Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bố Già

TÁC GIẢ & TÁC PHẨM   Mario Puzo (Mario Gianluigi Puzo, 1920-1999) sinh ra trong một gia đình người Italia nhập cư sang Mỹ. Cha mẹ Mario hoàn toàn mù chữ và tuổi thơ của cậu bé này đã trôi qua “dưới đáy” xã hội ở New York. Trong Chiến Tranh Thế Giới II, Mario Puzo phục vụ trong quân đội Mỹ. Ông từng có mặt trên chiến trường nước Đức và vùng Đông Á. Sau đó Puzo học Cao Đẳng Khoa Học Xã Hội New York và Đại Học Tổng Hợp Colombia rồi công tác gần 20 năm tại các cơ quan của Chính Phủ ở New York và nước ngoài. Năm 1955, Puzo cho ra đời tác phẩm đầu tay mang tên “Đấu Trường Đen”. Đây không phải là một cuốn sách về Mafia mà về cuộc đời một chàng cựu binh Mỹ trong bối cảnh thành phố Berlin hoang tàn sau chiến tranh với những vụ áp phe, buôn lậu, lừa đảo và cả những mối quan hệ nồng ấm tình người. Tuy nhiên, “Đấu Trường Đen” không thuộc số những cuốn sách ấn tượng nhất của Puzo. Từ năm 1963, Mario Puzo bắt đầu tác nghiệp như một phóng viên tự do, đồng thời coi viết văn là công việc nghiêm túc của mình. Năm 1969, với sự xuất hiện lừng lẫy của “Bố Già”, Puzo đã trở thành nhà văn được cả thế giới ngưỡng mộ. Suốt một thời gian dài, “Bố Già” luôn chiếm vị trí đầu trong bảng xếp hạng sách bán chạy nhất hành tinh. Nó đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và có con số xuất bản đáng kinh ngạc: 11 triệu bản trong năm 1969 và 21 triệu bản tính đến tháng 7/1999. Bố Già Don Vito Corleone trong tiểu thuyết của ông và những sự kiện bạo liệt quanh ông ta dường như được bao phủ bởi một màu sắc lãng mạn khiến cuốn sách có sức hấp dẫn kỳ lạ. Tuy nhiên Puzo không chỉ dừng lại ở việc lãng mạn hóa “Bố Già”. Tác giả đã xây dựng câu chuyện dựa trên những chất liệu có thật, đã tiểu thuyết hóa các nhân vật bằng những nét miêu tả chân chất. Nhiều tư liệu gần đây về Mafia cho biết Bố Già ngoài đời chính là Don Vito Cascio Ferro, một trong những thủ lĩnh đầu tiên của giới Mafia Italia di cư sang Mỹ. Ông này cầm đầu giới giang hồ ở Sicily (Italia) và sau đó là thống soái của nhóm “Bàn Tay Đen”, tiền thân của Mafia Mỹ. Tuy nhiên, bản thân Puzo thì nói rằng ông chưa bao giờ tiếp cận với một tay gangster bằng xương bằng thịt, rằng nguyên mẫu cho nhân vật bố già chẳng phải ai xa lạ mà chính là mẹ ông, một phụ nữ Italia nhập cư đã phải làm mọi thứ để có thể nuôi sống con cái và giữ cho gia đình hòa thuận. Trong cuốn “Bố Già” Puzo cũng cẩn thận ghi chú rằng: Tất cả nhân vật trong truyện đều là hư cấu và bất kỳ sự trùng hợp nào nếu có đều là ngẫu nhiên… Độc giả cũng như giới phê bình đều công nhận rằng, Puzo đã miêu tả thế giới của “Bố Già" tuyệt vời đến nỗi có người còn ngờ ông là “tay trong” của Mafia. Năm 1972 Francis Coppola đã chuyển thể “Bố Già” thành phim. Sau đó vị đạo diễn tên tuổi này lại đề nghị Puzo hợp tác để viết tiếp kịch bản “Bố Già II”. Bộ phim bất hủ này đã đi vào lịch sử Hollywood và điện ảnh thế giới với các giải Oscar cho phim hay nhất và cho kịch bản hay nhất. Vai diễn Bố Già cũng đem đến cho hai diễn viên gạo cội Marlon Brando và Robert De Niro 2 giải Oscar. Kịch bản cho phim “Bố Già III” (xuất hiện trên màn bạc vào năm 1990) cũng được viết chung bởi Puzo và Coppola. Puzo tâm sự về việc viết “Bố Già” như sau: Một lần tình cờ có một đồng nghiệp ghé đến chỗ tôi. Tôi đã đưa bản thảo “Fortunate Pilgrim” (bản tiếng Việt là Đất Khách Quê Người) cho anh ta đọc. Một tuần sau anh ta quay lại và tuyên bố: Mario là một nhà văn vĩ đại! Tôi rất phấn chấn và đã thết anh bạn một