Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đại Nghịch Chi Môn (Trí Bạch)

Tạo phúc cho người thiện, khiển trách kẻ gian ác. Nhưng nếu không sử dụng đúng cách, luật pháp sẽ trở thành công cụ để kẻ ác ước thúc những người lương thiện, cản tay những người thực thi. Tự tìm con đường, nghịch thiên mà đi. Việc đại thiện xá gì thủ đoạn hung ác. Ta Niệm Vi Thiên Ý, Ta Nộ Vi Thiên Uy.***

Nhận xét:

Đại Nghịch Chi Môn hiện đang đứng top trang tiểu thuyết nổi tiếng của Trung Quốc. Dưới ngòi bút nổi tiếng với những tiểu thuyết đầy tình tiết bí ẩn đan xen nhưng không kém phần logic của Trí Bạch, bạn sẽ không thể dứt mắt ra cuốn tiểu thuyết này. Với giấc mộng diệt tận gian tà của mình, nhân vật chính của Đại Nghịch Chi Môn sẽ đi đến đâu khi con đường cường giả ngày càng rộng lớn, núi cao còn có núi cao hơn, mãi mãi như vô tận...***

Thương Man Sơn nằm ở phía bắc Yến Quốc, giáp với U Quốc. Nơi này không có ai quản lý, cũng không ai tranh giành, thế núi hiểm ác, cho nên có rất nhiều ác nhân ẩn hiện. Những quốc gia như Yến Quốc, U Quốc, Bá Quốc, Trác Quốc…là mười sáu quốc gia nhỏ có diện tích khoảng mấy nghìn dặm vuông, được gọi là U Yến Thập Lục Quốc. Yến Quốc và U Quốc coi như là hai quốc gia cường thịnh trong đó, hai nước liên tục chinh chiến mấy năm, cho nên có rất nhiều dân chúng chạy nạn tới Thương Man Sơn ẩn cư.

Nơi này chẳng khác nào một thế giới thu nhỏ, chuyện gì cũng có. Tìm mua: Đại Nghịch Chi Môn TiKi Lazada Shopee

Một nơi như vậy, không thiếu nhất chính là ác đồ. Đám kẻ ác hung hãn, xảo trá kia sống ở đây như cá gặp nước. Dần dần, nơi này trở thành thiên đường của kẻ ác. Đám ác đồ bị đuổi bắt chạy tới Thương Man Sơn không chỉ có ở hai nước Yến, U, mà cũng có từ quốc gia khác. Trong mấy chục năm qua, dân số ở Thương Man Sơn càng ngày càng đông, tạo thành một tòa sơn thành có nhân khẩu không ít.

Một đám người xấu tụ lại với nhau ở một nơi, nhưng lại đặt tên rất đẹp cho nơi đó, Huyễn Thế Trường Cư.

Mặc kệ là ở nơi nào, chỉ cần có nhiều người thì sẽ có học đường. Dù là nơi phồn hoa hay là nơi khỉ ho cò gáy, thì trẻ con vẫn phải học tập. Đương nhiên, trong thành Huyễn Thế Trường Cư, bất luận là học đường nào cũng không truyền học vấn đứng đắn.

Nơi nào có người, thì nơi đó có phân chia, cho nên trong thành cũng có người giàu người nghèo, người cao kẻ thấp.

Có người cao kẻ thấp thì có ức hiếp. Tuy nhiên từ mười bảy năm trước, có một thư sinh trắng trẻo tới Huyễn Thế Trường Cư, một mình đánh bại ba mươi sáu cường giả trong thành, tự định ra quy củ của chính mình. Từ lúc đó trở đi, cuộc sống của dân chúng trong thành tốt hơn rất nhiều. Chỉ cần giao đủ tiền thuế là có thể sống bình yên.

Phố Nam Sơn là con phố nằm tận cùng phía nam thành, dựa theo thế lực phân chia, là địa bàn của Cửu Đại Khấu.

Trong học đường của phố Nam Sơn, có khoảng hơn bốn mươi hài tử tuổi chừng năm, sáu tuổi tới mười bốn, mười lăm tuổi đang lười nhác ngồi đó, ngã trái ngã phải, kẻ ngủ gật, kẻ nói chuyện phiếm.

Trên thực tế, học đường này không có tiên sinh dạy học, người dạy là Cửu Đại Khấu, chín kẻ tự xưng là ác nhân thiên hạ thay phiên nhau truyền kỹ năng sinh tồn cho bọn trẻ.

-Hôm nay là vị tiên sinh nào dạy nhỉ?

Bàn tử Đỗ Sấu Sấu hỏi đồng học gầy teo bên cạnh. Đỗ Sấu Sấu năm nay mười tuổi, dù tên có chữ ‘gầy’ nhưng chẳng gầy chút nào, khá là cường tráng, cho nên ngoại trừ đám người Cao Đệ kia ra, hắn là anh cả của học đường. Hài tử ngồi bên cạnh hắn tên là An Tranh, ‘An’ trong an tĩnh, ‘Tranh’ trong tranh cường háo thắng. Dù cái tên là vậy, nhưng người này chẳng dám tranh giành cái gì, là kẻ mềm yếu nhất trong học đường. Nếu như không phải có Đỗ Sấu Sấu bảo vệ hắn, thì hắn đã bị đám học trò khác đánh cho tàn tật rồi.

