Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bí mật Shakespeare - Jennifer Lee Carrell

Sau khi ra mắt (từ tháng 1/2008), “The Shakespeare Secret” (Bí mật Shakespeare) hay còn có tên khác là “Interred with Their Bones” - tiểu thuyết đầu tay của Jennifer Lee Carrell đã lọt vào top 5 cuốn sách bán chạy nhất. Tác phẩm tạo thành một hiện tượng mới của làng xuất bản Mỹ với mức độ thành công tương đương với “Mật mã Da Vinci” của Dan Brown. The Shakespeare Secret (Bí mật Shakespeare) là một tiểu thuyết ly kỳ liên quan đến một vở kịch bị mất của Shakespeare, vở kịch The History of Cardenio. Vào một ngày tháng 6 năm 2004, tại nhà hát Globe được xây dựng lại ở London, Rosalind Howard, giáo sư lập dị, khoa trương của trường ĐH Harvard chuyên nghiên cứu về Shakespeare, đã đưa cho cô bạn mình là Katharine Stanley - đạo diễn người Mỹ đang dựng vở kịch Hamlet ở nhà hát Globe - một hộp nhỏ gói giấy vàng.  Tối hôm đó, vụ hỏa hoạn đã phá hủy nhà hát Globe, và Rosalind được phát hiện bị đầu độc chết y như cách người ta đã giết chết cha của Hamlet. Món quà bí ẩn của Rosalind, chứa đựng chiếc ghim đồ tang thời nữ hoàng Victoria được trang trí những bông hoa liên quan đến Ophelia, đã đẩy Katharine vào một cuộc điều tra nguy hiểm, đưa cô đến Utah; Arizona; Washington, D.C.; và quay trở lại London. Mỗi bước điều tra, khi các thi thể chồng chất, Katharine đều thoát chết khi sắp trở thành nạn nhân tiếp theo của vụ giết người.  Từ những tài liệu của Shakespeare cho đến những hầm mỏ hoang tàn, từ hiện tại đến quá khứ, tiểu thuyết tâm lý hành động của tác giả Jennifer Lee Carrell chứa đựng nhiều bất ngờ, hồi hộp và thú vị. Sức hút của tác phẩm được thể hiện rất rõ qua viện Bản quyền tác phẩm đã bán cho 20 quốc gia trên toàn thế giới. *** Một ngày tháng Sáu năm 2004, tại nhà hát Globe được xây dụng lại ở London, Rosalind Howard, giáo sư lập dị chuyên nghiên cứu về Shakespeare, đã đưa cho Katharine Staley - đạo diễn người Mỹ một hộp nhỏ màu vàng. Tối hôm đó, vụ hỏa hoạn đáng ngờ đã phá hủy nhà hát Globe, và Rosalind được phát hiện bị đầu độc chết y như cách người ta giết chết cha của Hamlet. Món quà bí ẩn của Rosalind chứa đựng chiếc ghim đồ tang thời Nữ hoàng Victoria đã đẩy Katharine vào một cuộc điều tra nguy hiểm, đưa cô đến Utah Anzona… Mỗi bước điều tra, khi các thi thể chồng chất, Katharine đều thoát chết một cách bất ngờ khi sắp trở thành nạn nhân tiếp theo… “Những điều xấu xa người ta làm vẫn sống sau họ, trong khi những điều tốt đẹp thường bị chôn sâu cùng nắm xương tàn của họ.” Bí mật Shakespeare đã tạo ra một hiện tượng mới trong làng xuất bản Mỹ, với mức độ thành công tương đương với Mật mã Da Vince của Dan Brown. *** LỜI TÁC GIẢ: Một buổi tối mùa thu khi tôi mới bắt đầu vào đại học, trong lúc đang lục lọi tìm kiếm giữa những cuốn sách cũ trong căn phòng phía sau thư viện Child, góc riêng tư của khoa Anh văn nằm ở một góc tầng trên cùng thư viện Widener của trường Harvard, tôi bắt gặp bộ sách bốn tập: Sân khấu thời Elzabeth của E. K. Chambers, xuất bản năm 1923. Tôi lần lượt giở qua từng tập. Những tập sách này đầy ắp thông tin, phần lớn chúng tôi không biết có thể sử dụng làm gì, chẳng hạn như ghi chú rằng “rất nhiều diễn viên thời Elizabeth cũng là nghệ sĩ nhào lộn, và hiển nhiên có thể đi trên dây”. Tuy vậy, ở cuối tập ba, tôi tìm thấy vài trang nói về những vở kịch của Shakespeare, gồm cả một mục ngắn có tên “Những vở kịch đã thất lạc.” Tôi biết phần lớn những vở kich được viết bằng tiếng Anh thời Phục hưng đã không tồn tại được đến ngày nay, và vì thế tôi nghĩ - một cách mơ hồ - rằng một số tác phẩm Shakespeare sáng tác chắc chắn cũng đã thất lạc. Điều làm tôi ngạc nhiên là Chambers biết được một vài điều về những tác phẩm đã mất. Đập vào mắt tôi, bằng giấy trắng mực đen, là hai cái tên, và trong trường hợp của vở kịch Cardenio còn có cả nội dung sơ lược. Tôi bắt đầu tự hỏi sẽ ra sao nếu tìm được một trong những vở kịch này. Ở nơi nào người ta có thể khám phá ra một thứ như vậy? Và khoảnh khắc của sự khám phá sẽ như thế nào? Và liệu một khám phá như thế sẽ ảnh hưởng thế nào đến cuộc đời của một người - ngoài việc hiển nhiên người đó sẽ lập tức trở nên giàu có và nổi tiếng? Nhưng địa điểm thích hợp nhất để tìm kiếm những vở kịch thất lạc của Shakespeare là các thư viện ở châu Âu và những ngôi nhà cổ. Nhưng tất nhiên, nếu một vở kịch nằm ở nơi dễ đoán như vậy, thì nó đã được tìm ra từ lâu. Theo cách chủ quan của những kẻ nằm mơ ban ngày, tôi bắt đầu suy nghĩ xem ở nơi nào ngoài nước Anh, và cụ thể hơn, ở một số địa điểm tôi có thể thực sự tìm thấy nó, chẳng hạn New England (hay ít nhất nơi nào đó ở hành lang Đông Bắc giữa Boston và Washington D. C. ) hay vùng sa mạc phía tây nam. Thỉnh thoảng, tôi đi xa đến mức tìm kiềm những chiếc hộp đựng những cuốn sách sờn cũ trong cửa hiệu bán đồ cổ nằm trong những ngôi nhà thô kệch sau nhưng con đường mà tôi tình cờ đi qua trong lúc lang thang ở New England. Nhưng chẳng có ai lại để, cho dù một khổ thơ của Shakespeare chứ đừng nói tới cả tập bản thảo, nằm yên tại đó. Ở đâu đó trên bước đường tìm kiếm, tôi tự thừa nhận với mình rằng sẽ chẳng bao giờ tôi thực sự tìm thấy một trong các vở kịch thất lạc của Shakespeare - và rằng có thể sẽ thú vị hơn khi biến nó thành một câu chuyện, vì như thế tôi có thể kiểm soát những gì xảy ra, và xảy ra với ai. Và sau đó tôi nghĩ - tại sao không bám lấy bí mật khác thậm chí còn lớn hơn về Shakespeare? Ông là ai? Tôi đã mất hơn một thập kỉ chỉ để bắt đầu, nhưng Bí mật Shakespeare hay Chôn sâu cùng nắm xương tàn của họ là kết quả. Đoạn văn trong tập sách của Chambers khởi đầu cho toàn bộ câu chuyện này, với vài chỉnh sửa nhỏ, chính là đoạn văn mà Kate đã đọc trong truyện. Những địa điểm liên quan tới Shakespeare xuất hiện trong cuốn tiểu thuyết đều là những địa danh có thật, mặc dù tôi đã tự cho phép mình hư cấu đôi chút ở một vài chỗ cho phù hợp với mạch chuyện. Những giả thiết về danh tính thực của Shakespeare cũng đều có thật - ít nhất với tư cách là những giả thiết. Cuối cùng, rất nhiều nhân vật lịch sử được hư cấu từ các sự kiện có thật. Tất cả các nhân vật hiện đại đều là hư cấu. Một mục ghi chú trong cuốn Đăng kí Stationers (một dạng bản quyền sơ khai ở nước Anh) xác nhận Shakespeare là đồng tác giả của vở kịch Cardenio cùng với John Fletcher, người kế tục ông trong vai trò nhà soạn kịch chính cho đoàn kịch của nhà vua (và cũng là đồng tác giả với ông trong nhiều vở kịch khác). Tôi chọn “tìm ra”  Cardenio vì trong hai vở kịch đã thất lạc mà chúng ta biết nhan đề, đây là vở kịch chúng ta biết được nhiều chi tiết về nội dung hơn, và cũng bởi vì nguồn gốc của vở kịch này, từ cuốn tiểu thuyết Don Quixote của Miguel de Cervantes, cho nó một mối liên hệ mơ hồ với vùng thuộc địa Tây Ban Nha ở châu Mỹ, và do đó liên quan tới vùng tây nam nước Mỹ - một vùng đất tôi yêu mến, và là nơi tôi muốn các nhân vật của mình chơi trò đi tìm kho báu với vở kịch của Shakespeare. Vở kịch thất lạc còn lại - những nổ lực vì tình yêu được đền đáp - đã biến mất hoàn toàn, nhưng Cardenio đã xuất hiện trở lại dưới dạng bản thảo vào thế kỉ mười tám, khi Lewis Theobald “hiện đại hóa” nó trên sân khấu London. Bản thảo gốc, mà phần lớn học giả chấp nhận coi là xác thực, đã thất lạc, nhưng một bản rút gọn với cái tên Hai sự dối trá [sic] đã tồn tại tới ngày nay. Nhìn chung, bản phóng tác này thực sự kinh khủng đúng như Kate nói: đầy những lỗ hổng, chằng chịt những chỗ vá víu vụng về như khuôn mặt của Frankeinstein. Tuy vậy, rải rác trong bản thảo này có những câu có vẻ như đúng là do Shakespeare hay Fletcher - ở mức độ từng câu riêng