bữa thịnh soạn tại nhà hàng. Trong khi ăn, tôi kể cho anh nghe những câu chuyện về Mafia và đọc một vài đoạn trong bản thảo “Bố Già”. Bạn tôi đã bị sốc. Một tuần sau anh ấy lại đến và nói rằng đã lên lịch hẹn cho tôi gặp một chủ xuất bản. Tại cuộc gặp đó, tôi cũng kể rất nhiều về Mafia. Ông chủ xuất bản rõ ràng là rất thích. Vì vậy ông ta đặt tôi viết một cuốn tiểu thuyết về những chuyện đó và ứng trước cho tôi 5 nghìn đôla. Chuyện xảy ra như thế đấy. Thật kỳ lạ và không thể hiểu nổi. Tôi đã bắt tay vào viết “Bố Già” nhưng thực lòng không hề thấy hứng thú… Tôi viết cuốn sách trong vòng 3 năm. Thời gian ấy tôi đồng thời còn viết cho Martin Gudman một số truyện phiêu lưu mà không đòi hỏi nhuận bút… Độc giả Việt Nam hẳn không xa lạ gì với “Bố Già” - cuốn tiểu thuyết được đánh giá là hay nhất về giới giang hồ Mafia ở Mỹ. Nhà văn Mario Puzo, cha đẻ của “Bố Già” lại thú nhận rằng ông không hề hào hứng khi viết cuốn sách bán chạy nhất này, ông chỉ viết nó vì đang... túng tiền! *** Amerigo Bonasera ngồi ở phòng ba tòa đại hình New York chờ xem công lý được thực thi và lưỡi gươm trừng phạt sẽ bổ xuống đầu mấy thằng mất dạy đã hành hung thành thương tật và toan làm nhục con gái lão. Ngài chánh án uy nghi trang trọng vén tay áo thụng như sắp sửa tự tay mình trị tội hai thằng côn đồ đang đứng trước tòa. Bộ mặt sắt của ngài đầy khinh bỉ, cao ngạo, song ở đây có một cái gì đó giả trá mà Amerigo Bonasera đã nhận thấy bằng trực giác mặc dù còn chưa hiểu ra sự thể. — Hành động của các người là hành động của bọn cặn bã mạt hạng, - ngài chánh án lớn tiếng. “Đúng", Bonasera nghĩ bụng, “đúng thế! Lũ súc sinh. Loài dã thú". Hai thằng thanh niên tóc bóng mượt cắt đúng mốt, mặt mày sáng sủa lộ rõ vẻ ăn năn, hai đứa cúi đầu cam chịu. Quan chánh án phán tiếp: — Các người hành động như lũ dã thú trong rừng, may mà cô gái đáng thương chưa bị các người xâm phạm tiết hạnh, bằng không ta phải nhốt các người đủ hai chục năm mới nghe. - Ngài dừng lại một lúc, cặp mắt cáo bên dưới đôi lông mày rậm rì nhíu lại dữ tợn đảo nhanh qua bộ mặt tái ngắt của Bonasera. Rồi càng sa sầm mặt với vẻ dữ tợn hơn, so vai như để kìm cơn giận tự nhiên, ngài kết thúc. - Nhưng xét các người còn trẻ, trước đây chưa có tiền án, vả lại đều là con nhà tử tế, mặt khác luật pháp là cực kì sáng suốt, đặt ra không phải để trả thù, nên ta tuyên phạt mỗi tên ba năm tù. Cho phép các người được hưởng án treo. Chỉ nhờ thói quen bốn chục năm nghề nghiệp mới giúp ông chủ xe đòn Bonasera đủ sức ghìm cơn giận không để lộ ra ngoài mặt. Đứa con gái trẻ trung tươi tắn của lão giờ này vẫn phải nằm bệnh viện với cái xương hàm gẫy, thế mà bọn súc sinh kia lại được thả rông ngoài đường. Ra người ta diễn trò hề với lão đây. Đám cha mẹ, họ hàng của chúng đang hớn hớ xúm quanh hai cậu quí tử. Bọn họ làm sao mà không hớn hở cơ chứ. Cổ họng Bonasera đắng ngắt, nước dãi chua loét tứa ra đầy mồm đằng sau hai hàm răng nghiến chặt. Lão rút chiếc khăn tay phin nõn ở túi ngực ra bịt mồm, đứng đực giữa lối đi, còn hai thằng khốn nạn thì trâng tráo đi ngang qua mặt lão, mồm nhếch lên cười nhạt, thậm chí còn không thèm nhìn đến lão. Lão để chúng đi qua mà không nói một lời, chỉ áp chặt hơn chiếc khăn vào mồm. Cha mẹ chúng đi sau, hai bà và hai ông cùng trạc tuổi lão có điều ăn mặc ra dáng Mĩ nòi. Mấy người này nhìn lão có vẻ lúng túng nhưng đầy thách thức và đắc thắng ngấm ngầm. Không nhịn nổi, Bonasera nhoài người ra hét lớn: — Các người cứ chờ đấy, rồi các người sẽ được khóc như ta đã từng khóc. Thấy vậy mấy