Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phúc Lạc Hội

Bàn Mạt chược bốn cạnh. Bốn người phụ nữ Trung Hoa di cư trên đất Mỹ. Bốn cô con gái Trung Hoa thế hệ Hai. Mười sáu câu chuyện chồng chéo. Quá khứ là thế giới huyền ảo của Trung Hoa cổ kính, là chế độ đa thê, là chiến tranh Trung Nhật. Hiện tại là những rắc rối đời thường, những khỏang cách thế hệ, những phiền phức của cuộc sống thực dụng kiểu Mỹ. Để bớt nỗi nhớ quê hương và sự lạc lõng ở xứ người, bốn người phụ nữ Trung Hoa đã mượn bàn Mạt chược để lập Joy Luck Club. Trong những ván mạt chược và những bữa ăn họp mặt, họ đã kể cho nhau nghe về quá khứ và hiện tại trong cuộc sống gia đình. Và như bao cô gái thế hệ Hai trên nước Mỹ, các cô luôn va chạm với Mẹ, nhưng rồi nhờ kinh nghiệm sống của Mẹ, các cô đã vượt qua khó khăn của cuộc sống.. Amy Tan đã diễn tả tài tình cuộc sống và tâm tình của 2 thế hệ người Trung Hoa di cư thông qua 16 câu chuyện của từng người, từ cuộc sống đại gia đình của người Trung Hoa xưa, nỗi sợ hãi của chiến tranh, sự lạc lõng ở xứ người… *** AMY TAN sinh ở OAKLAND, CALIFORNIA vào năm 1952, hai năm rưỡi sau khi cha mẹ có nhập cư vào nước Mỹ. Mặc dù cha mẹ cô mong mỏi cô sẽ theo nghề bác sĩ giải phẫu thần kinh kiêm nghệ sĩ dương cầm nghiệp dư, cô lại trở nên bác sĩ tư vấn cho trẻ em tàn tật, và đồng thời là nhà văn tự do. Cô viếng quê hương Trung Hoa lần đầu tiên năm 1987 và thấy đúng như mẹ cô đã nói: “Ngay khi chân tôi chạm đất Trung Hoa, tôi lập tức trở thành người Trung Hoa”.   AMY TAN hiện sống cùng chồng tại San Francisco.   PHÚC LẠC HỘI là tác phẩm đầu tay của cô. Amy Tan (Tần Ái Mỹ) thuộc thế hệ nhà văn gốc Hoa đầu tiên thành công trên văn đàn Mỹ. Bà sinh năm 1952 tại California và thường viết về những gian nan mà phụ nữ người Hoa đã gặp ở quê nhà cũng như cuộc sống khó khăn mà con gái của họ gặp trên đất Mỹ. Bà thành công ngay với những tác phẩm đầu tiên, như The Joy Luck Club ('Phúc Lạc Hội', 1989; dựng thành phim năm 1991; bản dịch Việt ngữ đăng dưới đây), và The Kitchen God’s Wife ('Phu nhân Táo quân', 1991;), cả hai đều mang tính tự truyện. Sau đó bà còn viết The Hundred Secret Senses ('Trăm niềm ẩn thức', 1995) và The Bonesetter’s Daughter ('Con gái thầy lang ', 2000) và hai truyện thiếu nhi: The Moon Lady ('Chị Hằng', 1992) và The Chinese Siamese Cat ('Mèo xiêm Trung Quốc', 1994). Tác phẩm của bà đã được dịch nhiều ở Việt Nam.  *** Bà lão nhớ lại chuyện con thiên nga mà bà mua hồi xa xưa ở Thượng Hải bằng một số tiền điên rồ. Con chim này, theo lời khoe của người bán ở chợ, trước kia là một chú vịt đã cố rướn cổ dài ra, hy vọng trở thành thiên nga, và bây giờ, nhìn kìa - nó đẹp đẽ quá, làm sao mà mà nỡ ăn thịt nó!   Rồi bà và con thiên nga đã vượt qua hàng dặm biển, cố vươn về phía nước Mỹ. Trên cuộc hành trình, bà thủ thỉ với con thiên nga “Ở Mỹ, ta sẽ có một đứa con gái giống như mi. Nhưng ở đó sẽ không ai cho rằng giá trị của con ta được tính bằng mức ăn to nói lớn của chồng nó. Ở đó sẽ không ai khinh dễ nó, bởi vì ta sẽ bắt nó nói tiếng Anh đặc giọng Mỹ. Và ở đó nó sẽ quá no đủ không còn nuốt được một nỗi buồn nào! Nó sẽ biết ta muốn nói gì, bởi vì ra sẽ cho nó con thiên nga này - một tạo vật; tốt hơn hẳn những điều người ta mong mỏi.”   Nhưng khi bà đến đất nước mới, các nhân viên nhập cư đã giật con thiên nga ra khỏi tay bà, để lại trên đôi tay chới với của bà độc nhất một chiếc lông chim làm kỷ niệm. Và rồi bà phải điền vào quá nhiều biểu mẫu đơn từ đến nỗi bà quên mất vì sao bà đến đây và những gì bà để lại phía sau.   Giờ thì bà đã già. Và bà có một cô con gái lớn lên chỉ nói toàn tiếng Anh và uống Coca-Cola nhiều hơn là nuốt đi nỗi buồn. Từ lâu, bà muốn trao cho cô ta chiếc lông chim duy nhất đó và bảo cô “Chiếc lông chim này trông có vẻ vô giá trị, nhưng nó đã từ xa đến đây và chất chứa tất cả thiện ý của mẹ”. Bà đã chờ đợi, năm này qua năm khác, chờ đến ngày bà có thể kể cho con gái nghe điều này bằng tiếng Anh, đặc giọng Mỹ.  *** Ba tôi bảo tôi giữ chân thứ tư trong PHÚC LẠC HỘI. Tôi sẽ thế chỗ mẹ tôi. Từ khi bà chết, chỗ của bà ở bàn mạt chược bỏ trống đã hai tháng nay. Ba tôi cho rằng chính những suy nghĩ của mẹ tôi đã giết chết bà.   Ông nói:   “Mẹ con có một ý mới trong đầu. Trước khi mẹ con có thể nói ra, ý nghĩ đó đã phát triển quá lớn và vỡ tung, chắc hẳn đó là một ý nghĩ chẳng hay ho tí nào.”   Bác sĩ nói mẹ tôi chết bởi chứng phình mạch não. Và những người bạn của mẹ tôi ở PHÚC LẠC HỘI nói bà chết y như một con thỏ: chết một cách nhanh chóng và để lại công việc còn đang dở. Kỳ họp mặt tới của PHÚC LẠC HỘI là tới phiên mẹ tôi đãi đằng.   Trước khi chết một tuần, bà gọi tôi, đầy tự hào và sức sống, bà nói: “Dì Linh nấu chè đậu đỏ. Mẹ sẽ nấu chè chế mè phủ”.   “Thôi đừng phô trương, mẹ ơi”.   “Không phải là phô trương” - bà nói, hai loại chè gần giống nhau, chabudwo. Hoặc là bà có thể nói butong, chẳng giống nhau tí nào hết. Ðây là một trong những cách nói của người Hoa có nghĩa là phần tốt hơn của những ý nghĩ lẫn lộn. Tôi không thể nào nhớ được những gì mà từ thoạt đâu tôi đã không hiểu.   Mẹ tôi bắt đầu có ý tưởng lập PHÚC LẠC HỘI ở San Francisco vào năm 1949, trước khi sinh tôi hai năm. Ðó là năm cha mẹ tôi chạy khỏi Trung Quốc chỉ mang theo một chiếc giỏ bằng da cứng chứa đầy những áo dài lụa lạ kỳ. “Không có thời giờ xếp những thứ khác”, mẹ tôi đã giải thích như thế với cha tôi. Sau khi hai người lên tàu. Tuy nhiên, cha tôi vẫn điên cuồng bới tay giữa những tấm lụa trơn để tìm những chiếc áo vải và quần len của mình.   Khi đến San Francisco, cha tôi bắt mẹ tôi giấu mớ quần áo bóng bẩy này. Mẹ tôi mặc mỗi chiếc áo xẩm carô nâu đến khi Hội Cứu Tế Người Tị Nạn bố thí cho bà hai chiếc áo cũ, cả hai đều lớn quá cỡ ngay cả cho phụ nữ Mỹ. Hội Cứu Tế bao gồm một nhóm nữ truyền giáo đã lớn tuổi ở nhà thờ rửa tội cho người Trung Hoa đầu tiên. Và vì đã nhận quà, cha mẹ tôi không thể từ chối mời lời gia nhập giáo phái của họ. Hơn nữa, cha mẹ tôi không thể bỏ qua lời khuyên rất thiết thực của những phụ nữ lớn tuổi này. Cha mẹ tôi có thể học thêm tiếng Anh ở lớp học kinh thánh vào tối thứ tư hàng tuần và sau này, hát hợp xướng mỗi sáng thứ Bảy hàng tuần. Ðó là lý do mẹ tôi gặp gia đình họ Tô, họ Chung và họ St. Clair. Mẹ tôi có cảm giác là những người đàn bà trong những gia đình này cũng đã trải qua những nỗi khổ không tả xiết bên Trung Hoa và có những hy vọng họ không thể nào diễn tả được bằng tiếng Anh ít ỏi của mình. Hay ít nhất, mẹ tôi nhận ra được vẻ chết lặng trên khuôn mặt những người đàn bà này. Và bà thấy họ mừng rỡ thế nào khi bà đề xuất ý kiến lập PHÚC LẠC HỘI.   PHÚC LẠC là ý nghĩ mẹ tôi nhớ được từ thời bà mới lấy chồng lần đầu ở Quế Lâm, trước khi bọn Nhật tới. Do đó, tôi nghĩ tới PHÚC LẠC như câu chuyện Quế Lâm của bà. Đó là câu chuyện bà thường kể cho tôi nghe mỗi khi bà buồn, mỗi khi không có chuyện gì làm, mỗi khi rửa chén và lau bàn xong, mỗi khi cha tôi đọc báo, hút hết điếu Pall Mall này tới điếu Pall Mall khác, đó là dấu hiệu không được quấy rầy ông. Những lúc đó, mẹ tôi lấy ra cái hộp đựng áo len trượt tuyết cũ do họ hàng chẳng bao giờ gặp bên Vancouver gởi qua. Bà thường cất lại một chiếc áo len, kéo ra một sợi chỉ quăn và đặt sợi chỉ lên một miếng bìa cứng. Và khi bà bắt đầu quấn chỉ nhanh nhẹn, nhịp nhàng, bà bắt đầu kể chuyện. Mười mấy năm ròng rã, bà chỉ kể cho tôi nghe một câu chuyện duy nhất, trừ phần kết thúc câu chuyện ngày càng đen tối hơn, ám ảnh đời bà dai dẳng và cuối cùng, ám ảnh cả đời tôi.   “Ta mơ thấy Quế Lâm ngay cả trước khi ta thấy tận mắt”, mẹ tôi bắt đầu kể bằng tiếng Hoa - “Ta mơ thấy những đỉnh núi lởm chởm chạy dài theo một con sông uốn khúc, hai bên bờ phủ rêu xanh rờn. Sương mù trắng lơ lững trên những đỉnh núi. Và nếu như ta thả mình theo dòng nước và lấy rêu làm thức ăn, ta sẽ có đủ sức leo lên tới đỉnh núi. Nếu như không may ta trượt té, ta chỉ ngã vào một thảm rêu êm như nhung và cười lớn. Nhưng một khi ta lên được tới đỉnh, ta có thể nhìn khắp xung quanh và cảm thấy một niềm hạnh phúc vô biên để cả đời không bao giờ cảm thấy lo lắng nữa.”   