệnh viện vì bố say rượu ngã xe, phải khâu cằm vá má. Những gì tôi chứng kiến khiến tôi có thái độ… tôi nên gọi nó là gì nhỉ… Chai lì? Bình tĩnh? Bố mẹ đánh nhau - bình thường. Máu me - bình thường. Bố đấm, mẹ cào, phi đồ vào nhau, phang nhau, thụi, kẹp cổ, giữ chân các kiểu. Hồi nhỏ thì tôi để cái Linh, em gái tôi, ở tầng một, chạy lên tầng hai để can, “Thôi, thôi, thôi, thôi… Bố mẹ thôi đi.” Tôi lao vào thì bị hất ra. Đến khi bố mẹ buông nhau ra tôi mới khóc nức lên, khóc vì bất lực và tuyệt vọng. Sau này thì chỉ họa hoằn tôi mới can thiệp, còn nếu là lý do vớ vẩn thì tôi kệ. Có hôm hai người cãi nhau xem đẻ tôi ở phòng nào. “Phòng ba.” “Phòng bốn.” Một lúc sau thì, “Anh hâm à?” “Cô điên à?” Lúc sau nữa thì lao vào nhau, “Mày thích gì?” Vừa bi vừa hài. Cho nên là tôi giữ thái độ dửng dưng. Nhưng tôi có nhớ cảm giác cay đắng trong lòng lúc phải viết cái đơn nói nguyện vọng muốn ở với bố hay mẹ, khi hai người ra tòa. Sau đó thì mẹ rút đơn ly dị lại. Một tuần sau, tôi đang ở trên lớp thì mẹ gọi tới, hét ầm lên trong điện thoại. “Bố mày lấy chìa khóa xe máy của tao, rồi khóa cửa nhốt tao trong nhà. Mày về đây mà giải quyết.” Thế là tôi phải về nhà để “giải quyết”. Rồi mẹ chuyển ra nhà khác, cái Linh ở với mẹ, tôi đi lại giữa hai nhà. Mà tôi biết cách né đòn của thằng bạn cùng lớp là do bị bố mẹ đánh nhiều quá. Cũng nhờ tránh đòn nhiều mà khi bắt đầu học võ tôi tiến nhanh. Bố mẹ tôi lôi về hàng chục cái roi mây rất dẻo, cất mỗi nơi một chiếc, tiện chỗ nào lôi ra chỗ đó. Tôi phải lục lọi tìm để vứt chúng đi. Bố thì phần lớn là đánh có lý do chính đáng, tôi về muộn hay gì đó. Còn mẹ thì nhiều khi đánh vì mẹ cần chỗ xả. Mình áp bức người yếu thế để trút cơn giận. Qua mắt mẹ thì tôi nhận biết được điều đó. Sau này thì tôi phản kháng lại. Hôm trước, không nhớ to tiếng vì lý do gì, mẹ vớ cái chổi xỉa vào tôi. Tôi giật nó, ném ra chỗ khác, phản xạ rất thuần thục. Tôi cảnh báo, bây giờ mà đánh thì không biết ai đau đâu mẹ nhé. Thế là mẹ thách thức, “Mày đánh tao đi, đánh luôn đi xem nào!” Tôi bảo, “Không, con học võ không phải để làm mấy trò này, mẹ đòi đánh con xong giờ lại còn thách con đánh lại. Dở hơi!” Mẹ tôi đi lên tầng hai, nói với cái Linh, chị mày là con mất dạy, chị em mày tự đi mà bảo nhau. Tôi nói, “Để cho nó học, có gì thì xuống đây mẹ con mình giải quyết.” Mẹ gọi với xuống, “Mày thu dọn hết quần áo sách vở cút về ở với bố mày đi.” Tôi và mẹ không nói chuyện với nhau một thời gian. Nhưng mẹ mình thì làm sao mình thù mãi được. Từ nhỏ tôi đã thấy lúc nào cũng bấp bênh. Tan trường tôi vừa đạp xe về vừa tự hỏi hôm nay ở nhà có chuyện gì không đây. Giữa mùa hè mà nhà tôi lạnh như cái nhà hoang, không có một tiếng cười, “Ừ, đời mẹ thất bại rồi, đời mẹ chỉ đến thế này thôi,” mẹ nói cùn. “Con cao siêu, con giỏi, con có năng lực thì con kiếm việc, cưới chồng, rồi sống cuộc đời hạnh phúc đi.” Bố thì bảo, “Bố mẹ chu cấp cho con tiền ăn học, còn thì không thể cho con hơn được, chỉ có thế thôi…” Tôi phải chấp nhận chứ sao bây giờ? Từ nhỏ tôi đã quen với việc không có bố mẹ ở bên. Buổi sáng tỉnh dậy, móc ví bố lấy tiền ăn sáng rồi đạp xe đi học. Chiều về nhà, có hay không có ai cũng không quan trọng nữa, không buồn, không nhớ, không gì cả, tôi cứ đứng ở cửa nhìn người qua lại, ánh mắt vô hồn. Giờ đây, cảm xúc của tôi với bố mẹ là một thứ khó tả. Tôi không trách, nhưng bảo là thương thì tôi cũng không thương. Nó là một thứ dửng dưng, không sâu sắc, không lạnh nhạt. Và không âu yếm như là cái cách con cái vẫn bình thường nhìn bố mẹ. Tôi muốn tự lập, tự chu cấp để đỡ gánh nặng cho bố mẹ, thế thôi. Thực ra nhiều lúc cái căm ghét nó trỗi dậy trong đầu mình, nhưng sau đấy tôi lại nghĩ, về mặt tâm linh thì tôi đã lựa chọn bố mẹ tôi, tôi đã tự chọn khó khăn cho mình, nên là tôi sẽ phải tiếp tục giải quyết. Có lần tôi ăn cơm ở nhà thằng Minh. Mọi người nói chuyện tự nhiên lắm, cứ ăn uống, chia sẻ với nhau, cười cười nói nói bình thường. Tôi đờ người ra kinh ngạc, thấy như mình đang xem một bộ phim tình cảm gia đình, “Ừ, đã hai mươi tuổi rồi mà mình không biết cái cảm giác hạnh phúc nó như thế nào,” trên đường về, tôi hơi lo lắng, “vậy thì mình có phát triển bình thường được không nhỉ?” Không được yêu thương từ nhỏ, tôi thấy mình giống cái cây bị thiếu chất dinh dưỡng từ dưới gốc, nên lên trên nó yếu đuối, còi cọc. Lúc nào mình cũng có cảm giác phải vượt giông vượt gió để đến được với sự sống. Nó cứ bị quật ngã liên tục ấy. Lúc ở nhà Minh, tôi thấy bao nhiêu tự tin bay đi đâu hết. Tôi rụt lại bên trong, thấy mình lạc lõng, mình vui cho bạn nhưng mình cũng bị đẩy ra xa. Từ tiệm bánh về đến nhà, tôi nhìn cái Linh đang hí hoáy vẽ và thấy thương nó quá. Từ khi học võ thì tôi ít nổi giận với nó hơn, mặc dù nhiều lúc nó vẫn dở hơi. Từ hai năm nay mẹ phó mặc nó cho tôi hoàn toàn. Tuần trước, nó khóc và gọi điện cho tôi là nó đang chui trong nhà vệ sinh ở trường vì sợ bị đánh. Giữa trưa, tôi đi xuyên qua thành phố, giả vờ với bảo vệ là phải đưa chìa khóa để được vào trường nó. Tôi gọi thằng bé dọa đánh ra. Nó sợ xanh mặt. “Mày đánh cái Linh đấy à, tại sao mày đánh nó?” “Nó chửi em.” “Bây giờ thế này nhé, nó là con gái, mày là con trai. Nó chửi mày thì mày phải chửi nó chứ tại sao mày lại đánh nó. Giờ chị to hơn, chị đánh mày nhé?” Nó rúm lại. Tôi quay sang bảo cái Linh, “Em có chửi bạn không?” Nó gật đầu. Tôi bảo nó xin lỗi. Rồi tôi bảo thằng kia xin lỗi cái Linh. “Ok, xong chưa?” Nó gật đầu. “Giờ thì biến!” Nhưng có nhiều lúc cái Linh giúp lại tôi. “Chết rồi, chị lại nhớ anh Dũng rồi,” tôi thừ ra. “Nhớ nhiều không?” “Hình như hơi nhiều.” “Thôi, chị quên người ta đi, người ta không phải là người yêu chị đâu.” Nó lấy điện thoại ra khỏi tay tôi và xóa các ảnh của Dũng đi. Tôi bảo, “Ừ nhỉ, người ta không quan tâm tới mình nữa thì mình cũng không phải quan tâm tới người ta. Chị cám ơn Linh.” Ngồi không một lúc thì tôi ỉ eo, “Linh ơi, đi chơi đi, đi chơi đi, chị đang buồn.” Nó buông bút, thở dài. Nó mới lớp Chín nhưng tôi cho nó chở tôi trên xe máy chạy dọc hồ Tây, và nghe nó kể về thằng bạn trai của nó. Chúng nó mới chỉ hôn hít nhau. Hôm trước, tôi nhìn vào mặt hai đứa và dặn là những chuyện liên quan tới yêu đương, tình dục thì phải hỏi tôi, tôi sẽ tư vấn. Tôi biết là sẽ không cấm được chúng nó. “Chuyện ấy cũng không đáng ngại hay xấu hổ, nó là nhu