lẻ, khó mà phân biệt giữa sự phụ hay đồ đệ, cũng giống như việc phân biệt giữa tranh của Rembrandt với tranh có xuất xứ từ “xưởng họa của Rembrandt” ở mức độ nhát cọ. Hai sự dối trá là nguồn gốc của những từ mà Kate cũng như những người khác đã nhận định là của Shakespeare trong cuốn tiểu thuyết này. Ngoại lệ duy nhất là câu chỉ đạo diễn xuất và dòng thoại về Sancho và Don Quixote: tôi phải mang gánh nặng trách nhiệm về những câu này vì trong bản rút gọn tôi đang nói đến không còn chút dấu vết nào của nhà quý tộc già điên rồ cùng anh hầu thực dụng của ông. Tuy vậy, giống như Kate, tôi muốn nghĩ rằng Shakespeare hẳn sẽ nhìn ra hai người này là không thể thiếu cho sự trào phúng và dẫn dắt mạch chuyện, và do đó chắc đã đưa họ vào dưới một dạng dẫn chuyện nào đó. Tôi đã đọc một giả thiết học thuật, do Richard Wilson đưa ra trong cuốn Shakespeare bí mật (Đại học Manchester xuất bản năm 2004) , cho rằng Cardenio có thể có mối liên hệ nào đso với gia đình Howard và cái chết của hoàng tử Henry. Gia đình Howard ủng hộ Tây Ban Nha và là những tín đồ Thiên chúa giáo bí mật, và nổi tiếng đố kỵ, nhất là bá tước Northampton và cháu ông ta, bá tước Suffolk (Để cho đơn giản, tôi sử dụng tước vị này để nói về hai người đó trong cuốn tiểu thuyết, mặc dù cả hai chỉ được phong bá tước sau khi vua James lên ngôi). Đúng là có những lời đồn đại về mối quan hệ tình ái giữa Frances Howard và hoàng tử, và theo những lời đồn “sự kiện chiếc găng tay” đã thực sự xảy ra (mặc dù tên của quý bà vẫn được giữ kín) ; câu chuyện khủng khiếp về việc Frances đầu độc một trong những tình nhân của chồng bằng những chiếc bánh tẩm thuốc độc đã được ghi lại rất chi tiết trong các tài liệu tư pháp, và bà ta đã thực sự bị phán quyết là có tội trước tòa. Tuy nhiên, chi tiết về những rắc rối của gia đình Howard và Shakespeare và nhà hát Quả cầu hoàn toàn do tôi tưởng tượng ra. Trong khi cách đơn giản nhất nói rằng William Shakespeare người Stratford đã viết những vở kịch mang tên ông, vẫn có rất nhiều ý kiến phản biện, từ thú vị gây tò mò tới thô thiển kỳ quặc, cho rằng có thể không phải như vậy. Tuy nhiên, vấn đề chính mà mọi giả thiết về “một người khác” đều không tránh khỏi, đó là tất cả đều đòi hỏi một sự đồng thuận im lặng: Nếu có một ai khác đã viết những vở kịch, thì chưa từng ai tiết lộ bí mật này. Trong một môi trường đầy rẫy những chuyện ngồi lê đôi mách, nói xấu sau lưng, những lời châm chọc đến mức chuyên nghiệp như tại triều đình của Elizabeth và James, đây là một thiếu sót không nhỏ. Nhiều hiệp hội của những người “chống lại giả thiết người Stratford (anti-Stratfordian)” hiện vẫn tồn tại - từ những tổ chức học thuật cho tới những nhóm theo lý thuyết âm mưu mang tính sùng bái. Rất nhiều người hâm mộ giải mã nhưng thông điệp được mã hóa mà theo họ tiết lộ danh tính của rất nhiều rác giá khác như là tác giả thực thụ, người đã ẩn danh một cách có chủ ý, của những tác phẩm được xuất bản dưới cái tên của “William Shakespeare”. Hai cái tên thay thế mà số người ủng hộ nhiều nhất - và cũng đáng tôn trọng nhất - là bá tước Oxford và Francis Bacon. Các ứng viên sáng giá khác gồm Christopher Marlowe; Edmund Spence; Philip Sidney và em gái ông Mary Herber, nữ bá tước Pembroke; Nữ hoàng Elizabeth; Walter Raleigh; bá trước Southampton, Derby, và Rutland, và một hội đồng bí mật gồm tất cả những người kể trên, được cho là do Bacon, hay Oxford, hoặc cả hai, chủ tọa. Còn điên rồ đến mức khó lý giải hơn là những người ủng hộ cho Henry Howard, bá tước Sussex (bị chặt đầu bốn mươi tư năm trước buổi công diễn đầu tiên một vở kịch của Shakespeare) và Daniel Defoe (ra đời bảy mươi năm sau buổi công diễn đầu tiên vừa nhắc tới ở trên). Một bổ sung mới nhất cho danh sách thu hút được sự chú ý nghiêm túc là vị triều thần khiêm tốn Henry Neville. Edward de Vere, bá tước Oxford đời thứ bảy, hiện là nhân vật được những người anti-Stratfordian ưa thích nhất. Những đoạn đảo chữ và ám chỉ về Oxford tromg cuốn sách này trên thực tế đều đã được đưa ra làm bằng chứng để chứng minh rằng bá tước là người viết các vở kịch. Như Athenaide đã chỉ ra, họ của ông ta - Vere - có liên quan tới từ Latinh verum, hay “sự thật” , theo một truyền thống lâu đời, và câu phương châm của gia đình ông ta - Vero nihil verius, tức “Không có gì đúng hơn sự thật” cũng tham dự vào mối liên hệ này. Đó là cách làm của những người ủng hộ ông ta ngoài đời thực: tìm kiếm những quan hệ “nghi ngờ” hay “có ý ngĩa” tới sự thật về Shakespeare. Từ “ever” là một bằng chứng thuyết phục khác. Người đầu tiên ủng hộ Oxford (hay Oxfordian) một cách nghiêm túc là J. Thomas Looney (đọc là “Loney” ), cuốn sánh Nhận diện “Shakespeare” của ông được xuất bản năn 1920 đã thuyết phục được nhiều người, trong đó có Sigmund Freud. Tuy vậy, Francis Bacon mới là tác giả thay thế được nhắc tới sớm hơn cả; những lập luận nghiêm túc nghiêng về ông đã được Delia Bacon và một vài người khác đưa ra từ những năm 1850. Những người ủng hộ Bacon (hay các Baconian) đã nghiên cứu kỹ lưỡng những tác phẩm của Shakespeare và các tác pharm thời Phục hưng khác với một sư hăng say mãnh liệt, khám phá ra vô số đoạn đảo chữ, ẩn ngữ theo chữ cái đầu, mật mã số và từ đồng nghĩa (thường là về “hog” (lơn thịt) và “bacon” (thịt muối) mà theo họ đã chỉ ra người hùng của họ chính lá tác giả các vở kịch; và thêm vào đó Bacon còn thường được cho là con trai của Nữ hoàng Elizabeth). Một số người thậm chí còn đi xa tới mức xem xét những buổi lên đồng hay đi đào trộm mộ. Tuy vậy, không phải tất cả những người ủng hộ Vacon đều dễ dàng bị khuất phục; trong số họ có cả các học giả, tác giả, luật gia, và thẩm phán ở cả nước Anh lẫn nước Mỹ. Tính đến nay bài viết mà các Baconian thích đọc nhất là bài tiểu luận của Mark Twain - “Có phải Shakespeare đã chết?”. Cho dù anh ta còn là gì khác nữa, chắc chắn Bacon là một người vừa xuất chúng vừa khôn ngoan. Đã từng có thời gian là chánh án của Hoàng gia, ông đã phát minh ra một hệ thống mật mã phức tạp đáng khâm phục mà Jem Branville đã sử dụng trong cuốn tiểu thuyết này. Bacon đã công bố mật mã năm 1623, cùng năm Tuyển tập Đầu tiên xuất hiện. Người đề xướng ra cái tên của bá tước Derby đời thứ sáu là Abel Lefranc, nhà nghiên cứu lịch sử văn học Pháp và giáo sư trường đại học Pháp, vào những thập kỷ đầu của thế kỉ hai mươi. Bất chấp tên của Derby (William) , những chữ cái đầu tiên tên goi (W. S. ), và cuộc đời nằm trong khoảng thời gian phù hợp, với những người nói tiếng Anh, tư cách ứng cử viên của ông này có ít được biết đến hơn của Bacon hay Oxford. ách ứng cử viên của ông này có ít được biết đến hơn của Bacon hay Oxford. Tác phẩm không hư cấu (và cũng không thiên vị) đáng chú ý nhất nói về những tranh cãi về tư cách tác giả này là cuốn Ai đã viết những tác phẩm của Shakespeare? Của John Mitchell (Thames và Hudson, 1996). Về một cái nhìn ủng hộ Shakespeare người Stratford, xin mời xem Cuộc điều tra vì Shakespeare của Scott McCrea (Praeger, 2005). Nhà hát Quả cầu nguyên bản bị cháy rụi vào ngày 29 tháng Sáu năm 1613 (một ngày thứ Ba, theo lịch Julian cũ) trong một buổi biểu diễn vở Henry VIII, sau đó được biết đến với cái tên Tất cả đều đúng. Theo những gì đã biết cho tới nay, đó là một tai nạn, do những tia lửa từ những phát đại bác bắn ra làm hiệu ứng đặc biệt rơi vào mái rạ. Những nhân chứng tận mắt chứng kiến đã thuật lại có một người đàn ông bị bỏng nhẹ trong khi cứu một đứa bé bị kẹt trong đám cháy; lửa bám vào người anh ta được dập tắt bằng bia. Nhà hát Quả cầu mới đúng là tòa nhà đầu tiên lợp mái rạ được chấp nhận ở khu vực phụ cận London từ sau vụ cháy lớn năm 1666. Những công trình