Bên Trung Quốc, mọi người đều mơ về Quế Lâm. Khi ta tới đó, ta mới nhận thấy giấc mơ của ta mới tồi tàn và ý nghĩ của ta mới nghèo nàn làm sao. Khi ta thấy những ngọn đồi, ta vừa cười vừa rùng mình. Những đỉnh núi trông như những đầu cá chiên khổng lồ cố nhảy ra khỏi thùng dầu. Phía sau mỗi ngọn đồi, ta có thể nhìn thấy bóng của một con cá khác, rồi một con khác nữa. Và khi những đám mây chỉ lay động một chút thôi thì bỗng nhiên những ngọn đồi biến thành một đàn voi kỳ quái đang chậm rãi tiến về phía ta. Con có thể tưởng tượng được không? Và ở chân đồi là những hang động bí mật. Bên trong có những tảng đá treo có hình dáng và màu sắc như cải bắp, dưa tây, củ cải, củ hành. Con sẽ chẳng bao giờ có thể tưởng tượng được những tảng đá này kỳ lạ và đẹp đẽ đến dường nào.   Nhưng ta không đến Quế Lâm để ngắm cảnh đẹp.   Người đàn ông đã từng là chồng ta mang ta và hai con đến QUẾ LÂM vì ông nghĩ rằng chúng ta sẽ an toàn ở đó. Ông là một sĩ quan trong quân đội Quốc Dân Ðảng, và sau khi ông an vị chúng ta trong một căn phòng nhỏ ở một căn nhà hai tầng, ông lại ra đi về hướng Tây - Bắc, đến Trùng Khánh.   Chúng ta biết là bọn Nhật đang thắng thế, ngay cả khi báo chí nói không phải vậy. Mỗi ngày, mỗi giờ, hàng ngàn người đổ về thành phố, chen chúc trên vỉa hè, cố tìm chỗ sinh sống. Nghèo có, giàu có, người Thượng Hải có, người Quảng Ðông có, người từ phía Bắc có, và không chỉ người Hoa, mà có cả người ngoại quốc và những vị truyền giáo của đủ thứ tôn giáo. Và dĩ nhiên là có cả Quốc Dân Đảng và những sĩ quan trong quân đội, những người này nghĩ là họ phải hơn hẳn những người khác.   Chúng ta là một đám người ô hợp bị bỏ lại phía sau. Giả sử không có bọn Nhật, chắc hẳn sẽ có rất nhiều lý do để những người này đánh nhau. Con có hiểu không? Người Thượng Hải với nông dân vùng biển phía Bắc, thợ rẫy với thợ hớt tóc, phu kéo xe với người tị nạn từ Miến Ðiện. Người này khinh người kia. Chẳng ai để ý là mọi người đều ở chung trên một vỉa hè để khạc nhổ, đều cùng bị dịch tả hoành hành. Ai cũng hôi hám, nhưng người này cứ than phiền người kia hôi nhất. Còn ta? Ta chúa ghét bọn sĩ quan không quân Mỹ cứ suốt ngày bô bô habba - habba, làm ta phải đỏ mặt. Nhưng tệ nhất là bọn nông dân miền Bắc hỉ mũi vào tay, chen lấn với người khác và cuối cùng lây bệnh cho người khác.   Do đó, Quế Lâm mất hết vẻ thơ mộng đối với ta. Ta không còn leo lên đỉnh núi để thốt lên rằng những ngọn đồi này mới đáng yêu làm sao! Ta chỉ tự hỏi, bọn Nhật đã đến được những ngọn đồi nào. Ta thường ngồi chờ trong bóng tối của căn nhà, hai tay ẵm hai con, sẵn sàng chạy. Khi còi báo động có máy bay rít lên ta và mấy người bên cạnh đứng bật dậy và hối hả chạy về phía hàng sau để trốn như thú rừng. Nhưng con không thể ở lâu trong bóng tối. Cái gì đó trong con mờ dần và con như trở thành một người chết đói, thèm khát ánh sáng đến điên cuồng. Bên ngoài, ta có thể nghe thấy tiếng bom. Bùm! Bùm! Và rồi tiếng đá rơi như mưa. Và bên trong, ta chẳng còn thèm khát những tảng đá có hình bắp cải hay củ cải. Ta chỉ có thể thấy lòng một ngọn đồi cổ xưa nhỏ nước, lúc nào cũng có thể đổ sập lên đầu ta. Con có thể tưởng tượng được như thế này không, không muốn ở bên trong, cũng không muốn ở bên ngoài, không muốn ở đâu cả, chỉ muốn biến đi.   Khi tiếng ném bom chỉ còn ở xa xe, chúng ta lại chui ra như những con mèo con tìm đường về thành phố. Và lúc nào cũng vậy, ta rất ngạc nhiên khi thấy những ngọn đồi trên nền trời nóng bỏng đã không bị xé toạc ra.   Ta đã nghĩ ra PHÚC LẠC HỘI vào một tối mùa hè nóng đến nỗi muỗi cũng rơi xuống đất, cái nóng ẩm ướt làm cho cánh chúng quá nặng. Khắp nơi đều đông đúc đến nỗi không thể hít thở không khí trong lành. Mùi cống rãnh không chịu nổi dâng lên cửa sổ lầu hai của ta, và không biết đi đâu, chúng bèn chui vào mũi ta. Suốt cả ngày đêm, ta luôn nghe những tiếng hét la. Ta không biết có phải đó là tiếng một người nông dân gào rát cổ tìm heo đi lạc hay tiếng người sĩ quan đánh đập một người nông dân gần chết vì nằm giữa đường đi của hắn trên vỉa hè. Ta không đi đến cửa sổ để tìm xe. Ích gì? Và đó là lúc ta nghĩ mình đâu phải có người giúp đỡ mới di chuyển nổi.   