An Tranh luôn có cái vẻ khúm núm, Đỗ Sấu Sấu nhìn mà tức giận. Nếu là bình thường, Đỗ Sấu Sấu hỏi một câu, An Tranh liền vội vàng trả lời. Nhưng không biết vì sao hôm nay Đỗ Sấu Sấu hỏi một lúc lâu, An Tranh vẫn không đáp. Đỗ Sấu Sấu biêt An Tranh là người nhu nhược, khiếp đảm, hắn đã từng cố gắng huấn luyện An Tranh tàn ác chút, nhưng sau ba ngày hắn liền buông tha, bởi vì ngay cả một con chuột An Tranh cũng không dám giết.

Đỗ Sấu Sấu trừng mắt nhìn:

-Ngươi đang nghĩ gì vậy?

Sau đó hắn phát hiện An Tranh hôm nay có chút quái dị. An Tranh một mực nằm xuống bàn không nhúc nhích. Lúc buổi sáng đi học, An Tranh bị hai thủ hạ của Cao Đệ đánh đập, may mà Đỗ Sấu Sấu phát hiện kịp thời cứu hắn rồi vịn hắn vào phòng học. Từ lúc đó An Tranh một mực bất động, Đỗ Sấu Sấu thấy An Tranh nằm sấp xuống bàn đã tích một vũng máu. Hắn lập tức muốn vịn An Tranh đứng lên, nhưng vừa đụng vào cái liền phát hiện thân thể của An Tranh cứng ngắc, hơn nữa lạnh như băng.

-Cao Đệ, ngươi là tên khốn kiếp!

Tuy Đỗ Sấu Sấu còn nhỏ tuổi, nhưng hắn vẫn hiểu chuyện gì xảy ra.

An Tranh là đứa nhu nhược nhất trong học đường này, bị người dánh cũng không dám kêu gào, cuối cùng là bị đánh chết. Người khác bảo hắn ngồi xuống ôm đầu, hắn tuyệt không dám đứng dậy. Người khác bảo hắn quỳ xuống liếm giày, hắn tuyệt không dám im lặng. Nhưng sự nhu nhược của hắn không đổi được sự tha thứ của các đứa trẻ khác, trái lại, bọn chúng rất thích tra tấn An Tranh. Lúc đầu chỉ là mắng mỏ đánh vài cái, sau đó là tra tấn.

Đứa trẻ cao lớn ngồi ở bàn đầu phía trước tên là Cao Đệ, cũng là đứa lớn tuổi nhất của học đường, cường tráng giống như một nghé. Bình thường hắn cũng là kẻ bắt nạt An Tranh tàn nhẫn nhất, cho dù nhà hắn và nhà An Tranh cách nhau không xa.

-Heo mập họ Đỗ, ngươi muốn chết phải không?

Cao Đệ đứng dậy quay đầu nhìn về phía Đỗ Sấu Sấu, ánh mắt đầy hung tàn mà chỉ người lớn mới có:

-Đừng tưởng rằng ta không dám giết ngươi, nếu không phải nể mặt anh trai ngươi là người tu hành ở tông môn, thì ta đã giết ngươi cho chó ăn rồi. Con mẹ ngươi nếu còn dám vô duyên vô cớ mắng ta, ta liền đánh gãy tay chân của ngươi.

Hai mắt Đỗ Sấu Sấu đỏ lên như dã thú, hắn chỉ vào An Tranh, hô to:

-Ngươi đã đánh chết hắn!

Cao Đệ sửng sốt một lát, lập tức cười lạnh:

-Giả chết? Chẳng phải bổn sự lớn nhất của tên thỏ đế này là giả chết đó sao? Sáng nay bọn ta chỉ tùy tiện đánh cho vài cái mà thôi, mọi lần còn đánh hung ác hơn, hôm nay làm sao lại chết được?

Cao Đệ đá văng ghế ngồi đi về phía trước, sau đó đá một cước vào lưng An Tranh:

-Đừng giả chết với lão tử, lão tử biết ngươi không có việc gì!

Một cước đá ngã An Tranh, nhưng An Tranh ngã trong tư thế vẫn ngồi. Giờ khắc này Cao Đệ và Đỗ Sấu Sấu nhìn thấy khuôn mặt của An Tranh tái nhợt giống như tờ giấy, hai mắt nhắm lại, lông mày nhíu chặt, giống như thừa nhận đau đớn cực độ, hiển nhiên đã chết rồi. Đứa trẻ yếu đuổi này lúc sắp chết căn bản là đau không nhịn được, nhưng hắn vẫn không phát ra tiếng, chỉ nhíu lông mày, cắn chặt miệng.

-Ngươi là đồ khốn kiếp!

Đỗ Sấu Sấu tung một quyền về phía mặt của Cao Đệ, Cao Đệ bị đánh bất ngờ, suýt nữa ngã xuống. Hắn vô thức nhìn thoáng qua An Tranh đã chết, trong lòng có chút sợ hãi. Đây là lần đầu tiên hắn thấy có người bị đánh chết, hơn nữa chính là hắn phái người đánh An Tranh. Nhưng rất nhanh, bản tính hung hãn đẩy đi sợ hãi, hắn khoát tay hô một câu:

-Vương Mãnh, Vương Tráng, hai tên khốn kiếp các ngươi còn không đi lên ngăn cản hắn cho ta. Là hai ngươi đánh chết hắn, vì sao lão tử phải chịu đánh!

Vương Mãnh Vương Tráng là thủ hạ của Cao Đệ, hai người này đi lên ôm lấy Đỗ Sấu Sấu. Tuy Đỗ Sấu Sấu xem thường An Tranh, hắn cũng luôn cho rằng mình chỉ thương hại An Tranh, nhưng lúc nhìn thấy An Tranh bị chết, hắn mới biết trong lòng mình đã coi An Tranh là bạn.