kỉ niệm và nà hát về Shakespeare ở Stratford-upon-Avon đều nổi tiếng trên toàn thế giới. Thư viện Folger về Shakespeare ở trên đồi Capitol tại Washington D. C. sở hữu bộ sưu tập phong phú nhất về Shakespeare. Witon, tư gia của bá tước Pembroke, là một trong số ít địa điểm mà Shakespeare chắc chắn đã từng tới thăm còn tồn tại đến ngày nay - việc ông từng có mặt ở đây còn chắc chắn hơn tại bất cứ tòa nhà nào ở Stratford, ngoại trừ nhà thờ nơi ông được an táng. Bản copy tại tại Wilton, đài tưởng niệm Shakespeare ở Westminster cùng những thay đổi và những chữ cái viết hoa lạ lùng đều chính xác, mặc dù tôi đã tưởng tượng ra những màu sơn nhấn mạnh sự đảo chữ. Cũng như vậy, có một loạt tranh về chủ đề Arcadia trong gian phòng theo phong cách Palladian vẫn được gọi là phòng Lập phương, mặc dù tôi đã hư cấu đôi chút cho phù hợp với câu chuyện của mình. Ngăn hốc bí mật đằng sau một trong những bức họa đó là do tôi tưởng tượng ra. “Bức thư bị thất lạc” của nữ bá tước gửi cho con trai, nói rằng “chúng ta đang có Shakespeare ở đây” , đã được đề cặp tới trong tài liệu vào thế kỉ mười chín, nhưng từ đó tới nay chưa có học giả nào được nhìn thấy tận mắt. Bức thư của Will gửi cho con Thiên nga Ngọt ngào nhất là do tôi hư cấu. Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid được vua Tây Ban Nha Philip II thành lập nhằm mục đich đào tạo các thanh niên người Anh thành tu sĩ  Thiên chúa giáo và (theo cách nhìn của Nữ hoàng Elizabeth) gây ra những cuộc nổi loạn tôn giáo tại đất nước họ. Học viện này hiện vẫn tồn tại đào tạo thanh niên người Anh thành tu sĩ. Trong thư viện tuyệt vời của học viện này đã từng có một cuốn Tuyển tập Đầu tiên, nhưng tôi được nghe kể lại cuốn sách đã bị bán đi vào đầu thế kỉ hai mươi. Vào năm 1601, tám năm sau khi Christopher Marlowe bị sát hại, một “Christopher Morley” - tên gọi Marlowe từng sử dụng khi còn sống - được ghi lại trong tư liệu lưu trữ là đang theo học tại học viện. Tới năm 1604, Cervantes cũng có mặt tại thành phố này và hoàn tất Don Quixote tại đây. Những khu mỏ, thị trấn, và các nhà hát liên quan đến Shakespeare tồn tại nhiều vô số kể ở khắp miền tây Hoa Kỳ: những khu mỏ được đặt tên theo các nhân vật và vở kịch của Shakespeare rải rác khắp dãy núi Colorado. Nghiên cứu của Roz về chủ đề này chính là của tôi, được tiến hành cho một bài viết tôi thực hiện cho tạp chí Smithsonian với tên gọi “Một thi sĩ đã chinh phục miền Tây như thế nào” [Tháng Tám, 1998]. Thành phố Cedar, nằm ở vùng núi đá đỏ au của bang Utah, là nơi diễn ra Festival về Shakespear ở Utah, thành phố này rất tự hào về một bản sao mới xây lại của nhà hát Quả cầu thời Elizabeth - mặc dù tôi đã thêm vào Văn khố Preston dưới dạng bản sao ngôi nhà Shakespeare ra đời tại Stratford-upon-Avon. Vụ cá cược về vai diễn Hamlet của Jem Granville được lấy cảm hứng từ một vụ cá cược có thật đã diễn ra vào năm 1861 ở Denver. Tôi đã xây dựng nội dung những bài báo trong tiểu thuyết từ những phóng sự trên tờ Tin tức Rocky Moutain thuật lại một cách chi tiết cuộc cá cược có thật trong lịch sử này. Thị trấn ma mang tên Shakespeare nằm ở miền tây New Mexico, gần Lordsburg, trên biên giới bang Arizona; tôi đã nghe được câu chuyện về Bean Belly Smith vài lần từ những người chủ nhà. Tuy nhiên, tòa dinh thự của Athenaide nằm ở cuối con đường duy nhất của thị trấn là do tôi hư cấu thêm, mặc dù tòa lâu đài “nguyên bản” của Hamlet mà dinh thự đó mô phỏng theo là một địa điểm có thật - lâu đài Kronborg ở ngoại ô Elsinore (hay Helsingor) ở Đan Mạch, cũng như đại sảnh khiêu vũ tại lâu đài Hedingham, nơi đã từng là tư dinh của bá tước Oxford. Sự ám ảnh của những người theo trường phái Oxfordian với vở kịch Hamlet là có thật; những người này đã diễn giải giải vở kịch như một cuốn tự truyện được mã hóa của ứng cử viên họ ủng hộ. Như nhận xét của Kate và Athenaide, quả thực vở kịch có không ít điểm tương đồng đến kỳ lạ với cuộc đời của Oxford. Học giả người Mỹ Delia Bacon đã bị điên năm 1857 trong khi đang viết tác phẩm nổi tiếng Làm sáng tỏ [sic] triết lý trong những vở kịch của Shakespeare. Câu chuyện bà thức trắng đêm trước ngôi mộ của Shakespeare tại nhà thờ Thánh Ba ngôi ở Stratford được tái hiện theo đúng lời kể của chính bà về sự kiện này, trong một lá thư gửi cho người bạn Nathanien Hawthorne. Mục sư của nhà thờ Thánh Ba ngôi, Granville J. Granville, đã cho phép bà làm việc đó; mục sư Granville có vài người con, nhưng Jeremy (Jem) là do tôi hư cấu thêm vào gia đình ông. Cũng như vậy, bác sĩ George Fayrer đúng là người đã đưa Delia vào trại điên tư của ông ở Henley-in-Arden vào ngày 30 tháng Mười một năm 1857, nhưng cô con gái Ophelia của ông hoàn toàn là sản phẩm từ trí tưởng tượng của tôi. Francis J. Child là giáo sư Anh văn tại Đại học Harvard từ năm 1876 cho tới tận khi ông qua đời năm 1896; bộ sưu tập các bản ballad bình dân của Anh và Scotland do ông thực hiện cho đến nay vẫn là một trong những công trình học thuật lớn về văn học Anh. Ông cũng là một học giả xuất sắc về Shakespeare. Giống như trong tiểu thuyết, hoa hồng là một niềm đam mê lớn nữa của đời ông (và quả thực có một cây hồng Lady Banks lâu năm rất nổi tiếng mọc trong vường sau một nhà trọ - ngày này là bảo tàng - ở Tombstone, bang Arizona, mặc dù tôi đã lùi thời gian nó được trồng sớm lên vài năm). Tôi hy vọng hương hồn ông sẽ tha thứ cho tôi vì đã gán cho ông một đứa con sinh ra từ tình yêu. Những bài sonnet của Shakespeare có vẻ được viết một cách rõ ràng dành cho chàng thanh niên tóc vàng rụt rè hoặc quý bà tóc đen bí hiểm, thi sĩ có vẻ như bị ràng buộc với hai người này trong mối tình tay ba. Rất nhiều nhà nghiên cứu đã bỏ công sức nhằm xác định xem quý bà và chàng thanh niên là ai; chưa ai trong số hai nhân vật bí ẩn này được xác định danh tính một cách thuyết phục. Trong mười bảy bài sonnet đầu tiên, Shakespeare cầu khẩn chàng thanh niên hãy có một đứa con. Thật đáng tò mò, lòi nói đầu của Theobald cho vở kịch Hai sự dối trá có ảm chỉ đến một người con gái ngoài giá thú của Shakespeare chưa từng được nhắc tới ở bất cứ nơi nào khác. Thi sĩ - người kể chuyện của những bài sonnet bị giày vò bởi ngọn lửa ghen tuông vì mối quan hệ giữa chàng thanh niên và quý bà tóc đen, việc gán đứa bé gái này cho quý bà và làm cho danh tính người cha đưa bé mơ hồ cũng là tự nhiên - nhưng mối liên hệ này là do tôi hư cấu nên và không hề được tìm thấy trên thực tế. Nicholas Hilliard quả thật là họa sĩ nổi bật nhất nước Anh vào thời Shakespeare còn sống; theo một nghĩa nào đó, có thể coi ông như là Shakespeare của mỹ thuật. Hilliard chuyên vẽ những bức chân dung cỡ nhỏ với những chi thiết tinh xảo, chính xác như một bức ảnh chụp. Bảo tàng Victoria và Albert ở London sở hữu một bức chân dung như vậy, vẽ một người đàn ông với hậu cảnh là những ngọn lửa. Thomas Shelton là quản gia mang hai dòng máu Anh và Ireland của gia đình Howard, đúng là người đã dịch Don Quixote sang tiếng Anh; bản dịch của ông ta được xuất bản năm 1612. Trong khi người em của ông ta chỉ là nhân vật hư cấu, trên thực tế đã có một số lượng không nhỏ người Anh theo Công giáo mộ đạo bí mất trốn tới lục địa để học tại các trường dòng giống như Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid. Những tu sĩ Jesuit người Anh thường được gửi trở lại Anh để coi sóc phần hồn cho những tín đồ Thiên chúa giáo ở nước này một cách bí mật. Những tu viện xuất hiện sớm nhất ở Santa Fe và vùng lân cận, ở khu vực hiện nay là bang New Mexico, đều thuộc dòng tu Franciscan. Người bản địa châu Mỹ ở khắp vùng tây nam - lúc đó là Tân Tây Ban Nha với người Âu - liên tiếp nổi dậy trong thế kỉ mười bảy, tàn sát