Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Từ Điển Tiếng

Từ điển tiếng “Em”, một cuốn sách định nghĩa về thế giới mới. Bạn sẽ thấy bất ngờ khi cầm cuốn sách này trên tay và sẽ bất ngờ hơn khi bắt đầu đọc từng trang sách. Đây không phải là một cuốn từ điển thông thường, đồ sộ, giải thích mạch lạc, hướng dẫn cách dùng, dịch nghĩa, phát âm hay cách sử dụng từ ngữ như bạn vẫn hay gặp giống như từ điển tiếng Anh hay từ điển tiếng Việt gì đó. Cuốn sách Từ điển tiếng “Em” sẽ mang bạn đến với những định nghĩa mới mẻ, bắt theo trend rất chuẩn mực, sáng tạo với sự thông minh và hài hước. Tiếng “em” [danh từ] ở đây là tiếng lòng của những người yêu sự thật, ghét sự giả dối. Cô đơn [tính từ] không phải là không có ai bên cạnh, mà là người mình muốn ở cạnh lại không hề ở bên. Sống lỗi [động từ] là cách sống của mấy bạn có người yêu cái là bỏ bê bạn bè liền hà. Đây cũng không phải chỉ là một cuốn sách nói về yêu đương mà nó còn có nhiều nội dung hơn thế. Đó là những mẩu chuyện tám của giới trẻ thời nay, là những hoạt động tưởng vô bổ nhưng cần thiết cho sự sống: ăn, ngủ, tắm, gội cũng được định nghĩa hết sức dí dỏm và hài hước. Cũng không thiếu những “tật xấu, thói hư” nghĩ đến đã thấy “tức cái lồng ngực”. Khotudien hoạt động bởi sự điều hành của Thịt Kho – Hiệp Thị – 2 chủ xị đã đồng hành cùng cho ra đời cuốn sách nhỏ bé xíu xiu nhưng mới mẻ và mặn mà vô cùng này. Bạn sẽ lập tức cập nhật được những xu hướng mới nhất, cười cả ngày không chán, thay đổi cách nhìn với bạn bè bằng ánh mắt dễ thương, tận hưởng cuộc đời với những định nghĩa mới hoàn toàn! 3. Tóm tắt nội dung sách Từ điển tiếng “Em” Cuốn sách này giống như một chiếc hộp Pandora thú vị và hấp dẫn người đọc, vì bạn không thể đoán trước được tác giả sẽ “định nghĩa” câu nói đó theo nghĩa nào, cho ta thêm thích thú với những ngôn từ đáng yêu sử dụng mỗi ngày. Vậy nên, ngay bây giờ, hãy cũng mình mở ra những điều thú vị trong cuốn sách bằng những trích dẫn siêu chất nhé! Anh giàu: Mẫu câu tự giới thiệu ngắn gọn, súc tích nhưng dễ đi vào lòng người dành cho các bạn nam. Uổng: dành cho những người đẹp mà không có ai yêu. Váy chống nắng: Là thứ được dùng với công dụng chống nắng thì ít, che cái chân ghẻ thì nhiều. Sang chấn tâm lý: Khi bạn cố gắng tập thể dục, ăn kiêng. Có sức “hút”: Là đặc điểm của một cô gái thích uống trà sữa nhiều trân châu và thật nhiều topping. Con ghẻ: Là đứa đường đường chính chính là con cái trong nhà nhưng lại không được bố mẹ cưng chiều bằng con Pet. Duyên âm: Là cái cớ biện minh cho sự ế chổng ế chơ của bạn Dễ tính: Tính cách của những người cho ăn thì ăn, không cho ăn thì ăn. Vợ/chồng: Là người mình đang gửi ở nhà ba má vợ/chồng, khi nào tiện mình sẽ đón về, bà con họ hàng nhất là bác hàng xóm đừng hỏi nữa nha! Thính: Là một thứ gì đó vô hình nhưng lại có thơm, khi không có ai thả thì thèm, khi có lại không thèm đớp. Thiếu nghị lực: Đang giận nhau đến không thèm nhìn mặt nhưng chỉ cần mời đi ăn là đồng ý liền. Tao sẽ không lấy chồng: Câu cửa miệng của những đứa hay theo chồng bỏ cuộc chơi sớm nhất hội. Sống vội: Crush mới like hình thôi đã nghĩ đến chuyện đám cưới ở đâu, đặt con tên gì. Đa nhân cách: Đặc điểm của mấy bạn nói chuyện với trai thì ngọt như mía lùi dạ dạ vâng vâng, nói chuyện với bạn thì chua ngoa, chửi bạn xa xả như chửi con. Nhà nghỉ: Nơi người vào để nghỉ thì ít mà người để vào mệt thì nhiều. Bán bạn thân lấy 2 tỷ: Là việc mà ai cũng muốn làm nhưng ngặt nỗi chả ai thèm mua. Thanh lịch: Đặc điểm của những bạn nữ thấy trai đẹp nhưng vẫn giữ được bình tĩnh về nhà tìm info. Chó: là thú cưng, nhưng cũng có thể là con rể của nhiều gia đình do mẹ tuyển chọn. Giỏi chuyện giường chiếu: Là điểm nổi bật của những người có thể ngủ bất cứ khi nào, bất cứ ở đâu mà không bi lạ chỗ, thậm chí có thể ngủ 12 tiếng 1 ngày. Em có đứa bạn: chẳng có đứa bạn nào ở đây cả, chính là nó trong câu chuyện đó đó… Chân thực: Cảm giác nghèo len lỏi qua từng tế bào mỗi độ cuối tháng. Rủ crush đi nhậu: Chiêu tán tỉnh Crush hiệu quả hơn cả rủ crush đi trà sữa, cà phê. Mày biết gì chưa?: Câu