Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Song Tử Và Chuyện Tình Yêu (Linda Goodman)

Linda Goodman, tên thật là Mary Alice Kemery sinh ra tại Morgantown, miền Tây Virginia vào ngày 19/4. Linda Goodman chưa bao giờ tiết lộ năm sinh chính xác của bản thân.

Bà được đánh giá là một trong những Chiêm tinh gia nổi tiếng người Mỹ với những cuốn sách đứng đầu danh sách bán chạy do tờ New York Times bình chọn. Năm 1968, Linda Goodman xuất bản cuốn “Sun Signs” (Dấu hiệu Mặt trời của các cung hoàng đạo). Ngay lập tức cuốn sách đứng đầu danh mục Best Seller của năm.

"Nếu bạn cầm trên tay cuốn Dấu hiệu Mặt trời (Sun Signs) và đọc nó, bạn sẽ cảm nhận được không chỉ lối viết hấp dẫn, mà còn cả cách dẫn dắt thông minh của Linda Goodman giúp người đọc có thể tiếp cận về 12 cung hoàng đạo một cách dễ hiểu hơn rất nhiều."- Carolyn McDowall

Sau đó, Linda Goodman tiếp tục khẳng định được sức cuốn hút từ những trang sách Chiêm tinh của bà trong hai tập tiếp theo “Love Signs” (Chiêm tinh về tình yêu) ra mắt năm 1978 và Star Signs (1988). Cuốn “Love Signs” đã xác lập kỉ lục trong ngành công nghiệp xuất bản với mức giá bản quyền 2.3 triệu đô la Mỹ.

Nội dung bộ sách Chiêm tinh Cẩm Phong số 1 được dịch từ hai cuốn sách Best Seller của Linda Goodman - “Sun Signs”, “Love Signs”.*** Tìm mua: Song Tử Và Chuyện Tình Yêu TiKi Lazada Shopee

Nếu có những lúc một Song Tử khiến bạn hoang mang tưởng rằng mình đang nhìn thấy hai người, đừng bỏ chạy hay cố dụi mắt làm gì. Chỉ cần nhớ rằng biểu tượng của Song Tử là cặp sinh đôi, họ có hai mặt hoàn toàn khác biệt trong một con người hay thay đổi. Lúc này bạn thấy, lúc sau lại không. Có phải là bạn bắt được tình yêu thoáng hiện lên trên gương mặt linh hoạt ấy không? Hay là ghét bỏ? Hưng phấn? Thông minh? Lý tưởng? Nỗi buồn? Niềm vui? Ngắm nhìn những biểu cảm thay đổi trên gương mặt Song Tử cũng mê hoặc như ngắm ánh đèn trên sàn nhảy. Khó có thể nói đâu là nơi sự thật kết thúc và ảo mộng bắt đầu. Chúng hòa quyện vào nhau, rồi lại tách ra.

Muốn tìm sinh vật hay thay đổi này cần suy tính kỹ càng. Hôm nay họ ở đây, ngày mai đã ở một nơi nào đó, bất cứ đâu. Cứ thoắt một cái, Song Tử có thể đã đổi trang phục, công việc, tình yêu nơi chốn nhanh như việc đổi ý, thế nghĩa là rất nhanh đấy. Họ đọc rất nhanh, vì họ có thể nắm cốt truyện, nội dung khi chỉ cần đọc lướt qua vài trang. Người có Thủy tinh phù trợ cũng có thói quen lạ lùng là đọc ngược từ trang cuối lên. Nếu bạn biết một Song Tử nào chịu đọc từ đầu đến cuối quyển sách mà không chán nửa chừng, hãy gửi họ đến bảo tàng chuyên trưng bày đồ hiếm có khó tìm đi.

Nên nghiên cứu con người hoạt bát, năng động ấy ngay cả khi chạy theo họ đã đủ khiến bạn mệt lừ. Điều đầu tiên bạn nhận thấy chính là thứ năng lượng căng thẳng đang nháy, nổ bụp xoẹt và nhún nhảy trong bầu không khí xung quanh. Nếu có Mặt trăng Bọ Cạp, Thiên Bình, Cự Giải hay Ma Kết, họ sẽ không quá kích động, nhưng chắc chắn vẫn tiềm tàng sự hăng hái, hiếu động; chúng hiện diện dưới ảnh hưởng của vị trí các hành tinh khác. Một Song Tử bất thần có thể nói chậm, nhưng hầu hết là nói nhanh. Và tất thảy đều nghe rất nhạy.

Dù là phụ nữ hay đàn ông, Song Tử đều không thể kiên nhẫn với một kẻ đối thoại bảo thủ, chậm tiếp thu, không biết mình đang đứng ở đâu. Song Tử biết rõ vị trí của mình, ít nhất cũng là vào thời điểm hiện tại.

Trừ phi có cung Mọc xung đột, cơ thể Song Tử thường mảnh dẻ, cao và nhanh nhẹn. Hầu hết họ đều có gương mặt nhỏ, sắc nét, thanh tú, mắt sáng. Song Tử không bao giờ dừng tầm nhìn tại vật nào lâu quá một giây. Họ luôn sự háo hức, thân thiện, dễ gần, chuyển động nhanh nhưng không kém phần duyên dáng.

