Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lạc Lối Về

(Bản Việt ngữ này được dịch từ bản tiếng Pháp Rentrez chez vous, Bogner! của André Starcky, Le Seuil ấn hành, 1954. Nguyên bản tiếng Đức: Und Sagte Kein Einziges Wort, ấn hành 1953.) Lạc lối về là câu chuyện về một ngày đời của một con người sau chiến tranh. Là tiếng nói cất lên trên hoang tàn đổ nát làm rung động lòng người Tiểu thuyết Lạc lối về kể lạimột ngày của một người đàn ông mà chiến tranh đã làm cho “gãy cánh”, phải rời bỏ vợ con mà anh yêu nhất đời vì không thể chịu nổi cảnh cùng cực, để lại buồn chán hơn trong mùi vị đắng chát của sự nghèo khổ cùng ký ức hãi hùng của chiến tranh. Ngoài những công việc hằng ngày để kiếm tiền gửi cho vợ con, anh lang thang qua các công viên hẻo lánh, các khoảng đất trống, vào các quán rượu để say với nỗi buồn, vào nghĩa trang để trò chuyện cùng người chết. Anh hẹn với vợ trong một khách sạn như một tình nhân lén lút, một bóng hình yêu thương nhưng chưa hiện hữu bao giờ, một tâm hồn gần gũi đồng thời xa lạ, đêm đêm vẫn khóc thầm vì anh, vì con cái, vì cảnh đời cơ cực nhẫn tâm. Anh có còn nhận ra nàng? Hay nàng chỉ là hình ảnh của một quá khứ mà ý thức khốn khổ của anh (hay đúng hơn là vô thức khốn khổ) muốn phủ nhận một cách vô vọng? Cuối cùng, “trở về” vẫn là sự lựa chọn dũng cảm nhất của con người, lựa chọn tương lai bắt đầu từ một thái độ chấp nhận sáng suốt thực tại đổ vỡ, kết thúc những bước đường lang thang, lạc lối. Sự lạc lối và trở về của nhân vật chính phải chăng cũng chính là thông điệp của Heinrich Böll về tình trạng suy tàn hậu chiến để đối diện mất mát, kiến tạo lại từ đầu những giá trị nền tảng trong cuộc sống. VỀ TÁC GIẢ Heinrich Böll, tên đầy đủ: Heinrich Theodor Böll (1917 – 1985) Là nhà văn Đức quan trọng bậc nhất sau Thế chiến thứ hai. Tác phẩm của ông được thể hiện sinh động bằng ngòi bút chân thực và đầy tính nhân văn về cuộc sống con người trong thế giới hoang tàn của chiến tranh, ở đó, họ biết yêu thương, phản kháng, biết can đảm nhìn thẳng vào định mệnh để vượt qua nó. Ông được trao giải Nobel Văn học năm 1972. Những tác phẩm nổi bật của Heinrich Theodor Böll gồm: Der Zug war pünktlich (Chuyến tàu đến đúng giờ, 1949) Wo warst du, Adam? (Người ở đâu, Adam?, 1951) Und sagte kein einziges Wort (Và đã không nói một lời duy nhất, 1953), Haus ohne Hüter (Ngôi nhà không người chăm nom, 1954) Gruppenbild mit Dame (Bức chân dung tập thể với một quý bà, 1971) Frauen vor Flusslandschaft (Phụ nữ trên miền sông nước, 1985) VỀ DỊCH GIẢ Huỳnh Phan Anh Tên thật: Huỳnh Thành Tâm, sinh 1940 tại Bình Dương.  Học ĐH Sư phạm, ngành Triết học tại Viện Đại học Đà Lạt (1960-1964), sau đó trở thành giáo sư dạy Triết, một cây bút truyện ngắn, tiểu luận phê bình và dịch thuật. Các dịch phẩm:   Một mùa địa ngục (thơ Arthur Rimbaud) Tuyển thơ tình yêu (thơ Paul Eluard) Thơ Yves Bonnefoy Chuông gọi hồn ai (Ernest Hemingway) Sa mạc (tiểu thuyết J.M.G Le Clézio) Tình yêu và tuổi trẻ (tiểu thuyết Valery Larbaud) Bãi hoang (Jean-René Huguenin) *** Bữa rồi vừa đọc xong Đứa con đi hoang trở về của André Gide thấy quyết định trở về của gã trai trẻ sao mà dễ dàng đến thế? Cho tới khi đọc Lạc lối về thì mình nhận ra rằng, để đi đến quyết định dễ dàng ấy, người ta đã phải lạc lối biết bao nhiêu, đau khổ biết bao nhiêu,… Vì thế mình càng thấy thấm câu dạy của ông bà mình: Đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại. Một khi ai đó đã cất bước ra đi, họ phải có lý do cho điều đó. Và khi họ trở về thì cũng sẽ có lý do. Cho nên điều mà những người ở lại cần làm là dang tay đón nhận họ. Vì bản thân họ đã tổn thương và lạc lối nhiều lắm rồi.   Có bạn kia nói Lạc lối về của Heinrich Böll buồn bã và thẳng thắn về cái nghèo, cảm giác như đọc Nam Cao (với nhiều rượu, cà phê và đồ ăn tây hơn, ví dụ cảnh đi vay tiền). Còn mình thì thấy giống Trần Dần (Những ngã tư và những cột đèn) hơn. Cái bi kịch của những người đàn ông tham chiến và hậu chiến nó dằn xé không chỉ bản thân họ mà còn cả những người thân bên cạnh họ rất rất nhiều.  Ngày trở về với đời sống gia đình – vợ con – của người lính là nhà cửa không còn, cái nghèo lấn chiếm vào từng ngõ ngách cuộc đời, cộng với những ký ức kinh hoàng của chiến tranh đã khiến cho anh – người lính ấy bị “gãy cánh” và lạc lối. Anh chọn cách lang thang, bợ đỡ rượu – thuốc và lề đường. Bi kịch nhất là phải dan díu với chính vợ mình như thể người xa lạ ở một khách sạn bình dân rẻ tiền. Đọc tới đoạn này mình mới thấm câu hát đang được hot trend những ngày gần đây: “Nhiều khi muốn một mình nhưng sợ cô đơn Sợ cảm giác trống vắng mỗi ngày mỗi lớn Sợ chạm vào nỗi nhớ vu vơ Gian gian díu díu mập mờ Nắm chưa xong đã vội đổ vỡ…” Tình cờ mình vừa đọc được bài thơ “Và vợ người lính nhận được gì?” – Bertolt Brecht.  Bài thơ bắt đầu bằng câu hỏi “Và vợ người lính nhận được gì” từ một thành phố mà người lính chiến đấu, sau đó là câu trả lời: đôi giày cao gót, chiếc áo vải lanh, cổ áo lông thú…, và kết thúc bằng câu “Nàng nhận được nó từ [thành phố trên kia].”  Người lính trong bài là một người lính Nazi. Y đi chiến đấu khắp nơi và mang về cho vợ những “món quà” mà y cướp được. Và “món quà” cuối cùng, là cái chết của y ở Nga, thời điểm bài thơ cho thấy đó là trận Stalingrad…. Về nội dung thì người vợ trong bài thơ này và người vợ trong câu chuyện Lạc lối về không giống nhau. Nhưng cái mình muốn nói là nghĩa bóng của câu hỏi tu từ “Và vợ người lính nhận được gì?”. Kate trong Lạc lối về nhận được sự nghèo khó, khinh khi; cô nhận được sự chia lìa, xa cách với chồng. Cô phải chăm những đứa con, phải nhìn chúng lớn trong nghèo khổ, phải thấy mình già đi mà không thể thay đổi được điều gì. Fred lạc lối trong đống đổ nát của tâm hồn người lính tham chiến cuộc chiến vô nghĩa, còn Kate lạc lối trong tâm hồn ngày một trống rỗng do Fred đập phá từng giờ từng khắc. Đọc Lạc lối về có cảm giác chiến tranh chưa khi nào chấm dứt, nó vẫn âm thầm tồn tại, xé tan hoang cái bình yên trong mỗi con người, từng mối quan hệ. Chiến tranh không chỉ tồn tại ở tiếng bom đạn, tiếng súng. Chiến tranh làm người ta héo mòn dần vì không biết đến ngày mai, nhưng hậu chiến, sau những giờ nhàm chán trong sự căng thẳng, người ta lại tàn úa cả cách trở về đời sống trước kia, bởi người ta đã chết trên những mặt trận vô bổ, người ta không còn cùng một tiếng nói – một quan điểm – cái nhìn với những người ở cách xa mặt trận ấy.    “Trong chiến tranh anh say vì buồn chán. Em không thể tưởng tượng người ta say vì buồn chán ra làm sao; sau đó người ta nằm trên giường và tất cả quay cuồng trước mắt. Em cứ thử uống ba gàu nước ấm, nước cũng làm em say mèm như sự buồn chán vậy. Và chiến tranh thì buồn chán không thể tưởng tượng được”.   