Ta có ý định tụ tập một nhóm bốn phụ nữ, mỗi người giữ một tay ở bàn mạt chược của ta. Ta biết mình muốn mời những người nào. Họ đều còn trẻ như ta, gương mặt đầy khát vọng. Một người là vợ sĩ quan quân đội, giống như ta. Một người là một cô gái dáng điệu rất thanh lịch, xuất thân từ một gia đình giàu có ở Thượng Hải. Cô đã trốn đi, mang theo chỉ một ít tiền bạc. Còn một cô nữa, từ Nam Kinh tới, có mái tóc đen nhánh, ta chưa từng thấy bao giờ. Cô này xuất thân từ một gia đình cấp thấp, nhưng xinh đẹp và vui vẻ. Cô lấy một ông chồng già, sau ông chết để cô ở lại với một cuộc sống khá hơn.   Cứ mỗi tuần, một người trong nhóm của ta mời bạn bè họp lại để có dịp phát tài và cũng để phấn chấn tinh thần. Người chủ nhà phải đãi thức ăn đặc biệt, ngõ hầu mang lại may mắn khắp mọi mặt: Bánh bao mang hình nén bạc, bún gạo cọng dài chúc sống lâu, đậu phộng nấu mong sinh con trai, và dĩ nhiên còn có thêm nhiều cam để cuộc sống được đầy đủ, ngọt ngào.   Với khả năng đạm bạc mà bọn ta đãi đằng nhau tươm tất đến thế đấy! Bọn ta không để ý rằng bánh bao được nhồi nhân bí, xắt dày, và cam thì lốm đốm đầy những lỗ có sâu. Bọn ta ăn dè xẻn, không phải vì dường như không có đủ thức ăn, nhưng để có thể phân trần vì sao không cắn thêm được miếng nữa, bọn ta phải tự nhồi đầy bụng từ sáng sớm. Bọn ta biết mình có được những thứ xa xỉ mà ít người đạt tới. Bọn ta là những người may mắn.   Mời các bạn đón đọc Phúc Lạc Hội của tác giả Amy Tan.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bức Tranh Dorian Gray
Không chỉ là một kiệt tác văn chương gây nhiều tranh cãi khi mới xuất bản, “Bức tranh Dorian Gray” còn là cuốn tiểu thuyết duy nhất của Oscar Wilde. Lấy bối cảnh diễn ra vào thời Victoria ở nước Anh, Dorian Gray có vẻ ngoài cuốn hút, đã truyền cảm hứng cho Basil vẽ chân dung của anh. Đó là một bức chân dung kì lạ, nó thay Dorian Gray già đi, thậm chí khi Dorian Gray trở nên tệ bạc, xấu xa, bức tranh cũng trở nên tệ hại theo. Cứ thế Dorian Gray giữ được vẻ ngoài suốt gần hai mươi năm, nhưng liệu giữ được vẻ ngoài hào hoa bất biến theo thời gian có thật sự là may mắn? Trút hết sự suy đồi của mình vào một bức tranh liệu có làm cho Dorian Gray hạnh phúc, hay đó lại chính là khởi đầu cho những bất hạnh ngấm ngầm bao phủ cuộc đời anh ta? *** Trong lịch sử văn chương nhân loại có những cuốn sách được viết ra quá sớm so với thời đại của chúng, nên dường như vì thế mà chúng phải chịu trắc trở ngay từ những ngày mới chào đời. Ví dụ điển hình là Lolita của Vladimir Nabokov: Bị cấm ở nhiều nơi, không thể in ở Mỹ, nơi nó được sáng tác xong vào năm 1953, và phải xuất bản lần đầu ở Pháp vào năm 1955. Tuy nhiên, như đã biết, sau đó Lolita nhanh chóng trở thành một tác phẩm bán chạy hàng đầu của văn chương tiếng Anh, luôn được xếp hạng đầu trong các cuộc bình chọn, và đưa tác giả của nó trở thành một trong các nhà văn vĩ đại nhất nhân loại. Trước đó hơn nửa thế kỷ, vào năm 1891, cũng từng có một kiệt tác văn chương chịu số phận gập ghềnh không kém, là Bức tranh Dorian Gray (The picture of Dorian Gray) của Oscar Wilde, nhà văn vĩ đại người Ai Len. Sau khi xuất hiện lần đầu vào tháng Bảy năm 1890 trên tạp chí Lippincott's Monthly Magazine, mặc dù đã bị kiểm duyệt và bỏ đi khoảng năm trăm từ, nhưng cuốn sách này vẫn chịu phản ứng dữ dội từ giới phê bình văn chương Anh quốc, do đụng đến các vấn đề chưa được xã hội chấp nhận vào thời điểm ấy. Phiên bản sách giấy của Bức tranh Dorian Gray được Oscar Wilde chỉnh sửa, bổ sung, viết thêm phần Lời tựa rất nổi tiếng, và cho nhà xuất bản Ward, Lock and Company in vào năm 1891. Như vậy, tác phẩm này có hai phiên bản: một là bản 1890 với 13 chương và khoảng năm trăm từ bị kiểm duyệt, hai là bản 1891 với 20 chương và được in thành sách. Ngoài ra, năm 2011, Harvard University Press đã in lại bản 1890 với 13 chương nguyên vẹn không bị bỏ từ nào như Oscar Wilde viết từ đầu. Bản dịch tiếng Việt này