Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mùa Thu Hoạch Xương

Haiti và Cộng hòa Dominicana, hai quốc gia láng giềng trên cùng một hòn đảo vùng Ca-ri-bê, năm 1937, Amabelle sống cuộc đời bình lặng của một cô hâu gái người Haiti cho cô chủ Valencia, một gia đình Dominicana thuợng luu. Cuộc sống thường nhật của cô và chàng trai đồng hương Sebastien hẳn sẽ tiếp tục trôi qua trên những ngọn đồi giữa những cánh đồng mía nếu độc tài Trujillo không bắt đầu cuộc thảm sát "Cây mùi tây" nhắm vào người Haiti ở Dominicana. Bị đẩy vào một cuộc vuợt biên đầy nguy hiểm, Amabelle buộc phải đối mặt với việc lựa chọn giữa mất mát và sống còn, giữa những bóng đen trong quá khứ và tương lai. Quan trọng hơn, liệu cô có đủ dũng cảm để tiếp tục sống như một trong "những người trở về từ cõi chết" trên chính quê hương của mình? "Nhưng tôi muốn mọi người biết rằng tôi hiểu. Tôi nhìn thấy tất cả những thứ đó. Chỉ có điều tôi đã tưởng rằng chúng sẽ không nhìn thấy tôi. Tôi những tưởng rằng chúng sẽ không tìm ra tôi. Chỉ đến khi Mimi và Sebastien bị bắt đi thì tôi mới nhận ra rằng dòng sông máu đã chảy tới trước cửa nhà mình, rằng nó vẫn luôn ầm ào chảy ngay trong nhà của tất cả chúng tôi." *** Kế ấy, Jephthah hiệp lại hết thảy dân Gilead, giao chiến cùng Ephraim. Người Gilead chiếm hết những chỗ cạn để vượt sông Jordan dẫn vào Ephraim. Và khi một người Ephraim sống sót nào nói rằng, “Xin để cho tôi đi qua”, thì những người Gilead nói rằng : “Ngươi có phải người Ephraim chăng ?” Nếu anh ta nói, “Không,” chúng bèn nói cùng người đó rằng, “Thế thì, hãy nói ‘Shibboleth.’” Nếu người đó nói “Sibboleth”, vì anh ta không thể phát âm chính xác chữ đó được, chúng sẽ bắt và giết họ tại chỗ cạn của sông Jordan. Khi đó, đã có bốn mươi ngàn người Ephraim bị sát hại. Kinh Judges 12:4-6 Dâng kính lên người, Metrès Dlo, Bà mẹ của Những dòng sông Amabelle Désir *** T ên anh ấy là Sebastien Onius. Gần như đêm nào anh cũng đến để dập tắt cơn ác mộng mà tôi luôn thấy về cái ngày cha mẹ tôi chết đuối. Trong lúc tôi kháng cự lại giấc ngủ, anh thì thầm bảo “nằm yên trong lúc anh đưa em trở lại.” “Trở lại đâu?” Tôi hỏi mà không cảm thấy môi mình động đậy. Anh trả lời, “Anh sẽ đưa em trở lại hang đá phía bên kia con suối.” Tôi loạng choạng rướn người về phía anh, gắng gượng để đứng lên. Anh giúp tôi giữ thăng bằng với những đầu ngón tay dài mà cong, những ngón tay sống động trườn mò về phía tôi. Tôi bám vào người anh, đầu tôi suýt chạm tới giữa vòm ngực anh. Anh đẹp một cách hào sảng trong ánh sáng tù mù của ngọn đèn dầu thốt nốt, mặc dù gương mặt đen bóng của anh đầy rãnh sẹo đan xen do những thân mía để lại. Cánh tay anh lớn bằng cả vòng đùi tôi. Chúng là những thanh thép, tôi luyện bởi bốn năm thu hoạch mía. “Nhìn em này,” anh vừa nói vừa nâng mặt tôi lên bằng bàn tay rộng lớn hình bát úp, nơi lòng bàn tay đã mất đi chỉ tay do những con dao chặt mía. “Em ngời sáng