Sai lầm điển hình là cố trói chân Song Tử đứng yên một chỗ hay ép họ theo một ý kiến nhất định. Sai lầm khác là đấu trí với Cặp sinh đôi vì họ có thể xoay chuyển tình thế dễ như trở bàn tay, tư duy nhanh nhạy, châm biếm thì sâu cay và thông minh hơn hầu hết mọi người.

Với bản tính đó, Song Tử có thể làm hai việc cùng lúc mà không cần nỗ lực như hầu hết chúng ta làm một việc. Phụ nữ Song Tử có thể là quần áo, cho con ăn và nói chuyện điện thoại cùng lúc. Vài người thề thốt rằng tất cả hội Song Tử sinh ra đều cầm điện thoại trên tay.

Bất kỳ công việc nhàm chán nào cũng khiến một Song Tử điển hình bứt rứt, tù túng như thể chim đã vào lồng và bị cắt cánh. Độ căm ghét của họ với công việc nặng nhọc và sự nhàm chán là ngang nhau. Thông thường, họ không phải là người đúng giờ (trừ phi cung Mọc Xử Nữ). Tuy nhiên, Song Tử điển hình vẫn luôn đến muộn, không phải họ quên giờ giấc mà bởi có gì đó đã thu hút sự chú ý của họ trên đường, làm họ lạc hướng. Bản chất hiếu động, luôn chân luôn tay của Thủy tinh đòi hỏi Cặp song sinh phải thường xuyên hưng phấn và được thay đổi, nếu không tinh thần của họ sẽ rệu rã, ủ dột.

Nếu bạn có một người bạn Song Tử, ắt hẳn đã từng nếm trải mấy thói quen điển hình đó, thật dễ khiến người khác nổi điên. Đổi ý xoành xoạch và rất hay quên. Kì lạ là nghe họ giải thích xong thì bạn cũng chẳng thể giận nổi.

Những người cung Song Tử luôn bị thôi thúc mãnh liệt, thầm kín là phải che giấu động cơ thực sự. Tính linh hoạt tài tình và khả năng diễn thuyết khiến họ trở thành những nhà chính trị kiệt xuất, chưa kể đến chuyên gia trong lĩnh vực quan hệ công chúng. Một Song Tử có khả năng dẫn dắt bạn đi chệch khỏi niềm tin tưởng chừng bất di bất dịch cũng như vững chắc nhất.

Song Tử có khả năng viết lách nhưng thường ngại viết ra những suy nghĩ cá nhân, thâm tâm họ biết thứ bản thân cho rằng hôm nay là đúng, ngày mai mình đã chẳng tin nữa. Họ không muốn ràng buộc. Hầu hết mọi Song Tử đều nghe, hiểu hay đọc nhiều hơn một thứ tiếng. Cặp sinh đôi thường giành chiến thắng bằng lời, phù hợp với những công việc đòi hỏi khả năng thuyết phục. Nếu bạn tình cờ bắt thóp được họ, Song Tử có thể chuyển chủ đề rất nhanh, khéo léo kéo cuộc trò chuyện xa khỏi mục tiêu là họ, thành ra cuối cùng chính bạn lại lên thớt thay đấy.

Là nhân viên tiếp thị hay bán hàng, tất cả những cung được Thủy tinh bảo trợ (Song Tử và Xử Nữ) đều là những chuyên gia. Họ không có đối thủ. Những bài thuyết trình có thể hơi quá, nhưng mấy ai đủ lý trí để cưỡng lại được cái vẻ vừa quyến rũ vừa sắc sảo thông minh của Song Tử? Chỉ riêng điều này cũng đã thu được lời.

Song Tử cần để bộ não bận rộn nghỉ ngơi gấp đôi một người bình thường. Không may, họ rất dễ mắc chứng mất ngủ nên hiếm khi chúng được nghỉ ngơi đủ. Cặp sinh đôi cũng cần sự tươi mới, không khí trong lành và ánh sáng mặt trời để tránh xa bệnh viện. Nếu thiếu một trong các yếu tố trên, cộng thêm các hoạt động quá tải có thể khiến Song Tử dễ gặp tai nạn hay tổn thương vai, cánh tay, bàn tay và ngón tay. Phổi cũng dễ bị yếu, cả đường ruột nữa. Các vấn đề liên quan đến bàn chân, lưng, chứng đau nửa đầu luôn là thứ rình rập tấn công Song Tử nào lơ là sức khỏe. Kỳ lạ thay, Song Tử dễ bị suy sụp tinh thần vì buồn chán, tù túng hơn là vì hoạt động quá tải.

