Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

36 Tầng Trời (Quân Trần)

36 Đại La Thiên Cõi Tối Đại Niết Bàn Ngọc Hoàng Thượng Đế Tam Thanh thiên

35 Ngọc Thanh Cảnh Thanh Vi thiên Cõi Đại Niết Bàn Nguyên Thỉ Thiên Tôn

34 Thượng Thanh Cảnh Vũ Dư thiên Cõi Cận Niết Bàn Linh Bảo Thiên Tôn

33 Thái Thanh Cảnh Đại Xích thiên Cõi Niết Bàn [Tiên thể] Thái Thượng Lão Quân Phạn thiên

32 Bình Dục Cổ Dịch thiên Tìm mua: 36 Tầng Trời TiKi Lazada Shopee

Cõi Bồ Đề [Kim thân] A La Hán (Arahanta)

[Giải thoát khỏi Tam Giới] phá 5 kiết sử cuối

- Sắc ái (chấp phước cõi trời)

- Vô sắc ái (chấp phước thiền định)

- Kiêu mạn

- Phóng dật (lười biếng)

- Vô minh

31 Long Biến Phạm Độ thiên

30 Ngọc Long Đằng Thắng thiên

29 Vô Thượng Thường Dung thiên vùng ngăn cách TAM GIỚI & TỊNH ĐỘ Vô Sắc Giới

28 Tú Nhạc Cấm Thượng thiên Phi Tưởng Phi Phi Tưởng thiên Hết thô tưởng, còn tế tưởng

27 Hàn Sủng Diệu Thành thiên Vô Sở Hữu thiên Tâm không chấp hiện tượng

26 Uyên Thông Nguyên Đỗng thiên Thức Vô Biên thiên Tâm trùm khắp pháp giới

25 Hạo Đình Tiêu Độ thiên Không Vô Biên thiên Tâm rỗng rang thanh tịnh Sắc Giới

24 Vô Cực Đàm Thệ thiên Vô Song (Sắc Cứu Kính) thiên

Ngũ

Tịnh

Cư thiên

Huệ Căn sung mãn A Na Hàm (Anagami)

[Bất lai] hoàn toàn phá 2 kiết sử

- Tham dục (tình dục)

- Sân hận

23 Thượng Thiệt Nguyễn Nhạc thiên Thiện Hiện thiên Định Căn sung mãn

22 Vô Tư Giang Do thiên Thiện Kiến thiên Niệm Căn sung mãn

21 Thái Hoàng Ông Trọng thiên Vô Nhiệt thiên Tấn Căn sung mãn

20 Thủy Hoàng Hiếu Mang thiên Vô Phiền thiên Tín căn sung mãn

19 Hiển Định Cực Phong thiên Vô Tưởng thiên Đệ Tứ thiền thiên xả niệm, thanh tịnh không lạc, không khổ vượt qua vô thức & ý thức khai mở thần thông

18 Thái An Hoàng Nhai thiên Quãng Quả thiên

17 Nguyên Tái Khổng Thăng thiên Phúc Ái thiên

16 Thái Hoán Cực Dao thiên Phúc Sinh (Tịnh Cư) thiên

15 Huyền Minh Cung Khánh thiên Biến Tịnh thiên Đệ Tam thiền thiên xả niệm lạc trú nội tâm vi diệu thanh tịnh vượt qua vô thức kềm chế bản năng

14 Quang Minh Đoan Tĩnh thiên Vô Lượng Tịnh thiên

13 Hư Minh Đường Diệu thiên Thiểu Tịnh thiên

12 Trúc Lạc Hoàng Già thiên Quang Minh thiên Đệ Nhị thiền thiên hết tầm hết tứ trí tuệ sắc bén kiến giải vô ngại biết trước giờ chết

11 Diệu Minh Tông Phiêu thiên Vô Lượng Quang thiên

10 Huyền Minh Cung Hoa thiên Thiểu Quang thiên

9 Xích Minh Hòa Dương thiên Đại Phạm thiên Sơ thiền thiên chánh niệm tỉnh giác phá 5 triền cái (tham, sân, trầm, trạo, nghi) ly dục sinh hỷ còn tầm còn tứ