như một ngọn đèn lồng Giáng sinh, ngay cả với làn da màu tro tàn của gỗ vụn trong mưa.” “Đừng nói với em kiểu đó,” tôi lẩm bẩm trong lúc vẫn đang giằng co với bóng đen của giấc ngủ. “Nói chuyện kiểu này làm em thấy trần trụi.” Anh đưa bàn tay vuốt ve dọc theo lưng tôi. Lòng bàn tay thô ráp và chai sần của anh day miết như muốn bào mòn da thịt tôi, trong khi chiếc vòng đeo tay làm từ những hạt cà phê màu vàng của anh lăn qua lăn lại và mơn trớn sống lưng tôi mềm mại. “Hãy cởi váy ngủ của em ra,” anh gợi ý, “và thực sự trần trụi đi. Khi đã trút bỏ hết rồi, em sẽ biết rằng mình đang hoàn toàn tỉnh táo và anh có thể ngắm nhìn em trong vui sướng.” Nói rồi, anh lướt về phía bên kia phòng và quan sát mọi cử động của da thịt tôi trong lúc tôi cởi bỏ áo quần. Anh ở trong một góc phòng cách xa ngọn đèn, một vùng tối nơi anh nhìn thấy tôi rõ hơn là tôi thấy anh. “Sẽ tốt cho em nếu em hiểu và tin rằng anh luôn ở gần bên em ngay cả khi mắt em không thể nhìn thấy anh,” anh nói. Câu nói này khiến tôi bật cười lớn, quá lớn vào thời khắc nửa đêm. Bây giờ thì tôi đã hoàn toàn khỏa thân và tỉnh táo. Tôi nhanh chóng ngã vào vòng tay anh với bộ váy ngủ còn vướng quanh mắt cá chân. Với thân hình gầy gò như anh hay nói, tôi sợ mình sẽ dễ dàng gãy làm đôi và biến mất. Tôi sợ phải sống nhút nhát, tách biệt, và lạnh lẽo. Tôi sợ rằng mình sẽ ngừng tồn tại khi anh không ở đó. Tôi như một hòn cuội ở biển hút ngược màu sắc của mình vào bên trong và không còn trong trẻo nữa một khi bị mang ra ngoài ánh nắng mặt trời và rời xa bọt sóng. Khi anh không ở đó, tôi sợ tôi sẽ không còn biết ai và cũng chẳng còn ai biết tôi. “Quần áo em che đậy đâu chỉ da thịt em,” anh nói. “Chúng biến em thành một thứ đồng phục gò bó. Bây giờ em mới là em bằng xương bằng thịt.” Tôi hoặc phải ở trong một cơn ác mộng, hoặc không ở bất kỳ nơi nào cả. Nếu không, tôi chỉ trôi lơ lửng trong những ký ức này, xót xa cho tôi của quá khứ, và hơn hết là cho tôi của hiện tại. Nhưng những đau buồn này tôi để dành khi không có anh ở bên. “Hãy nhìn khuôn mặt nhỏ nhắn hoàn hảo của em này,” anh nói, “dáng hình nhỏ nhắn hoàn hảo của em, cơ thể nhỏ nhắn hoàn hảo của em, một người thiếu nữ đang lớn với nước da đen thăm thẳm. Tất cả các gam màu tối hiện hữu trong em, những thứ chúng ta nhìn thấy và không nhìn thấy, cái thiện và cái ác.” Anh lướt tay trên người tôi nhẹ tựa lông hồng, như thể anh cũng sợ rằng tôi sẽ tan biến đi mất. “Mọi thứ trên khuôn mặt em đều nằm đúng chỗ,” anh nói, “mũi em cũng nằm ở vị trí của nó.” “Ôi, wi1, thật thê thảm biết bao,” tôi đáp, “nếu mũi em nằm ở dưới gan bàn chân.” 1 Ừ, đúng. Tiếng Creole ở Haiti. Lần này thì chính anh là người bật cười. Nhìn gần hơn, tiếng cười làm khuôn mặt anh nhăn lại và hai vai anh nhấp nhô lên xuống không đều nhịp. Tôi không bao giờ dám chắc rằng anh đang cười hay vừa cười vừa khóc, mặc dù tôi chưa bao giờ thấy anh khóc. Tôi choàng tay qua