cầu hết sức cơ bản, chỉ là mình nên chuẩn bị để đối mặt với nó tốt hơn.” Hai đứa đỏ mặt lên, “Vâng, chúng em nhớ rồi, có gì chúng em sẽ hỏi chị.” Cái Linh thả tôi xuống đi bộ, rồi phóng lên phía trước. Tôi ngồi xuống cái ghế đá chỗ tôi gặp thằng Minh cuối tuần trước. Hôm đó hai đứa ngồi tựa lưng vào nhau, hút cần. Mặt trời rọi nắng từ trên cao. Bên hông tôi là cuốn sách mới mua, Công thức nấu ăn tặng con gái. Tác giả dạy con gái nấu ăn trong những ngày tâm trạng, cô ý viết rất dịu dàng, đơn giản, đọc mà thấy buồn lắm. Tôi và Minh cùng nhắm mắt và tưởng tượng mình đang đi trên bờ biển. Bờ biển của nó có nhiều người, còn của tôi thì chỉ có cây cối và mình tôi. Tôi hiểu vì sao. Minh đầy đủ về mặt gia đình, nhà nó vui vẻ, nên nó thoải mái hòa nhập vào đám đông. Tôi thì có quá khứ không hạnh phúc, cuộc sống hiện tại xô bồ, nên tôi chọn cỏ cây cho bình an, dịu mát. Nó lớn lên trong một môi trường tốt đẹp, ở quê không khí trong lành, mọi người thân thiện. Trong môi trường của tôi thì người ta coi tiền bạc và sĩ diện là cực kỳ quan trọng. Nó đã có hạnh phúc rồi thì càng dễ có hạnh phúc trong tương lai. Còn tôi phải biến khổ đau thành hạnh phúc, ăn vào toàn cái xấu nhưng phải lọc ra cái tốt. Tôi hay nói chuyện với nó, nhưng nó cũng không thể hiểu hết được mọi thứ. Tôi chỉ có vài ba kỷ niệm đẹp. Một là ngày đầu tiên của đợt thi đại học. Tôi kéo một vài người bạn về nhà nghỉ trưa, và thấy bố mẹ đang cùng nhau nấu ăn trong bếp, đợi tôi. Trong tôi dâng lên một cảm giác ngọt ngào, sung sướng. “Hôm nay mình là nhân vật chính, mình được quan tâm.” Một lần khác, tôi kể với mẹ là mình bị mẹ của bạn trai gọi điện tới bắt hai đứa bỏ nhau, nếu không cô ấy sẽ nói với hiệu trưởng, vì cô ấy là bạn của hiệu trưởng. Mẹ im lặng mấy phút, tôi đã tưởng mẹ không quan tâm thì mẹ quay ra bảo, “Tao mà biết chuyện thì con ấy chết.” Con ấy là cô kia. Tôi cảm thấy được an ủi, được bảo vệ và hôm sau khi kể lại cho Minh thì có lén chùi một giọt nước mắt. Một lần nữa, tôi về nhà bố buổi trưa. Bố nấu cơm cho tôi ăn, nghe tôi kể về dự định đi thực tập của mình và khuyến khích tôi đi xa. Lúc tôi ra cửa thì trời vẫn mưa. Hai bố con đứng ngắm mưa, cùng lặng lẽ hút thuốc, không ai nói gì. Tôi cảm nhận được tình cảm bố dành cho mình. Nó ấm áp, nhưng là một hơi ấm muộn mằn và rất mỏng so với cái trống trải, lạnh lẽo bên trong tôi. Minh rít điếu cần và nói nhiều khi nó cảm thấy có lỗi vì nó thì quá đầy đủ về tình cảm, trong khi bạn bè xung quanh đều có cuộc sống rất phức tạp, đổ vỡ. Tôi bảo, “Đúng rồi đó, ông cảm thấy có lỗi đi.” Trên đường về, nhìn thấy một con chó chạy lũn cũn bên cạnh chủ, tôi bật khóc. Không tới mức nức nở, mà chỉ rơm rớm. Tôi vốn khó khóc. Không phải tôi chủ đích nén cảm xúc, mà là cảm xúc không chịu bật ra. Cho nên tôi rất đồng cảm với một anh người mẫu chuyển giới trong The Face Vietnam. Trong đoạn thử thách đóng phim, mọi người đều vào diễn rất ngon lành, nhưng anh ấy bảo luôn với các giám khảo Minh Hằng và Trấn Thành là, “Em không khóc được nên em không thể hoàn thành phần thi này.” Trấn Thành hỏi, “Tại sao em không thể khóc được?” Anh ấy kể về cuộc sống khó khăn của mình, từ nhỏ phải ở với bà ngoại, năm mười bốn tuổi bà mất thì anh ấy phải tự bươn chải, va vấp. Anh ấy thiếu thốn tình cảm, trở nên chai sạn, nuốt hết cảm xúc vào trong. Thật là thương cho những người như anh ấy. Đến cả cái cách giải tỏa con người nhất mình cũng không làm được. Lúc nào cũng trơ lì, lúc nào nhìn vào người ta cũng thấy mình cười nói, đi lại. Cho nên là lúc Dũng phũ với tôi khiến tôi hơi khóc một tí thì tôi nghĩ bụng, à hóa ra cũng có người đẩy được cảm xúc của mình đến mức đấy. Chỉ có một lần tôi tức tưởi, đó là khi bố và mẹ đùn đẩy nhau trả tiền học cho tôi, hai người lại không nói chuyện trực tiếp với nhau mà toàn qua tôi. Lúc đó tôi cảm thấy mình như một cục nợ bị đẩy qua đẩy lại. Đôi khi tôi thèm mình có thể khóc nức nở, khóc thật đã, để nó làm sạch những cái u uất bên trong. Nhưng giống như cái anh trong The Face, tôi không làm được vậy. Nhiều lúc phê cần, tôi buồn vô cùng, người mềm nhũn ra, đầu gục xuống bàn, nhưng mắt vẫn ráo hoảnh. Cùng lắm tôi chỉ rơm rớm như lúc này, khi thấy con chó chạy bên cạnh chú, hay khi thấy hai ông bà già nắm tay nhau đi trên đường, và sự thèm khát được yêu thương, nỗi tủi thân, trỗi dậy. Tôi lấy tay lau nước mắt. Cái sự rơm rớm này, nó không triệt để, nó làm tôi mệt và rấm rứt. Nó không giải tỏa được sự tuyệt vọng ở trong tôi. Có lần tôi hỏi Dũng, “Em nhìn nhận anh là người giao tiếp tốt, biết cách sử dụng ngôn từ để giải quyết cảm xúc của người khác. Có bao giờ anh ghét bản thân không? Có bao giờ anh khó chịu vì tiếng Việt của anh rất tốt không?” Tôi hỏi, bởi anh ấy cũng hoạt ngôn như tôi, cũng dễ thuyết phục người khác như tôi. Anh ấy bảo, “Có! Mình dễ dàng nắm bắt được tâm lý của người khác, khôn khéo điều khiển họ, vì mình đã trải qua rất nhiều thứ. Nhưng mình đọc được người ta mà người ta không hiểu được mình. Mình xoa dịu được cảm xúc của người khác, nhìn vẻ mặt mãn nguyện của họ, nhưng lòng mình trống rỗng.” Tôi cũng thấy như vậy đó. Chúng tôi đều khao khát được người khác chạm vào, nhưng lại dè chừng, cảnh giác. Tôi đã cố thủ từ bé tới lớn, tới mức tôi quên mất mình đang làm vậy, để không ai làm đau được mình. Tôi muốn mình bước ra xã hội thì hiên ngang một chút, để không có ai thương hại mình. Nhưng đến khi gặp được người mình thích thì tôi hoang mang. Mình muốn hạ áo giáp xuống, muốn được dựa vào họ, muốn được lắng nghe mà không cần họ phải khuyên bảo gì. Nhưng… họ lại có thể làm mình đau. Họ trở nên có giá trị với mình, rồi bỏ mình mà đi. Mình sẽ sống sót như thế nào với các ký ức? Tôi đã thấy quá nhiều dối trá quanh mình, nếu mình sống trong hoài nghi thì mình sẽ tuyệt vọng, nhưng nếu mình tin họ thì khi phát hiện ra họ dối trá mình lại đau khổ hơn. Giờ đây, cái đau trong tôi không phải là kiểu đau quằn quại, rên rỉ, mà là một dạng lãnh cảm. Tôi không còn lo lắng, sợ hãi nữa khi mẹ nổi giận. Tôi bình thản quá, bình thản đến mức mệt mỏi, bạn ạ. Tôi ghét cái cảm giác trơ lì này, nó làm mình trống rỗng. Ở chỗ tập Muay Thai có tới năm, sáu người thích tôi, toàn là người có vợ rồi. Tôi luyện cách đối đáp để tránh những lời trêu ghẹo, ong bướm vớ vẩn mà vẫn giữ được thái độ mềm mỏng với họ, một việc khá áp lực. Chẳng vẻ vang gì khi có nhiều người thích mình. Họ thích mình nhưng mình vẫn thấy cô đơn, bạn có hiểu cảm giác đó không, vì không ai khiến mình rung động. Tôi sợ mình bị chai sạn. Quá lâu không nảy sinh tình cảm hoặc có quan hệ quá nhiều đều có thể làm mình chai sạn. Cuộc sống sau này của tôi sẽ ra sao? Liệu tôi có tìm được bến đỗ không, hay tôi cứ lang thang mãi. Người khác thì nhẹ nhàng bước chân vào tình yêu, còn tôi thì lo sợ, mặc dù tôi không phải là một kẻ thiếu bản lĩnh. Không sợ sao được, cả một thời thơ ấu tới giờ cuộc sống đã trống rỗng, mệt mỏi, kết hôn xong lại không hạnh phúc nữa thì đúng là địa ngục. Có nhiều điều cám dỗ vẫy gọi tôi lắm, chỉ một cái gật đầu là cuộc sống của tôi đổi hướng. Dạt nhà, hút chích, trở thành chị đại đầu gấu, trộm cắp vặt, quên đi ngày mai, quên đi bản thân, không cố gắng nữa. Ôi, những lời mời mới hấp dẫn làm sao, trong khi cuộc sống của tôi thì bế tắc. “Mày sống thế mà vẫn chịu được à? Bỏ mẹ nhà đi.” “Mày qua nhà tao ở, rồi chúng mình đi đâu đấy.” Đã có những lần tôi về nhà, đóng gói sách vở. May mà những lúc đấy tôi có cô Thủy, cô giáo văn cấp Ba của tôi. Cô vừa sắp xếp hai trăm cái áo dài trong tủ quần áo của mình vừa nghe tôi kể chuyện gia đình, rồi bỗng buông một câu gì đó khiến tôi phải dừng lại và suy nghĩ. May mà tôi có thằng Minh, thỉnh thoảng nó quẳng cho tôi một cuốn sách, “Ê, bà đọc đi!” Gần nó, tôi thấy mình trở nên trong sáng, cuộc sống của tôi trở nên phong phú hơn. Và tôi lại tự nhủ, bấy giờ mình cần học, cần một công việc, cần chăm sóc bản thân, không để nó trôi tuột đi. Tôi muốn bạn hiểu là tôi đã rất, rất cố gắng để không buông trôi. Tôi muốn mọi người biết rằng có nhiều đứa trẻ vẫn đang chống chọi từng ngày để lớn lên thành người tử tế.   Im lặng rất lâu   Bạn mời tôi tới nhà làm bánh cho gia đình bạn? Tôi sẽ rất vui. Tôi cảm thấy rất ấm áp khi được chăm sóc người khác. Đến giờ tôi vẫn nhớ những lúc mắt đối phương sáng rực lên khi ăn đồ tôi nấu. Họ ăn, ăn, ăn, tôi hỏi, “Ngon không anh?” Họ im lặng và ăn cho tới hết sạch. Tôi nhìn họ ăn và thấy hạnh phúc. Chúng ta sẽ bàn với nhau về buổi đó nhé. Tôi sẽ làm cả bánh mì nữa. Làm bánh mì khó hơn bánh ngọt nhiều. Nó là đỉnh cao và khởi nguồn của rất nhiều thứ. Những lỗ khí không tròn trịa, không đều đặn, nhưng nhìn chúng mình cứ như bị hút vào. Khi cầm dao cắt một ổ bánh mì to, nó giòn và phát ra những tiếng tách tách theo từng nhát cứa của mình, khiến trong lòng mình thấy vui lắm. Căn nhà tương lai của tôi, nếu như tôi có nhà, sẽ thơm lừng mùi cà phê và mùi bánh mì nướng mỗi sáng. Với tôi, như thế là cuộc sống đấy. Mời bạn đón đọc Tìm Mình Trong Thế Giới Hậu Tuổi Thơ của tác giả Đặng Hoàng Giang.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cải Thiện Trí Nhớ Trong 7 Ngày
Đã bao nhiêu lần bạn “QUÊN” những thứ lãng xẹt nhưng những hệ quả kéo theo thì lại vô cùng to lớn? Bạn nhiều lần than trách bản thân rằng: “Sao còn trẻ mà đầu óc đãng trí thế không biết?” Hay đã bao nhiêu lần bạn bị bạn bè đồng nghiệp gọi là “đãng trí”; “đầu óc trên mây trên gió”. Nếu bạn không thể nhớ hết nổi số lần bạn “QUÊN” thì việc bạn cần làm ngay bây giờ là học cách để “NHỚ” thông qua cuốn sách Alpha Books sắp giới thiệu sau đây Luyện trí nhớ. Không thể phủ nhận “mặt mạnh” duy nhất của việc quên đó là bạn có thể đổ lỗi mọi việc cho nó, bạn làm sai một điều gì đó và chỉ đơn giản nói “em xin lỗi, em quên mất”. Tuy nhiên, ngoài mặt mạnh duy nhất đó ra, chắc hẳn việc quên đã không ít lần làm bạn phải khốn đốn, quên làm bài tập về nhà, quên mất để món đồ này ở đâu, quên không làm việc gì, quên, quên … Có rất nhiều thứ trong cuộc sống hàng ngày mà bạn buộc phải nhớ khiến cho đầu óc của chúng ta bị quá tải. Hệ quả của việc đó là chúng ta trong phút chốc bỗng không thể nhớ hết nổi những việc chúng ta cần làm, những thứ chúng ta cần ghi nhớ. Chỉ cần 10 phút mỗi ngày hãy luyện tập ghi nhớ những việc sau: Ghi nhớ ngôn ngữ Ghi nhớ nội dung bài học Ghi nhớ lịch trình và đường đi Và còn nhiều nhiều điều nữa, bạn có thể học cách ghi nhớ trong cuốn Luyện trí nhớ. Nếu bạn thấy nhiều đây vẫn chưa đủ cho bạn để bạn có thể bỏ thói “QUÊN” thì Alpha xin mách nhỏ với bạn một cách cũng vô cùng đơn giản, đó là hãy dành ra 5 phút trước khi ngủ để nhớ lại toàn bộ mọi việc một cách chi tiết trong suốt cả một ngày của bạn. Mời các bạn đón đọc Cải Thiện Trí Nhớ Trong 7 Ngày của tác giả Alpha Books biên soạn.
Biến Cuộc Đời Ngắn Ngủi Trở Nên Tuyệt Vời
Hãy tỉnh thức và sống trọn vẹn! Ngay bên trong bạn luôn ẩn chứa một sức mạnh giúp bạn biến cuộc sống ngắn ngủi này trở nên thật tuyệt vời - sức mạnh để vượt qua nghịch cảnh và đạt được hạnh phúc, sự hài hòa, sức khỏe và thịnh vượng. Cuốn sách sẽ đưa ra những gợi ý, lời khuyên giúp bạn: • Giữ cân bằng trên nhiều phương diện trong cuộc sống • Giảm thiểu áp lực và lo lắng • Phát triển một lối sống lành mạnh • Giao tiếp hữu hiệu nhất với người khác • Trở thành người có sức thu hút, lôi cuốn • Chế ngự cảm xúc của bạn *** Dale Breckenridge Carnegie (24 tháng 11 năm 1888 – 1 tháng 11 năm 1955) là một nhà văn và nhà thuyết trình Mỹ và là người phát triển các lớp tự giáo dục, nghệ thuật bán hàng, huấn luyện đoàn thể, nói trước công chúng và các kỹ năng giao tiếp giữa mọi người. Ra đời trong cảnh nghèo đói tại một trang trại ở Missouri, ông là tác giả cuốn Đắc Nhân Tâm, được xuất bản lần đầu năm 1936, một cuốn sách thuộc hàng bán chạy nhất và được biết đến nhiều nhất cho đến tận ngày nay. Ông cũng viết một cuốn tiểu sử Abraham Lincoln, với tựa đề Lincoln con người chưa biết, và nhiều cuốn sách khác. Carnegie là một trong những người đầu tiên đề xuất cái ngày nay được gọi là đảm đương trách nhiệm, dù nó chỉ được đề cập tỉ mỉ trong tác phẩm viết của ông. Một trong những ý tưởng chủ chốt trong những cuốn sách của ông là có thể thay đổi thái độ của người khác khi thay đổi sự đối xử của ta với họ. Các tác phẩm của Dale Carnegie: 40 Gương Thành Công Đắc Nhân Tâm 90 Giây để thu hút bất kỳ ai Quẳng Gánh Lo Đi và Vui Sống Bằng Hữu Chi Giao 10 Bước Để Có Cuộc Sống Trọn Vẹn Thay Đổi Để Thành Công Chiến Thắng Nỗi Lo Và Sự Căng Thẳng Thay Đổi Để Thành Công Nghệ Thuật Nói Trước Công Chúng Tâm Lý Vợ Chồng Trở Thành Người Lãnh Đạo Hiệu Quả ... Mời các bạn đón đọc Biến Cuộc Đời Ngắn Ngủi Trở Nên Tuyệt Vời của tác giả Dale Carnegie & Hoàng Huấn (dịch).