được làm theo bản 1891 của Ward, Lock and Company. Mặc dù cuốn sách hiện nay đã nổi tiếng, được dựng thành phim và kịch, thậm chí Dorian Gray đã thành một thuật ngữ chỉ một hội chứng thời đại, nhưng tác giả của nó lại không được chứng kiến sự thành công của đứa con tinh thần của mình. Tác giả Bức tranh Dorian Gray phải chịu số phận bi thảm hơn nhiều so với tác giả Lolita, ông sống những ngày tháng cuối đời trong cô độc và nghèo khổ. Ngày 30 tháng Mười một năm 1900, ông qua đời vì bệnh viêm não tại Paris, khi mới 46 tuổi. Cuốn sách đã đem lại cho Oscar Wilde nhiều bi kịch, biến ông trở thành nhân vật bị xã hội căm ghét, và không khó nhận ra sự phản kháng của ông trong phần Lời tựa khi tái bản nó, với những tuyên ngôn đầy ẩn ý như: “Không có những thứ như sách đạo đức và sách vô đạo đức. Sách được viết hay, hoặc viết dở. Chỉ vậy thôi.” Hoặc: “Sự đa dạng quan điểm về một tác phẩm nghệ thuật cho thấy rằng tác phẩm ấy là mới mẻ, phức tạp và sinh động.” Tuy nhiên, thời gian là hòn đá thử vàng với nghệ thuật, không phải cái gì lấp lánh leng keng cũng chịu đựng được sự phán xét tàn nhẫn của thời gian. Năm nào cũng có vô số cuốn tiểu thuyết được viết ra, được ca ngợi bởi các nhà phê bình cũng như báo chí, thậm chí được các giải thưởng lớn nhưng không mấy cuốn còn lại được sau vài chục năm. Và trong các cuốn sách trụ vững với thời gian ấy thì, cũng như Lolita, Bức tranh Dorian Gray đã được đánh giá như một trong các kiệt tác văn chương quan trọng nhất của nhân loại. Tình yêu đồng giới mà nó đề cập đến đã được chấp nhận rộng rãi trên thế giới, mặc dù cũng chưa thể nói là đã được coi là bình thường tại một số nước nhất định. Tuy nhiên, chủ đề này chỉ là một điểm nhấn trong Bức tranh Dorian Gray, và ngay cả mô-típ bán linh hồn cho quỷ dữ cũng không phải là mới, mà chính kỹ thuật viết tuyệt đẹp đã đem lại sự thành công cho tác phẩm này. Vốn nổi tiếng như một tác giả của những câu văn hài hước, sâu sắc và đôi khi rất cay độc, Oscar Wilde đã đưa câu chuyện tưởng chừng rất khó viết cho tao nhã ấy thành một tiểu thuyết cực kỳ hấp dẫn không chỉ về số phận một nhân vật riêng lẻ, mà về bi kịch chung của thân phận con người. Ba nhân vật quan trọng nhất trong cuốn sách: Henry Wotton, Dorian Gray, Basil Hallward, theo Oscar Wilde, là ba phản thân của tác giả, là những hình ảnh mà thế gian nhìn nhận về ông; chính ông muốn mình sẽ trở thành, có thể, ở một thời đại khác; và ông nghĩ là của chính ông. Thực ra cũng không ai biết ai trong ba nhân vật trên đây có nhiều tính Oscar Wilde hơn cả, vì không phải lúc nào con người cũng nhìn nhận được chính xác về mình, dẫu người đó có là một thiên tài chăng nữa. Người viết những dòng này vốn hâm mộ Oscar Wilde từ khi còn là một cậu bé, và không thể phủ nhận rằng đã bị nhiều câu văn của ông ảnh hưởng phần nào đến cách tư duy, nên việc dịch Bức tranh Dorian Gray, tiểu thuyết duy nhất của ông, vừa là một chuyến trở về thế giới của bậc thầy, vừa là một nghĩa vụ cá nhân: Đưa kiệt tác này đến với tiếng Việt một cách hoàn hảo nhất, bằng tất cả những gì mà khả năng và thời gian cho phép. Ba tháng dịch Bức tranh Dorian Gray đã đem lại cho người dịch nó những kỷ niệm khó quên, không chỉ trong mà còn ngoài cuốn sách. Có những chương dài và vô cùng phức tạp vì liên quan đến những kiến thức văn hóa và lịch sử cổ xưa của châu Âu, có nhiều câu văn đẹp đến mức không thể bỏ đi tiếp khi chưa thấy bản dịch thỏa mãn được chính người dịch, có những lúc mệt mỏi với sự đen tối không đáy của tâm hồn con người, có những lúc bật cười với sự hài hước đặc biệt của Oscar Wilde, có những lúc xao lòng với nỗi đau đằng sau một nụ cười nào đó, nhưng, trên tất cả, là niềm hạnh phúc vì đã, cùng với thần tượng của mình, tạo ra được một thứ tuyệt đối vô ích, chỉ vì mê nó đến cùng cực. Thiên Lương *** Nghệ sỹ là người tạo ra cái đẹp. Biểu lộ nghệ thuật và che giấu nghệ sỹ là mục đích của nghệ thuật. Nhà phê bình là người có thể tái hiện qua phong cách khác hoặc chất liệu khác các ấn tượng của mình về cái đẹp. Hình thái phê bình cao