Để có thêm góc nhìn và nhiều cảm xúc khác về những con người hậu chiến, xin mời bạn đọc thêm Những thứ họ mang của Tim O’Brien. Còn mình thì đang đọc Ký ức lạc loài của W.G. Sebald – một tác phẩm buồn hơn cả chữ buồn khác về những mảnh đời, số phận hậu chiến – mình sẽ sớm review khi cảm xúc ổn định trở lại *** Công việc xong, tôi đến ngân hàng lãnh tiền. Nhiều người đang chen chúc nhau trước phòng phát ngân, tôi phải đợi hết nửa tiếng đồng hồ mới trình được tấm chi phiếu cho người thủ quỹ để người này trao cho một cô gái mặc áo bờ-lu vàng. Cô gái ấy đến bên một hàng thẻ, rút tấm của tôi ra, nói: “hợp lệ”, và trả tấm chi phiếu lại cho viên thủ quỹ. Hắn thận trọng trải những tờ giấy bạc lên mặt đá. Tôi kiểm lại tiền, bước ra phía cửa và đến bên một chiếc bàn nhỏ cạnh đó để cho tiền vào một phong bì và viết mấy hàng cho vợ tôi. Trên bàn vung vãi những mẩu giấy xuất tiền màu hường, tôi nhặt một tấm và viết bút chì lên mặt trái: “Anh phải gặp em ngày mai, anh sẽ gọi điện về trong vòng hai tiếng đồng hồ”. Tôi cho thư vào phong bì trước tiên, rồi đếm những tờ giấy bạc, liếm vào phần có bôi keo nơi mặt trái, nhưng sau một phút lưỡng lự, tôi lấy ra một tờ mười đồng mác cho vào túi áo. Tôi viết tiếp vào giấy. “Anh giữ lại mười mác: anh sẽ trả lại cho em vào ngày mai. Hôn các con. Fred”. Nhưng rồi lớp keo không còn dính nữa! Tôi đến bên một cái ghi-sê trống, nơi phát tiền. Ở bên kia, một cô gái đứng dậy và kéo tấm gương lên, nàng có nước da nâu, người ốm và mặc một chiếc áo đan màu hường cài một cành hoa nhân tạo nơi cổ. Tôi hỏi nàng: “Có thể cho tôi xin một tờ giấy có dán keo được không cô?”. Nàng nhìn tôi lưỡng lự, đoạn xé một mẩu giấy từ một cuộn giấy màu nâu sẫm trao cho tôi, không nói một tiếng nào, và đóng ghi-sê lại. Tôi nói cảm ơn về phía tấm gương, trở về bàn, dán thư lại và rời ngân hàng sau khi kéo mũ bê-rê sụp xuống. Trời mưa, ngoài đại lộ, những chiếc lá rời rạc đáp xuống mặt nhựa. Tôi đứng trước cửa ngân hàng, đợi chuyến xe 12 rẽ nơi góc đường. Tôi xuống đến quảng trường Tuckhoff. Chiếc xe điện trờ tới, tôi bước lên. Xe chất đầy người, quần áo họ toát ra một mùi ẩm ướt. Cơn mưa còn dữ hơn khi tôi bước xuống quảng trường Tuckhoff. Tôi đã không mua vé ngồi. Tôi chạy vào đụt mưa dưới mái hiên một cửa hiệu bán xúc xích. Tôi bước vào quầy hàng, gọi một miếng xúc xích nướng và một chén canh, đoạn mua mười điếu thuốc và móc tờ giấy mười đồng mác trả. Tôi vừa nhai xúc xích vừa nhìn vào tấm gương ở cuối cửa tiệm. Thoạt đầu tôi không nhận ra mình, tôi ngắm nghía cái khuôn mặt hốc hác, thiểu não dưới chiếc mũ bê-rê xơ xác kia. Tôi chợt thấy mình trông giống như người bán hàng rong dạo nào mà mẹ tôi không hề xua đuổi bao giờ. Bà không có can đảm làm việc đó. Khuôn mặt họ chìm lẫn trong bóng tối của nhà trên, hiện lên một nỗi tuyệt vọng thảm khốc, thỉnh thoảng tôi mở cửa cho họ vào, và khi, trong cơn sợ sệt, tôi vừa trông chừng tủ áo vừa gọi mẹ. Mẹ tôi từ bếp bước lên, hai bàn tay chùi vào tấm tạp dề, mặt mày họ sáng lên một cách kỳ lạ và đáng ngại. Những con người đó, họ bán thuốc giặt hoặc sáp, dao cạo râu hoặc những sợi dây giày. Bởi vì hạnh phúc khi nó soi sáng được những con người quen sống cơ hàn thì trông thật khủng khiếp. Chỉ cần trông thấy mẹ tôi, người ta cũng cảm nhận được niềm hạnh phúc đó. Không nỡ đuổi xô một ai, mẹ tôi vẫn mang bánh mì và tiền bạc cho những người hành khất, nếu có, hay ít ra bà cũng cho họ một tách cà phê. Khi không có gì, bà cho họ uống nước lạnh đựng trong cái ly sạch sẽ và gửi đến họ niềm an ủi, khích lệ chứa đựng trong cái nhìn của bà. Chung quanh nút nhận chuông, những cái khấc và những dấu hiệu khác của bọn ăn xin cứ gia tăng lên mãi, và một người bán rong luôn được dịp đặt một món đồ, dù là chỉ một sợi dây giày để đổi lấy một đồng tiền nhỏ nhoi. Trước mặt những người đại diện thương mãi, mẹ tôi cũng có thái độ dễ dãi, buông xuôi như vậy, bà không cứng cỏi được trước vẻ mặt của những con người đó, cũng khổ sở không kém gì những kẻ khác, và bà sẵn sàng ký những hợp đồng mua bán, bảo hiểm hoặc đặt hàng. Thuở nhở, tôi nhớ có lần nằm trên giường, nghe cha tôi trở về nhà vào buổi chiều, và cuộc cãi vã bùng nổ ngay khi ông đặt chân vào phòng ăn, một cuộc cãi vã giữa những bóng ma, trong đó mẹ tôi chỉ đóng vai trò thứ yếu, khiêm nhường. Đó là một người đàn bà nhẫn nhục. Trong số những người đến nhà chúng tôi có một người đội chiếc mũ bê-rê nhàu nát tên Disch mà sau này tôi được biết là một người tu xuất, hắn đi bán thuốc giặt. Như vậy, vừa ăn món xúc xích nóng từng làm đau những nướu răng hư của tôi, tôi nhận ra, nhờ tấm gương của cửa tiệm, rằng mình giống một người tên Disch: mũ bê-rê, khuôn mặt tiều tụy và thiểu não, cái nhìn buồn bã, tất cả đều ở đó. Tuy nhiên tôi cũng nhìn thấy những khuôn mặt của bọn người ngồi cạnh tôi, những cái miệng há hốc chực chờ khép lại trên một mẩu xúc xích, những vụn thịt biến mất sau những chiếc răng vàng khè, trong những khoảng hổng tăm tối, tôi trông thấy những chiếc nón còn tốt, những chiếc nón đã cũ kỹ, những mái đầu trần tóc tai ướt đẫm, tất cả làm tăng thêm vẻ hồng hào, bụ bẫm của khuôn mặt người đàn bà bán xúc xích. Bà ta tươi cười dùng một cái nĩa bằng cây để vớt những miếng xúc xích đang nổi trên mặt nước mỡ, bôi hột cải lên một vuông giấy bồi, chuyền vào giữa những cái miệng đang nhai ngấu nghiên, thu về những tờ giấy bồi bẩn thỉu bôi đầy hột cải, bán thuốc lá và nước chanh, cất tiền, luôn luôn bằng những ngón tay hồng hào, bụ bẫm trong khi mưa vẫn tiếp tục gõ trên mái hiên. Còn tôi, khi tôi cắn vào miếng xúc xích, khi tôi hả họng ra và đằng sau những chiếc răng vàng khè của tôi hiện ra cái lỗ đen ở đầu cuốn họng, chính tôi lại có cái vẻ tham ăn mà tôi đã từng gớm ghiếc nơi kẻ khác. Đầu của chúng tôi trồi lên ở đó, giống như trên một sân khấu múa rối, dật dờ trong hơi nóng bay lên từ những cái chậu. Tôi sợ sệt, vùng thoát ra và chạy qua cơn mưa để chạy tới đường Mozart. Nhiều người đang đổ dồn dưới những bức mành mành của các cửa tiệm, đợi tàn cơn mưa. Đến phòng làm việc của Wagner, một lần nữa tôi phải dùng khuỷu tay mới đến được bên cánh cửa và ráng hết sức để kéo nó về phía tôi bởi cánh cửa mở ra phía bên ngoài. Sau cùng tôi cảm thấy nhẹ nhõm, bước xuống những bậc thang, ngửi phải mùi da xông lên từ những chiếc giày mòn cũ thấm đẫm mồ hôi, mùi da tươi thoảng mùi nhựa thông, trong khi chiếc máy may cũ vẫn chạy đều. Tôi đi ngang qua trước hai người đàn bà đang ngồi đợi trên chiếc ghế dài, thò tay mở cửa kính và tôi lấy làm sung sướng bắt gặp nụ cười trên khuôn mặt của Wagner khi lão trông thấy tôi. Tôi quen biết với lão đã ba mươi lăm năm rồi bởi chúng tôi ở ngay phía trên cửa tiệm của lão - đúng vậy, ở phía trên, ở một khoảng nào đó phía trên khoảng xi măng giờ đây phủ lấy xưởng làm việc của lão - lúc đó tôi mới lên năm và tôi đã mang những chiếc giày của mẹ tôi đến cho lão. Phía sau chiếc ghế của lão, tượng Chúa Ki tô trên thập tự giá treo trên vách, bên cạnh tượng thánh Crépin, một lão già hiền lành với một chòm râu màu muối tiêu cầm một cái chân sắt trong đôi bàn tay được chăm sóc quá kỹ, trái hẳn với đôi bàn tay của người thợ đóng giày. Tôi