Khởi nghiệp 4.0 - Kinh Doanh Thông Minh Trong Cách Mạng Công Nghiệp 4.0
Khởi Nghiệp 4.0 Internet và nền kinh tế toàn cầu đang thay đổi căn bản mọi mặt đời sống thường nhật cũng như thế giới công việc. Trước đây, trong một xã hội mà internet chưa có sự phủ sóng sâu rộng, sẽ rất khó để một start-up nhỏ cạnh tranh được với các doanh nghiệp lớn, và đến một giai đoạn nhất định, doanh nghiệp non nớt sẽ bị chững lại. Tuy thế, thị trường giờ đã thay đổi. Nền kinh tế đang chuyển dịch sang một môi trường tự kinh doanh, tự chủ và chúng ta có thể làm việc ở bất kì nơi nào. Với sự trợ giúp của công nghệ hiện đại và mạng internet, một mình bạn có thể thách thức cả thế giới - đó chính là thông điệp chính được truyền tải trong "Khởi nghiệp 4.0". Tác giả Dorie Clark, với kinh nghiệm của một nhà tư vấn marketing chiến lược và chuyên gia xây dựng thương hiệu, đã đưa đến cho bạn một bản hướng dẫn tổng quan cách tự khởi nghiệp thông qua việc kết hợp các công cụ kinh doanh truyền thống và hiện đại. Ban đầu, bạn có thể chỉ làm vì sở thích, như đăng tải video trên YouTube, tạo lập và chia sẻ các blog, podcast... Nhưng lâu dài, bạn có thể sẽ nhận được vô số lời mời đến diễn thuyết tại các sự kiện doanh nghiệp, doanh nhân tầm cỡ toàn cầu - các lời mời trị giá hàng nghìn đô. Đây không chỉ là giả tưởng, mà là một hiện thực bạn có thể nắm bắt thông qua đam mê bền bỉ (đương nhiên), và một chiến lược vững chắc. Cuốn sách này - "Khởi nghiệp 4.0" - sẽ trực tiếp chỉ ra cho bạn lộ trình đó. Từ tìm kiếm một chủ đề hấp dẫn, xây dựng lượng khán giả ủng hộ đến chi tiết cách định giá sản phẩm và thương hiệu bạn cung cấp;từ A đến Z mọi điều cần biết để khởi nghiệp thời công nghệ sẽ có trong tác phẩm đầy sức hút này. Cuốn sách cũng phân tích chân thực những khó khăn mà các doanh nhân khởi nghiệp trẻ thường vấp phải trên hành trình tạo dựng sự nghiệp, từ đó đưa ra lời khuyên giúp bạn cân bằng các vấn đề thời gian, tài chính... trong thời kì bước ngoặt. Trong một thế giới còn hoài nghi và đánh giá thấp tiềm năng của các cá nhân bắt đầu kinh doanh từ những công cụ online và mạng xã hội, "Khởi nghiệp 4.0" chắc chắn sẽ vừa là động lực, vừa là cẩm nang hướng dẫn giúp bạn định hình tương lai nghề nghiệp và tự chủ tài chính. Hãy làm theo các hướng dẫn trong sách - từng bước một, sử dụng các vật dụng bạn đã có sẵn trong tay, ngay trước mắt bạn, để tạo ra nguồn thu nhập dồi dào và bền vững. *** Chúng ta đang chuyển dịch sang một nền kinh tế tự kinh doanh, tự chủ và làm việc ở bất cứ đâu. Kinh doanh sinh lời từ việc mình thích giờ không còn là một giấc mơ viển vông mà là thực tại ngay trước mắt bạn. Từ khi Internet bắt đầu bùng nổ, thế giới đã có những thay đổi nhanh đến chóng mặt. Chúng ta khó mà tưởng tượng nổi điều gì mới lạ sẽ đến vào tuần sau hay tháng tới. Thế giới công việc cũng đang thay đổi, có những công việc đã biến mất và có những công việc mới xuất hiện. Chúng ta đang chuyển dịch sang một nền kinh tế tự kinh doanh, tự chủ và làm việc ở bất cứ đâu. Kinh doanh sinh lời từ việc mình thích giờ không còn là một giấc mơ viển vông mà là thực tại ngay trước mắt bạn. Tác giả Dorie Clark, với kinh nghiệm của một nhà tư vấn marketing chiến lược và chuyên gia xây dựng thương hiệu, đã đưa đến cho bạn một bản hướng dẫn tổng quan cách tự khởi nghiệp thông qua việc kết hợp các công cụ kinh doanh truyền thống và hiện đại. Ban đầu, bạn có thể chỉ làm vì sở thích, như đăng tải video trên YouTube, tạo lập và chia sẻ các blog, podcast... Nhưng lâu dài, bạn có thể sẽ nhận được vô số lời mời đến diễn thuyết tại các sự kiện doanh nghiệp, doanh nhân tầm cỡ toàn cầu - các lời mời trị giá hàng nghìn đô. Cuốn sách Khởi nghiệp 4.0 sẽ mở ra con đường rộng mở nhất, ngắn nhất dẫn bạn đến thực tại đó. Cuốn sách đem đến một “cuộc cách tân” về tư duy kinh doanh trong thời đại mới, một bản hướng dẫn chi tiết cách tiếp cận, vận dụng và điều phối những công cụ online cũng như truyền thống để mang về cho bạn lợi nhuận dồi dào hơn bao giờ hết. Chứa đựng phương châm kinh doanh độc lập, chuyên nghiệp, kết hợp với những kiến thức sâu sắc và lời khuyên về xây dựng thương hiệu cá nhân, đây chắc chắn sẽ là lời giải đáp hoàn hảo cho tương lai của bất cứ “cái tôi bé nhỏ nuôi dưỡng hoài bão kinh doanh to lớn” nào. Về tác giả Dorie Clark là nhà tư vấn chiến lược marketing, cựu phát ngôn viên của chiến dịch tranh cử tổng thống, người viết bài thường xuyên cho các tạp chí Harvard Business Review, Forbes, Entrepreneur, và blog của Diễn đàn kinh tế thế giới. Cô được đánh giá là “chuyên gia phát triển thương hiệu”, và là người phát ngôn cho các đối tác như Google, Microsoft, Đại học Yale, Fidelity và Ngân hàng thế giới. *** VÌ SAO TÔI VIẾT CUỐN SÁCH NÀY? Không phải ai cũng biết mặt tối của nền kinh tế ngày nay. Dù bạn xuất sắc, nổi tiếng và được tôn trọng, nhưng chỉ vậy thôi thì chưa đủ. Internet và nền kinh tế toàn cầu hóa cho chúng ta khả năng tiếp cận với hàng triệu người, làm việc độc lập và tận hưởng tiềm năng thu nhập vô hạn. Nhưng đối với rất nhiều chuyên gia, điều này thật phi thực tế. Thay vào đó, chúng ta đang sống trong một  giới nơi “thành công” luôn bị tách khỏi thu nhập. Qua những chuyến đi, tôi đã gặp nhiều chuyên gia xuất sắc trong mọi lĩnh vực nhưng họ vẫn gặp khó khăn trong việc kiếm tìm thành quả xứng đáng với bản thân mình. Bạn có thể tài giỏi, có thể được coi trọng, nhưng nếu không thận trọng với những quyết định mà bạn đưa ra thì rất có thể thành quả bạn nhận được sẽ không xứng đáng với công sức bạn bỏ ra. Tại sao lại như vậy? chúng ta nên làm gì để đảo ngược xu hướng tiêu cực này và gặt hái thành quả to lớn của việc kinh doanh? Để trả lời cho câu hỏi đó, tôi đã phỏng vấn hơn 50 doanh nhân thành công, những doanh nhân độc lập hoặc kinh doanh quy mô nhỏ với thu nhập lên tới sáu, bảy thậm chí tám con số. Cuốn sách này đúc kết những điều mà tôi học được - những lời khuyên thiết thực về việc làm thế nào để kinh doanh sinh lời từ chuyên môn của bạn và xây dựng một doanh nghiệp bền vững, phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế mới. Dù bạn là ai, nhà khởi nghiệp, doanh nhân đầy khát khao hay một chuyên gia tuyển dụng đang tìm cách tối đa hóa các lựa chọn của mình, bạn cũng sẽ tìm thấy cho mình những chiến thuật giúp tăng thu nhập cũng như tiếp thêm động lực cho công việc bạn đang theo đuổi, đồng thời mở ra nhiều cơ hội mới cho bản thân. Con đường giúp tôi viết cuốn sách này được mở ra năm 2006, khi tôi bắt đầu marketing cho chiến lược tư vấn kinh doanh của riêng mình sau một thời gian làm nhà báo, phát ngôn viên cho chiến dịch tranh cử Tổng thống và giám đốc điều hành phi lợi nhuận. Trước đó, tôi chỉ thích làm việc tại nhà và làm cho chính mình. Mục tiêu chủ yếu của tôi lúc đó là kinh doanh và đem lại doanh thu đủ sống; vì vậy tôi nhận hầu hết các khách hàng ở mọi tầm cỡ và mọi lĩnh vực. Tôi từng viết bài phát biểu cho giám đốc một tổ chức phi lợi nhuận với giá 500 đô, lập kế hoạch truyền thông với giá 1.000 đô cho cơ quan chính phủ, cộng với vô số lần bay xuyên nước Mỹ để tổ chức các buổi đào tạo cuối tuần để nhận được 600 đô, cộng thêm tiền vé máy bay (khách hàng của tôi trả rẻ đến mức mỗi lần bay như vậy, tôi phải bay tới hai chặng). Thật không ổn chút nào! Năm đầu tiên tôi làm việc hối hả, dành nhiều giờ gặp gỡ trực tiếp và tìm kiếm các doanh nghiệp cũng như phục vụ khách hàng qua mạng. Tôi giảm bớt những dự án trăm đô để tập trung xây dựng doanh nghiệp bền vững cho mình, và trong vòng không đầy một năm tôi đã có thu nhập ổn định ở mức sáu con số. Mặc dù vậy nhưng tôi vẫn mắc kẹt trong những cuộc hẹn gặp khách hàng hoặc tốn thời giờ để tới gặp họ. Tôi mắc kẹt