nói cửa miệng của những bạn chuyên hít drama sống qua ngày. Tức: Cảm giác khi kể chuyện cười mà không một ai cười. Hả hê: Khi thấy người yêu mới của người yêu cũ xấu hơn mình. Hẹn báo thức: Hành động người ta vẫn làm mỗi ngày chỉ để cho có lệ chứ chưa bao giờ dậy đúng giờ báo thức. Oan: Là khi mình nghèo xác nghèo xơ mà ai cũng nghĩ mình giàu. Trò ngu nhất: “Chợp mắt thêm 5 phút nữa thôi.” Cho tao mượn bút, gôm, bút xóa…: Câu cảnh báo đồ của bạn có thể một đi không trở lại. Phát rồ: Là cảm giác khi đang load 1000 cái comment để đọc thì lỡ tay nhấn thoát ra và phải nhấn load lại từ đầu. Mẹ: Là Shark mạo hiểm nhất trên đời vì đã đầu tư nuôi nấng, dạy dỗ một đứa con như tôi, hai mươi mấy tuổi đầu rồi chưa làm được gì, chỉ toàn ăn hại. Cô đơn: Không phải là không có ai bên cạnh, mà là người mình muốn ở cạnh lại không hề ở bên. Bơ: Là danh từ thì tốt cho sức khỏe, là động từ thì có hại cho tim. Thả thính dự phòng: Là hành động của mấy bạn trai lúc thì nhắn tin nồng nhiệt, lúc thì bơ bạn như người vô hình. Thất tình: Là cách tốt nhất để có động lực tự nâng cấp bản thân lên một phiên bản tốt hơn. Nhầm to: Là khi bạn nghĩ người nhắn tin thâu đêm suốt sáng với bạn đang thích bạn. Không! Tại người ta rảnh thôi. Điều đáng sợ nhất trong tình yêu: Là khi bạn nhận ra chẳng có chút “tình yêu” nào trong cái tình yêu mà bạn vẫn nghĩ đó là tình yêu. Trốn tìm: Là trò chơi mà tôi và người yêu đang chơi rất giỏi, mãi mà vẫn chưa tìm ra nhau luôn. Cười ỉa: Là khi nghe tin người yêu cũ bị người yêu mới của người yêu cũ đá với lý do y hệt như khi nó đá mình. Ước mơ giản dị: Sau một ngày làm việc mệt mỏi trở về nhà có người nấu cơm cho ăn, không phải suy nghĩ hôm nay ăn gì, ở đâu. Mệt mỏi: Khi phải nhớ lại xem hôm qua đã gội đầu chưa, hôm nay có nên gội tiếp không, có khi quên gội 2 ngày liên tiếp. Ăn Tết văn minh: Không hỏi các vấn đề lương thưởng, người yêu, cân nặng,… Nói chung là ăn thôi – đừng hỏi. Hahahaha: Là phản xạ ngay lập tức khi nghe người yêu cũ nói: “Anh nhớ em, mình quay lại được không?” 1M58: Là con số chiều cao lý tưởng để dễ có người yêu. Yêu xa: Cách giúp bạn có thể cao thêm vài centimet một cách tự nhiên. Xin lỗi! Được Chưa?: Là lời xin lỗi của những người dù miệng xin lỗi nhưng lòng vẫn không cam tâm. Chân lý: Thà lùn tự nhiên còn hơn cao vì sừng. “Em ổn: Khi con gái nói câu này, thì nó có nghĩa ngược lại, lý do thì thường đơn giản là tại bạn. Đau đầu: Ngày nào cũng phải suy nghĩ hôm nay ăn gì, ăn xong lại suy nghĩ tiếp ngày mai ăn gì. 4. Cảm nhận và đánh giá sách Từ điển tiếng “Em” “Từ điển tiếng “em” đã không làm mình thất vọng chút nào vì nội dung rất “mặn”, “thuốc” gây cười hiệu quả và cũng rất đúng với thực tế. Cuốn sách gồm nhiều quote dễ thương, nhẹ nhàng. Đọc không cần chuẩn bị tâm lý, kiến thức gì, cũng không cần suy nghĩ gì quá nhiều. Đúng với định nghĩa từ điển. Mình không đọc lần lượt từng trang sách mà chọn một trang bất kỳ, mình nghĩ cách này thích hợp với những cuốn sách có thể loại này. Tuy nhiên kích thước của cuốn sách khá nhỏ bìa sách cũng không bắt mắt lắm, nội dung bên trong được trình bày rõ ràng nhưng không có hình ảnh minh họa cũng có thể vì là “từ điển” nên thế. Một cuốn sách chạy theo xu hướng của các bạn trẻ bây giờ với những định nghĩa táo bạo nhưng cũng hết sức phù hợp với thực tế, cuốn sách thực sự giúp bạn giải trí rất tốt sau những khoảng thời gian làm việc và học tập căng thẳng. Mời các bạn đón đọc Từ Điển Tiếng "Em" của tác giả Khotudien.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mọi Ông Bố Đều Đã Từng Xếp Thứ Nhất - Azit Nexin