chìa tay ra trước Wagner, lão ném cái nhìn về phía chiếc ghế đẩu nơi đầu bàn bên kia, ra dấu cho tôi ngồi, lão ngậm một mớ đinh trong miệng. Tôi ngồi xuống ghế, móc phong bì từ trong túi ra và Wagner đẩy về phía tôi hộp thuốc và giấy quấn thuốc. Nhưng điếu thuốc của tôi hãy còn cháy, tôi còn nói với lão: “Cám ơn”, và vừa đưa phong bì cho lão, tôi nói: “Có thể…” Lão lấy những cây đinh trong miệng ra, đưa ngón tay sờ lên đôi môi khô héo để yên trí rằng không còn cây đinh nào dính trên miệng, và nói: “Lại một món nhờ gửi cho vợ cậu…” Lão cầm lấy phong bì trong đôi tay, ngẩng đầu lên, nói: “Được rồi, tôi sẽ gửi đi khi thằng cháu tôi nó xưng tội về trong… - lão nhìn đồng hồ tay - trong nửa tiếng đồng hồ thôi”. Tôi nói: - Hôm nay vợ tôi cần tiền rồi, có tiền trong đó. - Tôi biết, lão nói. Tôi bắt tay lão và bước ra ngoài. Khi bước trở lên những bậc thang, tôi chợt nghĩ là tôi có thể mượn tiền lão và lưỡng lự trong giây phút, nhưng khi nghĩ lại, tôi mạnh dạn bước lên bậc thang sau cùng và lách đi giữa đám người đang chen chúc trên lề đường. Năm phút sau khi tôi bước xuống xe buýt tại đường Benekam thì trời hãy còn mưa. Tôi chạy đi giữa những đầu hồi cao của những ngôi nhà kiến trúc theo lối gô-tích được gia cố bảo tồn vì giá trị lịch sử của chúng. Qua những lỗ hổng của các khung cửa sổ cháy nám, người ta thấy xuất hiện một bầu trời xám thẫm. Tôi nhảy đến dưới máy hiên của ngôi nhà duy nhất có người ở, nhận chuông và đứng đợi. Người giúp việc có đôi mắt dịu hiền và nâu thẫm, trong đó tôi có thể đọc được niềm trắc ẩn tương tự với tình cảm ngày nào của tôi về những con người mà giờ đây tôi bắt đầu thấy có điểm tương đồng. Nàng cởi áo khoác giúp và lấy chiếc nón ra khỏi đầu tôi, giũ chúng ở trước cửa cho ráo nước và nói: “Trời đất, chắc là ông ướt tới xương rồi”. Tôi gật đầu và tiến đến trước tấm gương, đưa hai bàn tay lên vuốt tóc. Tôi hỏi: - Bà Beisem có ở nhà không? - Không. - Bà ấy có biết ngày mai là một tây không. - Không, cô ấy trả lời và nàng đưa tôi vào phòng khách, đẩy chiếc bàn về phía lò sưởi và mang đến cho tôi một chiếc ghế, nhưng tôi vẫn đứng quay lưng về phía lò sưởi nhìn thấy cái đồng hồ xưa đến một trăm năm mươi tuổi của gia đình Beisem. Gian phòng bày biện ngổn ngang những đồ vật cổ, những khung cửa sổ lắp kính gô-tích. Mời các bạn đón đọc Lạc Lối Về của tác giả  Heinrich Böll & Huỳnh Phan Anh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Muốn Khóc Thật To
Muốn Khóc Thật To là tiểu thuyết mới của Sơn Paris - một hot boy 9x hoạt động trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật được đông đảo bạn trẻ biết đến. Cuốn sách là lời tự sự dành cho tất cả những trái tim cô đơn và khao khát yêu thương. Muốn Khóc Thật To là tiểu thuyết tình yêu chất chứa nhiều cung bậc cảm xúc khiến trái tim người đọc tan chảy. Từ hạnh phúc tới đau thương, tất cả chỉ cách nhau một ranh giới bé nhỏ. Tình yêu vốn là thứ tài sản tuyệt vời nhất của con người, nhưng cũng chính là bể khổ mà bất cứ ai cũng phải nếm trải. Tuổi thanh xuân qua đi nhanh chóng, chỉ còn quá khứ và hoài niệm về một câu chuyện tình yêu đẹp và đau đớn sẽ ở lại vĩnh viễn. Muốn Khóc Thật To đề cập đến nhiều góc khuất trong đời sống của giới trẻ như tình yêu đồng tính, quan hệ tình dục trước hôn nhân… Những trang viết ấy chân thực nhưng không hề trần trụi và sống sượng. Ngược lại, Sơn Paris đã biết cách biến những gì “chai sạn” nhất trở nên thật mềm mại và giàu cảm xúc. Người đọc sẽ bị cuốn theo cuộc hành trình đi tìm kiếm chính mình của Phong và những người bạn của anh. Đó là cuộc hành trình đầy chông gai, nhuốm màu buồn, không ít cám dỗ và cũng đầy rẫy đau thương. Nhưng đó là thử thách cuộc sống mà bất cứ ai - đặc biệt là những người trẻ trong xã hội hiện đại đều phải trải qua. Cốt truyện lôi cuốn và hấp dẫn, cách giải quyết tình huống hợp lý, thắt mở nút biến hóa tài tình, Sơn Paris đã chứng tỏ một bước trưởng thành vượt bậc qua tiểu thuyết Muốn Khóc Thật To. *** Vân Hugo nhận xét: “Sơn là một chàng trai đặc biệt. Một cá tính lạ. Một tài năng luôn khát khao được bung trổ. Văn của em sâu sắc, trần trụi và thật, cái thật ấy đi vào tim tôi”. “Muốn khóc thật to” là tiểu thuyết mới của Sơn Paris - một hot boy 9x hoạt động trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật được đông đảo bạn trẻ biết đến. Cuốn sách là lời tự sự dành cho tất cả những trái tim cô đơn và khao khát yêu thương. "Muốn khóc thật to" là tiểu thuyết tình yêu chất chứa nhiều cung bậc cảm xúc khiến trái tim người đọc tan chảy. Từ hạnh phúc tới đau thương, tất cả chỉ cách nhau một ranh giới bé nhỏ. Tình yêu vốn là thứ tài sản tuyệt vời nhất của con người, nhưng cũng chính là bể khổ mà bất cứ ai cũng phải nếm trải. Tuổi thanh xuân qua đi nhanh chóng, chỉ còn quá khứ và hoài niệm về một câu chuyện tình yêu đẹp và đau đớn sẽ ở lại vĩnh viễn. “Chúng ta rồi sẽ tìm thấy một người, một người mà chúng ta sẵn sàng dành cả tuổi thanh xuân của mình để theo đuổi, một người khiến chúng ta từ chối tất cả những người đến sau, một người mà chúng ta vẫn luôn tin rằng, tuổi thanh xuân sẽ chẳng còn nghĩa lý nếu không cùng ở cạnh” (Trích: "Muốn khóc thật to"). "Muốn khóc thật to" đề cập đến nhiều góc khuất trong đời sống của giới trẻ như tình yêu đồng tính, quan hệ tình dục trước hôn nhân… Những trang viết ấy chân thực nhưng không hề trần trụi và sống sượng. Ngược lại, Sơn Paris đã biết cách biến những gì “chai sạn” nhất trở nên thật mềm mại và giàu cảm xúc. Người đọc sẽ bị cuốn theo cuộc hành trình đi tìm kiếm chính mình của Phong và những người bạn của anh. Đó là cuộc hành trình đầy chông gai, nhuốm màu buồn, không ít cám dỗ và cũng đầy rẫy đau thương. Nhưng đó là thử thách cuộc sống mà bất cứ ai – đặc biệt là những người trẻ trong xã hội hiện đại đều phải trải qua. Cốt truyện lôi cuốn và hấp dẫn, cách giải quyết tình huống hợp lý, thắt mở nút biến hóa tài tình, Sơn Paris đã chứng tỏ một bước trưởng thành vượt bậc qua tiểu thuyết "Muốn khóc thật to". Ngay khi chưa ra mắt, "Muốn khóc thật to" đã được MC Thanh Vân Hugo ưu ái nhận xét: “Sơn là một chàng trai đặc biệt. Một cá tính lạ. Một tài năng luôn khát khao được bung trổ. Văn của em sâu sắc, trần trụi và thật, cái thật ấy đi vào tim tôi. Tôi mất bốn ngày để đọc hết tiểu thuyết này. Những cảm xúc rất lạ cứ đan xen, vừa yêu đời lại vừa bi quan, những cặp đôi tôi thích lại không đến được với nhau, vừa đọc vừa tiếc vừa đau đáu... Có lẽ chính sự bất ngờ và dang dở lại khiến người ta trăn trở về tác phẩm này... Một tiểu thuyết đáng phải suy ngẫm…” "Muốn khóc thật to" đính kèm phụ bản Cho buồn bay theo gió và CD nhạc sách cùng tên do nhạc sĩ, ca sĩ Tăng Nhật Tuệ sáng tác. Cuốn sách do NXB Văn học ấn hành. *** Đôi tập làm quen với chữ “Quen” khi bắt gặp nhiều người. Họ đều không giống nhau. Có người cao hót vót, có người lại thấp hơn tôi. Kỳ quặc thật! Tôi vẫn thường tự hỏi, tại sao bà mụ lại sáng tạo đến thế, nặn nên hàng triệu người mà