Trong thâm tâm, với bản chất nóng vội, Song Tử cần một lý tưởng. Vấn đề là họ phải nhận ra điều đó. Đấy có thể là bất cứ điều gì vì trí tưởng tượng của họ không có biên giới. Tiền bạc, sự thịnh vượng, tình yêu, sự nghiệp chưa bao giờ là đủ. Thủy tinh luôn thúc giục Song Tử tìm kiếm nữa và nữa, với lời hứa tốt đẹp hấp dẫn hơn phía trước. Cỏ luôn mơn mởn hơn ở bên kia đường. Bầu trời xanh trong hơn ở đại dương khác. Mặt trời rạng rỡ hơn ở chân trời kia.

Ánh mắt sắc bén, tài năng nở rộ, Song Tử hóm hỉnh tuyệt vời, ngoại giao khéo léo, tinh tế… tuy nhiên lại thiếu sự kiên định và kiên nhẫn. Họ mau chóng quăng đi những thứ quý báu đã cũ để thử những thứ mới, và rồi sống để hối tiếc vì phút bốc đồng đó. Chẳng màng tới ai xung quanh, họ chỉ chia sẻ cảm xúc thầm kín nhất với người bạn đường luôn đồng hành, sát cánh bên họ mọi lúc mọi nơi - người anh em song sinh trong chính bản thân. Không khí là nguyên tố, là ngôi nhà thực sự của họ. Họ xa lạ với mặt đất.

Đưa ra quyết định nhanh chóng tùy theo tình huống khiến Song Tử là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho người thân. Song Tử dễ tính, thích giao tiếp và hài hước. Nhưng khi gặp vấn đề nghiêm trọng, họ lại chín chắn và ứng xử rất trưởng thành. Tính cách có phần tương phản đó đã xây dựng nên hình ảnh tuyệt vời của Song Tử. Họ không bao giờ là người nhàm chán vì tự thân luôn muốn làm mới mình.

Song Tử có sức quyến rũ mạnh mẽ, cũng rất dễ bị lôi cuốn bởi tình yêu lãng mạn. Người cung Song Tử giống như những con bướm sặc sỡ bay lượn trên trời, mà thậm chí chính họ cũng không biết phải bay về đâu. Trong chuyện ái tình, Song Tử thường giữ vai trò chủ động. Ngay trong lần hẹn hò đầu tiên, thái độ cùng lời lẽ đầy say đắm kia đã khiến bạn mê mẩn. Chỉ có điều đến lần thứ hai, hứng thú trong họ có thể giảm đi rất nhiều, càng lâu họ sẽ càng chán ngán bạn. Song Tử luôn cần cảm giác mới mẻ. Vì vậy, để kết thân lâu dài, bạn sẽ phải luôn đổi mới, như vậy mới khiến họ hứng thú.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Linda Goodman":Nhân Mã Và Chuyện Tình YêuSong Ngư Và Chuyện Tình YêuSong Tử Và Chuyện Tình YêuXử Nữ Và Chuyện Tình YêuBảo Bình Và Chuyện Tình YêuCự Giải Và Chuyện Tình YêuKim Ngưu Và Chuyện Tình YêuSong TửSư TửThiên Bình Và Chuyện Tình YêuThần Nông Và Chuyện Tình YêuSư Tử Và Chuyện Tình YêuBạch Dương Và Chuyện Tình YêuMa Kết Và Chuyện Tình Yêu