Đỗ Sấu Sấu giãy dụa điên cuồng:

-Ngươi đánh chết bạn của ta, ta muốn báo thù!

-Báo con mẹ ngươi!

Cao Đệ chạy tới tung cước đá vào bụng của Đỗ Sấu Sấu, Đỗ Sấu Sấu đau tới gập người.

-Bạn của ngươi? Ha hả!

Cao Đệ lau khóe miệng, sau đó túm lấy tóc của Đỗ Sấu Sấu:

-Làm bạn với một kẻ nhu nhược? Cả phố Nam Sơn này chỉ có mỗi ngươi là coi tên tiện chủng đó là bạn. Tiện chủng không cha không mẹ kia chết thì đã chết, thành Huyễn Thế Trường Cư này thiếu đi hắn cũng chẳng sao. Heo mập, con mẹ ngươi dù sao cũng là một hán tử, vậy mà lại kết bạn một tiện chủng như An Tranh.

Hắn tát cho Đỗ Sấu Sấu một cái:

-Nói xin lỗi ta!

Đỗ Sấu Sấu ngẩng đầu, cố gắng giãy dụa, nhưng Vương Mãnh Vương Tráng có thân hình không kém gì hắn, cho nên hắn không thoát ra được. Thấy hắn không chịu xin lỗi, Cao Đệ túm tóc rồi không ngừng tát, thanh âm chói tai.

-Mau xin lỗi!

Cao Đệ tát tới đỏ cả tay.

Khuôn mặt của Đỗ Sấu Sấu lúc đầu là đỏ, về sau biến thành tím, nhưng bản tính không chịu thua khiến hắn gắng gượng được:

-Tên khốn kiếp Cao Đệ, hôm nay nếu ngươi không giết ta, sớm muộn gì ta cũng giết ngươi báo thù cho An Tranh. Ngươi giết bạn của ta, ta không bao giờ bỏ qua cho ngươi.

-Vậy thì ta liền giết chết ngươi!

Cao Đệ xoay người trở về chỗ ngồi của mình lấy ra một con dao găm, hắn đi tới, vẻ mặt dữ tợn:

-Đừng tưởng rằng lão tử không dám giết ngươi, nơi này là Thương Man Sơn, giết người là chuyện bình thường. Hôm nay lão tử dù không giết ngươi thì cũng sẽ khiến ngươi tàn phế, để cho các ngươi biết ai mới là lão đại của phố Nam Sơn.

-Đại ca, không được!

Mấy đứa nhỏ khác chạy tới ngăn cản Cao Đệ:

-Không thể giết hắn, đại ca hắn là người của tông môn, vạn nhất trả thù thì hậu quả khó mà tưởng tượng nổi. Giáo huấn hắn một cái là được, hắn không giống với phế vật An Tranh kia. An Tranh không cha không mẹ, chết cũng không ai quan tâm.

-Không cho phép các ngươi mắng bạn ta là phế vật! Con mẹ các ngươi mới là phế vật!

Đỗ Sấu Sấu giống như phát điên, cuối cùng giãy khỏi Vương Mãnh Vương Tráng, xông lên tung một quyền vào miệng Cao Đệ, khiến Cao Đệ mất đi một cái răng. Cao Đệ đau đớn hô lên, hai mắt đỏ bừng, tung một cước đá văng một hài tử muốn ngăn cản hắn, sau đó đâm một dao vào bụng Đỗ Sấu Sấu:

-Heo mập, ngươi và An Tranh đều là phế vật, hôm nay lão tử liền giết chết hai ngươi.

Phốc!

Dao găm đâm vào, máu tươi phun ra.

Đỗ Sấu Sấu sửng sốt, Cao Đệ cũng sửng sốt.

Một bàn tay gầy teo không biết từ chỗ nào xuất hiện ngăn cản trước bụng Đỗ Sấu Sấu. Bàn tay nắm lấy dao găm, máu từ tay chảy xuống. Dao găm rất sắc bén, suýt nữa cắt đứt ngón tay, nhưng bàn tay vẫn nắm chặt lấy dao găm, không hề nhúc nhích. Đỗ Sấu Sấu và đám người Cao Đệ nhìn sang, sau đó trông thấy An Tranh vốn chết rồi không biết bò lên từ khi nào, bàn tay nắm chặt lấy dao găm của Cao Đệ.

-Gặp quỷ!

Đám trẻ nhỏ kêu lên sợ hãi, xoay người bỏ chạy.

Đúng lúc này, Khấu Lục, một trong Cửu Đại Khấu bước vào phòng học, vừa vặn thấy một màn này. Hắn không biết chuyện gì xảy ra, còn tưởng rằng bọn nhỏ đánh nhau dùng tới dao găm:

-Dừng tay lại cho lão tử! Con mẹ các ngươi có tin là lão tử mang các ngươi ra ngoài bán không hả!

Cao Đệ dùng sức rút dao găm lại, nhưng căn bản không rút ra được. Dao găm va chạm vào xương vang lên tiếng khiến người ta sởn tóc gáy. Hắn vô thức nhìn về phía đôi mắt của An Tranh, phát hiện đôi mắt vốn nhu nhược kia ánh lên ti hung ác chưa từng thấy. Sự hung ác này, giống như đôi mắt của man thú mà Cao Đệ từng trông thấy, đầy máu tanh, cuồng bạo.

Cao Đệ sợ tới mức buông tay ra, liên tiếp lui về phía sau.

Khấu Lục bước tới:

-An Tranh, tên chết tiệt nhà ngươi còn dám cầm dao? Mau buông ra cho lão tử!

Đỗ Sấu Sấu biết Cửu Đại Khấu hung ác cỡ nào, vội vàng kéo An Tranh, nhưng phát hiện đôi mắt của An Tranh chuyển về hướng Vương Mãnh và Vương Tráng, sau đó hắn nghe thấy An Tranh gằn giọng nói:

-Là kẻ nào giết ta?

Vương Mãnh và Vương Tráng sợ choáng váng, xoay người muốn chạy. An Tranh đứng bật dậy, một tay ôm cổ Vương Mãnh, một tay dùng dao găm đụng vào bụng:

-Là ngươi giết ta?

-Quỷ..quỷ a!

Vương Mãnh thất hồn bạt vía kêu lên.

Khấu Lục nổi giận:

-Khốn kiếp, ngươi có tin ta xé ngươi ra làm đôi không?

-Xé ta?

An Tranh quay đầu nhìn Khấu Lục, ánh mắt đầy hung ác khiến Khấu Lục cũng phải giật mình.

An Tranh chợt nhếch môi cười lạnh lùng, hàm răng còn dính máu:

-Xé ta? Vậy thì cũng phải chờ ta trả thù đã!

Hắn giơ tay lên, sau đó đâm dao găm vào đùi Vương Mãnh.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Trí Bạch":Ác BáĐại Nghịch Chi MônĐế TrụTướng Minh