ông luật sư đi đằng sau vội đẩy các thân chủ tới chỗ mấy thằng con đang dừng lại hầm hừ như chực nhảy vào bênh bố mẹ. Một tay mõ toà to như hộ pháp vội chạy ra đứng chặn lối, sợ Bonasera làm liều. Nhưng rốt cuộc chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Bao nhiêu năm làm ăn sinh sống ở xứ này Bonasera luôn tin ở pháp luật và trật tự kỉ cương. Dựa vào đâu thì ăn nhờ đấy. Ngay cả lúc này, tuy đầu óc lão cứ ong ong vì uất hận ngất trời, căm gan tức ruột chỉ muốn thửa ngay một khẩu súng bắn chết toi hai thằng chó cho hả, nhưng Bonasera vẫn phải cắn răng quay sang bà vợ đang ngớ ra chẳng hiểu ngô khoai gì hết. — Người ta lỡm vợ chồng mình đấy, - lão nói. Lão im bặt, máu liều bốc lên. Lão quyết định dứt khoát, muốn đến đâu thì đến: “Muốn có công lý thì phải đến kêu cửa Ông Trùm Corleone". *** Tại Los Angeles, một mình giữa căn phòng Deluxe sang trọng choáng người trong khách sạn, Johnny Fontane cũng mượn rượu giải sầu như bất kỳ một anh chàng mọc sừng nào. Hắn nằm duỗi dài trên chiếc đivăng đỏ, cầm nguyên cả chai mà tu rồi úp mặt vào cái thố pha lê đựng đá liếm nước lạnh cho thông họng. Lúc đó là bốn giờ sáng, trí tưởng tượng mờ mịt hơi men của hắn đang hình dung cảnh hắn tẩn con vợ đĩ thõa lúc con kia về, nếu như nó còn về. Muộn rồi chứ không thì phôn một cú đến cô vợ cũ hỏi thăm mấy đứa con cho đỡ sầu. Không hiểu sao hắn không muốn gọi tới mấy đứa bạn, nhất là từ dạo công việc của hắn bắt đầu xuống dốc. Có thời được hắn gọi điện vào lúc bốn giờ sáng là bọn kia sướng lắm. Giờ thì chẳng ma nào thèm biết hắn. Mà kể cũng lạ, lúc hắn đang lên, hễ mới hơi khó ở một chút là các minh tinh sáng giá nhất nước Mĩ đã tới tấp hỏi thăm ngay. Hay thật! Hắn lại đưa chai rượu lên mồm, và rốt cuộc cũng nghe thấy tiếng chìa khoá xoay ngoài cửa. Johnny cứ ngậm nguyên chai rượu cho tới khi vợ hắn vào phòng và dừng lại trước mặt hắn: Xinh đẹp, con mắt tim tím mơ mộng lả lơi, gương mặt thần tiên, thân hình thon thả, óng chuốt. Cả triệu đàn ông khắp thế giới mê mệt Margot Ashton, chịu xì tiền ra để được ngắm ả trên màn bạc. — Phất phơ đâu về? - Johnny lè nhè hỏi. — À, đi ngủ với trai, - Ả đáp. Ả tính hơi nhầm, hắn chưa phải đã say khướt. Hắn nhảy chồm qua cái bàn con để báo, túm ngay lấy cổ áo dài của ả. Nhưng vừa kéo khuôn mặt thần tiên kia đến gần thì bao nhiêu tức giận của hắn trôi tuột đi đâu mất, người hắn nhũn ra. Cô ả tớn môi chế nhạo và lại một lần nữa tính nhầm, Johnny vung nắm đấm lên. — Cấm đánh vào mặt đấy nhé! - Ả hét thất thanh, - Người ta đang đóng phim đấy, Johnny! Cú đấm trúng ngay ức làm ả ngã chỏng gọng. Hắn đè lên, đấm như bổ củi xuống vai, xuống hông, xuống cặp đùi mịn màng rám nắng. Hắn quần ả như ngày nhỏ vẫn nện bọn nhãi ranh thò lò mũi ở “Rốn Hỏa Ngục", tức là Khu Ổ Chuột của New York. Đòn của hắn ngấm đáo để tuy không gây thương tích như gẫy răng, vỡ mũi. Mà nói vậy chứ hắn còn nương tay. Hắn không thể làm khác được. Thế là ả lại cười vào mũi hắn. Ả xoạc cẳng nằm tô hô, lớp váy lụa thêu bên trong lộ ra, tru tréo: — Đây này, đánh nữa đi, đánh đi... ăn thua mẹ gì! Johnny chán ngán bò dậy. Tức anh ách mà không đánh được con đĩ, nó đẹp quá. Margot lật sấp người, nhẹ nhàng nhún mình bật dậy rồi vừa õng ẹo vừa nhè mồm ra trêu như một con bé con: — Ê, ê... đếch đau. Ê, ê... đếch đau. Rồi nghiêm mặt, ánh mắt lộ rõ vẻ ngán ngẩm, ả nói thêm: — Chán mớ đời, mày đè đau cả bụng chị đây này, bé con ạ. Chà! Johnny, mày suốt đời vẫn chỉ là con nghé con, đến cả làm tình cũng chẳng bằng đứa trẻ ranh. Mày tưởng như trong các