trong cái bẫy mà những doanh nhân hay gặp phải, đó là quá chú tâm vào việc xây dựng doanh nghiệp của mình tới mức không có thời gian làm việc khác ngoài phục vụ khách hàng. Tôi nhận ra rằng nếu cứ tiếp tục đi trên con đường như hiện tại, tôi có thể tiếp tục phát triển việc kinh doanh của mình trong nhiều năm tới và có một cuộc sống tuyệt vời. Tôi sẽ trở thành người cố vấn được tin tưởng thay vì là người cố vấn “trẻ tuổi và có tài”, và có thể có khách hàng là những doanh nghiệp làm ăn có lãi ở địa phương. Điều đáng buồn là tôi không được đi du lịch như mình mong muốn, mà ngược lại, tôi luôn bị kìm hãm bởi những cuộc gặp mặt khách hàng cũng như kỳ vọng của khách hàng vào việc tôi luôn sẵn sàng (giá như tôi có thể giảm bớt cái này) trả lời mọi cuộc điện thoại của họ. Vì vậy, kể cả khi làm việc cho chính mình, tôi vẫn không hề cảm thấy thoải mái. Tôi muốn đạt được hai điều: thứ nhất, nâng tầm khách hàng của mình, làm việc với các công ty lớn hơn, có nhiều vốn hơn; thứ hai, giải thoát bản thân khỏi áp lực về mặt trách nhiệm hằng ngày với khách hàng và xây dựng một doanh nghiệp kiểu mẫu không ràng buộc về vị trí. Làm được điều đó thật không hề đơn giản, việc bước lên một tầm cao mới sẽ dễ dàng nếu nó ở ngay trước mắt bạn, nhưng với tôi thì không. Tôi vẫn phải tin tưởng dù cho không chắc chắn. Việc kinh doanh của tôi ở mức độ này vẫn chỉ là tư vấn marketing thông thường cho những công ty địa phương mà tôi có chút quen biết qua lại, dù là trực tiếp hay thông qua giới thiệu. Tôi biết sẽ rất khó để tiến xa hơn với mức độ này - tiếp cận những khách hàng ở tầm cao hơn - bằng cách bước từng bước chắc chắn trên con đường hiện tại. Tôi cần làm gì đó khác để thu hút sự chú ý của những người tôi không hề quen biết, và làm mới bản thân cũng như thay đổi vị thế của mình trên thương trường. Tôi học cách làm điều đó bằng việc phỏng vấn nhiều chuyên gia thành công trong việc thay đổi nghề nghiệp và được mọi người đón nhận. Nhờ đó tôi đã xuất bản cuốn Reinventing you (tạm dịch: Đổi mới bản thân) năm 2013, chia sẻ nhiều kinh nghiệm thực tế trong quản lý thương hiệu cá nhân và những sự đổi mới bản thân ngoạn mục. Đồng thời cuốn sách cũng giải đáp câu hỏi: Làm thế nào để tạo ra sự thay đổi lớn và theo đuổi sự nghiệp bạn mong muốn? Cuốn sách thật sự là kim chỉ nam giúp các chuyên gia tạo ra sự thay đổi mà họ mong đợi. Nhưng dù cho bạn đã chuyển sang lĩnh vực bạn mong muốn, tôi nhận ra vẫn còn một vấn đề khác cần giải quyết, đó là: Làm thế nào để bạn đi tới thành công và đảm bảo mọi người sẽ công nhận điều đó? Tôi đã cố gắng tìm ra câu trả lời cho câu hỏi này trong cuốn sách thứ hai của mình stand Out (tạm dịch: Trở nên nổi bật). Tôi phỏng vấn các chuyên gia hàng đầu  giới, kể cả các doanh nhân nổi tiếng như Seth Godin, David Allen, Robert Cialdini, Tom Peters... để học cách phát triển ý tưởng cũng như xây dựng xu hướng cho những người xung quanh. Trong cuốn sách này, tôi đã lập ra một bản thiết kế chi tiết về cách những chuyên gia thường tuân theo các bộ quy tắc này để đảm bảo mọi người chú ý đến tài năng của họ. Sau đó tôi sớm nhận ra, ngày nay, việc trở thành những chuyên gia nổi tiếng không phải lúc nào cũng đưa tiền về cho bạn. Vấn đề mà mọi người thường tránh nói ra về việc kinh doanh hiện đại, đó là cho dù có là những người làm chủ cuộc chơi thương trường, họ không phải lúc nào cũng kinh doanh sinh lời thành công. Học cách kinh doanh sinh lời đúng chuyên môn thật ra lại là một kỹ năng hoàn toàn khác so với những gì cần thiết để trở nên xuất sắc trong công việc, hay nổi tiếng ở một lĩnh vực nào đó (đây là hai điều quan trọng đáng để phê bình mà tôi đã đề cập tới trong Reinventing you và Stand Out, nhưng như thế vẫn chưa đủ để có thu nhập khủng). Vì vậy tôi viết cuốn Khởi nghiệp 4.0 để hoàn thành bộ ba tác phẩm một cách khoa học và đúc rút những kết luận cần thiết nhất. Khởi nghiệp 4.0 trả lời cho câu hỏi mà tôi cho là quan trọng nhất: Làm thế nào để kinh doanh một cách ổn định, lâu dài mà vẫn đem lại cho bạn niềm vui tinh thần, trí tuệ và tài chính? Tôi muốn thấy nhiều người tài giỏi chia sẻ về ý tưởng của họ. Nhưng nếu họ không thể tự mình tạo lập được sự nghiệp thành công thì điều đó là không thể. Vì vậy trong cuốn sách này, tôi sẽ chia sẻ những ý tưởng, chiến thuật và những bài học thực tiễn về việc kiếm tiền mà qua đó, tôi mong rằng con đường hướng tới thành công của mọi người sẽ trở nên rõ ràng hơn. Tôi cố gắng thực hiện những gì mình viết ra và nghiên cứu kĩ tiểu sử của các doanh nhân, cũng như những người đam mê kinh doanh mà tôi đề cập trong cuốn sách này. Quãng thời gian viết Khởi nghiệp 4.0 là lúc tôi có được nhiều thứ nhất từ trước tới nay, và đó là minh chứng rõ ràng cho việc thử nghiệm những phương pháp tôi viết trong đây. Năm đó thu nhập của tôi vượt mức 200 nghìn đô, tiếp tục thử những chiến thuật và kênh thông tin mới. Kinh doanh thành công cũng giống như người phi công bay cao, chứ không phải chỉ tới một vạch đích. Những thay đổi tôi trải qua đã giúp tôi có được việc kinh doanh ở New York như tôi mong muốn, (nhưng tất nhiên tôi có thể ở bất cứ đâu mình muốn) và tôi còn có cơ hội tới nhiều thành phố thú vị khi đi công tác. (Tôi bắt đầu viết lời nói đầu trên chuyến bay tới Aspen và kết thúc trang bản thảo cuối cùng khi trở về New York từ Amsterdam). Mô hình kinh doanh hiện tại của tôi với bảy nguồn thu nhập hoàn toàn khác nhau - không tự nhiên mà có. Đó là một chuỗi những lựa chọn thận trọng có chủ đích. Mong rằng sau khi đọc những chia sẻ về nhiều điều tôi học được từ những doanh nhân thành đạt trong cuốn sách này cũng như câu chuyện về hành trình của tôi, bạn sẽ tìm được đáp án cho việc kinh doanh và cho cả cuộc đời của bạn một cách chính xác nhất. Hãy bắt đầu nào. *** CƠ HỘI KINH DOANH Thành công rồi! Tôi đang duỗi dài trên khoang hạng nhất trên chuyên bay trở về từ Châu Á và ngắm nghía bó hoa trinh nữ được tặng. Tôi vừa kiếm được 35 nghìn đô sau hai tuần giảng dạy tại một trường đại học nước ngoài. Khá căng thẳng khi phải đứng lớp sáu tiếng một ngày trong khi bị cúm nặng. Nhưng số tiền kiếm được trong hai tuần đó gần bằng lương cả năm của tôi trước khi bắt đầu kinh doanh, với tư cách một nhà tư vấn chiến lược marketing vào năm 2006. Trong suốt một thập kỷ khó khăn, tôi nhận ra mình khá hợp với ngành kinh doanh. Trong vòng một năm sau khi bắt đầu kinh doanh, tôi đã cảm thấy thỏa mãn với thu nhập sáu con số cho việc tư vấn những khách hàng tiềm năng như Google, trường đại học Yale và Dịch vụ vườn Quốc gia Hoa Kỳ. Và cũng từ đó, tôi tập trung phát triển việc kinh doanh của mình một cách thận trọng, như cách tôi hình dung về cuộc sống tươi đẹp của riêng mình. Ngay sau khi chuyến bay từ châu Á của tôi hạ cánh, tôi nhận được một email khiến tôi suy nghĩ về việc rốt cuộc mình đang làm gì. Email đó là của John Corcoran, luật sư và blogger sống ở Vịnh San Francisco, hoạt động trong lĩnh vực marketing trực tuyến nhiều năm. Anh ấy gửi cho tôi nhiều bài viết và những nội dung khác có giá trị qua email cho tôi vài lần một tuần, và đương nhiên tôi rất thích những gì mình nhận được qua những email đó. Cùng tháng đó, anh quảng bá cho hai khóa học kỹ thuật số được những chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực marketing trực tuyến thiết kế. Corcoran đã ký một kiểu “liên kết”, rằng anh sẽ được chia hoa hồng mỗi khi bán được sản phẩm. Liên kết marketing là phương án đôi bên cùng có lợi, đem lại khách hàng mới cho người thực hiện và không tốn chi phí của khách hàng. Trước lúc bay, tôi đã gửi email hỏi thăm xem hoạt động quảng bá của anh thế nào. “Tôi đã mời được 32 khách”, anh trả lời tôi. “Tôi kiếm được