Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sách Sự Thật - The Book Of Truth - Phần 1 (Maria Divine Mercy)

LỜI NÓI ĐẦU

Trang web sachsuthat.com (Tiếng Việt) đã được lập ra để công bố một loạt các Thông Điệp của Thiên Chúa mà một phụ nữ Công Giáo đã lập gia đình, một gia đình trẻ sống ở châu Âu, cho biết rằng cô đã nhận được từ Thiên Chúa Ba Ngôi cũng như từ Đức Trinh Nữ Maria, Đấng muốn được mọi người biết đến bằng một tước hiệu mới "Mẹ của Ơn Cứu Rỗi".

Người phụ nữ này muốn được biết đến với tên gọi là Maria Tông Đồ Lòng Thương Xót và cô nói rằng đó là mong muốn của Chúa Giêsu, rằng cô vẫn phải ẩn danh để bảo vệ gia đình và tránh bất kỳ sự xao lãng nào đối với các Thông Điệp. Tên gọi Tông Đồ Lòng Thương Xót được dùng làm tên gọi của cô vì Cuộc Cảnh Báo, một biến cố siêu nhiên, một Hành Động Can Thiệp của Thiên Chúa để cứu thế giới, là biểu hiện của Lòng Thương Xót.

Cô đã nhận được các Thông Điệp kể từ tháng 11 năm 2010. Cô đã nhận được 1.331 Thông Điệp cùng với 170 Chiến Dịch Cầu Nguyện. Theo các nhà thần học độc lập, các Thông Điệp củng cố các giáo huấn Công Giáo về mặt đức tin và luân lý. Maria đã nhận được sự hỗ trợ của các tín hữu bao gồm hàng trăm linh mục và các Kitô hữu tình nguyện từ khắp nơi trên thế giới, để các Thông Điệp được tiết lộ một cách nhanh chóng ra thế giới. Cô nói Thông Điệp được tiết lộ cho thế giới vì những điều tốt đẹp của chính Thông Điệp và vì điều thiện hảo cho mọi người.

Tính đến tháng 1 năm 2015, các Thông Điệp đã được dịch sang 45 ngôn ngữ. Tìm mua: Sách Sự Thật - The Book Of Truth - Phần 1 TiKi Lazada Shopee

Cho dù được Giáo Hội chính thức chấp thuận hay không, nhưng qua giá trị của lòng sùng kính, cá nhân những người Công Giáo về mặt luân lý không bị bắt buộc phải tuân theo những thông điệp xuất phát từ bất kỳ nguồn mặc khải tư nào (ví dụ như những cuộc hiện ra, xuất thần nội tâm). Không giống với mặc khải công như là Kinh Thánh, bản thân Giáo Hội không bảo vệ thiên ý trong lĩnh vực mặc khải cá nhân.

Maria nhìn nhận rằng trong trường hợp những người tuyên bố là nhận những Thông Điệp có tính chất thánh thiêng thì những Thông Điệp ấy cần phải được xem xét vô cùng cẩn thận. Tương tự như vậy thì cô đã trình bày những Thông Điệp này cho Giáo Hội Công Giáo để có thể được xem xét một cách toàn diện và cô đã thực hiện điều ấy ngay từ khi bắt đầu Sứ Vụ này.

Tính cấp thiết của Thông Điệp

Các Thông Điệp được tiết lộ ra thế giới một cách nhanh chóng bởi vì cô nói rằng "chúng ta không có nhiều thời gian trước khi những biến cố này xảy ra trên thế giới và mọi người có quyền được biết sự thật để để xem xét lại cuộc sống của họ với hy vọng rằng linh hồn của họ được cứu rỗi."

Maria nói rằng Chúa Giêsu sẽ ban cho thế giới bằng chứng mà họ cần để nhận biết rằng Thiên Chúa hiện hữu thông qua một biến cố mà Người gọi là Cuộc Cảnh báo. Người nói rằng đó là một Hành động Can Thiệp Thánh Thiêng để khôi phục lại đức tin của các tín hữu và hoán cải những người không tin.

Chẳng bao lâu nữa biến cố này sẽ xảy ra trên thế giới và sẽ được tất cả mọi người có đủ trí khôn chứng kiến. Biến cố dường như sẽ kéo dài khoảng 15 phút và sẽ gây ra một cảm giác như nỗi đau bị thiêu đốt của Luyện Ngục dành cho tất cả mọi người tùy theo trạng thái linh hồn của họ.

Chúa Giêsu muốn cứu tất cả mọi người bao gồm cả những tội nhân cứng lòng nhất. Tất cả những ai ăn năn sẽ được cứu. Những ai không ăn năn sẽ được ban cho thời gian để ăn năn. Chúa Giêsu kêu gọi tất cả những những ai yêu mến Người cầu nguyện cho những linh hồn này bởi vì họ vẫn còn có thể được cứu nhờ những lời cầu nguyện và hy sinh.