bài mày vẫn rống ông ổng dạo trước đấy hả? - Ả lắc đầu. - Gà tồ? Thôi, khỏe nhé, Johnny. Ả vào phòng ngủ và khóa trái cửa lại. Johnny ngồi bệt xuống sàn, tay bụm mặt. Uất ức, nhục nhã, thất vọng ê chề. Nhưng vốn là đứa trẻ lang thang trong Khu Ổ Chuột New York, cuộc đời chìm nổi ngày xưa đã giúp hắn sống sót trong miền rừng hoang Hollywood, bây giờ lại thức tỉnh hắn cầm máy gọi taxi ra sân bay. Còn một người có thể cứu hắn. Miễn là về được New York gặp người ấy, kẻ duy nhất giúp hắn tìm được sức mạnh và sự khôn ngoan mà lúc này hắn đang thiếu, một người thực sự yêu thương hắn. Đó là Bố Già của hắn, Ông Trùm Corleone. *** Bác thợ bánh Nazorine hồng hào tròn xoay như những chiếc bánh kiểu Italia nở phồng của bác. Người vẫn dính đầy bột mì, bác lừ mắt nhìn bà vợ và cô con gái đến tuổi cập kê rồi quay sang gã giúp việc Enzo, đã kịp đóng bộ quần áo đính băng vải có hai chữ “Tù Binh" viết tắt màu xanh, đang lo ngay ngáy sợ muộn giờ điểm danh tối ở trại trên Đảo Thống Đốc. Giống như hàng ngàn tù binh Italia hàng ngày đến làm cho các chủ Mĩ sau khi đã cam đoan, Enzo sống nơm nớp, chỉ sợ mất cái đặc ân ấy thì meo. Vì thế nên cái màn hài kịch đang diễn ra ở đây đối với anh quá ư là nghiêm trọng. — Chú định để tai tiếng cho gia đình tôi đấy phỏng? - Nazorine gầm gừ. - Chiến tranh sắp hết, chú định tương cho con bé nhà tôi một món quà kỉ niệm chứ gì? Rồi sau thế nào thì ai còn lạ gì nữa: Nước Mĩ thúc cho chú một gối vào đít là chú mình phới luôn về Sicily đếm rệp ở quê nhà hả? Enzo, người lùn tịt, chân cẳng ngắn ngủn, vội ấp tay lên ngực như muốn khóc, tuy vậy vẫn tỉnh lắm: — Padrone, thề có Đức Mẹ Đồng Trinh, nào cháu có dám lấy oán trả ân bác đâu. Cháu yêu thương con gái bác thực bụng, đời nào lại dám sàm sỡ. Tiện đây, xin bác cho cháu lấy cô ấy. Cháu thực không nên không phải, song nếu người ta trả cháu về Italia thì bao giờ cháu mới sang Mĩ được? Nếu vậy ngày nào cháu với Katherine mới nên vợ nên chồng? Bà Filomena vợ bác không thích dông dài, nói toang toác luôn: — Đừng có mà ngốc thế, bố nó - Bác ta bảo ông chồng - Làm thế nào thì bố mày biết rồi đấy. Thằng Enzo cứ để nó ở đây, có gì bố mày đưa nó sang chỗ bà con mình bên Long Island gửi gắm ít lâu xem sao đã. Katherine khóc lên khóc xuống. Người đã béo trục béo tròn, mép lại lấm tấm tí ria, nó có đẹp đẽ gì cho cam. Biết tìm đâu một tấm chồng điển trai bằng Enzo bây giờ. Lấy ai mà xoa bộ ngực tú ụ của nó cho nồng nàn và mơn trớn như chàng? — Tôi về Italia tôi ở cho bố trắng mắt ra! - Nó giãy nẩy lên với ông bố.- Bố mà không giữ anh ấy lại thì tôi bỏ bố tôi đi? Hư... hư... Nazorine tinh quái nhìn nó. Con bé nhà mình gớm thật! Bác đã trông thấy: Hễ mỗi lần thằng bé phải lách qua sau lưng nó để xếp bánh vào giỏ là y như rằng con ranh lại miết bàn tọa vào người thằng kia sát sạt. “Cứ cái đà này không khéo thằng lỏi còn lách vào tận đâu ấy chứ - Nazorine thầm cho phép mình nghĩ bậy. - Phải giữ thằng Enzo lại Mĩ, phải xoay cho nó cái quốc tịch. Và chỉ có một người làm nổi việc ấy: Bố Già. Ông Trùm Corleone". Mời các bạn đón đọc Bố Già của tác giả Mario Puzo & Đoàn Tử Huyến (dịch) & Trịnh Huy Ninh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bóng Ma Giữa Trưa - Alberto Moravia