chẳng ai giống ai. Nếu có giống cũng chỉ là hao hao một nét nào đó. Chợt nghĩ, chắc lúc ấy bà bí bách quá, không còn nghĩ ra cái gì mới lạ để nặn nữa. Thành ra có người thì xấu hoắc, có người lại đẹp như tranh vẽ, từng nét đều cuốn hút vô cùng. Nhưng trái khoáy thay, chẳng ai là hoàn hảo. Người mà đẹp như tranh vẽ thì lại khiếm khuyết một vài thứ gì đó, hoặc là tính cách không đẹp như người, hoặc là chậm hiểu hay thiểu năng chẳng hạn. Cái tài đôi khi lẩn khuất sau một vỏ bọc sần sùi, thô ráp. Nhờ vậy mà họ đẹp lên. Tôi nghĩ, người ta bắt đầu “quen” nhau phải tính từ thời điểm có cuộc trò chuyện đầu tiên. Tức là hai người đối diện và đối thoại với nhau. Khi tiếp xúc rồi, tôi nhận thấy, tính cách con người không đa dạng như vẻ bề ngoài. Chắc chỉ có tới vài trăm tính từ để miêu tả tính cách của họ. Tôi thì thường nghĩ, ở mức độ quen, tính cách người ta chia ra làm ba loại: Dễ gần, khó gần và chẳng thể gần vì không cùng đẳng cấp. Tôi quen khá nhiều người. Có lần tôi ngồi và thử tính xem mình quen được bao nhiêu người. Con số đó lên tới khoảng vài trăm. Cho tới giờ, tôi vẫn coi đó là việc làm ngớ ngẩn và điên rồ nhất từ bé đến lớn của mình. Thật sự ngớ ngẩn. Nhưng nhờ đó mà tôi biết được trí nhớ của mình ở mức độ nào và chẳng hạn như khi tôi kết hôn, tôi sẽ ước chừng được khoảng bao nhiêu khách tới dự. Kể ra thì cũng không vô nghĩa cho lắm. Trong lần làm quen đầu tiên. Tôi không thích cho người khác biết tên thật của mình. Cũng chẳng có lý do gì đặc biệt. Chỉ là tôi thích như thế. Hãy cứ gọi tôi là Gió. Và tôi là con trai. 1. Tôi bước vào tuổi 16 giống như bao đứa con trai khác. Chất giọng ồm hơn khiến tôi hát chán hơn hẳn, mặc dù mẹ luôn giơ ngón tay cái khen tôi “đỉnh của đỉnh” mỗi lần nghe tôi hát. Có lần là khi bước ra từ nhà tắm, có lần ở phía cánh gà của sân khấu cực bự cấp trường. Tôi bắt đầu có thêm nhiều vùng lông rậm rạp. Cũng ra dáng đàn ông ghê rồi đấy chứ. Tôi cũng bắt đầu phải làm quen với việc cạo râu trước khi đi học, tò mò những câu chuyện cộp mác 16+, không kiểm soát được một số chỗ khi tivi chiếu cảnh hai người say đắm hôn nhau. Và tôi cũng thích thể hiện mình hơn. Sinh nhật tuổi 16. Cũng là dịp tôi vào ngôi trường mới. Nhiều thứ khác lạ. Tôi cũng khác lạ. Quà sinh nhật năm nay của tôi cũng khác. Tôi nhớ rõ nhất là bộ sữa rửa mặt và lăn khử mùi của nhóm bạn cùng lớp. Hồi ấy, lớp tôi có một loại quỹ riêng, đến sinh nhật của thành viên nào trong lớp thì sẽ được lớp trưởng trích ra một phần để mua quà tặng. Khi đó, với tôi, lớp trưởng còn to hơn cả bố. Được vào lớp hay không khi đến muộn cũng phụ thuộc vào tay nó. Đến cả việc tặng quà gì dịp sinh nhật của tôi cũng là nó quyết định. Lộng quyền thật mà. Tôi đâu có nhắc nó tặng tôi món quà ấy chứ. Mẹ mời cả lớp dùng cơm. Chúng nó vui lắm. Tính mẹ tôi hiếu khách và cũng cực kỳ chân thành. Mẹ chuẩn bị từ sáng sớm, dù phải đợi khi tan học thì cả lũ mới kéo nhau tới nhà tôi. Nhiều đứa đi học xa bố mẹ, chúng vui lắm khi tới dự sinh nhật của tôi. Có đứa còn làm diện với bộ quần áo tươm tất nhất. Có đứa thì ngồi ngay vào bàn ăn, nghe mùi khói thơm bay lên nức mũi. Tất cả các món ăn đều do mẹ tự tay làm, và đương nhiên, chúng cũng rất ngon. Buổi chiều hôm ấy, tôi cùng đứa bạn thân nhất đi lượn lờ vài cửa tiệm thời trang để sắm một bộ quần áo mới. Tôi dùng tiền mà bà ngoại và bố mừng ngày kỷ niệm 16 năm có mặt trên đời của mình để ra oai. Cảm giác có tiền trong tay rồi thích mua gì thì mua, công nhận đã thật. Tôi rất thích mặc áo trắng với một chiếc gi-lê đen bên ngoài. Tôi học được phong cách này từ những ca sĩ trên tivi. Giờ 16 tuổi rồi, mặc diện, mặc điệu một chút cũng chẳng hề hấn gì. Nghĩ vậy, tôi và nó bắt đầu công cuộc truy tìm chiếc áo như trong tưởng tượng của tôi. Dĩ nhiên là cuộc truy tìm thành công.   Mời các bạn đón đọc Muốn Khóc Thật To của tác giả Sơn Paris.
Mãi Yêu Em
Một câu chuyện '' kinh dị '' khoác áo diễm tình, kể về Judith - cô chủ tiệm bán đèn thông minh, xinh đẹp, song bị xếp vào diện ''quá lứa lỡ thì'' tình cờ gặp được một chàng kiến trúc sư lịch lãm với hành tung bí ẩn. Tác phẩm đã để lại ấn tượng đẹp với độc giả về giọng văn hóm hỉnh của Daniel Glattauer, khắc họa câu chuyện tình yêu giữa nàng Judith 37 tuổi, chủ hiệu bán đèn với chàng kiến trúc sư Hannes, 42 tuổi. Phía sau câu chuyện tình yêu ấy là nỗi sợ tình yêu cưỡng áp, dẫu nó được ngụy trang bằng muôn vàn yên ấm, để rồi qua đó, tác giả truyền tải thông điệp trong tình yêu phải có sự tôn trọng từ cả hai phía, không được trói buộc. *** Cuốn tiểu thuyết “Mãi yêu em” của nhà văn Daniel Glattauer không phải là kiểu truyện tình yêu lãng mạn thông thường, mà nó còn ẩn chứa những chi tiết kì bí, lạ lùng, khiến độc giả không thể rời mắt khỏi cuốn sách. Nàng: Judith, 37 tuổi, đơn thân, chủ hiệu bán đèn. Chàng: Hannes, 42 tuổi, “không phải độc thân trở lại mà xưa nay vẫn độc thân”, kiến trúc sư. Chàng đã bước vào cuộc đời nàng thông qua cú giẫm gót đau điếng. Anh: “Xin lỗi chị lần nữa vì giẫm phải chân chị.” Cô: “Ồ, quên lâu rồi mà.” Anh: “Không, không, tôi biết, chỗ ấy đau khủng khiếp lắm.” Cô: “Cũng không đến nỗi.” Anh: “Vâng, vâng.” Cô: “Vâng.” Anh: “Chào chị nhé.” Cô: “Vâng.” Anh: “Chúc chị ngày lễ vui vẻ.” Cô: “Anh cũng thế.” Vẫn vậy, Daniel Glattauer dẫn chuyện như-không, cây bút này có tài đẩy những chi tiết nho nhỏ trong đời thành hàng trang “diễm tình” rất duyên, khiến người đọc khó mà ngừng cười tủm tỉm. Mở chuyện chẳng có gì lạ, song ta không thể đặt cuốn sách xuống được, bởi bằng một cách nào đó, Daniel Glattauer tạo cho độc giả linh tính rằng cú xoay chuyển còn ẩn kĩ ở những trang sau. Hannes: cao 1,90 mét, nặng 85 kg - về ngoại hình chàng rắn rỏi, đầy nam tính. Hannes: “cùng lúc vừa nhút nhát vừa liều mạng, ngượng nghịu và trơ trẽn, tự chủ và bộc phát, bền bỉ một cách hậu đậu. Và anh biết anh muốn gì: gần cô.” - về tính cách chàng quả là dễ thương, hấp dẫn. Nhìn chung, Judith đã phải thừa nhận: “Anh là một dạng người khác hẳn những người khác từ xưa đến nay.” Nàng (và cả các độc giả) đều ngây ngất, đều tin tưởng vào tương lai ấm áp và hạnh phúc mà chàng mang lại. Dĩ nhiên sẽ là như thế nếu Judith không rơi vào... chứng loạn thần bởi chính tình yêu nồng cháy của Hannes. Judith đáng thương phát rồ phát dại trước sự hoàn hảo nơi Hannes, điều mà cả gia đình lẫn bạn bè cô đều không tài nào hiểu nổi (thậm chí họ đứng tuốt về phe anh), trừ Bianca - con bé học nghề trong cửa hiệu bán đèn - là đứng về phía cô: “Trời ơi, hãm thế cơ chứ, cháu hiểu cô. Cháu cũng không ưa ai bám theo mình, khi cháu không yêu người ấy nữa. Và cháu chuột rút cực nhanh, khi có đứa nào làm cháu nhức đầu.” Nhưng chuyện đâu chỉ “thường thường” như vậy, Daniel Glattauer khiến bạn đọc cảm thấy rờn rợn khi đột ngột hé lộ một chi tiết đáng ngờ ở quý ông Hannes, biến tình sử thành thước phim kinh dị: Đèn nhà chàng không bao giờ sáng – điều đó chẳng phải rất bất thường trong mắt cô chủ hiệu bán đèn sao? Rốt cục, việc