nhất cũng như thấp nhất là một dạng tự truyện. Những ai thấy nghĩa xấu trong cái đẹp là đã đồi bại song không nhờ thế mà khả ái hơn. Đó là tội trọng. Nhưng ai thấy nghĩa đẹp trong cái đẹp thì đã biết tu dưỡng. Với những kẻ này thì vẫn còn hy vọng. Họ là những kẻ được chọn lựa, những kẻ thấy cái đẹp chỉ đơn giản là đẹp mà thôi. Không có những thứ như sách đạo đức và sách vô đạo đức. Sách được viết hay, hoặc viết dở. Chỉ vậy thôi. Sự căm ghét của thế kỷ mười chín với chủ nghĩa hiện thực là cơn thịnh nộ của Caliban khi thấy mặt mình trong gương. Sự căm ghét của thế kỷ mười chín với chủ nghĩa lãng mạn là cơn thịnh nộ của Caliban khi không thấy mặt mình trong gương. Cuộc đời đạo đức của con người tạo thành một phần chủ đề của nghệ sỹ, nhưng đạo đức nghệ thuật cốt ở sự sử dụng thành thạo một công cụ không hoàn hảo. Không nghệ sỹ nào muốn làm sáng tỏ điều gì. Ngay cả những điều đúng đắn cũng có thể bị làm sáng tỏ. Không nghệ sỹ nào có sự đồng cảm với luân thường đạo lý. Sự đồng cảm với luân thường đạo lý ở nghệ sỹ là một phong cách riêng tư không thể dung thứ. Không nghệ sỹ nào từng bệnh hoạn. Nghệ sỹ có thể diễn tả mọi điều. Tư tưởng và ngôn ngữ là các công cụ nghệ thuật của nghệ sỹ. Sự đồi bại và đức hạnh là các chất liệu của nghệ sỹ cho nghệ thuật. Từ quan điểm hình thái học, mẫu mực mọi nghệ thuật là nghệ thuật của nhạc sỹ. Từ quan điểm cảm xúc, ngón nghề của nghệ sỹ là mẫu mực. Mọi nghệ thuật đồng thời là bề mặt và biểu tượng. Những ai đi xuống dưới bề mặt đều làm liều. Những ai đọc biểu tượng đều làm liều. Chính khán giả, chứ không phải cuộc sống, mới là cái mà nghệ thuật thật sự phản chiếu. Sự đa dạng quan điểm về một tác phẩm nghệ thuật cho thấy rằng tác phẩm ấy là mới mẻ, phức tạp và sinh động. Khi các nhà phê bình bất đồng, nghệ sỹ thống nhất với chính mình. Ta có thể tha thứ cho kẻ tạo ra một thứ hữu ích chừng nào y còn chưa mê nó. Lý do duy nhất để bào chữa cho việc tạo ra một thứ vô ích là người ta mê nó đến cùng cực. Mọi nghệ thuật đều tuyệt đối vô ích. Oscar Wilde *** Oscar Wilde, tên đầy đủ: Oscar Fingal O'Flahertie Wills Wilde, sinh ngày 16.10.1854. Oscar Wilde là một nhà văn, nhà thơ, nhà biên kịch và phê bình nổi tiếng của Ireland. Năm 1871, ông học tại Trinity College (Dublin), sau đó học tại Magdalen College (Oxford, 1874-1878). Ở đây ông đã gặp và chịu ảnh hưởng của nhà văn, nhà phê bình Walter Pater (1839-1894) và ủng hộ phong trào ”nghệ thuật vị nghệ thuật". Ông cũng chính là người khởi xướng việc giảng dạy phong trào nghệ thuật này. Năm 1878, Oscar Wilde nhận giải Newdigate của Oxford cho bài thơ Ravenna. Năm 1884, Wilde kết hôn và cùng gia đình định cư tại Chelsea (London), tiếp tục viết và làm việc cho các tạp chí như Pall Mall Gazette và biên tập viên của Women's world (1887 – 1889). Ông xuất bản sách truyện cổ tích đầu tiên năm 1888 với tác phẩm The Happy Prince and Other Stories (Hoàng tử hạnh phúc và những câu chuyện khác). Ông sáng tác nhiều và thành công với lối viết tự nhiên, trong sáng. Ông cũng thành công với quyển tiểu thuyết duy nhất The Picture of Dorian Gray (1891). Sở trường của ông là biên kịch và với giọng văn trào phúng, châm biếm cùng với cách chơi chữ hóm hỉnh, ông đã sản xuất các phim hài như Lady Windermere's Fan (1892), An Ideal Husband (1895) và The importance of being earnest(1895), Salomé (1896). Năm 1895, Wilde bị buộc tội "có lối sống không đứng đắn” đối với hành vi “tình dục đồng giới” với 02 năm lao động khổ sai. Sau khi ra tù vào tháng 5/1897, ông đã dành phần đời còn lại của mình ở châu Âu, xuất bản "The Ballad of Reading Gaol" trong năm 1898. Ông qua đời tại Paris vào ngày 30 Tháng 11 năm 1900 vì bệnh viêm màng não. Các tác phẩm đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam Hoàng Tử Hạnh Phúc Và Những Truyện Khác - Oscar Wilde Chân Dung Của Dorian Gray - Oscar Wilde Gã Khổng Lồ Ích Kỷ - Oscar Wilde Tội Ác Của Huân Tước Arthur Savile Và Các Truyện Ngắn Khác ... Mời các bạn đón đọc Bức Tranh Dorian Gray của tác giả Oscar Wilde & Thiên Lương (dịch).