những người Tây Ban Nha xâm lược, đặc biệt là các tu sĩ. Dãy núi Dragoon ở vùng đông nam Arizona là căn cứ địa của người Apache cho tới khi Geronimo bị bắt năm 1886. (Người thủ lĩnh Apache vĩ đại Cochise yên nghỉ ở một địa điểm bí mật nào đó trong những dãy núi này). Mặc dù tôi đã hư cấu ra hẻm núi và khu hang động trong đó Kate tìm thấy kho báu bị chôn vùi cùng những bộ hài cốt, quả thực vùng này chứa đựng vô số hang động. Hang động Kartchner nằm gần đó (và mới được phát hiện gần đây) là một ví dụ tuyệt vời về những “cung điện tự nhiên” mà những lòng núi rỗng chắc hẳn vẫn còn ẩn giấu. “Chữ ký” trong cuốn Kinh thánh của vua James vẫn luôn nằm đó cho bất kỳ ai muốn xem (hay muốn đếm). Tại sao nó lại có mặt ở đó là câu hỏi vẫn chưa được giải đáp, và tôi cũng không rõ ai đã “phát hiện” ra nó. Không ai biết rõ bài Thánh thi số bốn mươi sáu, hay toàn bộ Sách các Thánh thi, được hoàn thành vào thời điểm nào (mặc dù thời điểm đó chắc chắn nằm giữa năm 1604 và 1610) , hay ai đã phụ trách bài Thánh thi nào. Cả Lancelor Andrewes, thu viện trưởng Westminster và sau đó là giám mục Chichester, và Laurence Chaderton, hiệu trưởng trường Đại học Emmannuel ở Cambridge, đều là những nhà thần học đã tham gia biên soạn cuốn Kinh thánh, và Chaderton, một người theo Thanh giáo, là thành viên của “Ủy ban Cambridge thứ nhất” được phân công phụ trách các bài Thánh thi. Tuy nhiên, bức thư của giám mục có nói đến Chaderton là do tôi tưởng tượng ra. Mặt khác, ngày tháng năm sinh của Bacon, Derby, và nữ bá tước Pembroke đều dựa trên các tư liệu lịch sử chính thức. Biến một giấc mơ giữa ban ngày thành một cuốn tiểu thuyết hóa ra lại cần đến vô số sự giúp đỡ và lời động viên. Trước hết và trên hết, tôi muốn cám ơn Brian Tart và Mitch Hoffman, sự kiên nhẫn cùng đôi mắt sáng suốt của họ đã giúp tôi định hình cuốn sách này. Bằng cách nào đó, họ đã giúp tôi luôn giữ được tiếng cười. Neil Gordon và Erika Imranyi đã giúp quá trình sáng tác của tôi được trôi chảy. Noah Lukeman tin chắc đây là cuốn sách tôi nên viết và đã làm những điều kỳ diệu để biến nó thành sự thật. Vì những ý kiến chuyên môn và tư liệu về nhiều lĩnh vực mà họ đã cung cấp, tôi cũng muốn gửi lời cám ơn tới Ilana Addis, Michelle Alexander, Kathy Allen, Bill Carrell, Jamie de Courcey, Lionel Faitelson, Dave và Ellen Grounds, cha Peter Harris, Jessica Harrison, Charlotte Lowe-Bailey, Peggy Marner, Karen Melvin, Kristie Miller. Liz Ogilvy, Nick Saunders, Brian Schuyler, Dan Shapiro, Ronald Spark, Ian Tennent, và Heidi Vanderbilt. Diễn đàn Straw Bale và Câu lạc bộ văn học Tucson đã được nghe một số trang bản thảo ban đầu, và để được tham dự vào hai nhóm này, tôi phải biết ơn Bazy Tankersley. Tôi muốn gửi lời cảm ơn đặc biệt tới tiến sĩ Javier Burrieza Sanchez, thủ thư và quản lý văn khố tại Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid; tới Nigel Bailey, người quản lý, và Carol Kitching, hướng dẫn viên chính tại dinh thự Wilton và Wiltshire; và tới Sarah Weatherall tại nhà hát Quả cầu của Shakespeare, London. Tập thể nhân viên thư viện Folger ở Washington D. C. , cũng như nhà thờ Thánh Ba ngôi và trung tâm Thư viện Shakespeare, đều ở Stratford, cũng đã giúp ích cho tôi rất nhiều. Hơn bất cứ ai khác, Marge Garber đã góp phần định hình suy nghĩ của tôi về Shakespeare trên những trang giấy. Những thành viên của đoàn sân khấu Hyperion tại trường Harvard, trong những năm 1996 - 1998, và Shakespeare & Company, tại Lenox, Massachusetts, đã dạy cho tôi biết tất cả những gì về Shakespeare trên sân khấu. David Ira Goldstein và đoàn kịch Arizona đã đón tiếp tôi đến với thế giới của sân khấu chuyên nghiệp như một người khách thường xuyên. Ba người đã lắng nghe, đọc và nhận xét không ngừng trong suốt quá trình cuốn sách này hình thành: Kristen Poole, học giả, người kể chuyện, và người bạn: mẹ tôi, Melinda Carrell, người đầu tiên truyền cho tôi tình yêu với những cuốn sách; và chồng tôi, Johnny Helenbolt. Không gì có thể nói hết lòng biết ơn của tôi dành cho Johnny. *** Jennifer Lee Carrell sống tại Tucson, Arizona, Mỹ. Bà có bằng tiến sĩ về văn học Anh và Mỹ, chuyên đạo diễn các vở kịch của Shakespeare cho đoàn sân khấu Hyperion. Jennifer Lee Carrell là một tác giả người Mỹ của ba cuốn tiểu thuyết và nhiều bài viết cho Tạp chí Smithsonian và Ngôi sao hàng ngày Arizona   Mời các bạn đón đọc Bí mật Shakespeare của tác giả Jennifer Lee Carrell.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tuyết Bỏng - Yuri Vassilievitch Bondarep
Yuri Vassilievitch Bondarep – Nhà văn, nhà hoạt động xã hội Xôviết sinh ngày 15-03-1924 tại Orenburg (Nga) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ ông sống ở Moskva. Chiến tranh nổ ra làm gián đoạn việc học hành, ông tham gia chiến tranh với cấp bậc thiếu uý, làm chỉ huy pháo binh, đã từng diệt nhiều xe tăng địch Năm 1951, ông tốt nghiệp Trường viết văn M. Gorky (Moskva) và bắt đầu cuộc đời hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp. Ông có nhiều tác phẩm nổi tiếng về chiến tranh. Những chuyện ông viết về cuộc chiến tranh vệ quộc vĩ đại đều dưới nhãn quan của của một người lính trực tiếp tham gia chiến trận. Một số tác phẩm tiêu biểu: - Các tiểu đoàn xin tiếp viện (1957) - Im lặng (1962) - Tuyết bỏng (1969) - Lựa chọn (1980) - ... *** Từ đài quan sát thấy rõ cuộc chiến đấu bằng xe tăng đang diễn ra ở gần đó nên từ trên cao nhìn xuống, trận đánh trong bóng tối dường như hết sức quái dị, náo loạn, dai dẳng vô cùng và sở dĩ như vậy vì chẳng thấy rõ người ở đâu cả. Những phát đạn đại bác bắn thẳng lóe sáng khắp rìa làng, đạn “Ca-chiu-sa” dày đặc ầm ầm nổ tung như những cơn lốc giữa các ngôi nhà; những chiếc xe tăng xông thẳng vào nhau, quyện chặt, bốc cháy trên các ngã tư; dọc bờ sông giữa đám cháy bắt đầu bùng lên, những khối thép ánh hồng, bóng nhẫy như đổ mồ hôi bò lổm ngổm, ngổn ngang, chúng nổ súng bắn thẳng ở cự ly quá ngắn, hầu như nòng súng đâm vào nhau, xích sắt của chúng chà nát nhà cửa, chúng xoáy mình ở trong các sân, bò đi rồi lại xông vào tiến công, luôn luôn ép chặt và vây hãm khu vực bàn đạp ở đầu cầu. Bọn Đức chống cự, bám chặt lấy bờ sông phía Bắc nhưng trận đánh đã lan ra tới bờ sông, đã bắt đầu có chuyển biến, trong giây phút khắc nghiệt đó, tiếng gào rú ầm ĩ của động cơ tan vụn thành những dư âm tràn ngập dòng sông, có chỗ bọn Đức đã bắt đầu rút lui về phía đầu cầu. Bét-xô-nốp bất chợt nhìn về bờ sông phía Nam chứ không phải phía Bắc, vẫn còn sợ nhầm, không vội vã rút ra kết luận. ... Mời các bạn đón đọc Tuyết Bỏng của tác giả Yuri Vassilievitch Bondarep.
Hung Họa (Bức Tranh Sát Nhân) - Chu Hạo Huy
Giữa đêm tuyết phủ trắng núi, Cảnh sát La Phi trong truyền thuyết nhận được một vụ án vô cùng hiểm hóc. Ba họa sĩ của học viện Mỹ Thuật lên núi vẽ tranh sinh vật. Nghỉ đêm tại Khô Mộc Thiện Tự, vì lòng hiếu kỳ đã mở một bức "Hung Họa" đã được niêm phong từ rất lâu, từ đó kịch biến đột phát.  Những người xem tranh hoặc rơi xuống vực, hoặc mắc bệnh hiểm, lời đồn đại về bức họa khủng khiếp "Quỷ không đầu" trong truyền thuyết bắt đầu lan truyền một cách chóng mặt.  Mỗi một manh mối đều không thể dùng lẽ thường để suy đoán, mỗi một cái chết đều mang lại nỗi hoang mang, khủng bố, rốt cuộc La Phi thân mang bệnh lạ sẽ dùng cách nào để vén lên màn sương mù dày đặc này. *** Bộ truyện La Phi hệ liệt gồm: Phần 1: Hung họa Phần 2: Quỷ vọng pha Phần 3: Nhã khố mã nguyền rủa Phần 4: Bản Thông Báo Tử Vong I: Khiêu Chiến Với Trí Tuệ Của Bạn Phần 5: Bản Thông Báo Tử Vong II: Số mệnh Phần 6: Bản Thông Báo Tử Vong III: Khúc ly biệt ... Mời các bạn đón đọc Hung Họa (Bức Tranh Sát Nhân) của tác giả Chu Hạo Huy.