Hannes gặp gỡ Judith có đúng là tình cờ? Liệu anh cần gì ở cô và ở hiệu bán đèn? Nếu đã quen với những câu chuyện mang hương vị lãng mạn như “Con sóng thứ bảyhay “Cưỡng cơn gió bấc”, ta sẽ tìm thấy Daniel bản-mới trong cuốn tiểu thuyết “Mãi yêu em”: tác giả khá “tinh quái” dẫn dụ độc giả đến với nỗi sợ - nỗi sợ tình yêu đầy cưỡng áp đầy trói buộc, dẫu nó được ngụy trang bằng muôn vàn yên ấm. Vậy hạnh phúc là gì? Nhân vật Judith đã phải trở đi trở lại bệnh viện tâm thần, đấu tranh với tiếng nói ma quái của chàng Hannes vang trong đầu cô, ngụp lặn giữa hàng vốc thuốc hãm phanh thần kinh... để trả lời câu hỏi đó. Đi tới cùng, hạnh phúc nên là và phải là tự tại; nó sẽ bước ngay sang địa hạt ác mộng nếu bị gắn với một dây xích bọc đường. “Mãi yêu em” của tác giả Daniel Glattauer, được chuyển ngữ sang tiếng Việt bởi dịch giả Lê Quang, do Nhà xuất bản Phụ nữ phát hành trên toàn quốc từ tháng 5 năm 2017. Lan Phương Review *** Khi anh bước chân vào đời Judith, gót chân cô đau buốt, nhưng rồi đỡ ngay. Anh: “Xin lỗi”. Cô: “Không sao”. Anh: “Đông kinh khủng”. Cô: “Vâng”. Judith nhìn lướt qua mặt anh, tựa như đó là tít tin thể thao hằng ngày. Cô chỉ muốn biết sơ sơ mặt người đã giẫm nát bét gót chân người khác trước quầy phô-ma đông kín hôm thứ Sáu Tuần Thánh. Cô hơi ngạc nhiên, anh ta trông bình thường, như mọi người ở đây, không hơn mà cũng không kém, cũng không đặc biệt. Tại sao cả thế giới phải đổ đi mua phô-ma dịp Phục sinh? Tại sao chỉ vào một cửa hàng và cùng một lúc? Ở quầy thu ngần, anh ta, lại anh ta, xếp đồ lên băng chuyền cạnh đồ của cô. Cô nhận ra anh ta nhờ tay áo da lộn nâu đỏ có mùi da đặc trưng. Khuôn mặt anh ta thì cô quên từ lâu, à không, có nhớ đâu mà quên, nhưng cô thấy ưa động tác khéo léo, chính xác và uyển chuyển của tay anh. Kể cả trong thế kỷ hai mốt thì quả là kỳ lạ khi một đàn ông trạc bốn chục tuổi biết sắp xếp và gói ghém hàng mua trong siêu thị cứ như đã từng làm việc đó rồi. Ở cửa ra vào thì hầu như không còn tình cờ, khi lại là anh ta đứng đó để giữ cánh cửa mở ra cho cô và khoe tài nhớ mặt người của mình. Anh: “Xin lỗi chị lần nữa vì giẫm phải chân chị”. Cô: “Ồ, quên lâu rồi mà”. Anh: “Không, không, tôi biết, chỗ ấy đau khủng khiếp lắm”. Cô: “Cũng không đến nỗi”. Anh: “Vâng, vâng”. Cô: “Vâng”. Anh: “Chào chị nhé”. Cô: “Vâng”. Anh: “Chúc chị ngày lễ vui vẻ”. Cô: “Anh cũng thế”. Cô thích kiểu nói chuyện như thế ở siêu thị, nhưng bây giờ thì thế là đủ cho phần đời còn lại. Ý nghĩ, tạm gọi là ý nghĩ cuối cùng dành cho anh, là năm, sáu hoặc bảy quả chuối, một nải vàng ươm mà anh ta gói vào trước mắt cô. Ai mua năm đến bảy hoặc tám quả chuối, người ấy ắt có hai, ba đến bốn đứa trẻ đói bụng ở nhà. Dưới cái áo khoác da chắc anh ta mặc áo thun kẻ ca-rô lớn nhiều màu như cầu vồng. Một ông chủ gia đình đích thực, cô nghĩ bụng, một người biết giặt giũ phơi phóng quần áo cho bốn đến năm hoặc sáu người, có lẽ treo bít tất thành một hàng, chập từng đôi một, ai phá hỏng trật tự ấy trên dây phơi thì cứ liệu hồn. Về đến nhà, cô dán một miếng băng dính dày cộp lên gót chân đỏ ửng. May mà gân gót không hề hấn gì, mà nói chung Judith luôn cảm thấy không ai có thể làm tổn thương mình. Lễ Phục sinh như mọi năm. Sáng thứ Bảy: thăm mẹ. Mẹ: “Bố khỏe không?” Judith: “Con không biết, chiều con đến bố”. Chiều thứ Bảy: thăm bố. Bố: “Mẹ khỏe không?” Judith: “Khỏe ạ, con ở chỗ mẹ ban sáng”. Trưa Chủ nhật: về nông thôn thăm em trai Ali. Ali: “Bố mẹ khỏe không?” Judith: “Khỏe, hôm qua chị thăm bố mẹ”. Ali: “Bố mẹ lại về với nhau à?” Sáng thứ Hai sau lễ Phục sinh Judith mời các bạn đến nhà mình ăn. Thực ra mời ăn tối, nhưng từ khi ngủ dậy cô đã bắt tay vào chuẩn bị. Sáu người cả thảy: hai đôi và hai người độc thân (một người độc thân vĩnh viễn, còn người kia chính là cô). Giữa các đợt đồ ăn bưng lên, câu chuyện diễn ra ở trình cao, xoay quanh các chủ đề như cách nấu ăn không làm mất vitamin và các diễn biến mới nhất trong nghiên cứu chống cặn kết tủa trong rượu vang. Nhóm này rất thuần, thậm chí có những chủ đề mà họ sống chết không rời (chống chiến tranh, xóa đói giảm nghèo, và gan ngỗng nhồi). Bộ đèn chùm kiểu Art Nouveau tỏa sáng ấm áp lên các khuôn mặt vui vẻ. CD mới nhất của nhóm The Divine Comedy tựa như kịp thời ra đời để phục vụ dịp này. Thậm chí Ilse còn có lần mỉm cười với Roland, và anh xoa bóp vai phải của cô, phải đến hai giây chứ không ít - dù họ đã cưới nhau mười ba năm và có với nhau ba mặt con trong niềm đam mê đang chết dần chết mòn mỗi ngày. Đôi kia trẻ hơn, Lara và Valentin, vẫn trong chu kỳ tay nắm tay say đắm. Thỉnh thoảng cô lại nắm các ngón tay anh bằng cả hai tay, có lẽ để giữ anh chặt hơn khả năng thực sự của cô xét về lâu dài. Tất nhiên Gerd lại là nhân vật nhộn nhất, luôn nổi bật ở bất cứ đám nào và ngày càng nổi hơn cùng với trách nhiệm làm cho những người khô khan phải vui vẻ và lắm mồm lên. Tiếc là anh ta không đồng tính để Judith tiếp xúc riêng nhiều hơn và tâm sự những chuyện cá nhân hơn, vốn bất khả thi trong một nhóm có nhiều đôi. Cuối những buổi tối tương tự, khi khách khứa đã ra về và chỉ còn không khí đặc quánh gợi nhớ đến sự hiện diện của họ, Judith luôn thẩm định tình trạng của mình trong khung cảnh thân thuộc và giữa một núi bát đĩa rếch. Ồ có chứ, rõ ràng đó là chất lượng sống vượt trội khi đầu tư một tiếng vào bếp, mở toang cửa sổ để không khí trong lành vào phòng, hít một hơi thật sâu, uống vội một viên thuốc đề phòng nhức đầu, để rồi rốt cục được ôm cái gối thân thương và chỉ buông nó ra vào tám giờ sáng hôm sau. Rõ ràng như thế còn hơn thâm nhập vào tâm lý của một gã “bạn đời” - có khả năng (cũng) phê phê, móc mồm cả ngày không ra một tiếng, không ưa bị giữ ở nhà, lười dọn dẹp nhà cửa - để dò xem hắn ta đang nuôi hi vọng hay run rẩy lo sợ sắp lên giường. Judith tránh được tình trạng xì-trét đó, trừ một vài buổi sớm mai cô thấy thiếu một người đàn ông cạnh mình trong chăn. Nhưng đó không được phép là một người đàn ông bất kỳ, người đàn ông nào đó, mà phải là một người nhất định. Vì vậy, buồn thay, người đó không trong số những người cô quen. Judith yêu công việc của mình. Và nếu không - thường là sau các ngày lễ - cô cố mọi cách tự huyễn hoặc là mình yêu công việc. Ít nhất thì cô cũng là sếp của chính mình, dù hằng ngày cô luôn mong có một bà sếp khác xông xênh hơn, ví dụ như Bianca, con bé học nghề của cô. Bianca chỉ cần một cái gương là có đủ việc cho cả buổi. Judith có một doanh nghiệp nhỏ ở phố Goldschlag, quận 15. Nghe chữ “doanh nghiệp” có hơi hướm kinh doanh hơn thực tế, song cô yêu cửa hiệu bán đèn của mình và không đổi nó lấy bất cứ cửa hiệu nào trên thế giới. Từ nhỏ, cô thấy đó là những căn phòng tuyệt diệu nhất trần gian, bao la giữa vô vàn vì sao nhấp nhánh và những quả cầu chói lọi. Trong bảo tàng ngoài trời lấp lánh của ông ngoại, ngày nào Judith cũng được vui lễ Phục sinh.   ​​Mời các bạn đón đọc ​Mãi Yêu Em của tác giả Daniel Glattauer & Lê Quang (dịch).