8 Thái Cực Mông Ế thiên Phạm Phụ thiên

7 Hư Vô Việt Hành thiên Phạm Chúng thiên Dục Giới

6 Thất Diệu Ma Di thiên Tha Hoá Tự Tại thiên Tự Tại Vương (thiên ma Ba Tuần)

Tư Đà Hàm (Sakadagami)

[Nhất lai] - áp chế 2 kiết sử

- Tham dục (tình dục)

- Sân hận

Tu Đà Hoàn (Sotapatti)

[Thất lai] - phá 3 kiết sử

- Giới Cấm Thủ (cố chấp)

- Nghi (giao động niềm tin)

- Thân kiến (ích kỷ)

5 Nguyên Minh Văn Cử thiên Hoá Lạc thiên Thiện Hoá Vương

4 Huyền Thai Bình Dục thiên Đâu Suất thiên

Ngoại

Đâu

Suất

San Đâu Suất

Đà Vương

Nội

Đâu

Suất

Di Lặc Bồ Tát

3 Thanh Minh Hà Đồng thiên Dạ Ma thiên Tu Dạ Ma Vương

2 Thái Minh Ngọc Hoàn thiên Đao Lợi thiên Thiên Chủ Đế Thích

1 Thái Hoàng Hoàng Tằng thiên Tứ Đại Thiên Vương thiên

Đông Trì Quốc ThVg

Nam Tăng Trưởng ThVg

Tây Quảng Mục ThVg

Bắc Đa Văn ThVg

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook 36 Tầng Trời PDF của tác giả Quân Trần nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Bát Quái Đạo số 12 (1938) - Hải Bằng
Bát-Quái-Đạo càng về sau càng ly kỳ, sẽ có nhiều cuộc thử tài của các phái võ, phái Đại Thiếu-Lâm sẽ phái người xuống giúp bạn Nam Thiếu-Lâm để đối trội với nhân vật phái Ngũ – Long bên Tây - Tạng. Nghĩa là trong pho chuyện này có đủ hết mặt các tay anh-hùng về đời nhà Thanh. Tự số 3 trở đi sẽ giảng vũ-thuật, nếu tiện sẽ có những hình vẽ rất rõ ràng, để các bạn dễ hiểu hơn, nhưng công việc ấy rất khó, gia cố hết sức để làm vừa lòng các bạn. Bát Quái Đạo Số 12NXB Đông Quang Văn Đoàn 1938Hải Bằng16 TrangFile PDF-SCAN
Biết Lối Quy Y - Thiều Chửu (NXB Đuốc Tuệ 1940)
Quy, nói đủ là quy-y. Quy-y nghĩa là minh tự biết minh say đắm cảnh đời, làm nhiều tội lỗi, cũng như người con cứng đầu cứng cổ, không ăn lời cha mẹ dạy, bỏ nhà ra đi đua đòi bạn xấu, làm càn làm bậy, đến nỗi tấm thân bơ vơ đất khác, đói khát giãi dầu, cảnh khổ ê trề, bây giờ mới nhớ đến cha mẹ mà quay đầu về ngay, thì lại được yên ổn xung xướng ngay. Lại như người đang bị ngã xuống bể, ngoi ngóp sắp chết, thấy có thuyền đến, liền ngoi lại ngay, khi lên được trên thuyền, thay áo khỏi rét, ăn cơm khỏi đói, hết sự sợ lại khốn khổ, được hưởng cái phúc no ấm xênh sang, thế là quy y. Biết Lối Quy YNXB Đuốc Tuệ 1940Thiều Chửu (Nguyễn Hữu Kha)22 TrangFile PDF-SCAN
Đập vỡ vỏ hồ đào - Thích Nhất Hạnh
Lời tựaĐập vỡ vỏ hồ đào – Thiền sư Nhất Hạnh giảng Trung Quán LuậnNếu trong khoa học có những khối óc như Einstein thì trong Phật học cũng có những trái tim như Long Thọ. Bộ óc là để thấy và để hiểu, trái tim cũng là để thấy và để hiểu. Không phải chỉ có bộ óc mới biết lý luận. Trái tim cũng biết lý luận, và có khi trái tim có thể đi xa hơn bộ óc, bởi vì trong trái tim có nhiều trực giác hơn. Biện chứng pháp của Long Thọ là một loại lý luận siêu tuyệt có công năng phá vỡ mọi phạm trù khái niệm để thực tại có cơ hội hiển bày. Ngôn ngữ của biện chứng pháp có khả năng phá tung được màng lưới khái niệm. Ngôn ngữ của toán học chưa làm được như thế. Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng. Long Thọ thừa hưởng không gian khoáng đạt do các cánh cửa ấy cung cấp và vì vậy đã có khả năng khám phá trong kinh điển Phật giáo những viên bảo châu sáng ngời bị chôn lấp trong nền văn học Nikaya. Long Thọ nắm được cái tinh hoa của phương pháp học Phật giáo: loại bỏ được cái nhìn nhị nguyên để giúp tiếp xúc được với thực tại, một thứ thực tại bất khả đắc đối với những ai còn kẹt vào những phạm trù của khái niệm. Khoa học còn đang vùng vẫy để thoát ra khỏi cái nhìn nhị nguyên ấy: sinh-diệt, có-không, thành-hoại, tới-đi, trong-ngoài, chủ thể và đối tượng. Bụt Thích Ca nói: Có cái không sinh, không diệt, không có, không không, không thành, không hoại để làm chỗ quay về cho tất cả những cái có, không, sinh, diệt, thành, hoại. Mà cái không sinh không diệt ấy, cái không chủ thể không đối tượng ấy, mình chỉ có thể tiếp cận được khi mình vượt thoát màn lưới khái niệm nhị nguyên. Trung Quán là nhìn cho rõ để vượt ra được màn lưới nhị nguyên. Biện chứng pháp Trung Quán, theo Long Thọ, là chìa khóa của phương pháp học Phật giáo. Tác phẩm tiêu biểu nhất của bộ óc và trái tim Phật học này là Trung Quán Luận. Long Thọ không cần sử dụng tới bất cứ một kinh điển Đại thừa nào để thiết lập pháp môn của mình. Ông chỉ sử dụng các kinh điển truyền thống nguyên thỉ. Ông chỉ cần trích dẫn một vài kinh như kinh Kaccāyanagotta Sutta. Ông không cần viện dẫn bất cứ một kinh Đại thừa nào.Nếu Einstein có thuyết Tương Đối Luận thì Long Thọ có Tương Đãi Luận. Tương đãi có khác với tương đối. Trong tuệ giác của đạo Phật, cái này có mặt vì cái kia có mặt, cái kia không có mặt thì cái này cũng không. Vì ngắn cho nên mới có dài, vì có cho nên mới có không, vì sinh cho nên mới có diệt, vì nhơ cho nên mới có sạch, nhờ sáng cho nên mới có tối. Ta có thể vượt thoát cái thế tương đãi ấy để đi tới cái thấy bất nhị. Biện chứng pháp Trung Quán giúp ta làm việc ấy. Theo tuệ giác Trung Quán, nếu khoa học không đi mau được là vì khoa học gia còn kẹt vào cái thấy nhị nguyên, nhất là về mặt chủ thể và đối tượng, tâm thức và đối tượng tâm thức. Kinh Kaccāyanagotta cho ta biết là người đời phần lớn đang bị kẹt vào hai ý niệm có và không. Kinh Bản Pháp (S.2, 149-150) và kinh tương đương Tạp A Hàm (Tạp 456) cho ta thấy cái sáng có là nhờ cái tối, cái sạch có là nhờ cái nhơ, cái không gian có là vì có cái vật thể, cái không có là nhờ cái có, cái diệt có là vì có cái sinh. Đó là những câu kinh làm nền tảng cho tuệ giác tương đãi. Niết bàn là cái thực tại không sinh, không diệt, không có, không không, không không gian cũng không vật thể… và Niết bàn có thể chứng đắc nhờ cái thấy bất nhị. Ban đầu ta có ý niệm tương duyên (pratītyasamutpāda), rồi ta có các ý niệm tương sinh, tương đãi. Sau đó ta lại có ý niệm tương tức và tương nhập. Tất cả cũng đều có một nội dung như nhau. Những ý niệm không, giả danh và trung đạo cũng đều có ý nghĩa đó.Hạt hồ đào (walnut) ăn rất ngon nhưng cái vỏ của nó rất cứng. Ở Tây phương người ta có chế ra một cái kẹp sắt, chỉ cần bóp mạnh cái kẹp thì vỏ hồ đào vỡ và ta có thể thưởng thức ngay hương vị thơm ngọt và bùi