Tập truyện cười này gồm có: Bức thư đầu tiên Kiến trúc sư… đã xây nên châu Mỹ Mọi ông bố đều đã từng xếp thứ nhất Hãy quên tất cả những gì các em đã học! Có làm mới có ăn… Bài học luận lý Tôi không ngờ em lại như vậy!… Sự hối tiếc Người cha của tám cô gái Con chưa thể hiểu Cái xương Lễ sinh nhật Tôi đã làm quen với một thần đồng Nhiều giọt nước làm nên biển cả Chúng tôi bước sang năm mới bình an Con bé cẩu thả Một câu nói tục Hãy yêu nước Cần phải đọc một bài thơ như thế nào? Nhà trường và gia đình Con cái chúng ta giỏi thật! Em yêu quý! Khi nhà có khách Thật đáng hổ thẹn! Tình cảm gia đình Một lời nói dối Đêm văn nghệ thiếu nhi Cuộc thi truyện do trẻ em viết Có thể rất tuyệt! Thư của tác giả gửi các em *** Aziz Nesin, đọc là Azit Nexin hay Azit Nêxin, (tên khai sinh là Mehmet Nusret; 20 tháng 12 năm 1915 - 6 tháng 7 năm 1995) là một nhà văn châm biếm được ngưỡng mộ ở Thổ Nhĩ Kỳ và là tác giả của hơn 100 cuốn sách. Bút danh Aziz Nesin nguyên là tên cha ông, được ông sử dụng làm bút danh khi bắt đầu sáng tác. Ông đã sử dụng hơn năm mươi bút danh, như "Vedia Nesin", tên người vợ đầu, cho những bài thơ tình được xuất bản trên tạp chí Yedigün. Ông sinh tại Heybeliada, Istanbul dưới chế độ đế chế Ottoman năm 1915. Sau khi làm viên chức trong vài năm, ông trở thành người biên tập của một loạt tạp chí trào phúng châm biếm nghiêng về chủ nghĩa xã hội . Ông bị tống giam vài lần vì thái độ chính trị của mình. Aziz Nesin đã đưa ra một bản cáo trạng mạnh mẽ lên án sự áp bức và đối xử hung bạo với dân thường. Ông châm biếm bộ máy quan liêu và phơi bày sự bất công của nền kinh tế qua các tác phẩm được kết hợp giữa màu sắc địa phương và sự thật trần trụi một cách tinh tế. Aziz Nesin được trao tặng nhiều giải thưởng tại Thổ Nhĩ Kỳ, Ý, Bulgaria và Liên bang Xô Viết. Những tác phẩm của ông được dịch ra hơn 30 thứ tiếng. Trong nửa sau cuộc đời mình, ông được cho là tác giả Thổ Nhĩ Kỳ duy nhất sống hoàn toàn bằng thu nhập từ những cuốn sách của mình. Năm 1972, ông sáng lập Quỹ Nesin. Mục đích của Quỹ Nesin là mỗi năm đưa 4 trẻ em nghèo vào trụ sở của quỹ để che chở, nuôi dưỡng, giáo dục, đào tạo các em, bắt đầu từ bậc tiểu học cho tới khi các em hoàn thành bậc trung học, một trường dạy nghề hoặc cho tới khi các em có nghề nghiệp ổn định. Aziz Nesin đã tặng miễn phí cho Quỹ Nesin toàn bộ bản quyền tác giả của những tác phẩm của ông tại Thổ Nhĩ Kỳ và các nước khác, bao gồm tất cả những sách đã xuất bản của ông, tất cả các vở kịch được trình diễn, bản quyền tác giả cho những bộ phim, và toàn bộ các tác phẩm của ông được phát hay sử dụng trên đài phát thanh hoặc vô tuyến truyền hình. Aziz Nesin là một nhà hoạt động chính trị. Sau cuộc đảo chính quân sự năm 1980 do Kenan Evren cầm đầu, toàn bộ đất nước, kể cả giới trí thức, bị đặt dưới sự áp bức nặng nề. Aziz Nesin đã lãnh đạo một số trí thức trong hoạt động chống lại chính phủ quân sự, được biết đến với tên gọi Aydınlar Dilekçesi (Lời thỉnh cầu của trí thức). Ông đã dành trọn những năm cuối đời để chiến đấu chống lại trào lưu chính thống ngu dốt và cuồng tín. Ông đấu tranh cho quyền tự do ngôn luận, đặc biệt là quyền được chỉ trích đạo Hồi một cách không thỏa hiệp. Đầu thập niên 1990, ông bắt đầu dịch cuốn tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi của Salman Rushdie với tựa đề Những vần thơ của quỷ Satan. Việc này đã khiến ông trở thành đích nhắm của những tổ chức Hồi giáo cực đoan đang được sự ủng hộ rộng rãi trong quần chúng tại Thổ Nhĩ Kỳ. Ngày mùng 2 tháng 7 năm 1993, trong lúc dự lễ hội văn hoá Alevi tại trung tâm Anatolian của thành phố Sivas, một đám đông tạo bởi những người Hồi giáo cực đoan đã tụ tập xung quanh khách sạn Madimak - nơi lễ hội đang được tổ chức. Họ kêu gọi một đạo luật Hồi giáo và cái chết dành cho những kẻ ngoại đạo. Sau nhiều giờ bao vây, đám đông đã đốt khách sạn. Khi ngọn lửa đã nhấm chìm những tầng thấp của toà nhà thì xe cứu hoả mới có thể tiếp cận, và Aziz Nesin cùng nhiều vị khác được cứu thoát. Tuy nhiên, 37 người đã thiệt mạng. Sự kiện này được xem như một đòn giáng mạnh vào quyền tự do ngôn luận và quyền con người tại Thổ Nhĩ Kỳ. Nó đào sâu thêm sự rạn nứt giữa phe tôn giáo và những người có tư tưởng ngoại đạo tại đất nước này. Ngày mùng 6 tháng 7 năm 1995, ngay sau khi ký tên cho một quyển sách, Aziz Nesin đã qua đời do một cơn đau tim. Thi thể ông được chôn cất tại một nơi bí mật trong khu đất của Quỹ Nesin mà không tổ chức bất kỳ nghi lễ nào, thể theo ước nguyện của ông. Mời các bạn đón đọc Mọi Ông Bố Đều Đã Từng Xếp Thứ Nhất của tác giả Azit Nexin.