người anh và chìm lại vào giấc ngủ. Anh sẽ biến mất trước khi tia nắng ban mai đầu tiên đượm mùi sả ló dạng. Nhưng tôi vẫn cảm nhận được sự hiện diện của anh ở đó trong căn phòng vuông vức nhỏ bé của mình. Tôi có thể ngửi thấy mùi mồ hôi anh, đặc quánh như mật mía khi anh phải vắt sức quá nhiều. Tôi vẫn có thể nếm náp khuôn miệng anh, với phần lợi thẫm màu cà tím có vị ngọt nhầy của sữa dê đun nóng đến quyện đường và mùi của những củ khoai tây màu vàng mù tạt. Tôi cảm nhận những móng tay thô dày của anh vun đôi má tôi lên cao, và vòng đeo tay của anh cứa vào hai hõm nhỏ bên dưới xương gò má để lại một giọt máu khô hình trăng khuyết hoàn hảo. Tôi tận hưởng cách lưỡi anh âu yếm lần theo huyết mạch trên sống lưng tôi và để lại những đường ẩm ướt, những dấu tay hằn mờ trên hông tôi nơi anh bám vào quá chắc, có lẽ trong những giây phút khi anh cảm thấy tôi đang tuột dần đi. Và tôi vẫn có thể đếm những hơi thở của anh, đôi khi gấp gáp hơn cả nhịp tim anh. Khi còn là một đứa trẻ, tôi thường dành hàng giờ chơi đùa với cái bóng của mình, trò chơi mà cha tôi luôn cảnh báo rằng sẽ khiến tôi gặp ác mộng, những cơn ác mộng nơi ta thấy những giọng nói xoáy thành cơn lốc đủ sắc cầu vồng và nghe những vật với đủ hình thù kỳ dị trỗi dậy cất tiếng nói khẳng định chính mình. Chơi đùa với bóng của mình giúp tôi, một đứa con một, cảm thấy bớt cô đơn. Mỗi khi tôi có bạn chơi cùng, tôi đều cảm giác họ không có thật hay không hiện diện. Tôi coi họ chỉ như vật thế chỗ cho cái bóng của tôi. Và trong quãng đời sau này, tôi còn gặp nhiều cái bóng khác. Đôi khi Sebastien Onius bảo vệ tôi khỏi những cái bóng. Đôi khi anh lại là một trong số đó. *** Edwidge Danticat (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1969) là một tác giả có hai quốc tịch Haiti và Hoa Kỳ, người có những tác phẩm văn học nhấn mạnh cuộc sống của người phụ nữ và mối quan hệ của họ. Những trải nghiệm cuộc sống của riêng bà đã cung cấp nền tảng và cảm hứng cho các tác phẩm của bà. Truyện ngắn và tiểu thuyết của bà tập trung vào các chủ đề mang tính chất tuần hoàn như di dân, tình dục, giới tính và lịch sử . Cha mẹ của bà đã di cư đến New York mà không đem theo bà đi và bà lớn cùng với cô chú của mình. Trong những năm sớm của cuộc đời, bà bị ảnh hưởng bởi lối kể chuyện của người Haiti và phát triển mối quan tâm đến việc viết lách. Khi được 12 tuổi, bà sống cùng với ba mẹ mình tại Brooklyn nhưng không cảm thấy thoải mái khi phải thích nghi với lối sống và văn hóa của thành phố này và chỉ tìm thấy sự bình yên trong các tác phẩm văn học. Sau khi nhận được bằng tốt nghiệp về văn hóa tiếng Pháp tại Học viện Barnard, bà còn nhận được bằng Bậc thầy Nghệ thuật khi, với luận đề của bà, xây dựng những nền tảng của tiểu thuyết đầu tay của bà Hơi thở, Ánh mắt, Kỷ niệm. Bà đạt được những thành công chưa từng có như một người viết truyện ngăn và tiểu thuyết bằng những tác phẩm nhận được những