Tên Của Trò Chơi Là Bắt Cóc
"Tên của trò chơi là bắt cóc” – Tuyệt phẩm đến từ cây bút trinh thám quyền năng nhất xứ sở Mặt trời mọc - HIGASHINO KEIGO.  “Tôi nghĩ từ khi sinh ra tôi đã được định sẵn làm kẻ xấu rồi.” – Sakuma khẽ rít một hơi thuốc. “Trên đời làm gì có chuyện dễ ăn như thế? “ – Juri cười nhạt – “Một con quái vật vốn không được sinh ra , nó là được tạo thành.” --- Sakuma Shunsuke là một kẻ hiếu thắng, không biết từ đâu cũng chẳng biết do ai ảnh hưởng, từ nhỏ đến lớn, từ chuyện học hành, thi cử đến tình yêu, sự nghiệp, Sakuma luôn coi mọi thứ xung quanh là trò chơi thắng thua. Mặc kệ chuyện có khiến người khác tổn thương hay không, càng chẳng hề quan tâm đến hậu quả hay trách nhiệm gì gì đó, tất cả những gì Sakuma cần là chiến thắng, hết. Có lẽ cũng chính vì thế mà anh ta chưa từng thua cuộc, dù là trước bất kỳ ai. Thế mà, trong một dự án quảng cáo mà Sakuma dồn mọi tâm huyết, anh ta lại bị một kẻ tên Katsuragi Katsutoshi chê bai kém cỏi, sau đó thẳng tay sa thải?! Lần đầu tiên nếm qua mùi vị của kẻ bại trận, cộng với men say sẵn có trong người, Sakuma đã tìm đến nhà Katsuragi trong vô thức, để rồi tình cờ bắt gặp Juri – con gái của Katsuragi - đang cố gắng trốn ra khỏi nhà. Có lẽ chính số phận đã đưa hai kẻ cực kỳ thông minh nhưng lại đang lâm vào bước cùng ấy gặp được nhau. Chuyện gì sẽ xảy ra khi hai bộ não xảo quyệt hạ quyết tâm cùng nhau toan tính cho một kế hoạch điên rồ? Sẽ ra sao khi cảnh sát, con tin, tiền chuộc… tất cả sẽ chỉ là những con tốt thí trong một trò chơi với quy mô không tưởng này? Trò chơi được xoay vần dưới bàn tay của hai kẻ tự mãn, mọi thứ diễn ra đúng như những gì trong kế hoạch. Và khi trò chơi chính thức hạ màn, xin thông báo phần thắng sẽ thuộc về… Khoan đã, hình như cục diện đã bị thay đổi, có điều gì đó không ổn thì phải… Đợi một chút, chuyện quái gì đang xảy ra vậy? Một cuộc đấu trí giữa những “kẻ điên” với trí thông minh tuyệt đỉnh. Một vở kịch xuất sắc với những diễn viên đại tài được ẩn giấu sau lớp mặt nạ. Một màn so tài giữa những kẻ sẵn sàng hy sinh cả mạng sống để trở thành người thắng cuộc. Vẫn là giọng văn cùng khả năng logic đã đi vào huyền thoại của Higashino Keigo, “Tên của trò chơi là Bắt cóc” sẽ đưa bạn vào một câu chuyện với những nút thắt không ngờ và khó đoán đến tận những giây phút cuối cùng! *** Spoil: ( spoil này là phần spoil được công bố trên mạng và bìa sách nhá. Còn chi tiết trong truyện thì ko spoil đâu) Một tác phẩm khá là im hơi lặng tiếng nếu so sánh với các tác phẩm của tác giả Keigo Higashino đã từng được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, câu chuyện về một vụ bắt cóc được tác giả giới thiệu lần đầu tiên vào năm 2002 và đến năm 2017, đã lần đầu tiên được mua bản quyền và dịch ra tiếng Anh. Có thể nói, “ The name of the game is a kidnapping” - tạm dịch là Tên của trò chơi là một vụ bắt cóc - là một tác phẩm không mấy nổi bật so với các anh chị em đình đám và nhận được nhiều giải thưởng, nhưng đây lại là một tác phẩm khá khác lạ và thành công trong việc đánh lừa độc giả một cách ngoạn mục. Câu chuyện bắt đầu với sự thất bại của một nhân viên chuyên nghiệp cấp cao chuyên ngành quảng cáo, anh ấy là một trong những cánh tay đắc lực của công ty, một quân cờ quan trọng và chủ lực trong mọi dự án và là một người khá cầu toàn. Shunsuke Sakuma thất bại không phải bởi vì anh yếu kém, mà là do xui xẻo nên dự án lớn anh rắp tâm theo bao lâu, bổng nhiên bị vỡ kế hoạch và bản thân anh là kẻ bị đá ra khỏi cuộc chơi. Không cam lòng, Shunsuke Sakuma quyết tâm giành lại những gì đã mất và cách nào đó muốn khiến cho Katsutoshi Katsuragi - đối tác lớn và quan trọng của công ty đồng thời là người đã một chân đá bay anh ra khỏi dự án anh vẫn ấp ủ hối hận. Cơ duyên tình cờ, Shunsuke Sakuma gặp gỡ Juri Katsuragi, con gái của Katsutoshi Katsuragi và đã cùng cô dựng lên một vụ bắt cóc tống tiền.  Đối với Shunsuke Sakuma, vụ bắt cóc không phải là một cách để anh với lấy số tiền chuộc khổng lồ, nó căn bản chỉ là trò chơi của một kẻ có tham vọng, có lòng tự trọng quá cao và hơn nữa là một cái đầu nhạy bén của kẻ phạm tội. Như mọi tác phẩm trước, câu chuyện lần này cũng bắt đầu với những tình tiết khá chậm. Tuy văn phong và tình tiết khá chặt chẽ, nhưng không quá mới mẻ và bất ngờ. Khi đọc cũng tự hỏi lòng, vì sao lần này tác giả lại chọn một đề tài tầm thường đến như vậy. Nhưng hoá ra, tất cả ba phần tư diễn biến ban đầu, chỉ là bắt đầu cho điều kinh ngạc phía sau. Nói chung, một tác phẩm không phụ sự kỳ vọng của độc giả, nhưng cũng không vượt được cái bóng quá lớn của những tác phẩm anh em. Điều đặc biệt trong tác phẩm này là có một sự hài hước nhẹ nhàng, một nét lãng mạn ngôn tình nhẹ điểm xuyết và kèm theo là những giây phút hồi hộp và kịch tính hơn những tác phẩm tội phạm đã được xuất bản. Một cú lật khá hay và diễn biến còn bỏ ngỏ sau khi tất cả bí ẩn đều được giải đáp vẫn để lại một chút tiếc nuối, đúng với phong cách của Keigo Higashino. Điểm trừ của tác phẩm: Thoạt tiên đọc thông tin thì thấy lạ, vì ai có theo dõi các sách bản tiếng anh thì sẽ biết rõ chỉ có Minotaur trước giờ mua bản quyền các tác phẩm của Higashino Keigo sensei. Thế nhưng lần này là một nxb hoàn toàn xa lạ - Vertical đột nhiên nhảy ra mua bản quyền một quyển khá là kín tiếng. Gian hàng của Vertical vô cùng phong phú, họ có rất nhiều tác phẩm phiên dịch từ tiếng Nhật ra tiếng Anh, và phần lớn những tác phẩm đó chính là... truyện tranh. Nếu ai đã đọc quen văn phong phiên dịch của dịch giả Alexander Smith ( dịch giả của Minotaur Books) thì dịch giả Jan Mitsuko Cash đã góp phần.... phá hỏng một tác phẩm thú vị. Đánh giá: 7/10 Người viết: Mèo Nơ *** Có vẻ cái tên Higashino Keigo không ít fan ở Việt Nam đâu nhỉ. Trả lời câu hỏi Sự cứu rỗi của thánh nữ có hay hay không? Câu trả lời là có hay. Có vẻ Nhã Nam vẫn là nhà chọn sách tốt trong rất nhiều các tác phẩm của Keigo. Sẽ chỉ nói về Thánh nữ chứ không so sánh nó với tác phẩm nào của Keigo. Cà phê, lại là cà phê. Mình nhớ trong Sự thật về Bebe Donge của Simenon thì người vợ cũng đã đầu độc chồng trong ly cà phê. Sự cứu rỗi của thánh nữ cũng liên quan đến cà phê. Thế nên các quý ông quý bà thích uống cà phê cẩn thận nha, có thể bị độc chết bất cứ lúc nào. Mashiba Yoshiaka, người chồng bị độc chết trên sàn nhà, thạch tín còn sót lại trong cốc cà phê lênh láng bên cạnh. Mọi nghi vấn được tập trung vào hai đối tượng: người vợ Ayane và cô người tình bí mật Hiromi. Vấn đề là cả hai người đều có chứng cớ ngoại phạm vững chắc. Bài toán đặt ra là làm thế nào để hạ độc Yoshitaka và đầu độc bằng cách nào? Vì trong thời điểm xảy ra vụ án không ai có khả năng tiếp cận nạn nhân. Thật ra, trong Sự cứu rỗi của thánh nữ, hung thủ có thể thấy ngay từ đầu. Vấn đề là nguyên nhân và cách thức gây án. Một bài toán