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Song Tử Và Chuyện Tình Yêu PDF của tác giả Linda Goodman nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Sự An Ủi Của Triết Học (Ngô Thu Hương)
Mấy năm trước, vào một mùa đông New York lạnh buốt, có một chiều rảnh rỗi trước khi bay đi London, tôi lang thang trong một phòng tranh vắng vẻ nằm ở tầng trên của Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan. Căn phòng sáng trưng và ngoài tiếng kêu ro ro của hệ thống sưởi dưới sàn thì nó hoàn toàn yên tĩnh. Sau khi đã chán những bức họa trong các bộ sưu tập trường phái Ấn tượng, tôi đi tìm quán cà phê với hy vọng sẽ được uống một cốc sữa sô cô la kiểu Mỹ mà thời đó tôi cực kỳ thích. Đúng lúc ấy, tôi bắt gặp một bức tranh sơn dầu, phần chú thích ghi nó được vẽ tại Paris mùa thu năm 1786 bởi họa sĩ 83 tuổi Jacques-Louis David. Socrates, sau khi bị dân chúng Athens kết án tử hình, đang chuẩn bị cầm cốc thuốc độc, vây quanh ông là những người bạn đang đau khổ. Mùa xuân năm 399 trước Công nguyên, ba công dân Athens đã khởi kiện dân sự chống lại nhà triết học này. Họ buộc tội ông không tôn thờ các vị thần của thành quốc, truyền bá những tôn giáo mới và làm hư hỏng thanh niên Athens - và với những tội nghiêm trọng như vậy, họ yêu cầu kết án tử hình. Socrates đáp lại với sự thanh thản đã trở thành huyền thoại. Mặc dù được cho cơ hội để từ bỏ triết lý của mình tại tòa, ông đã kiên định với điều mình tin là đúng hơn những điều mà ông biết là phổ biến. Theo Plato, Socrates đã ngạo nghễ nói với bồi thẩm đoàn: Tìm mua: Sự An Ủi Của Triết Học TiKi Lazada Shopee Miễn là tôi còn thở và còn khả năng, tôi sẽ không bao giờ ngừng thực hành triết học, khuyến khích các vị và làm sáng tỏ sự thật cho tất cả những người tôi gặp... Và thưa các quý ông... dù các vị có tuyên bố tôi trắng án hay không thì các vị cũng biết rằng tôi sẽ không thay đổi những gì tôi làm, kể cả khi tôi có phải chết cả trăm lần. Và như thế, Socrates bị đưa đến một nhà tù của Athens, cái chết của ông đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử triết học. Một dấu hiệu cho thấy tầm quan trọng của nó có lẽ là mức độ thường xuyên mà nó xuất hiện trong hội họa. Năm 1650, họa sĩ Pháp Charles-Alphonse Dufresnoy vẽ bức Cái chết của Socrates, hiện được trưng bày tại Galleria Palatina ở Florence (phòng tranh này thì không có quán cà phê). Thế kỷ 18 là thời kỳ đỉnh cao của mối quan tâm đối với cái chết của Socrates, nhất là khi Diderot thu hút sự chú ý đến tiềm năng hội họa của nó trong một đoạn của tác phẩm Luận thuyết về Kịch thơ của mình. Jacques-Louis David nhận vẽ bức tranh vào mùa xuân năm 1786 theo đặt hàng của Charles-Michel Trudaine de la Sablière, một Nghị viên giàu có và là một học giả Hy Lạp tài năng. Tiền công rất hào phóng, với 6.000 livre tạm ứng và 3.000 livre thanh toán khi giao tranh (Louis XVI trả có 6.000 livre cho bức tranh lớn hơn Lời thề của Horatii). Khi được trưng bày tại cuộc triển lãm tranh thường niên năm 1787, nó lập tức được đánh giá là bức tranh đẹp nhất về cái chết của Socrates. Đức ông Joshua Reynolds cho rằng đó là “tác phẩm nghệ thuật tinh tế và đáng ngưỡng mộ nhất từng xuất hiện kể từ Capella Sistina*, và Stanza của Raphael. Bức tranh này có thể làm rạng danh Athens trong thời đại Pericles.” Tôi mua năm tấm bưu thiếp có tranh của David trong khu bán đồ lưu niệm của bảo tàng và sau đó, khi máy bay bay ngang qua những cánh đồng đóng băng của Newfoundland (có màu xanh nhạt khi trăng tròn và trời trong), tôi giở một tấm bưu thiếp ra xem trong khi ăn bữa tối nhạt nhẽo mà cô tiếp viên đặt trên bàn khi tưởng tôi đang ngủ. Plato ngồi ở chân giường với chiếc bút và cuộn giấy bên cạnh, một nhân chứng lặng lẽ cho sự bất công của nhà nước. Khi Socrates chết thì Plato mới 29 tuổi nhưng David biến ông thành một ông già với mái tóc bạc và vẻ nghiêm nghị. Trên lối đi, vợ của Socrates là Xanthippe đang được cai ngục đưa vào phòng giam. Bảy người bạn với những biểu hiện đau khổ khác nhau. Crito, người bạn thân thiết nhất của Socrates, ngồi cạnh ông, ngước nhìn thầy với sự tôn kính và lo lắng. Nhưng nhà triết học với dáng ngồi thẳng, thân thể và cơ bắp của một vận động viên, không biểu hiện bất kỳ sự sợ hãi hay