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đại Nghịch Chi Môn PDF của tác giả Trí Bạch nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Đông Cung Thái Tử Là Đồ Ngốc (Hoa Tri Phủ)
Ngoài hai nhân vật chính, các nhân vật phụ được khai thác rất tốt. Đó là một Hoa Xương Vương vì mưu cầu vương vị, vì hận thù mờ mắt, âm hiểm xảo trá, đến cuối cùng lại tự mình bỏ qua người thật lòng nhất. Đó là một Mộ Tử Xuyên tham vọng lớn, vừa muốn binh quyền lại vừa muốn mỹ nhân. Đó là thái tử phi Hoắc Thanh Thu vì yêu nhầm người mà mất nhà, mất cả trái tim. Điều tác giả làm tốt nhất trong “Đông cung thái tử là đồ ngốc” không phải những màn cung đấu hoành tráng, không phải những tình tiết hài hước giữa thái tử ngốc và đại cung nữ thông minh. Điều thành công nhất, có lẽ là chuyển biến tâm lý của Thẩm Tầm. Không ai ngốc mười sáu năm, tỉnh lại liền có thể trở thành thiên tài, diệt loạn thần, ổn định triều cương, Thẩm Tầm cũng vậy. Chàng phải từ từ học hỏi, từng bước một trưởng thành để có thể xứng với những người yêu thương chàng. Đây là một bộ truyện thú vị, có vui, có buồn, có đấu võ đấu trí. Nếu bạn mê cung đấu, nếu bạn thích chết đi được chuyện tình chàng ngốc, thì mời nhảy hố nhé.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đông Cung Thái Tử Là Đồ Ngốc PDF của tác giả Hoa Tri Phủ nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đông Cung (Phỉ Ngã Tư Tồn)
Nàng, vốn là cửu công chúa của Tây Lương quốc, ở Tây Lương nàng được vô vàn ân sủng, chỉ vì cầu thân mới phải lên đường đến Trung Nguyên. Hắn, thân là đương kim thái tử, địa vị chỉ khom lưng dưới một người mà đứng trên cả ngàn vạn kẻ khác, vì hôn nhân chính trị, bất đắc dĩ mới phải lấy công chúa của dị quốc. Hắn có ái phi của riêng mình, Triệu lương đệ. Nàng cũng có cuộc sống của riêng nàng, ấy là lén xuất cung, chặn ngựa lồng dở chứng, trừ gian diệt ác, đuổi trộm cắp, tiễn trẻ lạc về tận nhà, lại còn có uống rượu, ngao du kỹ viện…. Họ tưởng đâu chỉ là 2 đường thẳng song song vĩnh viễn không bao giờ giao nhau. Thế rồi những tranh đoạt địa vị trong Đông Cung, những phải trái vô duyên cớ, những nham hiểm ngấm ngầm, lại cứ từng bước từng bước cuốn nàng công chúa ấy vào dòng nước xoáy. Có con cáo nhỏ cô đơn, ngồi trên cồn cát ngắm trăng một mình, cơ mà đâu phải ngắm trăng, cáo đang mong đợi cô nàng chăn dê. Có con cáo nhỏ bơ vơ, ngồi trên cồn cát thẩn thơ sưởi mình, nào đâu cáo muốn sưởi mình, cáo đợi cô mình cưỡi ngựa đi qua... Tìm mua: Đông Cung TiKi Lazada Shopee Hóa ra cứ mãi đợi mãi chờ, con cáo ấy lại chẳng thể đợi được người mà nó muốn...Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Phỉ Ngã Tư Tồn":Đông CungHương HànKhông Kịp Nói Yêu EmNếu Giây Phút Ấy Ta Không Gặp NhauNợ Em Một Đời Hạnh PhúcSao Trên Trời Rất Xa, Sao Của Anh Thật GầnSương Mù Vây ThànhThiên Sơn Mộ TuyếtTịch MịchTịch Mịch Không Đình Xuân Dục VãnTrăng Lạnh Như SươngTrâu Tiểu Thư Tìm Kiếm Tình YêuGấm RáchĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đông Cung PDF của tác giả Phỉ Ngã Tư Tồn nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đồng Cỏ (Nguyễn Đình Toàn)
Đồng Cỏ là một tác phẩm khác dự báo một Sài Gòn sắp mất. Nguyễn Đình Toàn mẫn cảm với thay đổi thời tiết cũng như với những biến chuyển của lịch sử. Dự cảm hay trực giác của nhà văn đi trước tấn thảm kịch, đi trước những đổ vỡ chia ly đã mang tính tiên tri. Đọc văn Nguyễn Đình Toàn, để sống với Hà Nội những ngày sắp mất nhưng cũng không bao giờ mất qua hơn 300 trang sách. Nguyễn Đình Toàn 1970, anh đã phải thốt lên: "mỗi lời dẫn cho một bản nhạc ở đây là một "nhạc thoại" một tác phẩm khác. Nó thể hiện tính thẩm văn và thẩm nhạc của người tuyển chọn là Nguyễn Đình Toàn". Rồi cuối cùng, hai người bạn họ Nguyễn ấy như Bá Nha Tử Kỳ cùng một kiếp tha hương, họ cũng đã gặp nhau không phải trên "một quê hương Việt Nam sợ hãi - chữ của Nguyễn Đình Toàn trong Đồng Cỏ" mà trên lục địa Mỹ Châu thênh thang tự do nhưng vẫn là lưu đầy. Truyện Nguyễn Đình Toàn rất giàu hình ảnh và nhiều chất thơ có thể đọc như một bài thơ xuôi/ prose poem. Khi đặt lời cho một bản nhạc thì tự thân phần lời ấy đã là một bài thơ. Nguyễn Đình Toàn viết nhạc, nổi tiếng với một số nhạc khúc, nhưng có lẽ những nốt nhạc được cất cánh từ những ý thơ ban đầu của Nguyễn Đình Toàn. Lời bản Tình Khúc Thứ Nhất đã là một thi phẩm trước khi kết hợp với phần nhạc của Vũ Thành An.