lời khen từ giới phê bình. Bà cũng là một người đấu tranh các vấn đề ảnh hưởng đến người Haiti ở trong và ngoài nước. Với những trải nghiệm như một người có hai quốc tịch Haiti và Hoa Kỳ, bà viết về một trong những nền văn hóa ít nổi bật nhất trong văn hóa Hoa Kỳ sử dụng phong cách mang tính chất thơ và sôi nổi. Tác phẩm của bà đã được dịch sang một số ngôn ngữ như tiếng Hàn, tiếng Ý, tiếng Đức, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Thụy Điển. Bà được xem xét một cách rộng rãi như là một trong những tác giả tài năng nhất của Hoa Kỳ hiện nay. Vào năm 1994, bà đã xuất bản tiểu thuyết đầu tiên mang tên Hơi thở, Ánh mắt, Kỷ niệm dựa trên luận đề su tốt nghiệp của bà có tiêu đề Sự chuyển của tôi trong lửa - một tiểu thuyết rút gọn. Các truyện ngắn của bà đã được xuất bản trong 25 tạp chí định kỳ và đã được tập hợp trong một số lần. Tác phẩm đã được chuyển dịch sang các ngôn ngữ khác nhau như tiếng Nhật, tiếng Pháp, tiếng Hàn, tiếng Đức, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Thụy Điển. Bà là một giáo viên về sáng tác sáng tạo tại Đại học New York và Đại học Miami. Bà cũng làm việc trong một số dự án về nghệ thuật Haiti và các phim tài liệu về Haiti. Các tác phẩm đã được xuất bản của bà là: The Farming of Bones (1998) The Book of the Dead (1999) Behind the Mountains (2002) Brother, I'm Dying (2007) Ghosts (2009) Create Dangerously: The Immigrant Artist at Work (2010) Claire of the Sea Light (2013) Quality Control (2015), cuốn truyện ngắn mới nhất của bà Mời các bạn đón đọc Mùa Thu Hoạch Xương của tác giả Edwidge Danticat.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cay Đắng Mùi Đời - Hồ Biểu Chánh
Tiểu thuyết Cay Đắng Mùi Đời của ông bao quát những mảng hiện thực, những nét văn hóa đặc trưng của Nam bộ vào những thập niên đầu thế kỷ 20. Đó là sự tha hóa của con người trước sự lớn lên vùn vụt của đầu óc trọng thương, là số phận đáng thương của những thường dân rơi vào cảnh cùng quẫn, là những câu chuyện thế sự giàu chất nhân văn của những con người trên vùng đất mới... *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... Mời các bạn đón đọc Cay Đắng Mùi Đời của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Chỉ Một Lần Yêu - Bà Tùng Long
Khi được tin Sơn bị thương ở mặt trận Tây Nam, Tuyết lo lắng đứng ngồi không yên:  - Không biết anh bị thương ra sao, có hề gì không, đang nằm điều trị ở đâu? Tuyết hồi hộp chờ Lan, em gái Sơn, đem tin về cho Tuyết biết nơi Sơn nằm điều trị là Tuyết sẽ xin phép cha mẹ đi thăm Sơn. Tuyết cho đó là bổn phận mà mình phải làm. Người ta không quen nhau, chưa có cảm tình với nhau, mà các em gái hậu phương còn đem quà ủy lạo các thương binh nằm ở Quân y viện, thì lẽ nào Tuyết lại làm ngơ khi nghe Sơn bị thương? Tuyết và Sơn là bạn học từ khi còn ngồi "ê, a" trên ghế trường làng. Tình bạn thời thơ ấu đã đưa họ đến tình yêu khi cả hai khôn lớn. Biết bao lần Tuyết