hối tiếc nào. Việc rất nhiều người Athens cho rằng ông là kẻ ngu ngốc không làm lay chuyển niềm tin của Socrates. David định vẽ Socrates đang uống thuốc độc nhưng nhà thơ André Chenier gợi ý rằng bức tranh sẽ kịch tính hơn nhiều nếu Socrates được thể hiện ở động tác đang kết thúc một luận điểm triết học trong khi bình thản đưa tay cầm cốc thuốc độc sẽ kết liễu cuộc đời mình, điều này vừa thể hiện sự tuân thủ của ông đối với luật pháp Athens, vừa thể hiện lòng trung thành với niềm tin của mình. Chúng ta đang chứng kiến những khoảnh khắc đầy tính khai trí cuối cùng của một con người siêu việt. Tấm bưu thiếp để lại cho tôi ấn tượng mạnh như vậy có lẽ vì cái thái độ mà nó mô tả trái ngược hoàn toàn với tôi. Khi trò chuyện, tôi ưu tiên việc được người khác yêu mến hơn là nói sự thật. Mong muốn làm hài lòng người khác khiến tôi cười trước những câu đùa bình thường giống như các bậc cha mẹ khi xem buổi diễn mở màn vở kịch ở trường học của bọn trẻ. Với người lạ, tôi cư xử theo cách mà nhân viên tiếp tân chào những vị khách giàu có trong khách sạn - sự nhiệt tình đầu môi xuất phát từ mong muốn bừa bãi, bệnh hoạn được yêu mến. Tôi không công khai nghi ngờ những tư tưởng mà số đông tin theo. Tôi muốn được những nhân vật quyền lực chấp nhận, và rất lâu sau khi gặp họ, tôi vẫn lo lắng không biết họ có thấy chấp nhận được tôi hay không. Khi đi qua cửa hải quan hay lái xe bên cạnh xe cảnh sát, tôi có mong muốn kỳ cục là được những nhân viên mặc đồng phục nghĩ tốt về mình.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Sự An Ủi Của Triết Học PDF của tác giả Ngô Thu Hương nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Sự An Ủi Của Triết Học (Ngô Thu Hương)
Mấy năm trước, vào một mùa đông New York lạnh buốt, có một chiều rảnh rỗi trước khi bay đi London, tôi lang thang trong một phòng tranh vắng vẻ nằm ở tầng trên của Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan. Căn phòng sáng trưng và ngoài tiếng kêu ro ro của hệ thống sưởi dưới sàn thì nó hoàn toàn yên tĩnh. Sau khi đã chán những bức họa trong các bộ sưu tập trường phái Ấn tượng, tôi đi tìm quán cà phê với hy vọng sẽ được uống một cốc sữa sô cô la kiểu Mỹ mà thời đó tôi cực kỳ thích. Đúng lúc ấy, tôi bắt gặp một bức tranh sơn dầu, phần chú thích ghi nó được vẽ tại Paris mùa thu năm 1786 bởi họa sĩ 83 tuổi Jacques-Louis David. Socrates, sau khi bị dân chúng Athens kết án tử hình, đang chuẩn bị cầm cốc thuốc độc, vây quanh ông là những người bạn đang đau khổ. Mùa xuân năm 399 trước Công nguyên, ba công dân Athens đã khởi kiện dân sự chống lại nhà triết học này. Họ buộc tội ông không tôn thờ các vị thần của thành quốc, truyền bá những tôn giáo mới và làm hư hỏng thanh niên Athens - và với những tội nghiêm trọng như vậy, họ yêu cầu kết án tử hình. Socrates đáp lại với sự thanh thản đã trở thành huyền thoại. Mặc dù được cho cơ hội để từ bỏ triết lý của mình tại tòa, ông đã kiên định với điều mình tin là đúng hơn những điều mà ông biết là phổ biến. Theo Plato, Socrates đã ngạo nghễ nói với bồi thẩm đoàn: Tìm mua: Sự An Ủi Của Triết Học TiKi Lazada Shopee Miễn là tôi còn thở và còn khả năng, tôi sẽ không bao giờ ngừng thực hành triết học, khuyến khích các vị và làm sáng tỏ sự thật cho tất cả những người tôi gặp... Và thưa các quý ông... dù các vị có tuyên bố tôi trắng án hay không thì các vị cũng biết rằng tôi sẽ không thay đổi những gì tôi làm, kể cả khi tôi có phải chết cả trăm lần. Và như thế, Socrates bị đưa đến một nhà tù của Athens, cái chết của ông đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử triết học. Một dấu hiệu cho thấy tầm quan trọng của nó có lẽ là mức độ thường xuyên mà nó xuất hiện trong hội họa. Năm 1650, họa sĩ Pháp Charles-Alphonse Dufresnoy vẽ bức Cái chết của Socrates, hiện được trưng bày tại Galleria Palatina ở Florence (phòng tranh này thì không có quán cà phê). Thế kỷ 18 là thời kỳ đỉnh cao của mối quan tâm đối với cái chết của Socrates, nhất là khi Diderot thu hút sự chú ý đến tiềm năng hội họa của nó trong một đoạn của tác phẩm Luận thuyết về Kịch thơ của mình. Jacques-Louis David nhận vẽ bức tranh vào mùa xuân năm 1786 theo đặt hàng của Charles-Michel Trudaine de la Sablière, một Nghị viên giàu có và là