vô cùng khó và có những cái không thể ngờ tới. Vẫn là những người phụ nữ. Nếu bạn nào ít nhiều đọc Keigo chắc hẳn sẽ rất ấn tượng với những người phụ nữ trong tác phẩm của ông. Họ thường đẹp và rất nguy hiểm. Sự cứu rỗi của thánh nữ cũng không ngoại lệ. Cô ấy đẹp, thu hút nhưng luôn treo cái chết trên đầu bạn. Thật sự rất nể người phụ nữ này luôn. Làm sao cô ấy có thể kiên trì sống và chịu đựng, chấp nhận cuộc sống với tình yêu và sự thù hận, treo cái chết lơ lửng từng ngày như vậy. Sự cứu rỗi của thánh nữ nằm trong series “Thám tử Galileo” Yukawa. Đọc đến nửa thì vị thám tử này mới nhập cuộc nhưng vô cùng thú vị. Có lẽ bài toán càng hóc búa thì càng thu hút vị thám tử này. Mặc dù khó tin, có thể là “đáp án ảo” chỉ “có thể chỉ xảy ra về mặt lý thuyết nhưng không hề tồn tại trong hiện thực” nhưng chứng minh đáp án đó là ảo lại cho ra một kết quả hết sức kinh ngạc của một sự thật chua xót. Và tất nhiên tác giả cũng có lồng ghép một số kiến thức rất thú vị vào trong vụ án vì thám tử Galileo là giáo sư dạy vật lý ở trường đại học mà. Cứ tưởng đâu đây là vụ án “hoàn hảo”, biết mười mươi mà không đủ bằng chứng để buộc tội gây “ức chế”, nhưng may quá, vẫn còn ánh sáng cuối đường hầm mặc dù sự thật là đau xót. Có một câu hỏi: Đàn ông quan niệm như nào về lập gia đình? Phải chăng họ lập gia đình chỉ vì cần người sinh con? Họ không cần tình yêu? Nếu không sinh được con thì người phụ nữ chẳng qua chỉ là vật trang trí trong ngôi nhà không hơn không kém? Tác phẩm: Phía Sau Nghi Can X Bạch Dạ Hành Bí mật của Naoko Thánh Giá Rỗng Điều Kỳ Diệu Của Tiệm Tạp Hóa Namiya Hoa Mộng Ảo Ngôi Nhà Của Người Cá Say Ngủ Trước Khi Nhắm Mắt Sự Cứu Rỗi Của Thánh Nữ Tên của trò chơi là bắt cóc Ác Ý Ảo Dạ Ma Nữ Của Laplace Phương Trình Hạ Chí Cáp Treo Tình Yêu Trứng Chim Cúc Cu Này Thuộc Về Ai Thư ... Mời các bạn đón đọc Tên Của Trò Chơi Là Bắt Cóc của tác giả  Higashino Keigo.
Ảo Dạ
“Chúng ta không còn lựa chọn nào khác, chỉ có thể đi trên con đường ở trong bóng tối. Dẫu cho bốn phía xung quanh sáng rực như ban ngày, cũng chỉ là ánh sáng không chân thực mà thôi.” Để thoát một khoản nợ, Masaya đã lợi dụng trận động đất kinh hoàng để giết chết ông cậu rồi dàn dựng thành một vụ tai nạn. Nhưng tất cả không qua được mắt Mifuyu, cô gái bí ẩn nhà hàng xóm. Mang theo bí mật của Masaya, Mifuyu cùng anh lên Tokyo, bỏ lại sau lưng một Kyoto hoang tàn sau cơn địa chấn. Song ở nơi đô hội là một chuỗi bi kịch nối tiếp nhau, nơi bóng đen của tội ác trong quá khứ như vũng dầu loang, vĩnh viễn không bao giờ xóa sạch, ngày một lan rộng. Bí ẩn nối liền bí ẩn, mọi người tiếp cận Mifuyu đều gặp chuyện không may, những ai chạm đến quá khứ của cô đều mất tích. Rốt cuộc, cô gái bí ẩn luôn sát cánh bên Masaya trong bóng đêm tăm tối là ai? *** Sơn Lương Review: Đó là một tối thứ 7 hiếm hoi mà mình biết rằng sẽ có chủ nhật trọn vẹn vào hôm sau, nên mình bèn đọc nốt 100 trang cuối của Ảo dạ. Kết thúc lúc 12h48, và dĩ nhiên mình không thể ngủ ngay sau đó. Giữa đêm mình ngồi nhớ lại tất cả những gì đã được biết về Shinkai Mifuyu về những chuyện cô đã làm, và mình thoáng rùng mình khi nhìn lại bìa sách một lần nữa. Cho đến khi ngủ, mình mơ thấy Shinkai Mifuyu tìm cách hại mình, vì mình đã trót biết quá nhiều. Cũng đúng, vì như thói quen lâu nay, mình không bao giờ đọc lời giới thiệu ở bìa 4, sợ bị đóng khung suy nghĩ trước khi đọc. Tối ấy sau khi kết thúc quyển sách, mình mới đọc bìa 4 và thấy cái ý “mọi người tiếp cận Mifuyu đều gặp chuyện không may, những ai chạm đến quá khứ của cô đều mất tích” trong lời dẫn. Vậy là mình đã lỡ “động đến” cô gái bí ẩn luôn trong bóng đêm, mà lòng dạ, thủ đoạn thì ngút trời mất rồi. Thật khó để review sách của Keigo Higashino mà không nói nhiều về nội dung, nên các bạn cân nhắc trước khi đọc tiếp nhé. Ảo dạ được xem là tác phẩm sinh đôi với Bạch dạ hành nhưng ngoài việc có một cặp nhân vật và người nữ nhiều thủ đoạn để đạt được cái mình muốn, thì có nhiều khác biệt. Dù Mifuyu chọn đứng trong bóng tối nhưng Keigo Higashino không giấu tham vọng, các âm mưu và thủ đoạn của cô với độc giả, trái lại dành rất nhiều đất để Mifuyu nêu lên “tuyên ngôn” của mình. Thông qua điều tra viên Kato, Higashino sensei cũng nhiều lần hệ thống lại quá trình, khiến câu chuyện dễ nắm bắt. Hệ thống các nhân vật cũng không quá nhiều, đến nỗi khó nhớ như Bạch dạ hành. Như nhiều câu chuyện khác, Higashino sensei luôn làm như vô tình để các nhân vật nhắc đến một giai đoạn đáng chú ý nào đó, như một cách ngầm thông tin với người đọc bối cảnh của câu chuyện. Với Bạch dạ hành là thời điểm máy tính cá nhân bắt đầu phổ biến, với Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya là kỳ thế vận hội sắp diễn ra, còn Ảo dạ là thời điểm bong bóng kinh tế bị vỡ và nhân loại chuẩn bị bước vào thiên niên kỷ mới cùng nỗi sợ sự cố Y2K. Câu chuyện bắt đầu bằng một bi kịch - một trận động đất kinh hoàng, khiến Masaya phải giết người và từ đó gắn đời mình với Mifuyu, người đã chứng kiến khoảnh khắc anh ra tay sát nhân. Mifuyu sẽ dẫn dắt Masaya cùng xây dựng kế hoạch tương lai mà cô đã vạch ra, sống “theo cách sinh tồn của riêng mình”. "Chúng ta chỉ có thể đi trên con đường ở trong bóng tối. Dẫu cho bốn phía xung quanh sáng rực như ban ngày, cũng chỉ là ánh sáng không chân thực mà thôi". Và từ đó hai người bắt đầu một mối quan hệ mà "khi một người đau khổ, người còn lại sẽ có thể ở phía sau đưa tay giúp đỡ" và “chỉ ở trong bóng đêm mới bộc lộ bản tính với người còn lại". Hay chỉ là Masaya tin thế. Không như câu chuyện cộng sinh kỳ lại của “tôm pháo-cá bống trắng” trong Bạch dạ hành, mà ở đó Ryoji coi mình là tôm pháo, có nhiệm vụ bảo vệ cá bống trắng Yukiho đến chết, mối quan hệ của Masaya và Mifuyu là kẻ thao túng và kẻ phục tùng. Nếu Ryoji xem việc bảo vệ Yuhiko là mục tiêu duy nhất của đời mình, thì Masaya tình nguyện làm “một tên đồng bọn trung thành” không phải vì muốn bảo vệ lớp mặt nạ của Mifuyu, mà “chỉ vì yêu, vì ‘hạnh phúc của hai người’ mà cô luôn nhắc đến, ngoài ra không có lý do nào khác.” Tất cả chỉ đổi đến đắng cay và cay đắng nhất là gen’ya - ảo dạ, những đêm tưởng là hạnh phúc trần đời nhưng hóa ra chỉ là hư ảo. Và giống như nhiều quyển khác của Keigo, mỗi nhân vật đã xuất hiện thì chắc chắn sẽ có vai trò. Luôn sẽ có người làm nhiệu vụ connecting the dot - kết nối các điểm rời rạc với nhau để vén màn bí ẩn. Trong Ảo dạ, không chỉ điều tra viên Kato, là anh chàng Soga mà còn cả chính Masaya, người đã thề trung thành với Mifuyu và tin tưởng có thể cùng Mifuyu có được hạnh phúc, làm công việc đi tìm sự thật đằng sau những bí ẩn đó. Mình ghét Masaya quá nhu nhược nhưng nghĩ lại rằng có phải vì Mifuyu quá đáng sợ? Masaya đáng thương hơn là trách vì bị nắm điểm yếu từ đầu và đã thực lòng mong có thể cùng Mifuyu đắp xây hạnh phúc. Nhân