Ricardo Molteni là một người chồng trẻ hạnh phúc. Anh yêu vợ và được vợ yêu một cách nồng nàn. Tình yêu của họ đơn giản, trong sáng, hồn nhiên như hơi thở của họ. Tuy nhiên, một chuỗi những ngộ nhận, như một phần của Định Mệnh, với những trò đùa tinh vi và tai ác của nó, đã dần đẩy họ ngày càng xa nhau. Ricardo càng tìm cách để chinh phục lại tình yêu của chính vợ mình càng như vấp phải bức tường của những ngờ vực, định kiến của một người vợ càng nồng nàn trong tình yêu lại càng sắt đá và bướng bỉnh trong lòng căm hờn. Những tâm trạng mà Ricardo trải qua, từ thảng thốt, ngờ vực, đến hoang mang, tuyệt vọng, đã đi đến tận cùng của giới hạn, của những thống khổ của một kiếp con người. Sự xuất hiện của kẻ thứ ba trong cuộc tình, Battista với những lợi thế về tiền bạc,, vật chất của hắn, chỉ là một nhân tố xúc tác để đẩy mau những diễn biến của màn kịch, cho trò chơi của Định Mệnh mau chóng đi đến hồi chung cuộc. Khi Ricardo phát hiện ra những sai lầm của mình thì mọi chuyện đã trở nên quá muộn, để từ đó càng tuyệt vọng trong mơ ước khắc khoải được yêu, được sống lại trong cái thế giới bình yên của hạnh phúc. Cái chết của Emilia chỉ như là một kết thúc buồn thảm nhưng tất yếu, có lẽ, đã hoá giải được tấn bi kịch muôn thưở của tình yêu và hơn nữa làm cho phép mầu tình yêu được nhóm lêng trong tim ta ngọn lửa ấm áp… Chủ đề của tác phẩm là những diễn biến tâm lý phức tạp của bốn nhân vật đầy cá tính đối đầu nhau trong bủa vây của tình yêu cũng như của công việc trong đời sống. Chuyển biến của những xúc cảm, hành vi của các nhân vật, tác động bởi một xã hội chuẩn mực vật chất, vai chính trở nên như một con rối trong tay người diễn trò. Giá trị của tác phẩm Alberto Moravia càng nâng cao hơn ở những phân tích tâm lý sâu sắc, đưa người đọc sống cùng với nhân vật, chia sẻ với nhân vật từng tâm trạng, từ hân hoan, vui sướng cho đến buồn thảm, tuyệt vọng, làm người đọc cảm thấy thấm thía cho thân phận nhỏ nhoi yếu ớt của con người trong oái oăm của trò trốn bắt của hạnh phúc, của bi kịch. Về mặt văn học, với Bóng ma Giữa trưa, A. Moravia đã tạo nên một kiệt tác cổ điển lãng mạn đúng nghĩa, vừa tinh tế, vừa mạnh mẽ, vừa đam mê, vừa cuồng nhiệt trong tình yêu và ảo ảnh cuộc đời. Alberto Moravia là một trong những nhà văn Ý có lượng tác phẩm đồ sộ nhất. Ông sinh năm 1907 ở Rome. Thời niên thiếu ông hay ốm đau, bệnh tật nên học hành dang dở, và chuyển sang viết văn từ rất sớm. Ông xuất bản cuốn tỉêu thuyết đầu tay vào năm 1925, khi vừa mười tám tuổi. Văn tài của ông sớm bộc lộ, đưa ông trở thành đại diện ưu tú nhất của chủ nghĩa hiện thực phê phán trong trào lưu văn học Ý hiện đại. Những tác phẩm của ông tiêu biểu là "Những kẻ lãnh đạm", "Bệnh truyền nhiễm", "Aghostino", "Cô gái thành Rome", chứng tỏ tài năng lớn của A.Moravia trong hiểu biết thấu đáo về đời sống, phng tục, ngôn ngữ, tư duy, và nhất là tình yêu của người dân Ý nói chung và của người dân Rome nói riêng. Ông có một cai nhìn nhân hậu, đầy thông cảm với người nghèo, "con người nhỏ bé", luôn bị thua thiệt trong xã hội tư bản. Trong những năm đầu của chế độ phát xít, sách của ông bị cấm và bản thân nhà văn phải đi lánh nạn. Biệt tài dẫn nhập người đọc vào trong thế giới của các nhân vật khiến Moravia trở nên một trong những nhà văn có sức hấp dẫn đặc biệt. Người dịch mong muốn giới thiệu với độc giả một tác phẩm hay trong văn học hiện thực đương đaị, để bổ sung vào tủ sách Văn học nước ngoài, trong đó nền văn học Ý có một vị trí quan trọng nhất định. Mặt khác, chúng tôi cũng mong muốn chuỷên đến người đọc tấn thảm kịcyh của nhân vật chính mà không ít lần trong cuộc sống đời thường, chúng ta đã ngậm ngùi chứng kiến. Biết đâu có thể là một bài học cho những ai quá vô tư với hạnh phúc, để làm sao tránh khỏi phải gặp tình trạng đến khi hạnh phúc mất đi mới biết được giá trị