và Sơn bàn đến chuyện tương lai, hy vọng được cha mẹ chấp thuận để tình yêu họ được kết thúc bằng một đám cưới. Nhưng rồi cũng như bao thanh niên khác trong khi nước nhà có chuyện binh đao, Sơn nhập ngũ đi làm nghĩa vụ đối với Tổ quốc và Tuyết ở nhà đỡ đần cha mẹ, may vá thêu thùa chờ ngày Sơn hoàn thành nghĩa vụ trở về. Hai năm nay, cha mẹ Tuyết nhiều lần khuyên Tuyết nên lập gia đình có nhiều người đến dạm hỏi, nhưng Tuyết vẫn một lòng chờ đợi Sơn. Cha mẹ Tuyết cũng biết Tuyết đã yêu Sơn nên không muốn lấy quyền làm cha mẹ ép buộc Tuyết phải quên Sơn. Bà Hương, mẹ của Tuyết, không khỏi ái ngại cho con gái. Thêm một năm trôi qua là bà thêm sợ Tuyết phải ế ẩm hoặc dở dang. Bà thường nói:  - Đời con gái như cánh hoa sớm nở tối tàn, khi còn hương sắc thì o­ng bướm dập dìu, nhưng đến khi hoa phai phấn lạt thì biết tìm đâu ra người yêu thương mình? Tuyết không nghĩ vậy. Tuyết tin ở tình yêu của Sơn, một mối tình dệt những mười mấy năm, ngày tháng chỉ làm thêm bền chặt chứ không thể làm phai lạt. Tuyết thuộc hạng người yêu chỉ một lần, vì thế dù phải đợi Sơn đến bao giờ, Tuyết cũng đợi được. Những ngày được về phép, Sơn đến thăm Tuyết và nhắc Tuyết lời hẹn ngày nào. Sơn luôn giữ gìn cho Tuyết, lúc nào cũng yêu thương trong sự tôn trọng, quý mến. Sơn nói với Tuyết:  - Anh phải giữ cho em là vì đời lính không có gì chắc chắn. Nếu mai đây anh có bề gì thì em vẫn còn được tấm thân trong trắng để về với người chồng sau này. Như thế anh sẽ không ân hận... *** Làng văn, làng báo Sài Gòn những năm 50-60 thế kỷ 20, Bà Tùng Long là một cái tên nổi tiếng. Tên thật của bà là Lê Thị Bạch Vân (1915-2006). Bà từng đi dạy Pháp văn, Việt văn ở các trường Tân Thịnh, Đạt Đức, Les Lauriers ở Sài Gòn, làm thư ký tòa soạn một số tờ báo và bắt đầu viết văn từ những năm 1953. Bà nổi tiếng với những tiểu thuyết về đề tài xã hội có nhân vật chính là người phụ nữ. Bà Tùng Long cũng là cây bút quen thuộc trên các báo như Sài Gòn Mới, Tiếng Vang, Phụ nữ Ngày mai, Phụ nữ Diễn đàn, Văn nghệ Tiền phong… Trong cuốn hồi ký của mình, bà viết: “Tôi chưa bao giờ dám tự hào xưng mình là văn sĩ, nữ sĩ. Tôi chỉ nói tôi viết văn là để nuôi con, chỉ thế thôi”. Dù chỉ nhận viết văn là nghề tay trái, nhưng bà đã cho ra đời 400 truyện ngắn, và 68 tiểu thuyết - một lượng tác phẩm lớn với sức làm việc đáng nể, nếu không muốn nói là sức lao động phi thường. Với Bà Tùng Long, viết văn là niềm vui lớn nhất đời. Sau năm 1975, nhiều tiểu thuyết của Bà Tùng Long được in và đông đảo công chúng đón nhận. Một số tác phẩm của tác giả Bà Tùng Long: Đường tơ đứt nối Bên hồ Thanh Thủy Một vụ án tình Những ai gieo gió Bóng người xưa Người xưa đã về Đời con gái Duyên tình lạc bến Con đường một chiều Hồi ký Bà Tùng Long Một lần lầm lỡ Mẹ chồng nàng dâu Nẻo về tình yêu Nhị Lan Giang San Nhà Chồng Chúa tiền Chúa bạc Định mệnh ... Mời các bạn đón đọc Chỉ Một Lần Yêu của tác giả Bà Tùng Long.