vật Shinkai Mifuyu được xây dựng tận cùng tàn ác, lạnh lùng, mưu mô, thường xuyên làm người đối diện “không rét mà run”. Mifuyu "tuyệt đối không mềm lòng với bất cứ ai. Mặc cho người khác gặp phải bất hạnh thế nào, cô ta hoàn toàn không quan tâm". Cách xây dựng nhân vật quả thật để lại nhiều ấn tượng. Đến mức mình có lúc nghĩ giả thử có gặp một Shinkai Mifuyu trong đời thực, mình sẽ bị bùa mê đến mức nào và gục ngã trước cô ta ra sao? Nhưng điều mình cho rằng còn thiếu là lý do Mifuyu lại hành xử như vậy, dù đã có khát khao từ trước nhưng chẳng lẽ chỉ vì đeo đuổi tham vọng mà tán tận lương tâm đến vậy ư? *** Có vẻ cái tên Higashino Keigo không ít fan ở Việt Nam đâu nhỉ. Higashino Keigo là một tác giả người Nhật Bản được biết tới rộng rãi qua các tiểu thuyết trinh thám của ông. Ông từng là Chủ tịch thứ 13 của Hội nhà văn Trinh thám Nhật Bản từ năm 2009 tới năm 2013. Ông đã thắng giải Edogawa Rampo lần thứ 31 vào năm 1985 cho tiểu thuyết Hōkago. Tác phẩm: Phía Sau Nghi Can X Bạch Dạ Hành Bí mật của Naoko Thánh Giá Rỗng Điều Kỳ Diệu Của Tiệm Tạp Hóa Namiya Hoa Mộng Ảo Ngôi Nhà Của Người Cá Say Ngủ Trước Khi Nhắm Mắt Sự Cứu Rỗi Của Thánh Nữ Tên của trò chơi là bắt cóc Ác Ý Ảo Dạ Ma Nữ Của Laplace Phương Trình Hạ Chí Cáp Treo Tình Yêu Trứng Chim Cúc Cu Này Thuộc Về Ai Thư ... *** Trong nhà xưởng tối tăm, bóng các máy móc đổ thành một hàng dài. Cảnh tượng ấy khiến Masaya liên tưởng đến nghĩa địa về đêm. Có điều, nấm mồ mà cha anh sắp nằm xuống chẳng được bề thế như thế. Bóng những cỗ máy trông như những người hầu trung thành đã mất chủ. Có lẽ chúng cũng có cùng tâm trạng với Masaya, im lìm đón đợi đêm nay. Masaya đưa chén rượu đầy lên miệng. Chỗ sứt trên miệng chén chạm vào môi. Uống cạn, anh thở hắt ra. Bên cạnh chìa ra một chai rượu, rót vào cái chén không của anh. “Sau này việc gì cũng sẽ khó khăn, nhưng cháu đừng nản lòng, phấn chấn lên.” Ông cậu Toshirou của anh nói. Bộ râu che kín cằm của ông ta đã lốm đốm muối tiêu. Mặt ông ta đỏ bừng, hơi thở phả ra mùi cà chua thối. “Cũng làm phiền cậu nhiều rồi ạ.” Masaya nói đãi bôi. “Chuyện này có đáng gì đâu. Cậu đang lo sau này không biết cháu sẽ làm thế nào. Nhưng cháu có nghề trong tay, chắc là không lo tìm việc. Nghe nói có nhà máy bên Nishinomiya đã tuyển cháu rồi à?” “Công việc thời vụ thôi ạ.” “Việc thời vụ cũng được. thời buổi này có bát cơm ăn là khá lắm rồi.” Toshirou khẽ vỗ lên vai Masaya. Masaya thấy không thoải mái khi ông ta chạm vào mình như vậy, nhưng vẫn cười lấy lòng. Trước ban thờ vẫn còn người khác đang uống rượu, đó là ba người có quan hệ thân thiết nhất với ông Yukio, bố Masaya: ông chủ công ty xây dựng, tay buôn sắt thép phế liệu và ông chủ siêu thị. Bọn họ đều thích đánh bài, thường xuyên tụ tập tại nhà Masaya. Hồi việc làm ăn còn thuận lợi, năm người từng cùng đi du lịch Busan. Đêm nay canh trước linh sàng, chỉ có ba người này và vài người họ hàng. Masaya không báo cho quá nhiều người nên vắng vẻ là lẽ đương nhiên, nhưng anh cho rằng kể cả có thông báo hết thì cũng chẳng khác nhau mấy. Đám khách hàng thì khỏi cần phải nói, các đồng nghiệp không có khả năng đến, kể cả những người họ hàng cũng chỉ thắp nhang xong là vội vã ra về, chừng như sợ rằng ở lâu Masaya sẽ mở miệng đòi tiền. Trong đám người thân, chỉ có mình cậu anh ở lại. Còn nguyên nhân ông ta không ra về, trong lòng Masaya hiểu rất rõ. Ông chủ công ty xây dựng đã rót hết chỗ rượu trong chai rượu cuối cùng của nhóm bọn họ, chỉ còn mỗi chai mà Toshirou ôm trong lòng như của báu kia thôi. Ông chủ công ty xây dựng vừa chậm rãi nhấm nháp chén rượu chỉ còn một phần ba, vừa đưa mắt nhìn Toshirou. Toshirou ngồi phịch xuống cạnh bếp lò, vừa nhai mực khô, vừa uống rượu một mình. “Bọn chú phải về đây.” Tay buôn sắt thép phế liệu nói trước. Chén của ông ta đã hết từ lâu. “Đúng vậy.” Hai người còn lại cũng từ từ dợm đứng lên. “Masaya, vậy bọn chú về đây.” Chủ công ty xây dựng nói. “Hôm nay các chú bận rộn như vậy mà vẫn dành thời gian đến đây, cháu vô cùng cảm ơn.” Masaya đứng dậy cúi đầu đáp tạ. “Mặc dù không giúp được việc gì to tát, nhưng nếu có việc gì trong khả năng của bọn chú thì cháu cứ nói, bọn chú nhất định sẽ giúp.” “Đúng đấy, trước đây bọn chú cũng được ông cụ nhà cháu đỡ đần nhiều mà.” Tay buôn sắt thép phế liệu đứng bên cạnh nói. Ông chủ siêu thị lặng lẽ gật đầu. “Các chú nói vậy làm cháu thấy yên tâm hơn nhiều rồi. Đến lúc ấy xin nhờ các chú quan tâm giúp.” Masaya lại cúi đầu tỏ ý cảm ơn. Ba người đàn ông đứng tuổi cũng gật đầu đáp lễ. Sau khi họ ra về, Masaya khóa cửa rồi trở vào nhà. Trong căn nhà nối liền với công xưởng, chỉ có một gian phòng kiểu Nhật rộng chừng sáu chiếu và một gian bếp chật hẹp, trên tầng hai còn hai căn phòng kiểu Nhật liền kề nhau. Ba năm trước, khi bà Sadako mẹ anh chưa qua đời vì bệnh, Masaya còn không có phòng riêng. Trong căn phòng kiểu Nhật đặt ban thờ, Toshirou vẫn đang uống rượu. Mực khô hình như đã hết, ông ta đang vươn tay ra chỗ đậu phộng mà ba người kia để lại. Masaya bắt đầu thu dọn đồ đạc bừa bãi, lúc này Toshirou đột nhiên cất tiếng, giọng rất khó nghe: “Nói thì rõ là hay.” “Dạ?” “Lão già Maeda ấy. Bảo cái gì mà có việc gì trong khả năng bọn chú thì cháu cứ nói, bọn chú sẽ giúp. Đúng là nghĩ một đằng nói một nẻo.” “Chẳng qua là lời khách sáo thôi mà cậu. Bọn họ cũng đang rất kẹt.” “Thế thì chẳng phải đâu. Cứ như lão Maeda ấy, làm mấy vụ lặt vặt, nhưng kiếm được không ít món hời nho nhỏ. Cậu cảm thấy lý ra lão ta đã giúp được bố cháu một tay.” “Bố cháu đâu có muốn dựa dẫm vào những người này.” Toshirou nghe vậy liền lạnh lùng “hừ” một tiếng, nhệch miệng ra nói: “Sao lại thế chứ, cháu không nghe nói gì à?” Những lời này của Toshirou làm Masaya đang xếp dọn đĩa phải dừng lại. “Lúc trong tay không có tiền trả khoản vay mua máy móc, điều đầu tiên anh Yukio nghĩ đến chính là thương lượng với ba người đó. Nhưng mà, bọn họ chẳng hiểu nghe được tin tức ở đâu, tất cả đều đóng cửa không tiếp. Lúc bấy giờ, chỉ cần có người đưa một triệu yên, chắc tình hình đã khác hẳn rồi.” “Cậu à, chuyện này cậu nghe ai nói vậy?” “Bố cháu chứ ai. Anh ấy từng tức giận nói, đám người đó lúc mình làm ăn được thì cười tít mắt quây xung quanh, hễ mình làm ăn sa sút là đổi thái độ ngay.” Masaya gật đầu, lại bắt đầu dọn dẹp. Đây là lần đầu tiên anh được nghe chuyện này, nhưng cũng không ngạc nhiên. Anh vốn dĩ đã không tin tưởng ba người kia, người mẹ đã khuất của anh cũng ghét bọn họ. Câu cửa miệng của mẹ anh là: “Đi với ai cũng thế, người trả tiền bao giờ cũng là bố mày.” “Cậu đói rồi.” Toshirou lầm bầm. Một lít rượu đã uống hết, đậu phộng trong đĩa cũng đã hết, Masaya bỏ cái đĩa không vào khay. “Còn gì ăn được không?” “Có bánh bao thôi.” “Bánh bao hả?” Masaya liếc mắt nhìn Toshirou đang nhíu mày, sau đó bưng cái khay đựng bát đĩa bẩn vào bếp, thả