khoảng 28 nghìn đô chỉ với năm hay sáu email, một bài đăng trên blog và một đoạn phim trong một tháng. Nêu tính cả thu nhập từ những blog khác hay podcast thì tôi kiếm được 33 hoặc 34 nghìn đô chỉ từ blog trong tháng vừa rồi. Phải nói thật là tôi ngạc nhiên quá mức. Anh nói thêm: “So với tháng trước đó thì tôi cũng không làm thêm giờ chút nào.” Trước đó, tôi luôn nghĩ marketing trực tuyến tựa như một trò lừa đảo - như  giới của những hoàng tử Nigeria và email rác marketing tuyên truyền thuốc Viagra giảm giá. Các thông điệp của họ gào lên rằng “HÃY KIẾM TIỀN QUA MẠNG ĐI!” - những thông điệp được rêu rao ầm ĩ kiểu như vậy, và tôi thường xóa tất cả chúng đi. Nhưng Corcoran khiến tôi nhận ra mình đang bỏ lỡ một điều gì đó to lớn. Marketing trực tuyến đúng đắn không có nghĩa là phải bóc lột hay giành giật một cách thô tục. Ngược lại, nó có thể đem lại điều gì đó đầy mạnh mẽ, điều mà tôi đã bỏ qua trong suốt thời gian qua: cách thức tăng trưởng và đa dạng hóa lợi nhuận cũng như giảm thiểu tối đa rủi ro trong nguồn thu nhập của tôi. Đúng vậy, tôi đã làm việc với nhiều khách hàng và cả tá những công việc khác nhau như tư vấn, diễn thuyết, huấn luyện đội ngũ lãnh đạo và giảng dạy tại các trường kinh tế. Nhưng giờ nhìn lại, tôi vẫn thấy mình chưa đa dạng hóa đủ. Hầu hết các doanh nhân đều tập trung quá nhiều vào việc tăng lợi nhuận thông qua một hoặc hai hoạt động nào đó (như tư vấn và diễn thuyết) mà bỏ qua những cơ hội giúp họ thoát khỏi cảnh bán thời gian để kiếm tiền. Hơn nữa, cơ hội không chỉ dành cho những doanh nhân: dù bạn đang làm việc toàn thời gian và không có ý định tự kinh doanh, thì việc phát triển kinh doanh ngoài lề cũng đem lại nguồn thu nhập bổ sung và những cơ hội phát triển bất ngờ. Lenny Achan bắt đầu sự nghiệp với vai trò một y tá và dần trở thành quản lý bệnh viện Mount Sinai ở New York. Sự nghiệp của anh thực sự khởi sắc khi giám đốc biết anh đang âm thầm phát triển một ứng dụng. Achan đã khá lo lắng khi bị triệu tập tới văn phòng giám đốc: Anh đã vi phạm quy định gì mà anh không biết ư? Hay họ nghi ngờ anh làm việc khác trong giờ làm? Nhưng hóa ra giám đốc rất ngưỡng mộ những sáng kiến của anh và đề bạt anh lên chức vụ điều hành mảng truyền thông xã hội, cũng như bộ phận truyền thông của cả bệnh viện. Tương tự như vậy, Bozi Nar, người gốc Serbia và hiện đang sinh sống tại Mỹ, đã có sự nghiệp thành công tuyệt vời với vai trò giám đốc marketing cấp cao cho một công ty khoa học đời sống thuộc danh sách Fortune 500.1 Năm 2013, anh bị cuốn hút trước những tiềm năng khởi nghiệp kinh doanh và đã bỏ ra 45.000 đô để xây dựng và phát triển ứng dụng. Việc này không mang lại lợi nhuận nhưng đã dạy cho anh bài học về quy trình marketing, bán hàng và chiến thuật kinh doanh. Một năm sau, anh thử đầu tư ở lĩnh vực khác: khóa học trực tuyến hướng dẫn cách để được thăng chức trong công ty. Khóa học của Dar thành công hơn ứng dụng trước đó của anh rất nhiều và kiếm về cho anh 25 nghìn đô chỉ trong vòng một năm. Có những ngày thu nhập của anh cao đến mức anh có thể tự hào nói rằng “công nghệ và kỹ thuật số rất có triển vọng. Chúng cho phép tôi tự hoàn thiện bản thân mình.” Anh gọi mình là người “nội tâm”, cải tiến công ty từ bên trong. Anh cảm thấy việc tiếp tục ở một doanh nghiệp lớn, nơi có đội ngũ nhân lực hùng hậu cùng nguồn tài trợ lớn có thể giúp anh tiếp tục “những ý tưởng mà một doanh nhân khó có thể thực hiện.” (Tôi sẽ đề cập tới câu chuyện của Dar cùng với các mẹo xác định chuyên ngành của bản thân của anh ở cuối chương 2.) Dù là tự mình kinh doanh hay làm việc cho người khác, chúng ta đều phải tìm những cách thức nhằm đa dạng hóa những nguồn lợi nhuận của mình. Điều này sẽ giúp chúng ta giới hạn sự không chắc chắn, nâng cao tầm tác động của mình và kiếm được nhiều tiền hơn. Nhiều doanh nhân được đề cập trong cuốn sách này làm việc trong các lĩnh vực marketing, lãnh đạo hoặc truyền thông. Đó là thế giới tôi hiểu rõ nhất, và là thế giới mà tôi tin rằng nó sẽ là mũi tên nhọn ngắm đến con đường tái thiết công việc cũng như tạo ra những chiến lược kinh doanh sinh lời mới. Tất nhiên cuốn sách cũng sẽ đề cập tới nhiều ví dụ tình huống (case study) về những doanh nhân thành công trong các lĩnh vực thực phẩm, thời trang, tài chính cá nhân và nhiều hơn nữa. Bất kể bạn đang hoạt động trong lĩnh vực nào thì những quy tắc nền tảng của tôi cũng có thể áp dụng một cách rộng rãi. Mục tiêu của tôi là giúp bạn hiểu thấu con người mình và tìm ra những khả năng đang ẩn khuất trong các câu chuyện của bạn. Trong Khởi nghiệp 4.0, bạn sẽ tìm thấy nhiều thông tin về những công nghệ hoạt động trên nền tảng internet, từ podcast đến blog và những công cụ truyền thông trực tuyến. Đó là bởi đây đều là những cách thức tân tiến để kiếm tiền, bởi vậy cũng là những cách thức các chuyên gia tài năng vẫn chưa khám phá ra hay làm chủ. Cho dù bạn không có dự định sẽ đi sâu khai thác  giới trực tuyến, nhưng những công nghệ này vẫn đáng để bạn học hỏi để có thêm nhiều lựa chọn trong tương lai. Dù bạn là một doanh nhân nhiệt huyết, người làm việc tự do toàn hoặc bán thời gian, hoặc là người đang muốn tìm kiếm một công việc ngoài lề thì mong muốn của tôi vẫn là giúp bạn có một kế hoạch chi tiết để kinh doanh sinh lời cả trên mạng lẫn ngoài đời. Việc đầu tiên bạn cần học là tăng tiềm năng kinh doanh sinh lời bằng một “danh sách công việc.” Lý do chúng ta đều cần có danh sách công việc Trí khôn thông thường mách bảo chúng ta cần đa dạng hóa những hoạt động đầu tư, bởi lẽ đặt cược tất cả tiền bạc vào một chỗ là một việc làm ngu xuẩn. Nhưng ngược lại, chúng ta lại bất cẩn hơn khi tin tưởng vào ông chủ của mình trong cả quá trình, tôi cũng đã từng như vậy. 15 năm trước chuyến bay định mệnh trở về từ châu Á, tôi tốt nghiệp và trở thành phát ngôn viên chính trị cho một tuần báo. Một buổi chiều thứ Hai, trưởng phòng nhân sự cho gọi tôi; và tôi nghĩ rằng họ đang định thay đổi kế hoạch của chúng tôi. Nhưng không, tôi bị sa thải - và là nạn nhân đầu tiên trong sự sụp đổ của nền kinh  tế báo chí. Phòng nhân sự yêu cầu tôi dọn đồ và trả tôi một tuần lương để thôi việc. Lúc đó tôi không biết mình sẽ làm gì ngoài việc rời đi thật nhanh. Sáng hôm sau - ngày 11 tháng Chín năm 2011 - tôi tỉnh dậy và bật tivi lên. Ngày tôi bắt đầu phải đi kiếm việc cũng là ngày nước Mỹ thay đổi. Hàng không dừng hoạt động, thị trường chứng khoán ngừng lên sàn, và tất nhiên là không ai muốn thuê một người đưa tin thất nghiệp như tôi cả. Lúc đó tôi bắt đầu hiểu sự bấp bênh của việc chỉ có đúng một nguồn thu nhập, và nó có thể biến mất bất cứ lúc nào. Tôi mất hằng tháng trời kiếm cho mình một công việc trong ngành báo chí, nhưng không ai thuê tôi cả. Tôi bỏ sang làm cộng tác viên tự do, kiếm được khoảng 800 đô một tuần là nhiều nhất, đôi khi chỉ được nửa số đó. Cuối cùng tôi làm phát ngôn viên cho một chiến dịch tranh cử thống đốc và kiếm được 3.000 đô một tháng cho đến khi chúng tôi thất bại. Tôi lại làm việc tự do thêm sáu tháng nữa và rồi lại thành phát ngôn viên cho chiến dịch tranh cử Tổng thống cho đến khi tiếp tục thất bại. Tôi nhận ra thất nghiệp có khi lại an toàn. Làm việc mà không có đến một nguồn lương “đảm bảo” là một nỗi sợ đối với tôi, tôi chỉ toàn thấy những rủi ro hơn là cơ hội. Sau đó tôi chẳng còn lựa chọn nào cả, tuy nhiên tôi vẫn không nhiệt thành gì với việc trở thành một trong những doanh nhân tiên phong phát triển một danh sách công việc - kết hợp với việc làm tự do và phát triển việc kinh doanh riêng với nhiều nguồn thu nhập khác nhau.   Mời các bạn đón đọc Khởi nghiệp 4.0 - Kinh Doanh Thông Minh Trong Cách Mạng Công Nghiệp 4.0 của tác giả Dorie Clark.