Đời Con Gái - Bà Tùng Long
Mười hai tuổi, Xuân Lan bắt đầu nhận thấy mình không được yêu thương như các anh chị em khác trong nhà. Mẹ Xuân Lan, bà Phương, dường như ghét bỏ nó. Chỉ có cha và chị Mai Lan, người chị đã đi tu, con riêng của bà Phương với chồng trước, là thương con bé. Những buồn tủi, nghi ngờ trong Xuân Lan lớn lên cùng với sự bất hòa, hục hặc trong gia đình, để rồi khi tất cả bùng nổ đã hé lộ bí mật đầy trái ngang, tội lỗi về sự ra đời của con bé. Đời con gái chỉ cần được yêu thương, nhưng yêu thương cũng chính là nguồn cơn bất hạnh… *** Xuân Lan bắt đầu hiểu chút ít về chuyện đời và nhận xét những sự việc xảy ra trong gia đình từ khi lên mười hai tuổi. Năm ấy nó thi đậu vào lớp đệ thất trường Gia Long, một trường nữ trung học lớn nhất ở miền Nam. Trong khi nó đậu thì Ngọc Hương, chị nó, lớn hơn nó một tuổi, lại rớt và phải ghi tên học ở một trường tư. Vì lẽ ấy mà sự thi đậu của nó không được gia đình đón tiếp một cách vui vẻ. Nó đậu không ai khen, không ai mừng, trái lại cha nó, mẹ nó, các chị nó đều thương Ngọc Hương vì không may bằng nó. Xuân Lan biết suy nghĩ từ lúc đó. Tại sao cũng là con mà nó lại không được yêu thương như các chị nó? Tại sao mỗi sáng chủ nhật, trong khi cha mẹ nó và các chị các anh, cả mấy em nữa, đều được lên chiếc xe sang trọng để đi Thủ Đức, hoặc về quê hay ra Vũng Tàu đổi gió, thì nó lại được mẹ dặn: – Con ở nhà trông nhà nhé. Chóng ngoan mẹ về sẽ thưởng. Khi mọi người đi rồi, chị bếp, người giúp việc trung thành của gia đình, đã nhìn nó với tối mắt đầy thương xót, rồi lắc đầu nói một mình: – Tội nghiệp con bé! ... *** Làng văn, làng báo Sài Gòn những năm 50-60 thế kỷ 20, Bà Tùng Long là một cái tên nổi tiếng. Tên thật của bà là Lê Thị Bạch Vân (1915-2006). Bà từng đi dạy Pháp văn, Việt văn ở các trường Tân Thịnh, Đạt Đức, Les Lauriers ở Sài Gòn, làm thư ký tòa soạn một số tờ báo và bắt đầu viết văn từ những năm 1953. Bà nổi tiếng với những tiểu thuyết về đề tài xã hội có nhân vật chính là người phụ nữ. Bà Tùng Long cũng là cây bút quen thuộc trên các báo như Sài Gòn Mới, Tiếng Vang, Phụ nữ Ngày mai, Phụ nữ Diễn đàn, Văn nghệ Tiền phong… Trong cuốn hồi ký của mình, bà viết: “Tôi chưa bao giờ dám tự hào xưng mình là văn sĩ, nữ sĩ. Tôi chỉ nói tôi viết văn là để nuôi con, chỉ thế thôi”. Dù chỉ nhận viết văn là nghề tay trái, nhưng bà đã cho ra đời 400 truyện ngắn, và 68 tiểu thuyết - một lượng tác phẩm lớn với sức làm việc đáng nể, nếu không muốn nói là sức lao động phi thường. Với Bà Tùng Long, viết văn là niềm vui lớn nhất đời. Sau năm 1975, nhiều tiểu thuyết của Bà Tùng Long được in và đông đảo công chúng đón nhận. Một số tác phẩm của tác giả Bà Tùng Long: Đường tơ đứt nối Bên hồ Thanh Thủy Một vụ án tình Những ai gieo gió Bóng người xưa Người xưa đã về Đời con gái Duyên tình lạc bến Con đường một chiều Hồi ký Bà Tùng Long Một lần lầm lỡ Mẹ chồng nàng dâu Nẻo về tình yêu Nhị Lan Giang San Nhà Chồng Chúa tiền Chúa bạc Định mệnh ... Mời các bạn đón đọc Đời Con Gái của tác giả Bà Tùng Long.