Đường Hầm Ôđetxa
- Tên sách : Đường hầm Ôđetxa Tập 1+2         - Tác giả : Valentin Kataep                         Trần Lê Huy, Thương Thục, Hoài Dân dịch         - Nhà xuất bản Văn học         - Năm xuất bản : 1968         Dịch theo bản dịch Pháp văn LES CATACOMBES D'ODESSA của Esfir Berstein và Olga Wormsber — (Nhà xuất bản Ngoại văn Mạc-tư-khoa — Nhà xuất Editeurs Franẹaís Réunis — Paris) Đ ường hầm Ôđetxa của Valentin Kataep[1] cho ta một khái niệm về chiến tranh nhân dân ở Liên-xô và chứng minh qui luật chiến tranh nhân dân nhất định thắng lợi. Ôđetxa là một thành phố cảng lớn của Liên-xô, nằm trên bờ Hắc-hải, có truyền thống lâu đời chống ngoại xâm, đã từng chứng kiến cuộc thất trận thảm hại của quân Thổ-nhĩ-kỳ, cũng như đã từng đập vỡ cuộc can thiệp của mười bốn nước đế quốc vào nước Nga Xô-viết sau Cách mạng tháng Mười. Trong lòng đất dưới thành phố và miền phụ cận, có một hệ thống hầm, hào chằng chịt, có từ lâu đời, tạo nên cả một thành phố ngầm với hàng trăm ngàn đường, ngõ ngoắt ngoéo, được mệnh danh là những hầm mộ ở Ôđetxa. Hệ thống hầm ngầm ấy đã từng được sử dụng trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, đã từng là cơ sở bí mật của các chiến sĩ bônsêvich hồi Cách mạng tháng Mười. Đến chiến tranh thế giới lần thứ hai, trước khi đội thiết giáp Đức tiến vào thành phố, những hầm mộ ấy lại trở thành những căn cứ vững chắc của các đội du kích, các đội công tác bí mật, các cơ quan kháng chiến nằm trong lòng địch để bám đất, bám dân. Bọn phát-xít chiếm đóng có biết điều ấy không? Biết. Nhưng không phải bất kỳ lúc nào chúng cũng dám sục xuống cái mê hồn trận ấy. Những tên liều mạng đã phải trả bằng một giá rất đắt vì nhưng quả mìn tự động, vì những tràng đạn rất chính xác từ các ngóc ngách tối om bắn ra. Những vòm hầm đổ ụp xuống làm hàng đơn vị địch bị tan xác, thậm chí những đống xác chết chồng chất của chính bọn chúng cũng tạo nên những vật chướng ngại vít hẳn đường vào. Bọn phát xít dùng đủ mọi cách, đại bác, bom, mìn, hơi độc, chẹn kín các cửa lên, xuống... Nhưng kết quả không hoàn toàn như ý đồ đen tối của chúng. Trong suốt thời kỳ phát-xít chiếm đóng, đội công tác bí mật của Secnôivanenkô, cũng như bao nhiêu đội khác, vẫn tồn tại và phát triển, vẫn phá hoại có kết quả trong lòng địch, vẫn đánh cho địch những đòn ác liệt làm cho chúng điên cuồng lồng lộn, ăn không ngon ngủ không yên. Họ vẫn nắm được nhân dân và gắn bó với nhân dân, vẫn đem được luồng sinh khí của Đảng đến thổi cao ngọn lửa căm thù, chiến đấu trong lòng nhân dân. Những ai đã nhảy vào cuộc vật lộn gay go, dai dẳng trong lòng địch như vậy? Đó là Secnôivanenkô, một cán bộ Đảng lãnh đạo trực tiếp đội công tác bí mật, người chỉ huy rất sáng suốt, kiên quyết, không khoan nhượng với địch, đồng thời yêu thương đồng đội một cách sâu sắc. Đó là bác công nhân già Xiniskin Jêleznư, con người “bằng sắt”, tuy mắc bệnh lao phổi nhưng có một ý chí chiến đấu không gì lay chuyển nổi. Đó là Kôletnisuc, một cán bộ ngoài Đảng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh dưới ngọn cờ của Đảng, cùng vợ là Raitxa Lvôpna, một phụ nữ gốc Do-thái, muốn ở bên chồng để chia sẻ nỗi gian nguy. Đó là bà Matriôna Têrenchiepna, vợ người chủ tịch một ngư trang tập thể ở vùng phụ cận thành phố, một phụ nữ rất kiên cường, sôi nổi. Đó là đại úy Hồng quân Drujinin với những hoạt động táo bạo và tinh thần bất khuất đáng kính. Đó là anh thanh niên dũng cảm và rất yêu đời Xviatôxlap. Đó là Batsây trầm tĩnh, từ Mạc-tư-khoa xuống, ngẫu nhiên tham gia và tham gia kiên trì vào cuộc chiến đấu trong mấy năm ròng rã. Đó là nhà tri thức Xêrêđôpxki khảng khái nhất định không chịu cộng tác với quân thù. Đó là các em thiếu niên tiền phong Pêchya và Valentin. Các em đã góp phần không nhỏ vào việc tết vòng hoa chiến thắng cho thành phố Ôđetxa thân yêu. Tính chất nhân dân trong cuộc chiến tranh giữ nước của Liên-xô là như vậy. Nhiều người đã hy sinh. Những “hầm mộ“ từ bao đời đã trở thành hầm mộ thực sự của những người con bỏ mình vì sự nghiệp vinh quang bảo vệ đất nước xô-viết. Khó khăn gian khổ, nhưng họ vẫn giữ vững một niềm tin tưởng lạ lùng ở chiến thắng. Những ngày cuối cùng ở dưới hầm mộ, nhóm của Secnôivanenkô bị lạc trong cái mê hồn cung trăm ngàn ngõ ngách ấy, họ không tìm được lối lên mặt đất trong khi bi-đông của họ chỉ còn một giọt dầu cuối cùng. Họ đã kiệt sức, hấp hối trong cơn khát, nhưng vẫn tin là “không thể chết được“. Chúng ta hãy nghe Secnôivanenkô truyền niềm tin tưởng say sưa đó cho người bạn chiến đấu Batsây trong hoàn cảnh nguy nan: “Chúng ta sẽ tiêu diệt được bọn chúng, vì chúng ta làm một cuộc chiến tranh chính nghĩa, một cuộc chiến tranh nhân dân, một cuộc chiến tranh kiểu mới. Một cuộc chiến tranh vì tương lai của tất cả nhân loại cần lao, một cuộc chiến tranh vì chủ nghĩa cộng sản!“. Cuộc chiến tranh nhân dân đã tôi luyện cho họ một nhân sinh quan cách mạng chân chính, một tình đoàn kết sâu sắc, một tinh thần dũng cảm đầy sáng tạo và một lòng tin tưởng vô bờ bến. Đó là những nền tảng không thể thiếu được của chiến thắng. * Valentin Kataep có một phong cách nghệ thuật độc đáo khi thể hiện chủ đề của mình. Trước hết là vấn đề nhân vật. Trong các tác phẩm của ông, các em thiếu niên thường đóng một vai trò quan trọng. Một nhà phê bình văn học viết: “Trong tâm hồn nhà văn Kataep, vẫn còn một thằng bé ẩn náu ở đâu đó!“ Đúng. Lần này, “thằng bé“ đáng yêu đó lại xuất hiện và hoạt động dưới hình dạng của chú thiếu niên tiền phong Pêchya Batsây với nhiệm vụ mở đầu và kết thúc cuốn sách. Trong suốt câu chuyện chú bé không phải chỉ là người chứng kiến thời đại mà còn là một thủy thủ trên con tàu thời đại. Hành động tham gia chiến đấu đầu tiên của chú bé là nhận lá cờ đẫm máu của một chiến hạm Liên-xô từ tay anh thủy binh hấp hối Lavrôp. Tác giả đã miêu tả một cách lý thú sự diễn biến tâm lý của chú bé, từ trạng thái rụt rè sự hãi chuyển sang thái độ can đảm, hăng say. Tâm hồn lãng mạn cách mạng của tuổi thiếu niên được miêu tả rất đúng qua cử chỉ giơ tay tuyên thệ trước xác anh thủy thủ Hồng quân. Lá cờ thiêng liêng được cất giấu giữa đêm đoàn xe tăng phát-xít tiến vào chiếm đóng Ôđetxa. Từ đó Pêchya đi vào cuộc chiến đấu, cùng chia nỗi vui, buồn, gian khổ với các bạn đồng đội vào tuổi cha, chú. Cuốn truyện chấm dứt bằng cuộc “khải hoàn” của chú bé từ thành phố Ôđetxa giải phóng trở về Mạc-tư-khoa, với tấm huân chương