Hồng Ngọc
Đôi khi sống trong một gia đình chất chứa nhiều bí mật là một gánh nặng khó khăn. Đó là suy nghĩ của một Gwendolyn mới bước vào thời thiếu nữ, cho đến ngày đột nhiên cô thấy mình ở giữa London cách đây hai thế kỷ. Và định mệnh đã gõ cửa: cô chính là điều bí mật lớn nhất của gia đình. Một chuyến đi kỳ dị đã mang cô gái trung học của thời đại cellphone, đầy khiếu hài hước sành điệu, xuyên qua mấy thế kỷ để gặp gỡ các kiểu cách của thời xưa, chếnh choáng trong trò chơi chưa hề biết luật của Hội Thập Nhị bí hiểm, đồng hành cùng Gideon, cậu trai khác hẳn cô, người mà thoạt tiên cô không biết sẽ có ý nghĩa như thế nào đối với đời cô. Trong hoàn cảnh đó, định mệnh không còn can thiệp: nếu chìm sâu vào một mối tình, mọi thứ sẽ càng không đơn giản đối với Gwen… *** Kerstin Gier chính là cây bút châu Âu có thể khiến người ta quên ngay Stephanie Meyer bằng một chuyện tình Romeo - Juliet quyến rũ xảy giữa các vùng thời gian, làm xáo động các độc giả hiện đại theo một cách khác biệt! Hồng ngọc (Rubinrot) đã trở thành hiện tượng xuất bản ở Đức trong khoảng 5 năm trở lại đây, được dịch ra khoảng 50 thứ tiếng và dựng phim năm 2013. *** Tặng Tuần lộc, Cá heo và Cú mèo, những bạn đồng hành luôn ở kề bên khi tôi viết, và tặng chiếc xe buýt nhỏ hai tầng màu đỏ đã làm tôi vui đúng lúc cần thiết. Công viên Hyde, London. 8 tháng Tư năm 1912. Anh ngó nghiêng nhìn quanh khi cô ngồi thụp xuống và òa khóc. Đúng như anh nghĩ, công viên giờ này vắng ngắt. Hồi đó còn lâu mới có mốt chạy tản bộ, còn thời tiết thì quá lạnh đối với những người vô gia cư ngủ trên ghế đá, trên mình đắp mỗi tờ báo mỏng. Anh cẩn thận lấy khăn bọc chiếc đồng hồ lại rồi đút vào ba lô. Cô ngồi rúm ró cạnh một gốc cây, trên thảm hoa nghệ tây đã úa tàn bên bờ Bắc hồ Serpentine. Vai cô run rẩy, tiếng cô nức nở như âm thanh tuyệt vọng của một con thú trúng thương. Anh không chịu nổi nữa. Nhưng kinh nghiệm khuyên anh tốt nhất nên để cô yên, vì vậy anh ngồi xuống nền cỏ ướt đẫm sương cạnh cô, đăm đăm nhìn ra mặt hồ phẳng lặng như gương, và đợi. Anh đợi cô dịu bớt nỗi đau, một nỗi đau có lẽ sẽ chẳng bao giờ hết đeo bám cô. Tâm trạng anh lúc này cũng như cô, nhưng anh cố cầm lòng. Anh không muốn cô phải lo lắng thêm cho cả anh. “Người ta đã phát minh ra khăn giấy chưa nhỉ?” Rốt cuộc cô sụt sịt, ngoảnh gương mặt đẫm nước mắt nhìn anh. “Ai biết được,” anh nói. “Nhưng nếu cần thì anh có một chiếc khăn tay thêu đúng kiểu cho em đây.” “G.M. Anh lấy trộm của cô Grace?” “Tự cô ấy cho anh. Công chúa cứ thoải mái xì mũi đi.” Cô cười gượng gạo khi trả lại chiếc khăn cho anh. “Em xin lỗi, giờ thì em đã hủy hoại nó hoàn toàn rồi.” “Chẳng sao đâu! Những lúc như thế này thì cứ phơi nắng cho khô rồi dùng lại!” Anh nói. “Quan trọng là em thôi khóc.” Ngay lập tức, nước mắt cô lại ứa ra. “Lẽ ra chúng mình không được bỏ rơi con trong hoạn nạn. Nó cần mình! Giờ thì chưa biết liệu cái trò mà mình bày ra có tác dụng hay không, mà cũng không còn cơ hội để biết nữa rồi.” Lời cô khiến tim anh đau nhói. “Nhưng nếu chết rồi thì mình còn giúp được con bé ít hơn.” “Nếu có thể đem con trốn đi đâu đó ra nước ngoài, dùng tên giả, tới khi nó đủ khôn lớn…” Anh cương quyết lắc đầu ngắt lời cô. “Ở đâu thì người ta cũng sẽ tìm ra mình, chuyện này đem ra bàn cả ngàn lần rồi. Mình đâu có bỏ rơi con trong hoạn nạn, mình đã chọn cách đúng đắn duy nhất: cho con một cuộc sống bảo đảm. Ít nhất là trong mười sáu năm tới.” Cô thoáng im lặng. Xa xa, ở một nơi nào đó từ phía Tây Carriage Drive vẳng lại tiếng ngựa hí, dù đã sập tối. [Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.] “Em biết anh có lý,” cuối cùng cô nói. “Nhưng thật đau lòng khi nghĩ chúng ta sẽ không bao giờ còn gặp lại con bé.” Cô đưa tay dụi đôi mắt sưng húp vì khóc. “Ít ra thì chúng ta sẽ chẳng có thì giờ mà buồn chán. Sớm muộn gì họ cũng tìm ra chúng ta, ngay cả ở thời điểm này, và Đội cận vệ sẽ truy bắt mình sát gót. Lão sẽ không dễ dàng vứt bỏ chiếc đồng hồ cũng như những kế hoạch của lão.” Anh mỉm cười khi trông thấy khao khát phiêu lưu lóe lên trong mắt cô, và anh biết, cuộc khủng hoảng đã tạm lắng. “Biết đâu mình còn ranh mãnh hơn cả lão, hoặc cỗ máy kia không hoạt động. Và thế là lão đành mắc kẹt.” “Được thế thì tốt. Nhưng nếu vậy thì chúng mình là những người duy nhất có thể làm phá sản kế hoạch của lão.” “Chỉ riêng lý do ấy đã chứng tỏ mình hành động đúng.” Anh đứng lên đập bùn bẩn trên quần bò. “Đi thôi! Đám cỏ chết tiệt này ướt sũng, mà em thì phải giữ gìn sức khỏe.” Anh kéo cô đứng lên và hôn cô. “Chúng mình làm gì bây giờ? Tìm một chỗ giấu đồng hồ?” Cô lưỡng lự nhìn cây cầu nối công viên Hyde và khu vườn Kensington. “Ừ. Nhưng trước hết mình phải vét sạch kho của Đội cận vệ và trữ tiền đã. Sau đó mình có thể đi tàu tới Southampton. Thứ tư tới, tàu Titanic sẽ bắt đầu chuyễn viễn du đầu tiên ở đó.” Cô bật cười. “Ý anh về giữ gìn sức khỏe là vậy đó! Được mà, em sẵn sàng.” Nhìn cô lại biết nở nụ cười khiến anh hạnh phúc, anh không kìm được, lại hôn cô lần nữa. “Thực ra anh nghĩ… em biết là các thuyền trưởng có quyền làm chủ hôn trên biển phải không, công chúa?” “Anh muốn kết hôn với em? Trên tàu Titanic? Anh điên rồi?” “Như thế sẽ rất lãng mạn.” “Nếu không tính đến vụ núi băng.” Cô tựa đầu vào ngực anh, giấu mặt vào chiếc áo khoác. “Em yêu anh vô cùng,” cô thì thào. “Em sẽ làm vợ anh chứ?” “Vâng,” cô đáp, vẫn vùi mặt trong ngực anh. “Nhưng với điều kiện muộn nhất là ở Queenstown, chúng mình sẽ xuống tàu.” “Công chúa, em sẵn sàng cho cuộc phiêu lưu tiếp theo chưa?” “Sẵn sàng, nếu anh cũng thế,” cô đáp khẽ. *** Một cuộc hành trình vượt thời gian ngoài tầm kiểm soát thường được báo trước vài phút, đôi khi vài giờ hoặc thậm chí vài ngày, thông qua cảm giác choáng váng trong đầu, trong bụng và/ hoặc trong chân. Nhiều người mang gien cũng tường thuật lại chứng đau đầu tương tự bệnh tiền đình. Cuộc vượt thời gian đầu tiên - còn gọi là cuộc vượt thời gian tự thân - diễn ra ở độ tuổi từ mười sáu đến mười bảy của người mang gien. Trích Biên niên sử Đội cận vệ, Tập II: Những định luật phổ quát. Mời các bạn đón đọc Hồng Ngọc của tác giả Kerstin Gier.