vào bồn nước. Bồn nước lập tức đầy ứ lên. “Masaya, cậu hỏi cháu chút chuyện khác nữa.” Sau lưng anh vang lên tiếng nói. Masaya ngoảnh đầu lại nhìn, thấy Toshirou đã đứng ở cửa bếp từ lúc nào. “Đã nói chuyện với bên công ty bảo hiểm chưa?” Cuối cùng đã đề cập đến chủ đề chính rồi. Masaya thầm nghĩ, nhưng vẻ mặt vẫn tỉnh bơ như không, chỉ lắc đầu: “Vẫn chưa ạ.” Anh cắm điện ấm đun nước, đổ nước nóng bên trong ra, bắt đầu rửa bát đĩa. Căn nhà của gia đình Mizuhara xây từ bốn mươi năm trước, không có vòi nước nóng lạnh. “Cháu đã liên lạc với họ chưa?” “Bận việc nọ việc kia, vẫn chưa lo được ạ. Lúc này nếu người bên công ty bảo hiểm mà đến, lại còn phiền phức ấy chứ.” “Có lẽ vậy, nhưng vẫn nên xử lý cho sớm thì hơn. Thủ tục chậm trễ, tiền bồi thường cũng chậm theo.” Masaya không dừng tay, chỉ im lặng gật đầu. Anh ta hiểu rõ dụng ý của ông Toshirou. “Có hợp đồng bảo hiểm không?” Toshirou hỏi. Masaya dừng tay một thoáng, nhưng ngay sau đó lại bắt đầu cọ rửa chiếc đĩa. “Có ạ.” “Cho cậu xem được không?” “Ừm... để chốc nữa cháu lấy.” “Cậu muốn xác nhận vài chuyện. Những thứ này để mai rửa cũng được, giờ cháu lấy ngay ra cho cậu xem đi. Không thì bảo cậu để ở đâu, cậu tự đi lấy.” Masaya thở dài, buông miếng bọt biển đầy xà phòng xuống. Trong góc căn phòng kiểu Nhật có một tủ trà nhỏ. Đó là đồ mua từ thời bố mẹ anh mới kết hôn, niên đại cũng tương đối xa rồi. Bên trong ngăn kéo nhỏ dưới cùng có một tập hồ sơ màu xanh lam, trong đó cẩn thận lưu giữ các tài liệu hợp đồng như bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm hỏa hoạn và bảo hiểm xe cộ. Mẹ Masaya rất giỏi những công việc cần đến sự cẩn trọng chu đáo thế này. Masaya có cảm giác, sau khi mẹ qua đời, công xưởng mới bắt đầu xuất hiện những sơ suất trong kinh doanh, mặc dù trước đây chỉ cần mẹ có ý kiến gì với công việc là bố anh sẽ lại nổi giận đùng đùng, bảo rằng đàn bà không nên chõ miệng vào chuyện làm ăn. “30 triệu yên à, quả nhiên.” Ngón tay Toshirou kẹp điếu thuốc lá đã châm lửa, liếc nhìn tập hồ sơ. Ông ta có vẻ không vừa ý, có lẽ vì số tiền ít hơn so với dự tính. “Nghe nói đây là bảo hiểm bị yêu cầu tham gia lúc vay tiền ngân hàng.” Masaya nói. “Hồi mở rộng quy mô công xưởng ấy hả?” “Vâng.” Đó là năm 1986, đúng lúc cả nước Nhật đều đang sôi lên sùng sục. Toshirou gật đầu, khép tập hồ sơ lại. Ông ta ngước lên phả ra mấy vòng khói thuốc, đoạn nói với Masaya: “Số nợ còn lại là bao nhiêu?” Trong một khoảnh khắc, con ngươi đục ngầu của ông ta như sáng lóe lên. “Chừng khoảng... 20 triệu.” Tuần trước, họ đã trao đổi với chủ nợ. Lúc đó, Masaya cũng có mặt. “Vậy thì, kể cả trả hết tiền nợ, cũng vẫn còn lại 10 triệu yên.” “Coi như là vậy, nhưng không rõ tình hình thực tế ra sao, cũng không biết tiền bảo hiểm có được chi trả toàn bộ hay không nữa.” “Chắc chắn là sẽ chi trả, có phải là chết kiểu lạ thường gì đâu.” Masaya trầm mặc. Anh muốn nói, không phải chết kiểu lạ thường thì là cái gì nữa? “Masaya à, chắc cháu cũng có nghe nói...” Toshirou cho tay vào túi áo. Masaya cũng đoán được ông ta sẽ lấy ra thứ gì. Không ngoài dự liệu, ông Toshirou móc ra một phong bì màu vàng nâu, rồi rút từ trong đó một tờ giấy gấp gọn gàng, mở ra trước mặt Masaya. “Trước khi mẹ cháu qua đời... chuyện xảy ra ba bốn năm trước rồi... nói là cần một khoản tiền lớn, đã đến hỏi cậu, cậu bèn gom góp cho chị ấy bốn triệu yên. về sau kinh tế sa sút, cậu cũng không tiện thúc giục chị ruột mình trả tiền, vì vậy cứ dây dưa mãi đến hôm nay, nhưng mà, việc làm ăn của cậu cũng không ổn rồi.” Toshirou bán buôn kính mắt và đồng hồ ở vùng Kobe và Amagasaki, giao sỉ cho các cửa hàng bán lẻ trong thành phố, cả ngày từ sáng đến tối lái chiếc xe chở hàng nhỏ đi khắp chốn, nhờ bán nhiều mà tăng thu nhập. Sau khi nền kinh tế bong bóng sụp đổ, thu nhập của ông ta sụt giảm rõ rệt, những cửa hàng bán lẻ kia không thể tiếp tục nhập hàng nữa. Nhưng nguyên nhân Toshirou thiếu vốn để quay vòng không chỉ có vậy. Masaya nhớ hồi trước mẹ anh từng nói, cậu Toshirou chơi cổ phiếu kiếm được khá nhiều tiền, sau khi ăn quen bén mùi, bèn không muốn cố gắng làm việc nữa. “Cậu thật tình không muốn nói những chuyện này.” Toshirou khổ sở chau mày, gãi đầu nói, “Cậu cũng đi vay tiền, hơn nữa còn vay nặng lãi. Nếu mãi không trả, không biết bọn họ sẽ xử lý cậu thế nào, nói thực lòng, cậu cũng khó xử lắm.” “Vâng, cháu hiểu.” Masaya gật đầu, “Sau khi thanh toán hết nợ nần ở chỗ khác, cháu sẽ trả tiền cho cậu.” “Vậy sao? Cháu nói vậy là cậu được cứu rồi.” Toshirou cười nhe cả hàm răng vàng, “Đối phương không phải người bình thường đâu, bọn họ cũng biết là cậu vay tiền cho nhà cháu rồi. Thế nên nếu cậu không trả tiền được, bọn họ sẽ bắt cậu giao giấy nợ ra, cuối cùng lại còn gây phiền phức thêm cho cháu nữa. Bấy lâu nay, cậu vẫn khó xử lắm.” “Chắc chắn cháu sẽ trả cho cậu.” Masaya nhắc lại. “Ừm... tốt quá rồi. Nói ra vào thời điểm thế này, thật tình cậu ngại lắm.” Toshirou trưng ra bộ mặt áy náy, ngón tay kẹp điếu thuốc, hai tay đan vào nhau tỏ ý xin lỗi. Uống nốt ít bia còn sót lại, Toshirou bảo buồn ngủ, rồi đi lên tầng hai. Ngày trước ông ta thường đến đây, đã biết rõ chăn nệm dùng cho khách để ở trong tủ âm tường nào. Không ngờ lại nói mẹ đi cầu xin ông ta, vay một khoản tiền lớn! Bố Masaya có kể lại câu chuyện vay tiền này. Bố mẹ anh nghe Toshirou xúi giục, mua cổ phiếu đầu cơ, không, nói một cách chuẩn xác là bị cuốn vào vụ đầu cơ do Toshirou thao túng. Toshirou nói để ông ta ứng tiền ra trước, bảo ông Yukio viết giấy nợ, hình như còn nói giấy nợ chẳng có ý nghĩa gì to tát, chẳng qua chỉ là hình thức thôi. Ông Yukio có nằm mơ cũng không ngờ lại bị em vợ lừa gạt. Đã đến nước này, ngay cả việc Toshirou có thực sự mua cổ phiếu đầu cơ hay không cũng rất đáng nghi. Masaya chuyển hướng sang chỗ chiếc quan tài rẻ nhất mà nhà tang lễ giới thiệu, khoanh chân ngồi xuống. Gương mặt bố anh trong di ảnh toát lên vẻ trống rỗng. Có thể hình dung, vẻ mặt của ông trước khi chết cũng y như vậy: mất hết tất cả, tuyệt vọng, không còn niềm tin với tương lai. Masaya đứng dậy, mở cánh cửa kính thông sang công xưởng. Không khí lạnh lẽo nhanh chóng bao bọc lấy thân thể, anh rùng mình, đi dép lê vào. Nền nhà xi măng lạnh buốt như băng, mùi dầu máy và bụi bặm xộc vào mũi nồng nặc. Anh không thích thứ mùi này, nhưng từ nhỏ đã ngửi quen rồi. Anh ngửa đầu nhìn lên trần nhà. Xà nhà cốt thép vắt ngang từ trái qua phải. Mặc dù ánh sáng lờ mờ, không nhìn rõ được, nhưng anh có thể vẽ lại trong óc hình dạng của những chỗ gỉ sét và tróc sơn trên xà nhà. Trong đó có một chỗ rất giống bản đồ Nhật Bản. Tối ngày hôm kia, Masaya về nhà, phát hiện ra bên dưới chỗ tróc sơn hình dạng như bản đồ nước Nhật ấy có một sợi thừng buông thõng, bố anh treo lơ lửng ở đó. Mời các bạn đón đọc Sự Cứu Rỗi Của Thánh Nữ của tác giả Higashino Keigo.