đích thực của nó thì đã quá muộn màng. Trương Xuân Huy *** Chuyến trở về của tôi rất chậm chạp, từng lúc, tôi ngưng chèo và ngồi yên, hai tay nắm chặt đôi mái dầm, mắt nhìn sững xuống mặt biển xanh, sáng ngời. Rõ ràng tôi đã trải qua một ảo giác. Như lần cách đây hai hôm, khi Emilia nằm dài trần truồng phơi nắng và tôi đã tưởng tượng ra mình đã cúi xuống và hôn nàng, trong khi thật ra, tôi vẫn ở nguyên tại chỗ, thậm chí, không hề đến sát bên nàng. Lần này, ảo giác chính xác và rõ nét hơn, nhưng để chứng minh đó chỉ là một ảo giác không hơn không kém, tôi nghĩ có lẽ không cần chứng cứ nào khác hơn là cuộc trò chuyện mà tôi đã tưởng tượng trao đổi với bóng ma của Emilia – một cuộc trò chuyện trong đó, tôi đã cho Emilia nói những gì tôi ao ước nàng nói, và có những thái độ tôi ao ước nàng co. Mọi điều bắt đầu và chấm dứt ngay nơi tôi. Điều khác biệt duy nhất trong những trường hợp như thế này là tôi đã không tự giới hạn trong phạm vi chỉ tưởng tượng ra những gì tôi ao ước xảy ra, nhưng từ nguồn cảm xúc tràn ngập thôi t húc trong lòng, tôi đã tự đánh lừa mình bằng cách xem những điều mong ước ấy đã thật sự xảy ra. Điều lạ lùng là tôi không lấy làm ngạc nhiên chút nào vì đã có một ảo giác không những kỳ dị, mà có lẽ chưa từng có với bất kỳ ai. Như thế là ảo giác còn tiếp diễn, tôi không để ý đến tính hư vô của nó mà chỉ quan tâm đến những chi tiết, lần lượt tạo dựng lại từng chi tiết một, dừng lại một cách khoái trá ở những tình huống làm tôi sung sướng nhất. Emilia xinh đẹp biết bao khi ngồi ở đuôi thuyền, không thù nghịch, nhưng tình tứ biết bao, những lời nói của nàng ngọt ngào, và những cảm xúc của tôi mãnh liệt biết bao khi tôi ngỏ lời muốn làm tình với nàng và nàng khẽ gật đầu đồng ý. Giống một kẻ vừa trải qua một giấc mơ đầy khóai lạc và sống động, đến khi thức dậy còn vương vấn một cách thú vị với cảnh tượnmg và cảm xúc trong mơ, tôi thật tình còn sống trong ảo giác, tin vào nó, và vui sướng được sống lại với nó trong hồi ức, tôi không bận tâm lắm về vấn đề đó chỉ là ảo giác, vì tôi đã trải qua những cảm giác thật, như người ta cảm thấy được trước một sự việc có xảy ra thật. Vẫn lưu luyến với những chi tiết của ảo ảnh, tôi chợt nảy ra ý tưởng đối chiếu lại một lần nữa thời gian khi tôi rời Piccola Marina bằng thuyền với thời điểm tôi ra khỏi Hang Đỏ, và tôi sửng sốt nhận ra tôi đã ở lại lâu đến thế trên bãi ngầm trong hang ấy. Trừ đi chừng bốn mươi lăm phút là thời gian tôi đi từ Piccola Marina đến Hang Đỏ, thời gian tôi ở trong hang phải lâu hơn một giờ đồng hồ. Như đã nói ở trên, tôi đã cho thời gian ấy là thời gian tôi ngất đi, hoặc ít ra, thiếp đi. Bây giờ đây, xét lại ảo giác của tôi, xét vì nó kéo dài một cách đầy đủ và đáp ứng một cách thoả đáng những ước nguyện sâu xa nhất của tôi, tôi tự hỏi phải chăng tôi đã nằm mơ hết toàn bộ sự việc. Phải chăng tôi đã lên thuyền một mình từ ở bãi tắm với chẳng một con ma nào trên thuyền, và đã chui vào hang một mình, nằm dài ra bãi và ngủ thiếp đi. Trong giấc ngủ - nếu đúng như thế - tôi đã nằm mơ thấy tôi bắt đầu lên thuyền cùng với Emilia ngồi gần ở cuối thuyền, tôi đã nói chuyện với nàng, nàng đã trả lời tôi, tôi đã ngỏ ý muốn làm tình với nàng và cả hai chúng tôi đã vào hang. Rồi thì tôi cũng đã mơ thấy tôi đã đưa tay để đỡ nàng nhảy ra khỏi thuyền, tôi đã tìm nàng mà không thấy, tôi đã hoảng sợ, tôi đã nghĩ rằng tôi đã đi chung thuyền với một bóng ma, tôi đã nằm phục xuống bãi cát và ngất đi. ... Mời các bạn đón đọc Bóng Ma Giữa Trưa của tác giả Alberto Moravia.