một học giả Hy Lạp tài năng. Tiền công rất hào phóng, với 6.000 livre tạm ứng và 3.000 livre thanh toán khi giao tranh (Louis XVI trả có 6.000 livre cho bức tranh lớn hơn Lời thề của Horatii). Khi được trưng bày tại cuộc triển lãm tranh thường niên năm 1787, nó lập tức được đánh giá là bức tranh đẹp nhất về cái chết của Socrates. Đức ông Joshua Reynolds cho rằng đó là “tác phẩm nghệ thuật tinh tế và đáng ngưỡng mộ nhất từng xuất hiện kể từ Capella Sistina*, và Stanza của Raphael. Bức tranh này có thể làm rạng danh Athens trong thời đại Pericles.” Tôi mua năm tấm bưu thiếp có tranh của David trong khu bán đồ lưu niệm của bảo tàng và sau đó, khi máy bay bay ngang qua những cánh đồng đóng băng của Newfoundland (có màu xanh nhạt khi trăng tròn và trời trong), tôi giở một tấm bưu thiếp ra xem trong khi ăn bữa tối nhạt nhẽo mà cô tiếp viên đặt trên bàn khi tưởng tôi đang ngủ. Plato ngồi ở chân giường với chiếc bút và cuộn giấy bên cạnh, một nhân chứng lặng lẽ cho sự bất công của nhà nước. Khi Socrates chết thì Plato mới 29 tuổi nhưng David biến ông thành một ông già với mái tóc bạc và vẻ nghiêm nghị. Trên lối đi, vợ của Socrates là Xanthippe đang được cai ngục đưa vào phòng giam. Bảy người bạn với những biểu hiện đau khổ khác nhau. Crito, người bạn thân thiết nhất của Socrates, ngồi cạnh ông, ngước nhìn thầy với sự tôn kính và lo lắng. Nhưng nhà triết học với dáng ngồi thẳng, thân thể và cơ bắp của một vận động viên, không biểu hiện bất kỳ sự sợ hãi hay hối tiếc nào. Việc rất nhiều người Athens cho rằng ông là kẻ ngu ngốc không làm lay chuyển niềm tin của Socrates. David định vẽ Socrates đang uống thuốc độc nhưng nhà thơ André Chenier gợi ý rằng bức tranh sẽ kịch tính hơn nhiều nếu Socrates được thể hiện ở động tác đang kết thúc một luận điểm triết học trong khi bình thản đưa tay cầm cốc thuốc độc sẽ kết liễu cuộc đời mình, điều này vừa thể hiện sự tuân thủ của ông đối với luật pháp Athens, vừa thể hiện lòng trung thành với niềm tin của mình. Chúng ta đang chứng kiến những khoảnh khắc đầy tính khai trí cuối cùng của một con người siêu việt. Tấm bưu thiếp để lại cho tôi ấn tượng mạnh như vậy có lẽ vì cái thái độ mà nó mô tả trái ngược hoàn toàn với tôi. Khi trò chuyện, tôi ưu tiên việc được người khác yêu mến hơn là nói sự thật. Mong muốn làm hài lòng người khác khiến tôi cười trước những câu đùa bình thường giống như các bậc cha mẹ khi xem buổi diễn mở màn vở kịch ở trường học của bọn trẻ. Với người lạ, tôi cư xử theo cách mà nhân viên tiếp tân chào những vị khách giàu có trong khách sạn - sự nhiệt tình đầu môi xuất phát từ mong muốn bừa bãi, bệnh hoạn được yêu mến. Tôi không công khai nghi ngờ những tư tưởng mà số đông tin theo. Tôi muốn được những nhân vật quyền lực chấp nhận, và rất lâu sau khi gặp họ, tôi vẫn lo lắng không biết họ có thấy chấp nhận được tôi hay không. Khi đi qua cửa hải quan hay lái xe bên cạnh xe cảnh sát, tôi có mong muốn kỳ cục là được những nhân viên mặc đồng phục nghĩ tốt về mình.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Sự An Ủi Của Triết Học PDF của tác giả Ngô Thu Hương nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Siêu Lý Tình Yêu (Phạm Vĩnh Cư)
Giới thiệu Soloviev chỉ ra 5 loại quan hệ nam nữ với loại quan hệ nam nữ có tình yêu gắn với lý tưởng hóa đối tượng yêu, làm chúng ta khi yêu mang bản nguyên thần thánh. Tình yêu nam - nữ tuyệt đích sẽ bất tử hóa tất cả bởi tình yêu chuyên trở sự sống vĩnh cửu cho cái mình yêu, tái sinh vĩnh viễn trong cái đẹp. Đó là luận điểm về tình yêu qua các tác phẩm trứ danh: Siêu lý tình yêu (1892-1893), Chiến tranh và hòa bình, Biện minh cái thiện của Vladimir Soloviev, người nhà văn, đại triết gia Nga - người đặt nền móng cho Triết học Tình yêu châu Âu. Quan điểm hoàn chỉnh về Tình yêu nam nữ Soloviev phê phán, hoàn chỉnh các ý tưởng, quan điểm về tình yêu của nhiều nhà tư tưởng lớn tại nhiều thời đại khác nhau của nhân loại từ Platon đến LevTolstoy, đến Schopenhauer… Mặc dù tình yêu là một hiện tượng to lớn, phức tạp trong cuộc sống con người, đề tài của nhiều người, nhiều giới (văn học, nghệ thuật, tâm lý, triết học…) nhưng ông đã xây dựng được và cung cấp cho chúng ta một nền tảng nhận thức đặc sắc về tình