chiến công chói lòa trên ngực bộ quân phục nhỏ bé. Chú đã giữ đúng lời thề của thiếu niên tiền phong hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu cuối cùng khi tìm ra và trao lá cờ nói trên cho bộ tư lệnh Hồng quân. Tác giả gắn vào hình tượng thiếu niên tất cả tấm lòng ưu ái và tin tưởng, quí trọng lớp măng non tương lai của đất nước. Trong truyện, chúng ta gặp lại nhiều nhân vật trong các tác phẩm trước của ông. Hai chú bé Pêchya và Gavrick trong Cánh buồm trắng tham gia sôi nổi vào làn sóng Cách mạng từ đầu thế kỷ đã trở nên bác Batsây rất trung thành và đồng chí Secnôivanenkô giàu nghị lực. Thế là lớp trước trưởng thành, lớp sau bước tiếp. Niềm hy vọng nồng nhiệt, thiết tha của thế hệ trước gửi lại thế hệ sau được gói ghém trong bức thư của Đrujinin trước giờ bị hành quyết, ghi trên bức tường của ngục tối gửi cho con gái yêu quí của mình. Sức sống của chủ nghĩa xã hội, của Tổ quốc xô-viết thực là bất diệt. Tuy cấu trúc và nội dung tác phẩm dành cho tuổi trẻ một địa vị quan trọng, nhưng tác phẩm của ông không phải chỉ viết riêng cho thiếu niên. Pêchya cũng như Valentin đều không phải là nhân vật chính. Nhân vật chính là cả một tập thể chiến đấu. Tâm hồn, ý chí, cảm nghĩ của mỗi người được ngòi bút sắc sảo của Kataep phân tích tỉ mỉ, đúc thành những dạng điển hình. Tác phẩm ông không phải chỉ có con người bàng bạc trong thời gian và không gian rộng rãi, ta luôn thấy hình ảnh thành phố quê hương thân yêu của ông, với đường phố, lâu đài, bến cảng, cầu tàu, cần trục, bờ dốc đứng, thảo nguyên... khi ẩn khi hiện, với tất cả buồn, vui, thương, giận. Không phải chỉ có con người xô-viết đánh giặc mà cả thiên nhiên xô-viết cũng vùng lên, tiêu diệt bọn cướp nước hung tàn. Phong cách sáng sủa, cách bố cục chặt chẽ, chia chương ngắn gọn, khiến câu chuyện tuy dài mà vẫn dễ theo dõi, tiếp thu. * Đường hầm Ôđetxa đến với chúng ta giữa lúc cả nước ta đang quyết liệt tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống Mỹ, cứu nước. Những hầm ngầm chiến đấu nổi tiếng của thành phố Ôđetxa khiến chúng ta liên tưởng đến hệ thống địa đạo vô cùng vĩ đại của đồng bào miền Nam đánh giặc. Tất nhiên hoàn cảnh lịch sử, địa lý mỗi nơi mỗi khác, phương thức chiến đấu cũng không hẳn giống nhau, nhưng có một khía cạnh có thể cung cấp cho chúng ta nhiều suy nghĩ bổ ích. Ấy là vấn đề con người trong chiến tranh nhân dân. Con người được giác ngộ sâu sắc, được lãnh đạo tốt, được tổ chức tốt, nhất định sẽ làm nên những sự nghiệp thần kỳ. Với ý nghĩ ấy, chúng tôi trân trọng giới thiệu với bạn đọc Đường hầm Ôđetxa.   Hà-nội, 16-3-1967 LÊ HUY Mời các bạn đón đọc Đường Hầm Ôđetxa của tác giả Valentin Petrovich Kataev.
Cõi Mê
Chủ đề mà tác giả hướng tới là sự phân rã trong gia đình, trong cơ cấu xã hội và sự tha hóa khó kìm hãm của con người. Gia đình ông Hoàng, gồm ông và các con trai là những người có năng lực, có tâm huyết với sự đổi mới nhưng nhiều lúc đã chịu thất bại cay đắng bởi cỗ máy bảo thủ và sự tranh giành quyền lực của những kẻ xấu. Gia đình ông Nguyễn Kỳ Hòa, hay là gia đình cụ Nguyễn (bố ông Hòa, tuổi đã tròn trăm) là một gia đình yêu nước có truyền thống, đời đời theo Trương Ðịnh, Nguyễn Tri Phương chống thực dân Pháp xâm lược. Ông Hòa là bộ đội tập kết, lên đến chức đại tá. Anh em ông, các con trai ông đều là liệt sĩ, chỉ để lại đứa cháu nội là thằng Thăng. Do sự cưng chiều và dựa cậy thần thế, thằng Thăng, cái hạt giống duy nhất của một gia đình yêu nước, trượng nghĩa, chưa đến tuổi mười lăm đã đua xe cán chết người, đã làm nát đời con gái người ta rồi tiếp đó là du nhập băng đảng xã hội đen, lao vào dòng đời thác loạn. Sự sa ngã, đúng hơn là lối sống mất dạy, rất nguy hiểm cho xã hội của bọn choai choai như thằng Thăng không chỉ vì sự cưng chiều mà còn vì xã hội còn có mảnh đất cho lối sống ấy. Cái tha hóa của ông Hòa lại ở dạng khác: vì không xin việc được cho thằng Thăng, vì thấy ông Hoàng không tiếp mình, khinh mình nên đã lạm dụng cương vị công tác và uy tín hùa nhau khép tội cho cha con ông Hoàng, những người trung thực và có nhiều tư tưởng đổi mới, đẩy xã hội tiến lên. Cụ Nguyễn đã trụ vững qua nhiều giai đoạn lịch sử để giữ lấy trung nghĩa, nhân đức, sự thanh khiết kể cả dưới chế độ Mỹ - ngụy, cuối cùng đã gục ngã. Sự gục ngã của một trụ cột gia đình, sự thối rữa của một hạt giống duy nhất còn sót lại khiến người đọc bàng hoàng. Liệu rồi dòng máu yêu nước, những đạo lý truyền thống sẽ chảy từ đâu, về đâu? Chỉ ra những chiều hướng xấu trong xã hội, miêu tả sự tha hóa, băng hoại đến tột cùng và những nguy hại nhãn tiền, nguy hại lâu dài cho cả một dân tộc, với tinh thần trách nhiệm và tính chiến đấu cao, tiểu thuyết “Cõi mê” của Triệu Xuân đã góp một tiếng nói thức tỉnh, cảnh giác đối với một thời đoạn lịch sử, đối với tương lai. Dường như nhiều người, nhiều khi chúng ta đang rơi vào cõi mê, đang bị sự quyến rũ chết người nhấn xuống tận đáy của nhơ nhớp lại cứ ngỡ mình đang thăng hoa, đang vinh quang, đang khôn  khéo hoặc tuyệt vời sung sướng. Văn học Việt Nam đang tìm đường để tự đổi mới mình, đang hướng tới những tác phẩm làm tròn thiên chức cao cả của mình là góp phần cải biến xã hội. Có những nhà văn viết về lịch sử, viết về một cuộc sống nào đó trong tư duy chủ quan của mình, nhưng tôi coi trọng hơn những nhà văn viết về cái hôm nay. Triệu Xuân là một nhà văn như vậy. Anh có hiểu biết am tường về lịch sử lẫn mọi ngóc ngách của cuộc sống hôm nay, biết đặt vấn đề hôm nay trong một tiến trình để các sự kiện, vấn đề được soi sáng hơn có ý nghĩa hơn. Tác phẩm “Cõi mê” ngồn ngộn chất liệu đời thực, với những chi tiết chính xác của báo chí, các sự kiện và nhân vật như vừa gặp đâu đó, như đang sống, đang vây lấy người đọc, đòi hỏi anh phải bộc lộ thái độ chứ không chỉ “thưởng thức”... “Cõi mê” đã thật sự thành công khi nói  về sự tha hóa của một số người, sự phân rã trong một số cơ tầng xã hội, đưa ra những vấn đề  bức xúc về lối sống, về giáo dục gia đình, quản lý xã hội, sử dụng con người nhưng chưa mấy thành công khi nói về tương lai, về cái mới với sự mỏng mảnh của  những nhân vật đại diện cho cái mới như Ngọc Bắc, Phương Thảo. Tôi cũng không thích đoạn kết có hậu: mọi người trong hai gia đình “thù địch” lại giảng hòa, vui vẻ ềcả làngể, lại bắt tay cùng xây dựng một cuộc sống mới và sự thanh khiết một cách quá dễ dàng, không đúng ềtôngể với các phần trước đó của cuốn sách, cũng