Cuộc Cảnh báo sẽ xảy ra vì Thiên Chúa hằng thương xót và Người muốn ban cho nhân loại một cơ hội ăn năn hối cải để họ có thể vui hưởng Địa Đàng, sau khi Con của Người, Chúa Giêsu Kitô, trở lại để phán xét trong Cuộc Quang Lâm.

Maria nói rằng các Thông Điệp cũng đang được ban ra để giúp chuẩn bị thế giới cho Cuộc Quang Lâm của Chúa Kitô, vốn sẽ diễn ra sau Cuộc Cảnh Báo. Cô không biết khi nào vì Chúa Giêsu đã nói với cô chính Người cũng không biết, chỉ có Chúa Cha mới biết. Trước đó sẽ là một giai đoạn được gọi là Cơn Đại Nạn (khoảng thời gian ba năm rưỡi - chúng ta đang đi qua phần đầu của ba năm rưỡi đó).

Cô nói rằng cô đã được Chúa Giêsu Kitô truyền là không được phân tích các Thông Điệp hoặc thêm bất kỳ lời giải thích hoặc quan điểm cá nhân nào. Chúa Giêsu nói với cô rằng Người là tác giả và cô chỉ là người viết và rằng các Thông Điệp phải được công bố chính xác như khi cô nhận được - không được phép thay đổi bất cứ điều gì về nội dung.

Cô nhìn nhận rằng mặc khải của Thiên Chúa là không cần thiết đối với đức tin của một con người tin vào Thiên Chúa. Theo Maria, các Thông Điệp đang được ban ra để giúp củng cố niềm tin của con người và giúp họ chuẩn bị cho các biến cố trên thế giới, mà theo cô là có liên quan đến khoảng thời gian trước Cuộc Quang Lâm của Chúa Kitô.

Thông Điệp mà Maria nhận được củng cố các giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo liên quan đến đức tin và luân lý và đã được Chúa Giêsu Kitô trao cho nhân loại để giúp tái Phúc Âm hóa thế giới để các linh hồn có thể được cứu trước Cuộc Quang Lâm - Cuộc Phán Xét cuối cùng.

Các Thông Điệp được cô đón nhận trong sự xuất thần nội tâm, nhưng hàng ngày cô cũng nhìn thấy Chúa Giêsu theo cách siêu nhiên sau khi cầu nguyện. Trong trường hợp những Thông Điệp mà cô nhận được từ Đức Trinh Nữ Maria, thì những Thông Điệp được ban cho cô theo sau sự hiện ra cách riêng tư của Đức Trinh Nữ Maria trong nhà cô. Khi Thiên Chúa Cha ban cho cô Thông Điệp thì trước tiên cô nhìn thấy Chúa Giêsu theo cách siêu nhiên và sau đó cô được tỏ cho thấy Chúa Cha, theo cách siêu nhiên trong thời gian ngắn. Người trông khác với Chúa Giêsu, chỉ là hơi lớn tuổi hơn một chút và nét mặt của Người cũng khác.

Cầu nguyện sẽ giúp ngăn chặn thảm họa toàn cầu, nhưng rủi thay, theo Maria thì không có đủ lời cầu nguyện trên thế giới vì vậy mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ giáng xuống thế giới với hậu quả tức thì. Động đất, sóng thần, lũ lụt, sóng nhiệt và phun trào núi lửa giờ đây sẽ bùng phát và gia tăng.

Chúa Giêsu đã nói với Maria rằng các Thông Điệp được tiết lộ với cô là Sách Sự Thật - loạt Thông Điệp cuối cùng của Thiên Chúa được truyền đạt cho thế giới trước Cuộc Quang Lâm và đã được báo trước trong Sách Daniel và Sách Khải Huyền. Những Thông Điệp này có nguồn gốc thánh thiêng và được ban ra bởi tình yêu tinh tuyền mà Thiên Chúa dành cho tất cả con cái của Người.

Chúa Giêsu cho Maria biết rằng cô là Sứ giả thứ 7, Vị Thiên Thần thứ 7 được gửi đến để tiết lộ cho thế giới nội dung của các Ấn trong Sách Khải Huyền mà chỉ có Chiên Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô mới có thể mở được. Người sẽ mở các Ấn và tiết lộ trước về các nội dung. Maria phải công bố những nội dung ấy khi mỗi Ấn được mở ra. Người đã nói với cô rằng cô là vị ngôn sứ thời cuối.