Vì Sao Chúng Ta Làm Việc
Vì Sao Chúng Ta Làm Việc đưa ta đến lời giải cho bí mật của hạnh phúc nơi làm việc. Sau tất cả, Barry Schwartz đã chứng minh cho chúng ta thấy gốc rễ của thành công trong lao động hiếm khi được khuyến khích, trong khi chúng ta lại cố gắng làm những việc chỉ đem lại kết quả xấu. Tại sao chúng ta làm việc? Tại sao mỗi sáng ta lại phải kéo lê mình ra khỏi giường thay vì sống cuộc đời ngập tràn niềm vui với hết trò này đến trò khác? Nhưng câu hỏi tưởng như thật đơn giản và ai cũng dễ dàng trả lời. Nhưng Giáo sư Barry Schwartz lại chứng minh rằng thật ra câu trả lời chi nó lại vô cùng phức tạp, đáng kinh ngạc và vô cùng khẩn cấp. Ta làm việc vì ta phải kiếm sống. Chắc chắn rồi, nhưng chỉ có vậy thôi sao? Tất nhiên là không rồi. Khi bạn hỏi những người hài lòng với công việc tại sao họ làm công việc ấy, thì gần như tiền không phải là câu trả lời. Danh sách những lý do phi-tiền-bạc rất dài và rất thú vị. Nhiều người làm việc vì họ thấy vui. Những người hài lòng với công việc lao động vì thấy có trách nhiệm. Những người khác làm việc vì đó là cơ hội để hòa nhập cộng đồng. Nhiều người làm việc vì họ cảm thấy việc mình làm thật ý nghĩa. Những nguyên nhân phong phú khiến chúng ta thỏa mãn với công việc kể trên đã dấy lên một số vấn đề rất lớn. Tại sao trên thế giới này có vô vàn người mà công việc của họ lại chẳng có nhiều hoặc hoàn toàn vắng bóng những đặc tính này? Tại sao với hầu hết chúng ta, công việc thật là đơn điệu, vô vị và mòn mỏi? Tại sao chủ nghĩa tư bản phát triển lại tạo ra một mô hình làm việc hạn chế hoặc triệt tiêu các cơ hội nuôi dưỡng sự hài lòng phi vật chất tiềm năng – mà chính nó sẽ khuyến khích người ta làm việc tốt hơn? *** Vấn đề mấu chốt Tại sao chúng ta làm việc? Tại sao mỗi sáng ta lại phải kéo lê mình ra khỏi giường thay vì sống cuộc đời ngập tràn niềm vui với hết trò này đến trò khác? Thật là câu hỏi ngớ ngẩn. Ta làm việc vì ta phải kiếm sống. Chắc chắn rồi, nhưng chỉ có vậy thôi sao? Tất nhiên là không rồi. Khi bạn hỏi những người hài lòng với công việc tại sao họ làm công việc ấy, thì gần như tiền không phải là câu trả lời. Danh sách những lý do phi-tiền-bạc rất dài và rất thú vị. Người nào hài lòng với công việc thì lao động say mê. Họ làm việc quên mình. Tất nhiên không phải lúc nào cũng thế, nhưng cũng đủ để điều đó trở thành đặc điểm nổi bật của họ. Những người này được khơi gợi tinh thần thử thách. Công việc buộc họ phát huy khả năng – bước ra ngoài vùng an toàn của mình. Những người may mắn này cho rằng làm việc thật là vui, vui như chơi trò đoán ô chữ hay Sudoku vậy. Con người làm việc còn vì lẽ gì nữa? Những người hài lòng với công việc lao động vì thấy có trách nhiệm. Công việc cho họ phương tiện để có quyền độc lập và tự quyết. Và họ sử dụng quyền ấy để nâng cao khả năng của bản thân. Họ học những điều mới mẻ, phát triển bản thân cả trong công việc lẫn đời sống. Những người này làm việc vì đó là cơ hội để hòa nhập cộng đồng. Họ làm nhiều việc với tư cách là một thành viên nhóm, và ngay cả khi làm việc một mình, trong những lúc tĩnh lặng, họ vẫn có nhiều cơ hội tương tác với bên ngoài. Cuối cùng, những người này hài lòng với công việc vì họ cảm thấy việc mình làm thật ý nghĩa. Có thể là, công việc của họ khiến thế giới thay đổi. Nó khiến cuộc sống của những người khác tốt đẹp hơn. Và thậm chí theo những cách đầy ý nghĩa. Tất nhiên, chẳng có nhiều công việc, và tôi nghi ngờ là không có công việc nào, lúc nào cũng hội tụ tất cả những đặc điểm này. Nhưng những đặc trưng nghề nghiệp như thế này chính là điều sút ta ra khỏi nhà, thúc ta cõng việc về nhà, huých ta nói về công việc của mình với những người khác, và khiến ta ngần ngừ không muốn nghỉ hưu. Ta sẽ không làm việc nếu không được trả công, nhưng đó không phải là lý do mấu chốt. Và ta hay nghĩ vật chất là một lý do làm việc chẳng đẹp đẽ gì. Thật vậy, khi nói ai đó “làm việc vì tiền”, ta không chỉ đơn thuần là giới thiệu, mà còn có ý đánh giá nữa. Những nguyên nhân phong phú khiến chúng ta thỏa mãn với công việc kể trên đã dấy lên một số vấn đề rất lớn. Tại sao trên thế giới này có vô vàn người mà công việc của họ lại chẳng có nhiều hoặc hoàn toàn vắng bóng những đặc tính này? Tại sao với hầu hết chúng ta, công việc thật là đơn điệu, vô vị và mòn mỏi? Tại sao chủ nghĩa tư bản phát triển lại tạo ra một mô hình làm việc hạn chế hoặc triệt tiêu các cơ hội nuôi dưỡng sự hài lòng phi vật chất tiềm năng – mà chính nó sẽ khuyến khích người ta làm việc tốt hơn? Những người làm kiểu công việc này – dù trong nhà máy, cửa hàng thức ăn nhanh, kho hàng bán theo yêu cầu, hay quả thực, trong những công ty luật, lớp học, phòng khám và văn phòng – là làm vì tiền. Dù có cố gắng tìm kiếm ý nghĩa, thử thách, và không gian để được tự quyết đến đâu, thì họ cũng phải đầu hàng trước điều kiện làm việc. Cách thức công việc của họ được tổ chức thực sự chẳng cho họ một lý do ý nghĩa nào ngoại trừ tiền lương. Theo một báo cáo diện rộng do Gallup, một tổ chức thăm dò ý kiến có trụ sở tại Washington, D.C xuất bản vào năm 2013, số người lao động “chống đối” trên thế giới nhiều gấp đôi so với những người lao động “gắn bó” với công việc của mình. Gallup đã đo lường sự hài lòng với công việc trên toàn cầu trong gần hai thập kỷ. Tổng cộng họ đã khảo sát 25 triệu người lao động ở 189 quốc gia khác nhau. Trong những phiên bản mới đây nhất, họ thu thập thông tin từ 230.000 người lao động làm việc toàn thời gian và bán thời gian ở 142 quốc gia. Nhìn chung, Gallup đã nhận ra chỉ có 13% số người cảm thấy gắn bó với công việc của mình. Những người này làm việc đam mê và dành trọn thời gian để thúc đẩy công ty, doanh nghiệp mình tiến lên. Phần lớn chúng ta, khoảng 63%, không cảm thấy yêu công việc. Chúng ta lờ đờ, nửa tỉnh nửa mê lê lết qua hết một ngày dài, chẳng đầu tư công sức gì lắm cho công việc. Và số người còn lại thì làm việc cực kỳ chống đối, thực sự ghét việc. Nói cách khác, công việc thường xuyên là một nguồn khó chịu hơn là nguồn vui sướng cho gần 90% người lao động trên thế giới. Hãy nghĩ đến sự lãng phí các dịch vụ xã hội, lãng phí cảm xúc và có lẽ lãng phí cả tiền bạc mà con số thể hiện. 90% người trưởng thành dành một nửa thời gian thức để làm những việc họ không muốn làm và ở những nơi mà họ không muốn ở. Những câu hỏi khảo sát của Gallup đã nắm bắt được nhiều lý do làm việc mà tôi vừa liệt kê. Những khía cạnh công việc mà bài khảo sát nói đến là: cơ hội làm việc một cách “tương xứng”, hết sức mình; cơ hội để có hứng thú học hỏi và phát triển bản thân; để cảm thấy cảm kích, vui vẻ với đồng nghiệp và quản lý; để cảm thấy được tôn trọng ý kiến; để cảm thấy công sức mình bỏ ra là cần thiết; và để có những người bạn tốt ở nơi làm việc. Và đối với phần đông áp đảo, công việc của họ thiếu – thiếu nhiều – những điều đó. Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao? Cuốn sách này sẽ đưa ra một câu trả lời. *** Quan niệm sai lầm Hơn hai thế kỷ nay, cả xã hội và từng cá nhân chúng ta đã thấm nhuần một số quan niệm sai lầm về quan hệ của con người với công việc. Đó là một nguyên lý kinh tế học đã được chấp nhận từ lâu, được một số học thuyết tâm lý bồi thêm cho vững chắc. Nguyên lý ấy là: nếu bạn muốn có một ai đó – nhân viên, sinh viên, quan chức chính phủ hay con cái của bạn – làm một việc gì đó, thì bạn phải đền bù xứng đáng cho họ. Con người làm việc vì được thúc đẩy, vì phần thưởng, vì tiền. Bạn có thể thấy quan điểm này vận hành trong phương pháp “cà rốt và cây gậy”, một phương pháp chủ yếu trong những nỗ lực giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính hiện thời của thế giới. Để tránh tình trạng khủng hoảng tài chính tái diễn, người ta cho rằng cần phải thay thế những động cơ làm việc “ngớ ngẩn”, thủ phạm dẫn tới tình trạng khủng hoảng đó, bằng những động cơ “thông minh hơn”. Chúng ta phải có những động cơ đúng. Những thứ khác không thực sự quan trọng. Quan niệm này đã làm sống lại quan niệm của người phát kiến ý tưởng về thị trường tự do, Adam Smith. Trong cuốn Của cải của các quốc gia (The Wealth of Nations), xuất bản năm 1776, ông viết: Con người ta vốn thích được sống sung sướng nhất có thể; và nếu tiền lương vẫn như vậy dù anh ta có làm việc chăm chỉ hay không, thì anh ta sẽ lơ là và lười biếng vì được cho phép. Nói cách khác, con người làm việc vì tiền – chẳng hơn mà cũng chẳng kém. Niềm tin của Smith vào sức mạnh thúc đẩy của đồng tiền dẫn ông tới chỗ bênh vực cho cách thức phân chia công việc thành những thao tác nhỏ, lặp lại dễ dàng, cơ bản là vô nghĩa. Miễn là được trả lương, còn lại công việc đó tạo ra sản phẩm gì thì người ta chẳng quan tâm nhiều lắm. Và bằng cách phân