không đúng quy luật của cuộc sống. Cái chết của Ngọc Tiên, sự trả giá của thằng Thăng đã là cái chết của một lối sống trục lợi, chụp giật, thiếu lý tưởng, đã là sự chiến thắng của cái thiện, không cần viết thêm đoạn kết gượng ép. Review Nguyễn Sĩ Đại. *** Nhà văn Triệu Xuân quê Ninh Giang, Hải Dương. Năm 1973, sau khi tốt nghiệp Khoa Ngữ văn ÐHTH Hà Nội, anh vào nam làm phóng viên mặt trận, trải qua đời làm báo dài nhất tại Ðài phát thanh Giải Phóng, sau đó là Ðài Tiếng nói Việt Nam. Hiện công tác tại Nhà xuất bản văn học. Trực diện với cuộc sống, mong muốn được đứng ở hàng đầu của những xung đột và tham gia giải quyết những xung đột ấy là thế sống, là điểm đích của ngòi bút Triệu Xuân trong văn chương cũng như báo chí. Tính từ 1985 đến nay, Triệu Xuân đã có sáu tiểu thuyết: “Giấy trắng” (1985); “Ðâu là lời phán xét cuối cùng” (1987); “Nổi chìm trong dòng xoáy” (1987); “Trả giá” (1988); “Bụi đời” (1990); “Sóng lừng” (1991); “Cõi mê” (2004) và “Hồn rừng” (2005). Anh đã được Giải thưởng văn học giai đoạn 1986-1990 của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam bằng tiểu thuyết “Trả giá”.  *** Cuộc đời có quá nhiều sự quyến rũ! Xưa nay sự quyến rũ có quyền năng vô hạn. Nó có thể làm người ta bừng sáng, thăng hoa đến tót vời, nó cũng có thể đè người ta bẹp dí, nghiền nát, hoặc nhấn xuống tận đáy của sự nhơ nhớp. Nhưng quyền năng vô hạn đó không chỉ có hai mặt, mà mặt thứ ba mới là thực tế: Có những kẻ đang bị sự quyến rũ chết người nhấn xuống tận đáy của nhơ nhớp lại cứ ngỡ mình đang thăng hoa, đang vinh quang, tuyệt vời sung sướng. Thằng Thăng cháu nội ông Nguyễn Kỳ Hòa là kẻ như thế. Nó đang sung sướng lắm! Trời ban cho nó vóc dáng cao lớn, vạm vỡ, điển trai, mắt to đuôi dài rất đa tình. Hồi nó mới mười ba tuổi, đã thèm xe Honda, ông bà nội mua cho liền! Nó cúp cua đi chơi Thủ Đức, Biên Hòa, Vũng Tàu, Đà Lạt, đi bằng xe Honda, và đua với bạn. Cuộc đua nào nó cũng về nhất. Rồi nó mê bơi lội, mê tennis. Nó kiếm được chân nhặt banh trên sân tennis Tri Âm sát sông Sài Gòn. Tại đây, nó nhanh chóng học được môn thể thao này. Nó quan sát những người chơi, nghe họ trò chuyện về những chốn ăn chơi, những cô gái đẹp ở những chốn ấy và hiểu ra rằng những người đàn ông trong nhà nó không là… cái đinh gì, bởi họ không hề biết thưởng thức cuộc đời (câu mà nó thường được nghe đại ca X.O nói)! Chú Hùng Tâm của nó xem ra cũng máu ăn chơi, thế nhưng thằng Thăng ghét Tâm, nó coi Tâm chẳng ra ký lô nào bởi cái tội chảnh chọe với cháu! Chỉ có ông Ba Đào, người mà đàn em tôn vinh là đại ca X.O, và những người bạn của ông ta trên sân Tri Âm mới hiểu đời, biết thưởng thức cuộc sống… Thằng Thăng lớn nhanh như Phù Đổng Thiên Vương sau khi được dân làng góp gạo thổi cơm cho ăn. Mười lăm tuổi mà đã có ria mép, thân hình lực lưỡng như trai mười bảy bẻ gãy sừng trâu. Sừng trâu thì nó chưa bẻ gãy, nhưng nó đã hơn một lần làm nát đời con gái người ta. Không phải nó ác, mà bởi nó đam mê, nó bị sự quyến rũ ngự trị; và nhất là tại các em choai choai thèm lăn xả với nó. Con gái nhìn nó một lần là muốn được lao vào vòng tay nó, dù có chết cũng cam lòng! Bước vô tuổi mười lăm, nó đã cao một mét bảy mươi lăm, người nở nang cân đối và rắn như thép cường độ cao. Nó thông minh, nhưng chán học, triền miên trốn học vì… bị nhiều cô gái đẹp quyến rũ, hay chính nó tạo ra sự quyến rũ không biết. Các cô gái được nó cho thưởng thức mùi đời, biến thành đàn bà thời ấy là bạn học cùng lớp, cùng trường, cùng tuổi choai choai, cùng khao khát ăn chơi, cùng biết xài tiền như nước và cùng thích tốc độ. Băng của thằng Thăng có tám cặp, chỉ có nó đang học lớp tám, còn những đứa kia học lớp mười đến lớp mười hai. Tất nhiên thằng Thăng được tôn làm thủ lãnh. Không làm thủ lãnh sao được khi mà nó chơi bạo nhất, đẹp trai nhất, to cao nhất, nhiều tiền nhất, đa tình nhất, nhiều ý tưởng sáng tạo điên rồ nhất! Ngoài những cái nhất ấy, thằng Thăng còn mang vào chốn giang hồ những tư chất của một kẻ được gia đình chăm sóc, giáo dục kỹ lưỡng: không bao giờ nói tục, không bao giờ chửi thề, ngày đánh răng ba lần, sau khi đi cầu là phải tắm rửa, sau khi đi tiểu dứt khoát dùng giấy vệ sinh thấm… thằng nhỏ, và rửa tay thật kỹ trước khi rời toilet!… Những điều vừa kể đã ngấm vào máu thằng Thăng. Nó thực hiện như một phản xạ bản năng. Bởi thế mà đám đệ tử thấy thằng Thăng như một người của thế giới khác lạ, chúng rất khâm phục. Không biết vì sao Nguyễn Quốc Thăng lại được đám choai choai kêu bằng biệt danh Rồng Xanh? Có lẽ ngẫu nhiên chăng? Vào sinh nhật thứ mười sáu của thằng Thăng, ngày 30 tháng Tư, sau khi ăn chơi nhảy nhót từ sáng tới tối, rồi lao vào chuyện chăn gối đến rã rời cơ bắp, chúng nó vào cuộc đua mới. Không biết là cuộc đua thứ bao nhiêu rồi? Trời cũng chịu, không nhớ nổi! Đêm ấy, băng Rồng Xanh đua với băng Ó Trắng. Tất nhiên là xe phân khối lớn. Tất nhiên là tháo bỏ dây thắng. Tất nhiên là tay đua nào cũng có một em mặc mini jupe khoe cặp chân dài như chân Julia Robert ngồi quặp chặt sau lưng. Điểm xuất phát và đích là cầu Sài Gòn. Rồng Xanh về đích trước tiên. Hai giờ sáng, đúng vào lúc xe thằng Thăng bay tới điểm đích thì bất ngờ xuất hiện chiếc xe đạp của một nữ công nhân đi làm ca đêm về… Người đàn bà xấu số ấy chết không toàn thây! Cả nhà ông Hòa như vừa bị khủng bố. Ai nấy mặt mày dớn dác, cắt không ra giọt máu. Mùa Xuân 1985, đại tá Hòa - nổi tiếng hào hoa, giao thiệp rộng - nhận được quyết định: không trực tiếp chỉ huy đơn vị pháo binh nữa, ông được điều về giữ một trọng trách ở Quân khu. Khi nhận quyết định này, Hòa vừa khấp khởi mừng, vừa lo. Ông hy vọng cấp trên giao cho ông phụ trách thanh tra để rồi thăng lên cấp tướng?! Nhưng, nếu không phải vậy thì… ông lo vì mình đã bước vào tuổi sáu mươi rồi, không được lên tướng thì chỉ còn nước lên làng nướng mà nhậu, nghĩa là về hưu! Quân đội luôn luôn là nguồn cung cấp cán bộ cho các ngành khác. Sau năm 1975, tại miền Nam, hầu hết những cán bộ khung của các ngành công an, kiểm sát, tòa án, thanh tra, thuế, hải quan… đều xuất thân quân đội. Trong đội ngũ ấy, có rất nhiều người là bạn thân hoặc là cấp dưới của Hòa. Hòa làm việc ở Quân khu được hai năm, lập được một vài công tích thì tiếng tăm bay tới cấp trên. Nạn tham nhũng đã và đang hiển hiện. Đại tá Hòa, chưa được lên tướng, nhưng được trên cử làm Phó Ban chống tham nhũng! Mời các bạn đón đọc Cõi Mê của tác giả Triệu Xuân.