***Nguyễn Đình Toàn có bút hiệu ban đầu là Tô Hà Vân nhưng thành danh với tên thật và cũng là bút hiệu chính thức sau này; sinh ngày 6 tháng 9 năm 1936 tại huyện Gia Lâm, bên bờ sông Hồng, ngoại thành Hà Nội. Di cư vào Nam 1954, Nguyễn Đình Toàn bắt đầu viết văn làm thơ, viết kịch, viết nhạc, cộng tác với các tạp chí Văn, Văn Học [trong nhiều năm, Nguyễn Đình Toàn phụ giúp Trần Phong Giao tuyển chọn thơ và truyện cho báo Văn]; Nguyễn Đình Toàn cũng viết feuilleton cho các nhật báo Tự Do, Chính Luận, Xây Dựng, Tiền Tuyến; biên tập viên đài phát thanh Sài Gòn, nổi tiếng với chương trình Nhạc Chủ Đề trong những năm 1970s. Sau 1975, cùng chung số phận như mọi văn nghệ sĩ Miền Nam, Nguyễn Đình Toàn bị bắt hai lần và đi tù cải tạo một thời gian gần sáu năm. Sang Mỹ định cư từ cuối năm 1998, Nguyễn Đình Toàn và vợ, chị Thu Hồng cùng phụ trách chương trình Đọc Sách cho đài phát thanh VOA, Nguyễn Đình Toàn còn viết cho tuần báo Việt Tide mục Văn Học Nghệ Thuật của nhà văn Nhật Tiến cho tới khi nghỉ hưu. Gia đình Nguyễn Đình Toàn hiện sống tại Nam California.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đồng Cỏ PDF của tác giả Nguyễn Đình Toàn nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe (Ma Văn Kháng)
Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tìm mua: Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe TiKi Lazada Shopee Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Đọc xong Đồng bạc trắng hoa xòe có cái mừng là thấy lớp người sau đã kế tục được lớp người trước. Và còn nhiều hy vọng vì còn trẻ, còn khỏe, còn như con ngựa mới chạy nước kiệu trên một quãng đường. Ma Văn Kháng, tên thật là Đinh Trọng Đoàn, gốc người làng Kim Liên, khu Đống Đa, Hà Nội, tham gia cách mạng năm mười hai tuổi, do thói quen chung hồi ấy, đổi tên là Nguyễn Kháng, cho nó bí mật tông tích. Lên dạy học Lao Kay kết nghĩa anh em với một cán bộ huyện họ Ma, và để tỏ sự quyết tâm sống bám vùng đất này, theo lời một cán bộ tỉnh ủy khuyên: “Vùng này không thua gì Sông Đông êm đềm đâu. Cậu muốn viết văn hãy cố sống ở đây hết một giai đoạn”. Kháng đã đổi họ Ma, và sống trên đó gần một phần tư thế kỷ. Hai mươi hai năm ròng sống, làm việc, quan sát, và viết. Ma Văn Kháng tích lũy tư liệu cần cù đúng như một con kiến tha mồi vào tổ, mỗi ngày một ít, mỗi tháng một ít. Anh tham gia biên soạn lịch sử Đảng bộ Lao Kay, tham gia tổ chức hội nghị tỉnh ủy nghiên cứu chuyên đề thổ ty. Nhiều tư liệu ngấm vào anh thật tự nhiên, do việc cọ sát hàng ngày với những cán bộ H'Mông cùng cơ quan, những buổi công tác xuống huyện, xuống xã, đi tham dự các sinh hoạt dân tộc, những lễ ăn thề, lễ nào sồng, những phiên chợ, có mặt cả đám cưới đám ma các dòng họ H'Mông... Anh đọc nhiều và lấy làm biết ơn đã thừa hưởng thành quả những công trình nghiên cứu về dân tộc học, về phong tục tập quán, về ngôn ngữ H'Mông của Doãn Thanh, của Nông Trung, Lục Bình Thủy, Phạm Xuân Phúc, v.v... Anh thu thập cả những tài liệu nước ngoài viết về H'Mông như của Savina người Pháp, chuyên gia nghiên cứu H'Mông, có những nhận định về chính sách, cai trị vùng H'Mông: “H'Mông bao giờ cũng vẫn là H'Mông. Thổ ty là tất cả. Người Pháp phải tạo ra được các thủ lĩnh dân tộc ở từng địa phương và qua họ, mà cai trị đời đời ở các vùng miền núi". (Histoire des Miaos). Cho đến khi ra mắt bạn đọc hôm nay, Đồng bạc trắng hoa xòe được viết đi viết lại bốn lần. Tôi đã nhìn thấy đống bản thảo dày gần hai gang tay, bằng đủ các loại giấy thếp, giấy học sinh, giấy đánh máy, chi chít những chỗ dập xóa, chú thích bên lề... Công việc văn chương! Đáng thương biết mấy!*. Ông Goóc-ki có nói với bạn đọc, đại ý, ông khuyên những ai cho nghề viết văn là nhàn nhã, nắng không đến đầu, mưa không tới gáy, mà dấn thân vào thì thật là một lầm lẫn to lớn ở đời. Nghề viết văn thuộc lao động cực nhọc nhất trên thế gian này. Miếng da lừa (Balzac) có chín bản thảo khác nhau. Quan thanh tra (Gogol), năm bản. Người mẹ (Gorki) sáu bản, bản đầu và bản cuối cách nhau hai mươi năm. Riêng phần tả điệu múa Xalômê của Flô-be có mười bản, bản nào cũng gần như tuyệt vời. Với số tuổi như Ma Văn Kháng, ta sẽ phải hình dung anh đã vật lộn cực nhọc như thế nào để đẻ ra nổi hơn sáu trăm trang giấy, tái hiện một giai đoạn lịch sử ngắn ngủi, nhưng rắc rối vào bậc nhất của cách mạng Việt Nam hiện đại, tiến hành trên một vùng núi phong kiến thế tập phiên thần nghèo nàn và lạc hậu, lấy cái không gian tỉnh biên giới Lao Kay hừng hực, hỗn loạn, phức tạp, rối ren, bọc trong cái bối cảnh lịch sử ngàn cân treo sợi tóc của dân tộc: Nhật thua, Tưởng vào, Quốc dân Đảng về phá rối, Pháp trở lại xâm chiếm Nam Bộ, rồi vào Hà Nội với Hiệp định mồng 6 tháng 3, v.v... Giai đoạn lịch sử này ở miền núi lần đầu tiên được đưa vào tiểu thuyết. Có lẽ đã đến lúc rồi, chúng ta đã có điều kiện về thời gian, về khoảng cách lùi xa đủ tầm nhận thức những khúc ngoặt lịch sử có tính chất quyết định, mà tái hiện lại trong văn học đi thôi. Để cho tương xứng với tầm vóc những hy sinh to lớn, những đổi thay vĩ đại mà cuộc cách mạng theo học thuyết Mác — Lênin đã được những người cộng sản Việt Nam tiến hành trên đất nước này, cũng là lần đầu tiên trên thế giới. Và chỉ có loại hình tiểu thuyết mới kham nổi dung lượng ấy mà