Hiện nay Maria đang nhận được sự linh hướng của Giáo Hội Công Giáo.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Sách Sự Thật - The Book Of Truth - Phần 1 PDF của tác giả Maria Divine Mercy nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Phép Xuất Hồn - Đỗ Thuần Hậu (1971)
Phép Xuất Hồn – Đỗ Thuần Hậu (1971) - Vô Vi Phép Xuất Hồn – Đỗ Thuần Hậu (1971) - Vô Vi Phép Xuất Hồn – Đỗ Thuần Hậu (1971) - Vô Vi Phép Xuất Hồn – Đỗ Thuần Hậu (1971) - Vô Vi Khi được xuất hồn lên cao, thì hình bóng ta ngó xuống bản thể ta. Tùy theo sự chịu khó của mỗi người tự ưng thuận công phu cho dày công thì sẽ được xuất hồn đủ hình bóng và thông hiểu quá khứ vị lai cùng được dạo Thiên cảnh. Các bạn nên để ý, khi được xuất hồn thì phải mê, trong đó có cái tỉnh, rồi ta thấy trên nê hườn (mỏ ác) tê lạnh, rồi hồn mới xuất được. Khi được xuất hồn lên cao, thì hình bóng ta ngó xuống bản thể ta. Tùy theo sự chịu khó của mỗi người tự ưng thuận công phu cho dày công thì sẽ được xuất hồn đủ hình bóng và thông hiểu quá khứ vị lai cùng được dạo Thiên cảnh. Các bạn nên để ý, khi được xuất hồn thì phải mê, trong đó có cái tỉnh, rồi ta thấy trên nê hườn (mỏ ác) tê lạnh, rồi hồn mới xuất được. Khi được xuất hồn lên cao, thì hình bóng ta ngó xuống bản thể ta. Tùy theo sự chịu khó của mỗi người tự ưng thuận công phu cho dày công thì sẽ được xuất hồn đủ hình bóng và thông hiểu quá khứ vị lai cùng được dạo Thiên cảnh. Các bạn nên để ý, khi được xuất hồn thì phải mê, trong đó có cái tỉnh, rồi ta thấy trên nê hườn (mỏ ác) tê lạnh, rồi hồn mới xuất được. Khi được xuất hồn lên cao, thì hình bóng ta ngó xuống bản thể ta. Tùy theo sự chịu khó của mỗi người tự ưng thuận công phu cho dày công thì sẽ được xuất hồn đủ hình bóng và thông hiểu quá khứ vị lai cùng được dạo Thiên cảnh. Các bạn nên để ý, khi được xuất hồn thì phải mê, trong đó có cái tỉnh, rồi ta thấy trên nê hườn (mỏ ác) tê lạnh, rồi hồn mới xuất được. Lúc xuất hồn, bản thể của ta đang ngồi, nếu có sự đụng chạm nhẹ thì không biết, còn con muỗi cắn thì biết và vẫn nghe tiếng kêu của con vật “Chỉ khi nào xuất hồn ra khỏi bản thể, nhập vào cỏi vô-vi mới học được Đạo của Tiên Phật, chớ ở cỏi trần loạn động và ô trược nầy làm gì học được Đạo thanh tịnh vô-vi của Đức Phật – Hồn là một luồng điển chủ chốt trong bản thể, khi được thanh lọc và tập trung đúng mức thì sẽ khai phá nổi “Huyền Quang khiếu” để vượt ra khỏi ngục tù trần thế, gọi là giải thoát” ĐỖ THUẦN HẬU”Cụ Đỗ Thuần Hậu dùng một lối văn tiểu thuyết, nhưng kỳ thật là để nói rõ sự huyền bí trong việc tu hành” “Trong câu chuyện “Mơ duyên quái mộng” Cụ Đỗ Thuần Hậu thuật lại lúc “Hồn và Vía” gặp mhau khắng khít tiền duyên, hai đàng triếu mến nhau, khuyến khích nhau trên đường công phu tu luyện. Thật là lương duyên tiền định giữa “Tiên Đồng” và ” Ngọc Nữ” là cặp vợ chồng thiêng liêng mà người thế thường cho là sống đồng tịch đồng sàng, thác đồng quan đồng quách là vậy.” Lúc xuất hồn, bản thể của ta đang ngồi, nếu có sự đụng chạm nhẹ thì không biết, còn con muỗi cắn thì biết và vẫn nghe tiếng kêu của con vật “Chỉ khi nào xuất hồn ra khỏi bản thể, nhập vào cỏi vô-vi mới học được Đạo của Tiên Phật, chớ ở cỏi trần loạn động và ô trược nầy làm gì học được Đạo thanh tịnh vô-vi của Đức Phật – Hồn là một luồng điển chủ chốt trong bản thể, khi được thanh lọc và tập trung đúng mức thì sẽ khai phá nổi “Huyền Quang khiếu” để