yêu nam - nữ. Các quan điểm chính về tình yêu nam nữ của Soloviev Ông đề cao tính cao đẹp của tình yêu nam nữ không coi đó là ảo giác che đậy nhục dục, một trò chơi của tự nhiên, là ác quỷ đen tối nô dịch loài người, là một dạng tồn tại trong khổ đau và cái chết hay duy đạo đức quá như coi tình yêu là phải lấy tình yêu nhân loại làm trọng, phải khổ hạnh/vị tha… như tư tưởng của triết gia Schopenhauer, Tolstoy hay một số tôn giáo. Tìm mua: Siêu Lý Tình Yêu TiKi Lazada Shopee Tình yêu là bước chuyển phôi mầm tiềm năng mới nhú của con người giống như đặc tính trí tuệ là phôi mầm của động vật. Tình yêu còn có sứ mệnh xa hơn, dài hơn mà cái chân chính là chiến thắng đến cùng chủ nghĩa cá nhân, gia tăng giá trị vô tận cho con người, nhân tính phân chia nam - nữ, hữu hạn, hữu tử thành cá thể duy nhất lưỡng tính, tuyệt đối, bất tử. Ông cũng không coi hôn nhân hợp pháp, sinh đẻ và nuôi dưỡng con cái là sứ mệnh đích thực của tình yêu say đắm nam - nữ. Theo ông, vai trò của gia đình, tình thương yêu con cái, vai trò gia đình, chuẩn mực nề nếp quan hệ là đảm bảo sự tồn tại giống loài, xã hội loài người… nhằm duy trì thế giới vật chất và làm cho xã hội vận hành tốt. Tình yêu có sứ mệnh không phải là ở thực tế vật chất đó mà sứ mệnh là dẫn dắt con người từ thế giới đó (phi lý tưởng) bước sang thế giới lý tưởng hay cải hóa thế giới phi lý tưởng thành thế giới lý tưởng. Tình yêu đi đôi với lý tưởng hóa đối tượng yêu, sùng bái hâm mộ người yêu và làm xuất hiện “phép lạ, hào quang” quanh người yêu như nhìn thấy chân lý về con người - hình ảnh môi giới giữa Thượng đế thần thánh và thế giới. Tình yêu là phương tiện cho sự nhập thân đến cùng, đến đích trong đời sống cá thể của con người. Đó là cuộc sống có hơi ấm của hạnh phúc siêu phàm, thiên đường của tình thương, trái tim ngự trị, lạc thú của con người và thần linh. Qua tình yêu, người yêu tuyệt đối hóa người ta yêu làm cho hoàn hảo, trọn vẹn, vô bờ vô hạn và qua đó chính bản thân mình. Tình yêu đòi hỏi bất tử của con người cả tinh thần lẫn thể xác. Thân phận hữu tử hiện nay và cái chết là hệ quả tất yếu của cuộc sống bất toàn và trống rỗng của con người trong thực tại. Ông đề cao tình yêu nam nữ hơn mọi dạng tình yêu khác bởi nó khẳng định và làm giàu vô tận giá trị của từng cá thể con người - trong tiềm năng nó dẫn con người tới sự bất tử. Nó vừa là kết quả của tiến trình lịch sử của chủng loài hữu hạn vừa là bản chất nhân văn của người gắn với giá trị tuyệt đối, vĩnh hằng của Thượng Đế. Đó chính là niềm tin khao khát của ông về tất cả sinh linh con người đã, đang và sẽ sống có thể bất tử thông qua tình yêu chân chính, trong Thượng đế hay cõi niết bàn… với “bầu trời mới, trái đất mới” ở vương quốc của những tinh thần vĩnh hằng. Soloviev xác định có 5 kiểu biểu hiện của quan hệ nam nữ trong đời sống nhân loại, trong đó có 3 cấp độ 3, 4, 5 là biểu hiện của tình yêu. Triết học tình yêu của Soloviev là ở hướng tới tình yêu ở cấp độ 5 - tình yêu chân chính phục vụ cơ đồ tái sinh loài người khổ đau, hữu tử thành Thần - Nhân loại bất tử. Khi tình yêu được đồng hóa ở mức tinh thần thì sẽ khơi dậy tiềm năng vô biên tính người của con người.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Siêu Lý Tình Yêu PDF của tác giả Phạm Vĩnh Cư nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Một Nghiên Cứu Về Các Nguyên Tắc Nhận Thức Của Con Người (George Berkeley)
Lời người dịch George Berkeley (1685-1753) là triết gia duy nghiệm kiệt xuất người Ireland, một trong những gương mặt quan trọng nhất của nền triết học Tây phương hiện đại thời kì đầu. Lập trường triết học của Berkeley là duy tâm thường nghiệm (empirical idealism), được thể hiện trong câu cách ngôn nổi tiếng “esse est percipi” (tồn tại là được tri giác). Đối với ông, không có gì hiện hữu ngoại trừ các ý niệm và các tinh thần; các ý niệm là cái được tri giác, còn tinh thần (mind hay spirit)1 là cái tri giác những cái được tri giác. Các công trình của Berkeley trải rộng trên các lĩnh vực khoa học, triết học và thần học; riêng trong lĩnh vực triết học thì Một nghiên cứu về các nguyên tắc nhận thức của con người (1710) và Ba cuộc đối thoại giữa Hylas và Philonous (1713) là hai công trình được biết đến nhiều