Ba Con Gà Mái Pháp - Lynsay Sands
Hướng dọc theo cái bàn dài trước mặt, Brinna liếc xung quanh căn bếp. Hai cậu nhóc đang giã lấy các loại gia vị với chày cối ở góc bếp, trong khi một cậu bé khác đang cần mẫn quay một con heo trên trục nướng. Ngoài ra thì có Lady Christina và Bếp trưởng, cô và Aggie là những phụ nữ duy nhất có mặt ngay lúc này. Những người khác đang tất bật chuẩn bị cho những vị khách đột xuất mà Lord Menton đã đem về nhà cùng ông. Bản thân Aggie cũng chỉ vừa tới đây khi xong việc của bà. ... Mời các bạn đón đọc Ba Con Gà Mái Pháp của tác giả Lynsay Sands.
Thời Của Mỗi Người - Lê Minh Quốc
Thời của mỗi người là cuốn tiểu thuyết của nhà văn Lê Minh Quốc bao gồm 9 chương kể về cuộc đời của người lính. *** Tờ lịch của năm 1978 sắp rơi vào hư không. Một năm sẽ qua. Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam đang tiến gần đến giai đoạn quyết liệt nhất. Sáng nay, không giống như mọi ngày. Một buổi họp bất thường của đại đội đã diễn ra. Bóng cây râm mát, tiếng chim hót véo von - đó là những nhân chứng của lịch sử ngàn đời vĩnh cửu. Một ngày không giống như mọi ngày. Chính trị viên Chương ngồi bệt xuống đất, trước mặt anh là tấm bản đồ tác chiến ... Mời các bạn đón đọc Thời Của Mỗi Người của tác giả Lê Minh Quốc.
Qua Sông - Đào Hiếu
C ách đây 26 năm tôi có viết một truyện dài dựa theo cuộc đời của anh thương binh Phan Thành Lợi. Đây là sáng kiến của bà Đỗ Duy Liên, lúc ấy là phó chủ tịch UBND Thành phố HCM. Anh Lợi quê ở Củ Chi, là một thương binh bị cụt cả hai tay, hai chân. Lúc đó anh được cấp một căn hộ nhỏ trong "làng phế binh" Thủ Đức. Tôi lui tới làm việc với anh trong vài tháng và viết xong một truyện dài lấy tên là Qua Sông. Tác phẩm được nhà xuất bản Văn Nghệ in năm 1986 với số lượng là 10.150 cuốn, khổ 13x19cm. Hồi đó sách in bằng giấy đen, sần sùi, trông rất xấu xí, nhưng vẫn không đủ sách để mà bán. Sau khi anh Lợi qua đời vì những thương tích cũ hành hạ, tôi gần như quên tác phẩm ấy, một phần vì tôi nghĩ đó chỉ là một cuốn sách viết theo đơn đặt hàng, và phần khác vì đề tài "cách mạng" không còn được độc giả quan tâm nữa, do những tác động quá tệ hại của guồng máy tham nhũng ngoài xã hội. Hai mươi bốn năm sau, trong lúc nhàn rỗi, tình cờ đọc lại "Qua Sông", tôi không thể ngờ rằng trong quá khứ mình đã từng tiếp xúc với một anh du kích Củ Chi lạ lùng như vậy, đã từng viết về một cuộc tình đau đớn như vậy. Tôi từng xem những phim chiến tranh thuộc loại tầm cỡ của điện ảnh Mỹ như "Giải cứu binh nhì Ryan", "Huyền thoại mùa Thu", "Cuốn theo chiều gió", "Trung đội"…nhưng chưa từng thấy nhân vật nào có số phận nghiệt ngã như anh Phan Thành Lợi, chưa từng thấy có chiến trường nào bi thảm như chiến trường Củ Chi khi phải hứng chịu những trận bom rải thảm của máy bay B52 trong trận càn Cedar Falls đẫm máu đầu năm 1967. Đọc lại Qua Sông, tôi chợt "ngộ" ra một điều, đó là: cuộc chiến vừa qua không phải là cuộc chiến của những người đang cầm quyền hiện nay ở Việt Nam, mà là cuộc chiến của những người lính đã chết ngoài mặt trận, của những thương binh như Phan Thành Lợi, của những cô giao liên dũng cảm như Huệ, của những bà mẹ thui thủi chờ mong con bên ánh đèn dầu, của những đôi lứa yêu nhau đã phải chia lìa chỉ sau một trận đánh, của những