chia công việc thành những thao tác nhỏ, xã hội sẽ đạt được năng suất làm việc khổng lồ. Để tán dương lợi ích của chuyên môn hóa, Smith đưa ra một ví dụ nổi tiếng, miêu tả một nhà máy sản xuất đinh: Một người kéo sợi dây ra, người khác lần theo nó, người thứ ba cắt, người thứ tư chộp lấy mẩu cắt ấy, người thứ năm tán cái đầu nó ra để tạo phần mũ... Tôi đã nhìn một phân xưởng nhỏ làm việc kiểu ấy, họ chỉ thuê có 10 người... Bọn họ có thể làm ra được hơn 48.000 cái đinh một ngày... Nhưng nếu cho làm việc riêng rẽ và độc lập... thì chắc mỗi người không làm nổi được 20 cái. Như chúng ta sẽ thấy sau này, quan điểm của Smith về loài người tinh vi hơn, phức tạp hơn và giàu sắc thái hơn nội dung vừa trích dẫn. Ông ta không tin rằng “con người trong công việc” nói lên toàn bộ câu chuyện, hay thậm chí là chuyện mấu chốt nhất, về bản chất con người. Nhưng dưới bàn tay những kẻ hậu bối của Smith, quan niệm đó đã mai một đi phần lớn độ tinh vi và khía cạnh phức tạp của nó. Hơn một thế kỷ sau, các quan điểm của Smith đã dẫn đường chỉ lối cho cha đẻ của cái được gọi là phong trào “quản lý khoa học”, Frederick Winslow Taylor. Taylor nghiên cứu tỉ mỉ về thời gian và cử động để tinh giản nhà máy, như cách Smith hình dung, để biến nhân công thành một bộ phận của một bộ máy vận hành trơn tru. Và ông ta đã đặt ra những cơ chế khen thưởng để thúc đẩy nhân công làm việc chăm hơn, nhanh hơn, và chính xác hơn. Không lâu sau đó, quan điểm của Smith đã tác động đến suy nghĩ của một nhân vật tiếng tăm trong giới tâm lý học giữa thế kỷ 20, B. F. Skinner. Các nghiên cứu của Skinner trên chuột và bồ câu – qua những thí nghiệm đơn giản, lặp lại, hết lần này đến lần khác, với phần thưởng là thức ăn hoặc nước uống – đã khoác lên một cái áo mang màu sắc khoa học đúng đắn và phương pháp luận cho những cải cách môi trường làm việc do Taylor phát triển. Skinner đã chỉ ra rằng hành vi của con vật có thể bị ảnh hưởng mạnh mẽ và được kiểm soát chặt chẽ bằng cách điều khiển số lượng phần thưởng và tần số thưởng mà hành vi đó đem lại. Giống như Taylor phát hiện ra chế độ trả lương khoán theo sản phẩm (một số tiền cố định cho mỗi sản phẩm hoàn thành) đã nâng cao năng suất làm việc ở nhà máy, Skinner nhận ra rằng con chim bồ câu trong phòng thí nghiệm cũng nghe lời hơn với hình thức khoán tương tự. Bạn có thể hỏi tại sao lại có ai đó đi chọn làm việc trong xưởng đinh của Smith, tán đầu đinh hết phút này đến phút khác, giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác cơ chứ. Câu trả lời của Smith là, tất nhiên rồi, phàm là người thì chẳng ai thích làm việc trong xưởng đinh. Nhưng phàm là người thì cũng chẳng ai thích làm việc cho dù ở bất cứ đâu. Smith đang nói với chúng ta rằng lý do duy nhất cho việc người ta làm bất kỳ thể loại công việc nào chính là số tiền mà nó đem lại. Và miễn là số tiền ấy xứng đáng thì bản thân công việc ra sao lại chẳng thành vấn đề. Adam Smith đã nhầm về thái độ và động lực làm việc của chúng ta. Nhưng khi chủ nghĩa tư bản phát triển dưới ảnh hưởng của ông, bằng một bước xoay mình uyển chuyển của “lý thuyết động cơ cho vạn vật”, người ta đã cải tiến ra một mô hình làm việc bỏ qua hoặc xóa sổ tất cả những yếu tố tiềm năng khác có thể khiến con người ta hài lòng với công việc. Và dần dần, cả hành tinh này đều vận hành theo mô hình như thế, nên mỗi sáng người ta lê bước đi làm mà trong lòng đã chết đi mầm mống ý nghĩa công việc mình làm, đã nguội lạnh lòng thiết tha hay phai tàn những cảm giác hứng khởi do được thử thách khả năng. Vì chẳng có lý do gì để làm việc ngoại trừ tiền, nên họ sẽ làm việc vì tiền. Vậy là quan điểm sai lầm của Smith về lý do làm việc của con người đã trở thành đúng. Ở đây, tôi không định nói rằng trước cuộc cách mạng công nghiệp, lao động là việc vui vẻ. Không hề. Tuy nhiên, lao động của những nông dân, thợ thủ công, và người bán hàng, mặc dù có thể đã từng vất vả, nhưng người ta lại khá tự do, có quyền tự quyết và công việc cũng khá phong phú. Họ có cơ hội sử dụng tài khéo léo của mình để giải quyết các vấn đề phát sinh và tìm tòi những cách thức làm việc hiệu quả hơn. Tất cả những cơ hội này đã rớt lại phía sau khi người ta bước qua cánh cửa nhà máy. Biến những quan niệm sai thành đúng Có thể bạn đồng ý với Smith. Có thể bạn tin rằng với hầu hết mọi người, về cơ bản, công việc chỉ xoay quanh tiền lương và chẳng là gì hơn. Chỉ có “giới tinh hoa” mới muốn có công việc thử thách, ý nghĩa và sự gắn bó và chỉ có họ mới có thể trông đợi những điều đó từ công việc. Không chỉ là có phần hợm hĩnh, quan điểm này còn không đúng. Nhiều người làm những việc mà chúng ta vẫn cho là tầm thường – quản gia, công nhân nhà máy, nhân viên trực tổng đài – quan tâm đến nhiều yếu tố hơn là chuyện tiền lương. Trong khi nhiều chuyên gia lại làm việc chỉ vì tiền. Những điều mà mọi người tìm kiếm phần lớn phụ thuộc vào những gì công việc của họ có thể mang lại. Và điều kiện lao động ra đời từ cuộc cách mạng công nghiệp, được kéo dài mãi một phần nhờ vào các lý thuyết từ các ngành khoa học xã hội, đã tước đoạt một cách có hệ thống niềm hạnh phúc lao động của họ. Để làm được như thế, chúng đã cướp mất của con người một nguồn vui quan trọng – và trả về những công nhân tồi tệ. Bài học ở đây là tầm quan trọng của sự khích lệ vật chất đối với con người sẽ phụ thuộc vào cấu trúc vận hành của nơi làm việc. Và nếu chúng ta tổ chức môi trường làm việc dựa trên quan điểm sai lầm rằng con người làm việc chỉ vì tiền, thì chúng ta sẽ tạo ra một nơi làm việc khiến cho quan điểm sai lầm này trở thành đúng. Bởi vậy, chuyện “người lao động không làm việc vô tư nữa” là không đúng. Cái đúng là bạn sẽ không còn có thể nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình nữa nếu bạn chỉ giao cho người ta một kiểu công việc chán chường và tẻ nhạt. Để mọi người “hỗ trợ nhiệt tình” bạn cần giao cho họ công việc mà họ muốn làm. Và ta sẽ thấy việc người lao động làm việc hết mình, vô tư, không phải vì tiền không còn là mộng tưởng kiểu “bánh vẽ”. Viễn cảnh ấy nằm ngay trong tầm với của chúng ta. Cũng nên nói rằng nhiều năm qua, lý thuyết và thực tiễn về quản lý đã đi qua những giai đoạn công nhận – thậm chí còn ca ngợi – các động lực làm việc đa dạng của con người, và các nhà quản lý được khuyến khích tạo ra một đời sống công sở có khả năng vun đắp tình cảm gắn bó và ý nghĩa công việc, vì lợi ích của cả nhân viên lẫn của tổ chức. Nửa thế kỷ trước, “Thuyết Y” của Douglas McGregor(1) đã là một nỗ lực có tầm ảnh hưởng lớn trong dòng phát triển này, còn Stephen Barley và Gideon Kunda đã xuất bản một bài báo quan trọng liệt kê diễn biến thịnh suy theo thời gian của những quan điểm quản lý công việc này. Nhưng không hiểu sao, những quan điểm như thế này chưa bao giờ hoàn toàn tàn lụi. Phong cách làm việc thoải mái và khác người của Google cùng các công ty đang phát triển như diều gặp gió khác ở thung lũng Silicon có thể sẽ khiến người ta có ấn tượng rằng những công việc lao dịch theo dây chuyền đã lùi vào dĩ vãng. Nhưng giống như lực hút trái đất, quan niệm người ta làm việc chỉ vì tiền đã hết lần này đến lần khác kéo những hi vọng về những mục đích làm việc cao cả hơn dúi dụi trở về mặt đất. Qua nhiều thế kỷ, người ta đã nhận ra những quan niệm của Adam Smith về bản chất con người quả thật rất dai dẳng. Các quan điểm hoặc lý thuyết về bản chất con người có một vị trí độc nhất trong các ngành khoa học. Chúng ta không phải lo lắng rằng trật tự vũ trụ sẽ bị biến dạng do những giả thuyết của chúng ta về vũ trụ. Các hành tinh thực sự không quan tâm đến quan niệm hoặc lý thuyết của chúng ta về chúng. Nhưng chúng ta nên lo lắng rằng bản chất con người sẽ bị thay đổi bởi các lý thuyết chúng ta đưa ra về bản chất con người. Bốn mươi năm trước, nhà nhân chủng học lỗi lạc Clifford Geertz đã nói rằng loài người là “động vật chưa hoàn thiện”. Ý ông là bản chất con người chính là sản phẩm của xã hội xung quanh chúng ta. Rằng con người tạo ra chứ không phải phát hiện ra bản chất của mình. Chúng ta “thiết kế” bản chất con người, bằng cách thiết kế nên những tổ chức mà mình sống trong đó. Bởi vậy ta nên tự hỏi bản thân là mình muốn góp phần thiết kế nên loại bản chất nào. Nếu muốn góp phần tạo nên một kiểu con người tìm kiếm những thử thách, sự gắn bó, ý nghĩa, và sự thỏa mãn trong công việc, chúng ta phải bắt đầu từ việc xây dựng một con đường thoát khỏi cái hố sâu mà gần ba thế kỷ những hiểu lầm về động lực và bản chất chất con người đã đẩy chúng ta vào, và giúp bồi dưỡng những mảnh đất làm việc mà trong đó thử thách, sự gắn bó, ý nghĩa và sự thỏa mãn có thể đâm chồi. Mời các bạn đón đọc Vì Sao Chúng Ta Làm Việc của tác giả Barry Schwartz.