Chết ở Venice - Thomas Mann
Chết ở Venice là một cuốn sách quyến rũ đến bệnh hoạn. Ánh mắt của kẻ si tình, đã trở thành cái gương soi chiếu tuyệt đối của cái đẹp. Chàng thiếu niên trẻ tuổi hiện lên qua đôi mắt mê mẩn của Aschenbach thì trở nên tuyệt mỹ, không gì có thể cưỡng lại được. Đó không phải là thứ ái tình đơn thuần, và Mann ngay từ đầu cũng không chỉ viết về một câu chuyện tình yêu đơn phương tuyệt vọng. Mann đeo đuổi cậu bé niên thiếu xinh đẹp kia qua hết các đường phố ổ Venice, cũng để ngắm vẻ xinh đẹp như thiên thần của cậu. Từng chi tiết, đường nét trên khuôn mặt, thân thể cậu đều được nhìn ra bằng ánh mắt mê mụ kỳ lạ. Chỉ có cái tình của một nghệ sĩ đắm đuối cái đẹp mới có thể nhìn thấy và nâng niu từng chút từng chút đẹp đẽ đến như thế. Và đoạn cuối của cuộc hành trình, với cái chết lặng lẽ của Aschenbach, Chết ở Venice đã đạt đến sự tuyệt hảo của câu chuyện, lúc người nghệ sĩ hoàn toàn quy phục cái đẹp, bước vào của sự dấn thân vào mê đắm, con người không thể nào thoát ra được, chỉ có cái chết mới là tận cùng. Cái kết đỉnh cao này, dễ khiến người đọc liên tưởng đến cái chết của người đàn ông trong Tiếng cười trong bóng tối của Nabokov, khi đã đi đến tận cùng của si mê và cám dỗ. Ở cuốn sách mỏng này, người đọc có thể dễ dàng nhận ra cái chất đặc biệt của Mann, ấy là sự suy nghiệm đậm chất triết lý, với những quan điểm rõ ràng về nghệ thuật bằng lòng tôn sùng cái đẹp. Mann coi cái đẹp là nguồn cơn của sáng tạo, và vì thế cả đời mải miết đi tìm cái cùng sâu bản nguyên của cái đẹp. Ở kiệt tác đầu tay, Gia đình Buddenbrooks, là cái đẹp của sự những hào quang tàn lụi. Tới Núi thần lại là cái đẹp tuyệt đỉnh cô quạnh của thiên nhiên xa vắng, và lòng người mênh mang. Còn với Chết ở Venice, bên cạnh thành phố Venice xinh đẹp như hư ảo, chính Mann đã tìm ra cái con đường để phá hủy của những vòng vây triết lý khô cứng, nguyên tắc, để khai phá tận cùng bản năng thấm nhuần cái đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ. Chết ở Venice được xuất bản lần đầu vào năm 1912, cùng thời gian đó, ông bắt tay vào viết cuốn tiểu thuyết đồ sộ Núi thần. Hai cuốn sách này có nhiều điểm khá tương đồng, dù xét về mặt ngôn ngữ, Núi thần đưa lại cảm giác tươi sáng dễ chịu hơn, và những suy niệm về tình yêu, lòng ham muốn nhục dục cũng như cái chết đều được miêu tả rõ ràng, chi tiết hơn, khác với sự dồn nén, ngột ngạt cực độ mà tác phẩm mang lại. Nếu nhà văn Aschenbach vì cuồng si cậu bé Tadzio mà ở lại Venice, thì chàng trai Hans Castorp cũng vì ham muốn một thiếu phụ người Nga mà ở lại núi thần. Đặc biệt, trong cả hai cuốn sách, Mann đều chọn những nơi có bối cảnh tuyệt đẹp để kể câu chuyện của mình, ấy cũng được xem là cái duy mỹ vô cùng của nhà văn. Núi thần hoàn thành sau Chết ở Venice hơn chục năm với nhiều lần sửa chữa, bỏ dở. Thomas Mann được trao giải Nobel năm 1929. *** Paul Thomas Mann là nhà văn Đức đã đoạt giải Nobel Văn học năm 1929 và Giải Goethe năm 1949. Ông được coi là nhà văn lớn nhất của Đức thế kỷ 20. Thomas Mann sinh ở Lübeck, Đức, là con trai thứ hai của Thomas Johann Heinrich Mann (thương gia và thành viên Hội đồng thành phố), và Júlia da Silva Bruhns (một người Brasil sang Đức năm lên 7 tuổi). Thomas có anh trai tên là Heinrich, cũng là một nhà văn nổi tiếng, một em trai và hai em gái. Thời nhỏ gia đình Mann sống sung túc, các con được học hành đến nới đến chốn. Năm 1891, cha Thomas Mann mất vì bệnh ung thư. Theo di chúc của cha ông, gia đình bán công ty và nhà ở Lübeck, mẹ ông và các con chỉ sống bằng tiền gửi tiết kiệm. Từ đây cả gia đình chuyển đến sống ở München - một trung tâm văn hóa và tri thức của nước Đức. Năm 19 tuổi Thomas Mann đã bắt đầu viết báo nhưng luôn mơ ước trở thành nhà văn như anh trai mình. Những truyện ngắn đầu tiên của ông in trong tập Der kleine Herr Friedemann (Ngài Friedemann bé nhỏ) xuất bản năm 1898. Năm 1901, Mann xuất bản tiểu thuyết đầu tiên Buddenbrooks - Verfall einer Familie (Gia đình Buddenbrooks) - kể về sự suy sụp của một gia đình ba đời buôn bán ở Lübeck trong bối cảnh cạnh tranh của chủ nghĩa đế quốc. Bộ tiểu thuyết đặc sắc này đã mang lại cho ông giải Nobel năm 1929. Thomas Mann là nhà văn có tư tưởng nhân đạo dân chủ tư sản, chống phát xít, đại diện cho truyền thống tốt đẹp của dân tộc Đức. Ông tập trung miêu tả quá trình suy sụp của giai cấp tư sản với một ngòi bút hiện thực, mỉa mai, chú trọng phân tích tâm lý, đi sâu vào các khía cạnh bệnh hoạn, cái phù du và cái chết. Văn của Mann chính xác, từ ngữ gọt giũa kĩ lưỡng, đòi hỏi người đọc phải tập trung suy nghĩ, ông dùng nhiều từ ngữ nước ngoài, sử dụng nhiều kiến thức về triết học, tôn giáo, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, y học, xã hội học, phân tâm học. *** T   HOMAS MANN (1875 - 1955) là văn hào Đức nổi tiếng đầu thế kỷ XX với bút pháp hiện thực sinh động, ẩn giấu nụ cười mỉa mai thâm thúy. Mùa hè năm 1911 Thomas Mann đến nghỉ mát ít ngày trên hòn đảo Lido thuộc Venice, và một loạt sự kiện cùng ấn tượng ở đó đã tạo cảm hứng cho nhà văn sáng tác truyện dài này. Đầu tiên chỉ là một ý tưởng hoàn toàn ngẫu húng, nhưng rồi câu chuyện tự nó có sức sống riêng, tự nó phát triển theo Logich của riêng mình để dẫn đến một kết cục tất yếu. Cũng như đa số các tác phẩm của Thomas Mann, Chết ở Venice không phải là một cốt truyện hoàn toàn hư cấu: gã lái đò gondola kỳ quái, cậu bé Tadzio và cả gia đình, chuyến đi không thành vì hành lý bị thất lạc, trận dịch tả, anh nhân viên văn phòng du lịch thật thà, tay nghệ sĩ hát rong hung ác -tất cả đều có thật ngoài đời, nhà văn chỉ cần đặt vào trong tác phẩm. Cả nhân vật chính Aschenbach cũng có hình mẫu thực, trong bài nói chuyện On Myself đọc trước sinh viên trường đại học Princeton ở Mỹ năm 1940 tác giả đã thú nhận, ban đầu ông dự định viết khác hẳn. Ông muốn viết về mối tình muộn màng Goethe (1749 -1832) dành cho cô Ulrike von Levetzow, khai thác đề tài một vĩ nhân khi về già sa ngã vì tình yêu với một cô gái trẻ. Nhưng rồi ông chưa dám đụng đến thần tượng Goethe vì sợ mình không đủ sức. Vậy nên ông đã dựng lên nhân vật chính là một nhà văn hiện đại, một nghệ sĩ nhạy cảm, tiêu biểu cho đạo đức và đạt đến vinh quang nhờ lao động. Tướng mạo bề ngoài của Gustav von Aschenbach ông mượn của Gustav Mahler (1860 -1911), một nhạc sĩ lớn người Áo khi ấy vừa từ chuyến lưu diễn Mỹ trở về và đang lâm bệnh nặng. Chủ đề chính của ông vẫn là sức công phá mãnh liệt của tình yêu, khi mù quáng lao theo dục vọng đã hủy diệt cả một cuộc đời nền nếp, một sự nghiệp tưởng chừng vững như bàn thạch. Câu chuyện được kể với nhiều ẩn dụ, giàu hình ảnh và tính nhạc, kết cấu rành mạch với năm chương sách như năm màn của một vở bi kịch cổ điển: chương một dẫn dắt vào đề, chương hai giới thiệu nhân vật chính; chương ba giới thiệu bối cảnh xảy ra sự việc, chương bốn diễn biến sự việc và chương năm đạt đến cao trào với kết cục bi thương. Tác giả cho ta làm quen với một Aschenbach đạo cao đức trọng, đã đạt tới tột đỉnh vinh quang, có những sáng tác "chính thống" và "mô phạm" được đưa vào sách giáo khoa để giáo dục thanh thiếu niên. Ngôn ngữ trang trọng với "phong cách bậc thầy" được nhấn mạnh một cách cố ý, để sau đó dần dần càng làm nổi bật từng bước sa ngã của Aschenbach, đánh mất phẩm giá, trở nên lố bịch và vô liêm sỉ. Chắc chắn tác giả có nhiều mối tương đồng với nhân vật chính, tiểu sử Thomas Mann có rất nhiều điểm trùng hợp với cuộc đời Aschenbach, nội dung tác phẩm cũng là mối ưu tư của tác giả, diễn giải nội tâm Aschenbach cũng là cách ông giải quyết xung đột giữa tư tưởng thị dân tiểu tư sản và nhân sinh quan nghệ thuật của chính mình. Nhưng Thomas mann không phải là Aschenbach. Có một điều khác biệt căn bản, mấu chốt của vấn đề, đó là sau mấy ngày nghỉ ngơi trên đảo Lido. Thomas Mannđã trở về với công việc sáng tác, với "cuộc vật lộn hằng ngày". Ông chỉ để trí tưởng tượng tiếp tục bay bổng tìm cách trả lời câu hỏi, nếu nhà văn buông thả theo cảm xúc, lơ là nghĩa vụ và trách nhiệm, thì kết cục sẽ ra sao? Ông nhìn thấy kết cục thảm hại của Aschenbach, ông biết cách giữ mình không để rơi vào kết cục như thế, nhưng lòng ông vẫn day dứt không yên vì ông biết mình đã phải đánhnh đổi những gì. Như vậy Chết ở Venice là sự tiếp nối những tác phẩm trước của Thomas Mann, cũng như Hanno trong Gia đình Buddenbrook (1901), Spinell trong Tristan (1903) và Tonio Kröger trong tác phẩm cùng tên (1903), nhân vật Aschenbach bị giằng xé trong mối xung đột nội tâm giữa nghệ thuật và cuộc sống. Bằng những hình tượng này, Thomas Mann đã đưa cuộc đời nghệ sĩ của mình ra mổ xẻ, cuộc đời "một thường dân lạc lối vào nghệ thuật, một lãng tử giang hồ luôn hoài vọng mái ấm gia đình, một nghệ sĩ không ngừng bị lương tâm cắn rức", như nhân vật Tonio Kröger của ông tự nhận. Bây giờ xin mời độc giả lần tìm vào những ngõ ngách nội tâm của nhà văn Aschenbach, ở nhiều khá cạnh cũng là của chính Thomas Mann... Hannover, tháng Giêng 2012 Nguyễn Hồng Vân Mời các bạn đón đọc Chết ở Venice của tác giả Thomas Mann.