thôi. Ma Văn Kháng đã cảm thấy thế. Từ một câu chuyện định viết về tiễu phỉ năm 1955, anh đã chuyển sang tiểu thuyết, khi bắt được tia chớp hai cán bộ Việt Minh đơn độc vào vùng các châu miền đông Lao Kay: Bắc Hà, Pha Long, Mường Khương, thuyết phục thổ ty Hoàng Yên Chao, La Văn Tờ, ba anh em viên tri châu họ Nông... cùng tham gia đánh Pháp, đánh Việt Nam Quốc dân Đảng, giải phóng Lao Kay 1946 (Sau này vào truyện anh có đổi tên đi ít chút, cho nó được thoải mái trong sự sáng tạo). Cuốn truyện mở ra trước chúng ta cái thị xã biên giới Lao Kay đang bị bọn tranh giành quyền lợi Việt Nam Quốc dân Đảng chiếm đóng, rút chạy từ Vĩnh Yên, từ Việt Trì, từ Yên Bái dồn lại sống thoi thóp ở đây, thất vọng chán chường, vỡ mộng, nhưng vẫn đầy mưu mô xưng bá đồ vương, nhờ sự hà hơi của bọn Tàu Tưởng, theo Hiệp nghị, đã phải về bên kia biên giới. Những cán bộ Việt Minh được Đảng điều lên vận động quần chúng làm hậu thuẫn cho lực lượng vũ trang nhân dân: Vệ quốc đoàn, đã tiến đến Yên Bái, đang dừng lại chuẩn bị kế hoạch tấn công giải phóng thị xã Lao Kay. Người đọc hào hứng đi theo hai cán bộ Việt Minh, cưỡi hai con ngựa, gần như tay không, vào một vùng đất lâu đời nơi biên cương heo hút, với các chế độ thổ ty kỳ quặc từ bao thế kỷ, những phong tục tập quán thật kích thích và lạ lùng, và nhất là với tâm hồn người dân tộc thiểu số anh em đáng thương và đáng quí mà chúng ta chưa được biết là bao. Những đốm lửa cách mạng đã được đốt lên trên vùng hoang vắng trùng điệp núi non này, lòng yêu nước được khơi động, và quần chúng nhân dân anh em đã tề tựu dưới lá cờ Tổ quốc, cùng Vệ quốc đoàn tiến vào giải phóng Lao Kay, thành lập chính quyền Dân chủ nhân dân chậm nhất trong các tỉnh miền Bắc, nhưng đã thành công. Cuốn truyện đóng lại vào cuối năm 1947, trong một trận đánh trên đèo Mã Yên Sơn, lúc này bọn thổ ty đã phản bội, liên kết với thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, hành quân chiếm đóng Lao Kay. Thị xã đã lệnh sơ tán, tiêu thổ kháng chiến, theo chủ trương trường kỳ kháng chiến bấy giờ. Cuốn sách dừng lại ở đầu một khúc ngoặt mới: Cuộc kháng chiến chín năm chống Pháp, có ngụ ý mở cửa cho một cái gì sau này nữa đây. Và Đồng bạc trắng hoa xòe đã dựng lên hàng loạt nhân vật, lối đa tuyến bình đồ, không ai là chính cả, hay nói một cách khác, nhân vật nào cũng có đường dây riêng, phát triển tâm lý và tính cách như là một nhân vật chính. Những tuyến nhân vật đan chéo nhau rối rắm như một mớ tơ vò, với những tâm trạng, những số phận, những cảnh ngộ nhiều hình nhiều vẻ, nhưng rồi cái nào vẫn kéo ra cái ấy, giống như một sợi tơ chuốt nõn trong tay người quay sa kéo ra từ đống tơ vò nọ. Không gian chuyển dịch luôn luôn, tạo một cảnh tượng rộng lớn cho bức tranh văn học, có điều kiện để các nhân vật thỏa sức vẫy vùng. Nhịp độ nhanh, nhiều sự việc, nhiều hành động. Lối dựng này đáp ứng được dung lượng rộng lớn của những cơn lốc cách mạng, hàng loạt người lột xác hoặc thoái hóa, sự đổ vỡ của những giá trị cố hữu, những ngã ba đường, sự đụng độ giữa chân thiện mỹ với những thế lực hắc ám đã tàn tạ. Lối dựng này rất ít thấy trong tiểu thuyết nước ta. Viết Rừng động, Mạc Phi đã rất công phu thu thập tư liệu, muốn dựng lên một bức tranh lớn về những đổi thay của đồng bào Thái Tây Bắc trong cuộc kháng chiến chuyển mình chín năm của dân tộc. Anh đã có những thành công về vùng người Thái. Cũng như Nguyên Ngọc đã có những thành công về miêu tả dân tộc anh em Tây Nguyên trong Đất nước đứng lên. Ma Văn Kháng đặc biệt thành công về các nhân vật người H'Mông. Nhiều người đọc sách anh cứ đinh ninh tác giả là người dân tộc. Dân tộc H'Mông, tất nhiên. Không phải lòe thiên hạ bằng những ngôn từ cụ thể lối so sánh chất phác với cái tên cây cối trong rừng, ví von với con hươu con nai bằng tiếng gọi địa phương là lạ, hoặc đôi lúc nhét một vài từ dân tộc trong lời thoại cho nó có sắc thái là người miền núi. Nghe cứ tức anh ách. Ma Văn Kháng học theo lối sử dụng cách nói miền núi của nhà văn Tô Hoài. Và cái chính là anh đã sống nhiều năm với người miền núi. Sống có tình. Anh mô tả các dân tộc Lao Kay bằng một thứ tình cảm chồng vợ, anh em ruột thịt. Những con người xa lạ tưởng như khó hiểu và man rợ trên vùng núi biên cương, bỗng nhiên thành gần gũi thân quen, đúng là anh em một nhà. Những cảnh sắc tưởng như buồn tẻ, hoang sơ, từ khai thiên lập địa, bỗng rực rỡ đẹp... Ma Văn Kháng đã làm như nhà văn Tô Hoài, chấm phá vẩy hồn vào cảnh vật, khiến chúng lung linh, rực rỡ, hấp dẫn, kích thích làm sao! Và tôi đoán chắc rằng, những ai thường ngần ngại khi được điều lên công tác Lao Kay, đọc xong cuốn truyện, hẳn sẽ an tâm đi nhận công tác, trút thoát được cái nặng nề trong tâm khảm vô căn cứ, khi đã đeo con mắt của tác giả Đồng bạc trắng hoa xòe. Bút pháp trong Đồng bạc trắng hoa xòe thường