Lầu Tỉnh Mộng - Bà Tùng Long
Lầu tỉnh mộng là câu chuyện mang nhiều ý nghĩa về tình yêu, cuộc sống hôn nhân – gia đình. Lấy bối cảnh ngôi nhà mang tên Lầu Tỉnh Mộng ở vùng cố đô Huế. Gia đình bà Hoàng là một gia đình giàu có, có gốc gác hoàng tộc. Nhưng ngôi nhà ấy không sang trọng, xa hoa mà chứa đựng sự đói nghèo, kham khổ của bà Hoàng và bốn con gái cùng niềm mong mỏi đứa con trai duy nhất đang du học bên trời Tây. Vì bản di chúc kỳ lạ mà gia đình bà phải sống trong đói rách, khó nghèo dù di sản để lại rất lớn. Bức di chúc ấy muốn được đảm bảo bằng tình yêu chân thành, không vụ lợi bằng chính những kinh nghiệm về cuộc đời của người ông quá cố. Bản di chúc ấy cũng cho ta thấy một gia đình có nguồn gốc quyền quý trong cơn nghèo khó họ sống và đối xử với nhau như thế nào. Một người mẹ hết lòng vì con cái, không nỡ để các con cực khổ kiếm sống nhưng cũng chỉ bất lực ngồi nhìn; Mỹ Kim xấu hổ, bực bội vì cái nghèo, Lan Chi thì tìm quên trong những trang sách, Bích Diệp mơ mộng theo làn khói thuốc lá, chỉ có Bích Ngọc là chấp nhận cái nghèo, cố gắng để lo lắng, quán xuyến cho cả gia đình...  Câu chuyện cũng là những bài học về tình cảm nam nữ, vợ chồng đầy ý nghĩa, mang đậm phong cách Á Đông. Đó là những ước vọng tình yêu không vụ lợi, không phân biệt sang hèn; là sự thấu hiểu, tin tưởng, chung thuỷ và đức hy sinh cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam sống ở thời phong kiến và đất nước đang mở cửa cho những nền văn hoá, tư tưởng mới từ phương Tây du nhập. Qua chuyện tình của Bích Ngọc và Ấm Mạnh, của Lan Chi và Thiện, rồi tình cảm vợ chồng qua bao nhiêu thử thách của Bích Ngọc và Huyện Tích… tác giả đã khẳng định những đức tính cao quý của người phụ nữ Việt Nam, về luật nhân quả, yêu thương ở đời. Bằng lối viết văn xưa mộc mạc, giản dị, những tình tiết không gay cấn, căng thẳng mà thắt nút mở nút nhẹ nhàng, không hấp tấp vội vàng cũng khồng rề rà, kể lể. Lầu Tỉnh Mộng giúp ta thức tỉnh một cơn mộng về cuộc đời, về tình yêu và cuộc sống, để biết trân trọng những giá trị cao quý của tình cảm gia đình, cuộc sống hôn nhân và tin tưởng vào những điều tốt đẹp của tình yêu. *** Làng văn, làng báo Sài Gòn những năm 50-60 thế kỷ 20, Bà Tùng Long là một cái tên nổi tiếng. Tên thật của bà là Lê Thị Bạch Vân (1915-2006). Bà từng đi dạy Pháp văn, Việt văn ở các trường Tân Thịnh, Đạt Đức, Les Lauriers ở Sài Gòn, làm thư ký tòa soạn một số tờ báo và bắt đầu viết văn từ những năm 1953. Bà nổi tiếng với những tiểu thuyết về đề tài xã hội có nhân vật chính là người phụ nữ. Bà Tùng Long cũng là cây bút quen thuộc trên các báo như Sài Gòn Mới, Tiếng Vang, Phụ nữ Ngày mai, Phụ nữ Diễn đàn, Văn nghệ Tiền phong… Trong cuốn hồi ký của mình, bà viết: “Tôi chưa bao giờ dám tự hào xưng mình là văn sĩ, nữ sĩ. Tôi chỉ nói tôi viết văn là để nuôi con, chỉ thế thôi”. Dù chỉ nhận viết văn là nghề tay trái, nhưng bà đã cho ra đời 400 truyện ngắn, và 68 tiểu thuyết - một lượng tác phẩm lớn với sức làm việc đáng nể, nếu không muốn nói là sức lao động phi thường. Với Bà Tùng Long, viết văn là niềm vui lớn nhất đời. Sau năm 1975, nhiều tiểu thuyết của Bà Tùng Long được in và đông đảo công chúng đón nhận. Một số tác phẩm của tác giả Bà Tùng Long: Đường tơ đứt nối Bên hồ Thanh Thủy Một vụ án tình Những ai gieo gió Bóng người xưa Người xưa đã về Đời con gái Duyên tình lạc bến Con đường một chiều Hồi ký Bà Tùng Long Một lần lầm lỡ Mẹ chồng nàng dâu Nẻo về tình yêu Nhị Lan Giang San Nhà Chồng Chúa tiền Chúa bạc Định mệnh ... Mời các bạn đón đọc Lầu Tỉnh Mộng của tác giả Bà Tùng Long.