John Carter Và Thống Soái Hỏa Tinh - Edgar Rice Burroughs
John Carter là một cựu binh trong cuộc Nội chiến của Hoa Kỳ. Một ngày tình cờ anh bị hút vào Hỏa tinh, và nó đã khởi đầu cho cuộc phiêu lưu ly kỳ của anh trong suốt hơn hai mươi năm dài. Trải qua bao nhiêu phen vào sinh ra tử và vô số cuộc chiến, bằng lòng quả cảm, thủy chung và những đức tính rất “người” của một cư dân Trái đất, John Carter không những đã xây dựng cho mình một gia đình hạnh phúc mà còn góp phần lớn vào công cuộc đem lại hòa bình, thịnh vượng và tình yêu thương cho hành tinh vốn khô cằn và đang hấp hối này. Những thủ pháp miêu tả và cách xây dựng nội dung, tình tiết, cao trào của Burroughs đúng là của một bậc thầy, khiến độc giả không bao giờ chán và thậm chí không muốn dừng mạch đọc, dù đang theo dõi một cuộc đấu nghẹt thở hay đang lắng lòng với cảnh tự tình của hai con người yêu nhau. Ngoài ra, một trong những điểm đặc sắc của bộ truyện là tư tưởng mang tính tiên phong của Burroughs. Ngay từ đầu thế kỷ XX, ông đã có một tầm nhìn sâu sắc về môi trường, trong đó một Hỏa tinh đã từng trù phú trở nên khô khan cằn cỗi và các chủng tộc buộc phải lấy chiến tranh làm một phương tiện để trung hòa giữa dân số và nguồn tài nguyên thực phẩm hiếm hoi. Bên cạnh đó, những ý tưởng mang đầy tính sáng tạo của ông về các công nghệ trên Hỏa tinh thật sự là những yếu tố hấp dẫn và thú vị, đặc biệt của một tác giả sống trước năm 1950. Bộ Barsoom xuất bản tại Việt Nam gồm có:   - John Carter Và Công Chúa Hỏa Tinh     - John Carter Và Linh Thần Hỏa Tinh - John Carter Và Thống Soái Hỏa Tinh - ... *** Lưỡi dao đã hạ xuống ngực ai? Dejah Thoris? Thuvia? Và cả ba cô gái đó có còn sống sót hay không, sau một năm Hoả tinh dài dằng dặc bị nhốt trong căn phòng kín, chưa kể tới cơn hỏa hoạn thiêu rụi ngôi đền Issus? *** Tác giả: Edgar Rice Burroughs (01/09/1875 - 19/03/1950) là một tác giả người Mỹ, nổi tiếng với những tác phẩm về người rừng Tarzan và những cuộc thám hiểm của anh hùng John Carter trên Hỏa tinh. Ông từng theo học tại Philips Academy Andover và Học viện quân sự Michigan. Từ 1897 đến 1911, Burroughs đã không thành công trong nhiều lĩnh vực kinh doanh tại Chicago và Idaho. Năm 1911, Burroughs ổn định gia đình tại Chicago và bắt đầu sáng tác. Sáng tác đầu tay của ông Under the Moons of Mars đã gây tiếng vang lớn. Thành công này đã thôi thúc ông tập trung vào con đường trở thành nhà văn chuyên nghiệp. Năm 1912, tập truyện đầu tiên trong bộ truyện 25 quyển về Tarzan đã ra đời: Truyện Tarzan (Tarzan of the Apes) đã được dịch ra hơn 56 ngôn ngữ và đã trở thành đề tài hấp dẫn cho điện ảnh, các chương trình phát thanh. Ngoài Tarzan, Burroughs còn là tác giả của hơn 68 đầu sách. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Burroughs là phóng viên thường trú cho “The Los Angeles Times” và là phóng viên thường trú cao tuổi nhất (66 tuổi) có mặt tại Nam Thái Bình Dương. Mời các bạn đón đọc John Carter Và Thống Soái Hỏa Tinh của tác giả Edgar Rice Burroughs
John Carter Và Linh Thần Hỏa Tinh - Edgar Rice Burroughs
John Carter là một cựu binh trong cuộc Nội chiến của Hoa Kỳ. Một ngày tình cờ anh bị hút vào Hỏa tinh, và nó đã khởi đầu cho cuộc phiêu lưu ly kỳ của anh trong suốt hơn hai mươi năm dài. Trải qua bao nhiêu phen vào sinh ra tử và vô số cuộc chiến, bằng lòng quả cảm, thủy chung và những đức tính rất “người” của một cư dân Trái đất, John Carter không những đã xây dựng cho mình một gia đình hạnh phúc mà còn góp phần lớn vào công cuộc đem lại hòa bình, thịnh vượng và tình yêu thương cho hành tinh vốn khô cằn và đang hấp hối này. Những thủ pháp miêu tả và cách xây dựng nội dung, tình tiết, cao trào của Burroughs đúng là của một bậc thầy, khiến độc giả không bao giờ chán và thậm chí không muốn dừng mạch đọc, dù đang theo dõi một cuộc đấu nghẹt thở hay đang lắng lòng với cảnh tự tình của hai con người yêu nhau. Ngoài ra, một trong những điểm đặc sắc của bộ truyện là tư tưởng mang tính tiên phong của Burroughs. Ngay từ đầu thế kỷ XX, ông đã có một tầm nhìn sâu sắc về môi trường, trong đó một Hỏa tinh đã từng trù phú trở nên khô khan cằn cỗi và các chủng tộc buộc phải lấy chiến tranh làm một phương tiện để trung hòa giữa dân số và nguồn tài nguyên thực phẩm hiếm hoi. Bên cạnh đó, những ý