Từ Chiến Trường Khốc Liệt - Peter Arnett
Tác giả là người Mỹ gốc New Zealand Peter Arnett, phóng viên nổi tiếng của Hãng AP, CNN, người đã có mặt ở miền Nam Việt Nam từ những năm 1962 cho tới 1975, chứng kiến rất nhiều sự kiện lịch sử trong chiến tranh Việt Nam và giờ khắc sụp đổ của chính quyền ngụy Sài Gòn. Cuốn sách được xuất bản lần đầu tại Mỹ năm 1995, sau đó được tái bản nhiều lần, gây tiếng vang lớn và hấp dẫn độc giả. Dư luận trong và ngoài nước Mỹ đánh giá "Đây là một cuốn tự truyện hay nhất", "Một cuốn hồi ký mẫu mực", "Một tài liệu có sức mạnh hay nhất", v.v,.. Từ chiến trường khốc liệt - cuốn tự truyện - hồi ký mang tính báo chí được ghi chép cẩn thận, công phu, là tập tài liệu lịch sử vô cùng quý giá của một phóng viên chiến trường, gần như dành cả phần lớn thời gian cuộc đời mình viết về đề tài chiến tranh. Ông viết về tất cả những điều cảm nhận, trải qua, chứng kiến ở những nơi chiến sự mà Ông đặt chân tới: VIệt Nam, Lào, Iran, Iraq, Afganistan... Trong cuốn sách, tác giả ghi lại khá kỹ về những sự kiện Chiến tranh Việt Nam, diễn biến những hoạt động tác chiến ở chiến trường, đặc biệt là những sự kiện dấu mốc như: cuộc đấu tranh, biểu tình của các tăng ni, phật tử ở Huế, vụ tự thiêu của nhà sư Thích Quảng Đức, cuộc đảo chính lật đổ anh em Ngô Đình Diệm, các trận đánh, các chiến dịch lớn giữa quân Mỹ - Ngụy và quân giải phóng miền Nam Việt Nam, cuộc nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, các chiến dịch dẫn tới giải phóng Sài Gòn và cuối cùng là giờ khắc sụp đổ của chế độ ngụy quyền Sài Gòn,.. cùng tâm trạng hoang mang, bi quan, thất vọng của các tổng thống, tướng tá Mỹ, ngụy tham gia điều hành bộ máy chiến tranh trước các sự kiện. Tất cả được tác giả ghi chép và kể lại một cách chân thực, khách quan với tư cách là một phóng viên chiến trường chuyên nghiệp. Chính những tin, bài, phóng sự của tác giả được đăng tải trên báo chí khi đó đã gây tranh cãi và có tác động ảnh hưởng sâu sắc tới dư luận Mỹ và nhiều nước trên thế giới, làm cho nhân dân Mỹ và nhân dân nhiều nước trên thế giới hiểu đúng hơn về cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhờ đó mà Perter Arnett đã giành được giải thưởng báo chí Pulitzer danh giá vào năm 1966 và rất nhiều giải thưởng khác. Trong cuộc Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 và tháng 3-2003, Peter Arnett đã gây chấn động thế giới bởi những phóng sự nóng hổi được truyền hình trực tiếp trên CNN từ chiến trường Baghdad. Những sự kiện về Chiến tranh Iraq cũng được phản ánh chân thực trong cuốn sách. Peter Arnett là phóng viên phương Tây đầu tiên và duy nhất phỏng vấn trùm khủng bố Osama Bin Laden. *** Công việc làm tin chiến trường về Chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng lớn tới 35 năm trong nghề phóng viên quốc tế sau này của tôi. Khi đến với Việt Nam như một chàng trai trẻ đầy lý tưởng tôi nhận thấy không sự thỏa mãn cá nhân nào quá lớn cho một phóng viên chiến trường bằng việc nói ra sự thật về lòng dũng cảm và những bi thương đồng hành cùng người lính. Tôi viết về chiến tranh ở Việt Nam từ năm 1962 đến 1975, và tôi đã học được rằng trong chiến tranh hiện đại người dân thường thiệt thòi nhiều hơn những người tham chiến và vai trò của phóng viên chiến trường là phải nói lên câu chuyện của họ. Đó cũng là niềm tin đồng hành cùng tôi nhiều năm sau này tới Baghdad trong Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất năm 1991 đã kiểm nghiệm sự ảnh hưởng của lệnh cấm vận đối với 25 triệu người dân Iraq như sự trừng phạt lên người đứng đầu của họ, Saddam Hussein. Cũng như trong cuộc Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất, tôi làm tin truyền hình trực tiếp về các trận đánh bom Baghdad trong suốt chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai vào thảng-2003. Giống như khi ở Việt Nam trước đó 40 năm, để chứng kiến sự thật ác liệt về chiến tranh của người Mỹ, tôi đã ở lại Iraq hơn 4 năm nữa để ghi lại những hỗn loạn và bi thương dẫn đến án treo cổ dành cho Saddam Hussein năm 2006. Tôi có nhiều dấu mốc quan trọng trong suốt 50 năm làm tin chiến trường của mình, đó là vào tháng 3-1997, cùng với đội quay phim của CNN tôi đã phỏng vấn trùm khủng bố Osama Bin Laden ở nơi ẩn nấp trên núi của ông ta ở Afghanistan. Vào thời điểm đó, Bin Laden ít được công chúng biết đến, nhưng ông ta đã bị các cơ quan tình báo quốc tế theo dõi như một người cuồng tín Hồi giáo nguy hiểm với nguồn tài chính cá nhân đáng kể. Trong bài