nhất. Vài nét tiểu sử và sự nghiệp của Berkeley Berkeley chào đời vào ngày 12 tháng Ba năm 1685 ở Hạt Kilkenny, Ireland. Năm 11 tuổi, ông vào học trường Kilkenny ở Dublin. Năm 15 tuổi, ông bước chân vào Học viện Ba ngôi (Trinity College), cũng ở Dubin. Berkeley lấy bằng cử nhân tại đây vào năm 1704, đến năm 1707 lấy bằng Thạc sĩ và được tuyển làm giảng viên (Junior Fellow) của học viện này. Tìm mua: Một Nghiên Cứu Về Các Nguyên Tắc Nhận Thức Của Con Người TiKi Lazada Shopee Năm 1709, Berkeley được thụ phong chức chấp sự (deacon) trong giáo phái Anh và xuất bản công trình chính đầu tiên của mình Thử hướng đến một lí thuyết mới về cái nhìn. Trong công trình này, Berkeley bàn về những giới hạn của cái nhìn của con người và đưa ra quan niệm rằng đối tượng thực sự của thị giác không phải là các đối tượng vật chất mà là ánh sáng và màu sắc. Những luận điểm được nêu ra trong công trình này báo hiệu sự ra đời của các công trình triết học quan trọng nhất của ông. Vào năm 1710, khi chỉ mới 25 tuổi, Berkeley xuất bản công trình triết học Một nghiên cứu về các nguyên tắc nhận thức của con người - Phần I, từ đây chúng tôi sẽ nói gọn là Các nguyên tắc. Công trình này là những nỗ lực của Berkeley gắng tìm cách bác bỏ những yêu sách của John Locke, một triết gia duy nghiệm thuộc thế hệ trước ông, về bản chất của tri giác con người. Nhưng vì công trình này thuộc dạng kén độc giả, chỉ dành riêng cho giới trí thức ở thủ đô London, nên ông bắt tay viết những bài dễ đọc hơn, trong hình thức đối thoại, và cho xuất bản ở London vào năm 1713 dưới nhan đề Ba cuộc đối thoại giữa Hylas và Philonous. Trong thời gian ở London, để xúc tiến việc xuất bản các công trình triết học của mình, ông kết giao bằng hữu với một số nhà trí thức nổi danh thời bấy giờ như nhà thơ Jonathan Swift (1667-1745), nhà thơ, nhà tiểu luận Joseph Addison (1672-1719), nhà soạn kịch Richard Steele (1709-1729), và nhà thơ Alexander Pope (1688-1744). Ông tham gia viết bài cho tờ Guardian của Steele để chống lại tư tưởng tự do của thuyết bất khả tri lúc bấy giờ, nhưng do ông không kí tên vào các bài báo này nên cho đến nay các ý kiến về việc ông có phải là tác giả của chúng hay không vẫn còn bất đồng. Năm 1721, ông xuất bản cuốn Bàn về sự vận động, một luận văn ngắn bàn về những nền tảng triết học của cơ học. Ngoài ra, ông còn có một tập các bản ghi chép những nhận xét triết học trong suốt quá trình phát triển học thuyết duy tâm và thuyết phi vật chất của mình; và tập ghi chép này, thường được gọi là Những nhận xét triết học, ông chỉ viết cho riêng mình nên không có ý định công bố. Năm 1724, Berkeley được bổ nhiệm làm Trưởng Tu viện Derry. Lúc này, ông bắt tay khai triển dự án xây dựng một trường học ở Bermuda với ý nghĩ châu Âu đã trở nên già cỗi sau cuộc khủng hoảng “Bong bóng Biển Nam’’ (South Sea Bubble) và Thế giới Mới sẽ là niềm hi vọng cho tương lai con người. Được Nghị viện Anh hứa tài trợ kinh phí, ông dong buồm sang châu Mỹ vào năm 1728. Sau ba năm hoài công ngồi chờ kinh phí được hứa hẹn, ông trở về Anh. Trong thời gian ở châu Mỹ, ông đã soạn thảo Alciphron, cũng là một công trình triết học và là một suối nguồn quan trọng cho các quan niệm của ông về ngôn ngữ. Sau khi về Anh, Berkeley tập trung viết và cho xuất bản một loạt các công trình: Bài giảng trước Hội Truyền giáo Phúc âm ở nước ngoài (1732), Lí thuyết về cái nhìn (chứng minh và giải thích) (1733), Nhà giải tích hay bài luận gửi cho một nhà toán học vô tín ngưỡng (1734), Bảo vệ tự do tư tưởng trong toán học (1735), Các lí do không đáp lại câu trả lời đầy đủ của ngài Walton (1735), cũng như xem xét lại để tái bản Các nguyên tắc và Ba cuộc đối thoại (1734). Năm 1734, Berkeley được phong Giám mục xứ Cloyne, vì thế ông trở lại Ireland và sống tại đó, tập trung chăm lo cho giáo phận của mình. Năm 1752, ông rời xứ cloyne đi Oxford để giám sát việc học hành của con trai, và không lâu sau đó, ông tạ thế vào ngày 14 tháng Giêng, được chôn cất trong Thánh đường Giáo hội Kitô thuộc địa phận OxfordĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Một Nghiên Cứu Về Các Nguyên Tắc Nhận Thức Của Con Người PDF của tác giả George Berkeley nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.