trẻ thơ chết như rạ giữa đồng sau một trận pháo bầy. Còn chúng ta, những người đang cướp bóc, đang giành giựt của cải và quyền lực… chỉ là một lũ ăn theo, một bọn dây máu ăn phần, một phường hôi của bần tiện. Trong kháng chiến chống Mỹ, những người như anh Lợi cứ nghĩ rằng mình là "cộng sản" nhưng thực tế họ không hề biết chủ nghĩa cộng sản là gì. Ở các đô thị miền Nam cũng vậy: Có những trí thức trẻ đã đấu tranh dưới ngọn cờ của Đảng cộng sản Việt Nam, thậm chí đã là đảng viên, nhưng vẫn không phải là một người cộng sản, vì không hề quan tâm đến triết học Mác-Lênin và cũng không muốn tìm hiểu nó. *** Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Người Đàn Bà Trên Đồi Cỏ Vua Mèo Nữ Quái ... Truyện ngắn và tạp văn Bầy chim sẻ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1982. Những bông hồng muộn, Nhà xuất bản Trẻ 1999. Tình địch, Nhà xuất bản Trẻ 2003. Thơ Đường phố và thềm nhà, Nhà xuất bản Trẻ 2004. *** T ổ của Bạch có ba người, toàn thiếu nữ rất trẻ, rất vui tính. Buổi trưa trời đứng gió, họ dừng lại tại một nhà cơ sở nấu ăn, nghỉ trưa rồi đợi cho nắng dịu một tí, ba người mới lên đường. Xế chiều, họ đi ngang qua một cánh đồng mênh mông. Họ đi được một lát thì bỗng thấy trước mặt có một mảng đen lớn trông như một mảng bóng tối xa lạ. - Cái gì vậy? Một người hỏi. Bạch dừng lại, nhón gót lên nhìn. Không biết là cái gì. Một vùng đen như thế thực là hiếm có trong một khu vực đồng ruộng rừng chồi và bưng biền. Họ đi tới, đi tới nữa. Ánh sáng mờ dần đi và những vùng lá cây trở nên đen hơn. Ba người đến nơi, dẫm chân lên cái vùng bóng tối xa lạ ấy. Cái vùng bóng tối tạo thành bằng tro than của cánh đồng bị xăng đặc đốt cháy rụi. Bước chân đi qua còn hơi ấm nóng. Bụi than bám lên tới gối. Những bàn chân trần đã trở nên đen mốc, xù xì. Nhưng họ không thể đi con đường khác vì sợ lạc. Hoàng hôn. Ba người đến bến sông. Bến sông vắng. Không thấy giao liên đâu. Họ ngồi chờ trên bờ cỏ, lấy cơm ra ăn và nhìn dòng sông phẳng lặng. - Trước đây có một người đưa đò trên bến sông này – Bạch nói – đó là một chiến sĩ cách mạng rất dũng cảm, một người thương binh, một người anh rất đáng quý của mình. Bây giờ anh không còn ở đây. - Anh hy sinh rồi sao? - Không! Nhưng đã trở thành một người tàn phế. Cụt cả hai chân hai tay. Bạch khóc. Những người đồng hành bất ngờ về những giọt nước mắt ấy. Họ ngồi lặng thinh. Cũng lặng thinh như dòng sông Sài Gòn trong buổi chiều đang xuống. Sương cũng bắt đầu xuống, mênh mông, nhẹ, mơ hồ. Giao liên vẫn chưa tới, sông vẫn vắng buồn. Ba cô gái đã mắc võng trên những cây chồi thấp, nằm đợi, súng dựa gốc cây, hiền lành như những nhánh củi. Sông vẫn không ngớt vang lên tiếng sóng nhỏ xao xác. Không có một con thuyền nào đi qua đây mà thỉnh thoảng vẫn có tiếng động quen thuộc của mái chèo. Tiếng mái chèo vang lên trong trí nhớ của người con gái, tiếng mái chèo quẫy nước trong sáng, đều nhịp, tiếng ai gọi đò, tiếng nói chuyện rầm rì trên mặt sông khuya. Bạch còn nhìn thấy cả những đóm thuốc lá lập lòe, ở xa dễ lầm với đóm đóm. Những con đom đóm lớn bay nhấp nhô, vệt sáng giữ rất lâu trong đêm đen, những con đom đom sáng đến nỗi người ta có thể nhận ra chúng ngay cả dưới ánh trăng rằm. ... Mời các bạn đón đọc Qua Sông của tác giả Đào Hiếu.