phỏng vấn cá nhân của mình, Bin Laden tuyên bố một cuộc thánh chiến với Mỹ và hứa sẽ gây ra nhiều xung đột và thiệt hại cho quân đội nhằm xóa bỏ sự ảnh hưởng của phương Tây trong giới Hồi giáo. Vào thời gian phỏng vấn ông ta, những mối đe dọa của Bin Laden từ những ngọn núi phía xa chỉ là lối nói hoa mỹ rỗng tuyếch. Nhưng khi cuộc tấn công không tặc mà ông ta tổ chức tấn cống vào Tòa nhà Thương mại thế giới ngày 11-9-2001 giết chết 3.000 người dân đã làm thay đổi trật tự. thế giới Nhiều năm làm phóng viên quốc tế, tôi hiểu rõ vai trò quan trọng của truyền thông trong thời sự thế giới và đây cũng là thông điệp tôi truyền tải trong bài giảng ở các Trường Đại học Báo chí và các Tổ chức truyền thông trong nhiều năm. Tôi đã dẫn một nhóm sinh viên của Trường Đại học Shantou (Sán Đầu) ở phía nam Trung Quốc tới thăm Việt Nam trong chuyến đi thực tế viết tin ba tuần đáng nhớ vào mùa hè năm 2007. Với kinh nghiệm trước đây của tôi ở Việt Nam vào những năm 1960 và 1970 và rất nhiều chuyến thăm sau này, tôi đã giảng bài về chủ đề đó ở Trường Đại học Shantou. Tôi muốn các sinh viên có cảm nhận về cuộc chiến tranh đó và những người Việt nam đã được sinh ra khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975. Rất nhiều người quan sát đã viết rằng cuộc chiến tranh không còn ảnh hưởng trong đời sống của người Việt Nam, đất nước đã hòa bình và khôi phục kinh tế là mục tiêu hàng đầu của mọi người. Dọc hành trình từ Bắc tới Nam, chúng tôi thấy sự tốt bụng và niềm vui trên những gương mặt người Việt Nam với những người khách nước ngoài. Tôi nhận ra rằng Chính phủ nhấn mạnh tầm quan trọng trong hợp tác kinh tế và chính trị với những kẻ thù trước đây ở phương Tây. Hầu hết những người Việt Nam chúng tôi gặp ở miền Bắc đều hiểu được những đau thương mất mát trong chiến tranh họ phải gánh chịu và chúng tôi được biết có khoảng 3 triệu người chết. Chúng tôi tìm thấy rất nhiều tàn tích của chiến tranh ở miền Nam nhưng cũng hiểu rằng đó là miền Bắc đã cung cấp sức người sức của cho miền Nam với khẩu hiệu "sinh ra ở miền Bắc và chết ở miền Nam". Đó là lời thương xót của những gia đình Việt Nam mất con trong chiến tranh. Cảm nhận về nỗi đau đã lan tỏa trong Văn học Việt Nam vài thập kỷ qua. Các sinh viên Trường Đại học Shantou nhanh chóng nhận ra rằng Chính phủ Việt Nam ghi nhận lòng yêu nước và sự hy sinh từ việc dựng lên nghĩa trang Trường Sơn ở khu vực Bến Tắt, Quảng Trị với hơn 10.000 ngôi mộ tôn kínhcho đến nhà tù của Pháp cũ có tên "Hỏa lò" ở trung tâm thủ đô, nơi bộ quần áo phi công còn vấy máu của Jonh McCain ở một trong những phòng nơi những người tù Mỹ bị giam giữ trong nhiều năm. Bi thương hơn nữa, nhà tù còn phác họa những hình ảnh và mô hình về các hình thức tra tấn dã man mà thực dân Pháp đã sử dụng đối với tù chính trị trong suốt 100 năm thống trị gồm máy chém cao bằng gỗ với lưỡi dao sắc và chiếc rổ đựng đầu vấy máu nằm gần đó. Có một khung cảnh đặc biệt thu hút sự chú ý của các sinh viên và tôi hy vọng nó sẽ đọng lại lâu trong ký ức của họ. Đó là một căn phòng lớn trong Bảo tàng Chiến tranh ở thành phố Hồ Chí Minh với những trưng bày cho các phóng viên nước ngoài, những người đã làm tin về các cuộc chiến tranh chống Mỹ và chống Pháp. Những khuôn mặt và hình ảnh đều quen thuộc với các sinh viên Shantou bởi vì họ là những đồng nghiệp trước đây của tôi và tôi thường nói về họ trong các bài giảng của mình, các phóng viên ảnh hy sinh trong chiến tranh như Larry Borrow của tạp chí Life, Henri Huet và Huỳnh Công la của AP và Koichi Sawada của UPI cùng nhiều người khác nữa. Sự đau thương mất mát của chiến tranh đã không làm mờ đi sự ghi nhận của Chính phủ Việt nam về lòng dũng cảm và sự hy sinh của các phóng viên chiến trường ở các quốc gia đã đấu tranh để nói lên sự thật về cuộc chiến và sự hy sinh của họ. Đó là điểm nhấn trong chủ đề bài giảng của tôi ở Trường Đại học Shantou rằng báo chí có một vài trò to lớn và đáng giá trong thế giới ngày nay. Những chuyến thăm trở lại Việt nam, đặc biệt là hành trình cùng với các sinh viên là những chuyến thăm hài lòng trong cuộc đời tôi. Đó là những chuyến thăm khép lại vòng tròn từ khi lần đầu tiên tôi đến với tư cách là một phóng viên trong một đất nước bị chiến tranh tàn phá vào năm 1962 đến khi từ những tàn tích của một cuộc chiến tranh dài, một đất nước hòa bình, độc lập xuất hiện tự hào trên chính trừong quốc tế. Peter Arnett, tháng 3-2009 Mởi các bạn đón đọc Từ Chiến Trường Khốc Liệt của tác giả Peter Arnett.