dùng theo lối vẽ long trong mây. Con rồng đẹp cứ giấu mình trong mây che chỉ lộ ra những khúc lượn vàng son có hạn, nhưng cho người xem vẫn nhận được đủ cái vóc dáng mạnh mẽ thanh thoát của toàn bộ con rồng. Bút pháp trong Đồng bạc trắng hoa xòe thường dùng lối uống rượu sớm mai. Độ rượu chỉ đủ để gây ngây ngất, quá nữa là say, dưới một chút coi là chưa uống. Biết dừng lại để gây ngây ngất mới là người biết uống rượu. Trong văn chương biết dừng lại là quí hóa lắm. Nghệ thuật viết văn của Đông Tây kim cổ thâu tóm lại cũng chỉ trong ba tiếng biết dừng lại mà thôi. Một lao động văn chương nghiêm túc thường có nhiều tác dụng lắm. Thử đeo đôi mắt một chính khách, đọc Đồng bạc trắng hoa xòe, bỗng nhận ra rằng: Thì ra bọn Pháp trước đây, bọn Mỹ vừa rồi, bọn phản động hiện nay đều chú ý đến vấn đề người H'Mông vùng Đông Nam Á chính vì thế đấy. Người H'Mông sống trên núi cao vùng giáp giới các nước Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Miến Điện, móc nối nhau như một tam giác — khu tam giác vàng theo từ ngữ của Mỹ. Dân tộc H'Mông gan dạ và kiên nghị nhưng bị vây hãm bằng ngu dốt và man dại trong lịch sử, tạo cho họ một mặc cảm kỳ thị chủng tộc nặng nề, một niềm mong ước tự trị tha thiết run rẩy, đã góp phần hình thành một tính cách H'Mông đặc biệt. Phần thiếu sót của cuốn sách không đáng kể. Có chăng ở cảm giác đọc hơn một trăm trang đầu chưa thú vị lắm. Lối dựng các nhân vật phản diện Quốc dân Đảng theo một đường mòn thường thấy, đã là phản động thì xấu từ bên trong ra đến diện mạo, ăn mặc lố lăng, ngôn ngữ đểu cáng, rượu, gái, sợ chết, lại thường bị đẩy vào những tình huống tức cười ngớ ngẩn (Buổi họp thị trấn. Cảnh đón Vũ Khanh. Buổi họp ở nhà Cercle khiến chúng như một hành thi (thây ma đi, từ Đông y) đẩy ngón tay út cũng ngã. Có thể ở những đoạn mô tả các quán ăn chơi bời trước kia, tác giả chỉ được nghe kể lại, phải tưởng tượng ra nhiều hơn là từng trải (Quán Biên thùy). Có thể ở cả tâm trạng các loại người cũ, cũng thanh khí nhưng khác lạ hẳn lớp người anh, mà anh động chạm tới họ bằng những khắc họa ước lệ (Ngọc, Trọng). Sự thiếu sót này chỉ đáng ví như người đứng xem tranh thấy một vài nét màu vulgaire (tầm thường) lẫn lộn trong bức tranh sắc độ màu rất noble (cao nhã) của anh. Điều đáng tiếc thứ hai, bút lực của anh, sao mà không nhấn thêm, đậm hơn lên cái đoạn mô tả cảnh Pao lao động. Anh có thể làm được lắm! Như anh đã mô tả những đoạn tuyệt hay về cảnh hành quyết người Mèo, cảnh Pao vật ngựa, cảnh Châu Quán Lồ dạy ngựa, cảnh ngày hộ sư các lực lượng vũ trang dân tộc... Với quan điểm yêu quí người lao động như anh, bút pháp của anh, mà chỉ chấm phá vài nét cảnh Pao đi cày, thật đáng tiếc. Anh có cho biết là sợ trùng lặp với một cuốn sách khác của anh, đã mô tả kỹ cảnh này, có trích học trong sách giáo khoa. Đừng câu nệ, anh Ma Văn Kháng ạ. Cứ phải cho vào đây, để hoàn chỉnh một bức tranh đẹp, chặt chẽ về mặt nội dung tư tưởng. Công phu ra thì vẽ lại với một nuance (sắc độ) khác càng hay. Cuốn sách chưa kết thúc, nó chỉ nên coi là tập I. Chắc tác giả sẽ còn cho các nhân vật gặp nhau trong tập II, giai đoạn cuộc kháng chiến chín năm sẽ có nhiều thăng trầm, mâu thuẫn, xung đột gay cấn hơn nữa. Số phận của Châu Quán Lồ, của Pao, Lử, anh em Seng, Tếnh; những Chính, Đắc, Ngọc; những Triệu Đại Lộc, Phô-rô-pông, các viên thổ ty... còn biết bao là tâm trạng, là cảnh ngộ, là tính cách, sẽ va chạm nảy lửa.* Nếu coi đây là kết thúc thì cuốn sách lộ ra một nhược điểm lớn. Nhiều nhân vật xử lý chưa hết mức. Có những nhân vật xuất hiện ở phần một rồi mất hút (ông lão Lìu, bào lãi Lìu, sĩ quan cận vệ Mộng Huyền, võ sĩ Vận). Nếu chỉ thế thì tác giả giống như một phù thủy non tay quyết, gọi âm binh lên dày đặc, nhưng không đủ sức sai phái chúng làm hết việc, để chúng rơi vãi, thậm chí quên cả chúng đi. Ma Văn Kháng còn sung sức. Chúng tôi tin là anh còn đủ sức dắt dẫn nhân vật đi tiếp trong văn học, cho chúng ta thưởng thức những trang sách hay hơn nữa. Với Đồng bạc trắng hoa xòe, Ma Văn Kháng đã khẳng định là đứng được trong loại hình tiểu thuyết. Nó có thể coi như một cái mốc trên bước đường văn học của anh tính từ Xa phủ. Một phần năm thế kỷ sống ở miền núi, và quan sát, và viết. Một phần năm thế kỷ ấy thật đáng giá với Ma Văn Kháng. Và sự trân trọng của bạn đọc hôm nay với các tác phẩm của anh, đặc biệt với Đồng bạc trắng hoa xòe là một sự trả giá đầy ý nghĩa.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Ma Văn Kháng":Xa Xôi Thôn Ngựa GiàChim Én Liệng Trời CaoĐám Cưới Không Có Giấy Giá ThúĐồng Bạc Trắng Hoa XòeGặp Gỡ Ở La Pan TẩnMột Mình Một NgựaNgười Thợ Mộc Và Tấm Ván ThiênVõ Sĩ Lên ĐàiMùa Lá Rụng Trong VườnĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe PDF của tác giả Ma Văn Kháng nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.