tưởng mang đầy tính sáng tạo của ông về các công nghệ trên Hỏa tinh thật sự là những yếu tố hấp dẫn và thú vị, đặc biệt của một tác giả sống trước năm 1950. Bộ Barsoom xuất bản tại Việt Nam gồm có:   - John Carter Và Công Chúa Hỏa Tinh     - John Carter Và Linh Thần Hỏa Tinh - John Carter Và Thống Soái Hỏa Tinh - ... *** Đại úy John Carter có quay trở lại Hỏa tinh? Công chúa Dejah Thoris, quả trứng con của hai người, và tất cả các cư dân sao Hỏa khác liệu có còn sống sót không sau sự cố ở nhà máy sản xuất khí quyển? Và trong chuyến trở lại Hỏa tinh này, John Carter sẽ trải qua những cuộc phiêu lưu kỳ thú nào khác nữa? *** Tác giả: Edgar Rice Burroughs (01/09/1875 - 19/03/1950) là một tác giả người Mỹ, nổi tiếng với những tác phẩm về người rừng Tarzan và những cuộc thám hiểm của anh hùng John Carter trên Hỏa tinh. Ông từng theo học tại Philips Academy Andover và Học viện quân sự Michigan. Từ 1897 đến 1911, Burroughs đã không thành công trong nhiều lĩnh vực kinh doanh tại Chicago và Idaho. Năm 1911, Burroughs ổn định gia đình tại Chicago và bắt đầu sáng tác. Sáng tác đầu tay của ông Under the Moons of Mars đã gây tiếng vang lớn. Thành công này đã thôi thúc ông tập trung vào con đường trở thành nhà văn chuyên nghiệp. Năm 1912, tập truyện đầu tiên trong bộ truyện 25 quyển về Tarzan đã ra đời: Truyện Tarzan (Tarzan of the Apes) đã được dịch ra hơn 56 ngôn ngữ và đã trở thành đề tài hấp dẫn cho điện ảnh, các chương trình phát thanh. Ngoài Tarzan, Burroughs còn là tác giả của hơn 68 đầu sách. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Burroughs là phóng viên thường trú cho “The Los Angeles Times” và là phóng viên thường trú cao tuổi nhất (66 tuổi) có mặt tại Nam Thái Bình Dương. Mời các bạn đón đọc John Carter Và Linh Thần Hỏa Tinh của tác giả Edgar Rice Burroughs
Gửi Thời Thanh Xuân Ấm Áp Của Chúng Ta - Triệu Kiền Kiền
Gửi cho thời thanh xuân ấm áp nhất của chúng ta. Bạn đã bao giờ tự hỏi lòng mình, “thanh xuân” là gì hay chưa?  Thanh xuân, là những thước phim quay chậm về những tháng ngày non nớt; những tháng ngày gục đầu trên bàn học của giảng đường. Là những cô bạn thân cùng bàn năm đó, hay chị chị em em chung một kí túc nho nhỏ, hàn thuyên về những mơ ước phía xa, đôi ba câu chuyện không đầu không cuối mà nói hết cả một ngày dài. Là những tháng ngày hồn nhiên không muộn phiền của cô gái nhỏ Mạt Mạt trong “Gửi thanh xuân ấm áp của chúng ta” bên bạn thân Mộng Lộ, Vương San và Đàn Chị. Những chất chứa trên những gương mặt thân quen cả đời này chẳng tài nào quên được, dường như khắc sâu vào tận đáy lòng để cô luôn thương nhớ suốt những ngày tháng về sau.  *** Gửi thanh xuân ấm áp của chúng ta giúp chúng ta nhận ra được giá trị của tình bạn, của những năm tháng thanh xuân đã qua, là những năm tháng còn được ngủ trong kí túc xá cùng bạn bè, là những ngày vô tư. Song, chúng ta rồi cũng phải trưởng thành, phải tự gánh vác trách nhiệm, cuộc sống, biết tự lập để tự lo cho bản thân, không thể phụ thuộc vào bất cứ ai cả. Công việc dù có gian nan đến đâu nhưng có thể cảm thấy vui vẻ và thoải mái thì hãy cứ làm. Cuốn sách cho ta thấy được những cảm xúc vui vẻ, hạnh phúc và ấm áp trong tình yêu. Tình yêu cũng đơn giản thôi, là được sống với người mình yêu, được nấu cơm, giúp người mình yêu chia sẻ công việc nhà, chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn cùng người ấy. Cuốn sách kể về Cố Vị Dịch và Tư Đồ Mạt, mặc dù trước đây hai người không ưa nhau, thậm chí thấy chướng mắt nhưng khi bất đắc dĩ về sống cùng dưới một mái nhà thì hai người dần nhận ra giá trị của nhau, dần nhận ra tình cảm của bản thân đối với người ấy , tình cảm ấy dần lớn dần trở thành tình yêu. Yêu nhau, là chấp nhận những khuyết điểm của người ấy, cùng người ấy vượt qua khó khăn. Mạt Mạt sẵn sàng chấp nhận yêu xa, chấp nhận cách xa Vị Dịch nửa vòng trái đất để anh ấy có thể học cao hơn, tốt hơn. Mạt Mạt sẵn sàng một mình kiếm tiền để mua vé máy bay đắt đỏ để bay đến Mĩ, nơi mà Vị Dịch đang theo học. Hai người yêu nhau, cuối cùng cũng sẽ đến được với nhau. Kết thúc là một gia đình ba người cùng nhau sống, cùng nhau ăn, cùng nhau cười, cùng nhau........, cùng nhau..... Thùy Dương Mời các bạn đón đọc Gửi Thời Thanh Xuân Ấm Áp Của Chúng Ta của tác giả Triệu Kiền Kiền.