của hồ đào. Có những kẻ trong chúng ta đã từng bị lúng túng trong khi đọc những bài kệ Trung Quán Luận. Nhưng trong hai mùa Đông năm 2001-2002 và 2002-2003, thầy của chúng tôi là thiền sư Nhất Hạnh đã giảng giải cho chúng tôi nghe và hiểu được những bài kệ ấy một cách dễ dàng và thích thú. Sách này ghi lại những bài giảng của thầy về sáu phẩm căn bản của Trung Quán Luận, các phẩm Nhân Duyên, Khứ Lai, Tứ Đế, Hữu Vô, Nhiên Khả Nhiên và Niết Bàn. Những phẩm này đại diện được cho toàn bộ Trung Quán Luận.Thầy Long Thọ sinh vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai trước Thiên chúa giáng sinh(B.C.), trong một gia đình Ấn Độ giáo. Lớn lên thầy đã học Phật và theo Phật giáo. Thầy đã sáng tác bằng tiếng Phạn thuần túy, thay vì bằng tiếng Pali hay bằng tiếng Phạn lai Phật giáo.Tác phẩm Trung Quán Luận của thầy có mục đích xiển dương Đệ Nhất Nghĩa Đế (Paramartha) của đạo Bụt. Đệ nhất nghĩa đế là sự thật tuyệt đối. Ngoài sự thật tuyệt đối còn sự thật tương đối, tức là Thế tục đế (Saṃvrti). Sự thật tương đối tuy không phải là sự thật tuyệt đối nhưng cũng có khả năng chỉ bày, chuyển hóa và trị liệu, do đó không phải là cái gì chống đối lại với sự thật tuyệt đối. Mục đích của Long Thọ, như thế không phải là để bài bác chống đối sự thật tương đối mà chỉ là để diễn bày sự thật tuyệt đối. Nếu không có sự thật tuyệt đối thì thiếu phương tiện hướng dẫn thể nhập thực tại tuyệt đối, tức chân như hay Niết bàn. Vì vậy trong khi đọc Trung Quán Luận, ta thấy có khi như Long Thọ đang phê bình các bộ phái Phật giáo đương thời như Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvāstivāda) hay Độc Tử Bộ (Pudgalavāda) hay Kinh Lượng Bộ (Sautrāntika). Long Thọ không đứng về phía một bộ phái nào, không bênh vực một bộ phái nào, cũng không chỉ trích bài bác một bộ phái nào. Ông chỉ có ý nguyện trình bày Đệ Nhất Nghĩa Đế của đạo Bụt, thế thôi.
Tam Ngươn Giác Thế Kinh - Chiếu Minh Đàn (NXB An Hà 1932)
Trong Trời Đất có ba Ngươn: Thượng ngươn - Trung Ngươn - Hạ Ngươn. Ba Ngươn ấy là cái số cuối cùng của Trời Đất. Thượng Ngươn là: ngươn đã gây dựng CKVT. Nên còn gọi là Ngươn Tạo Hóa hay Ngươn Thượng Đức, con người lúc ấy tánh chất hiền lương chất phát. Thuận tùng Thiên Lý, trên hòa dưới hiệp bảo vệ thương yêu nâng đỡ nhau, cùng chung nhau hưởng đời an lạc, gọi là đời Thượng Lực. Đến đời trung Ngươn, thì con người bỏ mất tánh thiện lương, càng ngày càng học hỏi thu thập nhiều thói hư xấu, rồi nghĩ ra nhiều mưu lược tương tàn, tương sát giết hại lẫn nhau, mạnh đặng yếu thua, miễn sao mình vinh thân phì da, không kể gì đến tính đồng loại, nghĩa đồng bào, bởi vậy nên còn gọi là Ngươn tranh đấu. Hạ Ngươn còn gọi là đời mạt kiếp: sự đấu tranh càng ngày càng gay go hung tợn. Chế tạo ra nhiều vũ khí tối tân, giết người hàng loạt. Mưu quỉ kế là ác độc phi thường. Thậm chí còn bày ra hạt nhân nguyên tử. Nếu đấu tranh càng lắm, thì cũng phải tới thời kỳ tiêu diệt, bởi thế còn gọi là đời mạt kiếp hay ngươn điêu tàn. Tam Ngươn Giác Thế KinhNXB An Hà 1932Chiếu Minh Đàn213 TrangFile PDF-SCAN