vượt ra khỏi ngục tù trần thế, gọi là giải thoát” ĐỖ THUẦN HẬU”Cụ Đỗ Thuần Hậu dùng một lối văn tiểu thuyết, nhưng kỳ thật là để nói rõ sự huyền bí trong việc tu hành” “Trong câu chuyện “Mơ duyên quái mộng” Cụ Đỗ Thuần Hậu thuật lại lúc “Hồn và Vía” gặp mhau khắng khít tiền duyên, hai đàng triếu mến nhau, khuyến khích nhau trên đường công phu tu luyện. Thật là lương duyên tiền định giữa “Tiên Đồng” và ” Ngọc Nữ” là cặp vợ chồng thiêng liêng mà người thế thường cho là sống đồng tịch đồng sàng, thác đồng quan đồng quách là vậy.” Lúc xuất hồn, bản thể của ta đang ngồi, nếu có sự đụng chạm nhẹ thì không biết, còn con muỗi cắn thì biết và vẫn nghe tiếng kêu của con vật “Chỉ khi nào xuất hồn ra khỏi bản thể, nhập vào cỏi vô-vi mới học được Đạo của Tiên Phật, chớ ở cỏi trần loạn động và ô trược nầy làm gì học được Đạo thanh tịnh vô-vi của Đức Phật – Hồn là một luồng điển chủ chốt trong bản thể, khi được thanh lọc và tập trung đúng mức thì sẽ khai phá nổi “Huyền Quang khiếu” để vượt ra khỏi ngục tù trần thế, gọi là giải thoát” ĐỖ THUẦN HẬU”Cụ Đỗ Thuần Hậu dùng một lối văn tiểu thuyết, nhưng kỳ thật là để nói rõ sự huyền bí trong việc tu hành” “Trong câu chuyện “Mơ duyên quái mộng” Cụ Đỗ Thuần Hậu thuật lại lúc “Hồn và Vía” gặp mhau khắng khít tiền duyên, hai đàng triếu mến nhau, khuyến khích nhau trên đường công phu tu luyện. Thật là lương duyên tiền định giữa “Tiên Đồng” và ” Ngọc Nữ” là cặp vợ chồng thiêng liêng mà người thế thường cho là sống đồng tịch đồng sàng, thác đồng quan đồng quách là vậy.” Lúc xuất hồn, bản thể của ta đang ngồi, nếu có sự đụng chạm nhẹ thì không biết, còn con muỗi cắn thì biết và vẫn nghe tiếng kêu của con vật “Chỉ khi nào xuất hồn ra khỏi bản thể, nhập vào cỏi vô-vi mới học được Đạo của Tiên Phật, chớ ở cỏi trần loạn động và ô trược nầy làm gì học được Đạo thanh tịnh vô-vi của Đức Phật – Hồn là một luồng điển chủ chốt trong bản thể, khi được thanh lọc và tập trung đúng mức thì sẽ khai phá nổi “Huyền Quang khiếu” để vượt ra khỏi ngục tù trần thế, gọi là giải thoát” ĐỖ THUẦN HẬU”Cụ Đỗ Thuần Hậu dùng một lối văn tiểu thuyết, nhưng kỳ thật là để nói rõ sự huyền bí trong việc tu hành” “Trong câu chuyện “Mơ duyên quái mộng” Cụ Đỗ Thuần Hậu thuật lại lúc “Hồn và Vía” gặp mhau khắng khít tiền duyên, hai đàng triếu mến nhau, khuyến khích nhau trên đường công phu tu luyện. Thật là lương duyên tiền định giữa “Tiên Đồng” và ” Ngọc Nữ” là cặp vợ chồng thiêng liêng mà người thế thường cho là sống đồng tịch đồng sàng, thác đồng quan đồng quách là vậy.”
HỌC LÀM PHẬT (TRANH CHĂN TRÂU) - THÍCH TRƯỜNG LẠC
Nhan đề sách "Học Làm Phật" không đúng hẳn với nội-dung. Thật ra đây là cuốn "Tranh Chăn Trâu" hay "Thập Mục Ngưu Đồ", một cuốn sách rất được nhiều người biết đến trong Phật-học. Sách gồm có 3 phần: một là "Họa" = tranh vẽ, là 10 bức tranh vẽ cảnh mục-đồng chăn trâu, từ lúc khởi đầu trâu đi lạc hoặc trâu còn hung dữ cho đến khi bắt được trâu và huấn-luyện cho thuần-thục; hai là "Tụng" là những bài kệ (4 câu) đi kèm theo mỗi búc họa, và ba là "Luận Giải" là những bài bình-luận hoặc giảng-giải thêm những bức họa và những bài tụng, cần cho người sơ học dễ nắm bắt được ý-nghĩa. Hiện nay có nhiều sách "Thập Mục Ngưu Đồ", và 3 phần nói trên tuỳ-nghi thay đổi nhiều ít dài ngắn theo mỗi soạn giả.
Bách Gia Chư Tử
Bách Gia Chư Tử (諸子百家; Bính âm: zhū zǐ bǎi jiā) là những triết lý và tư tưởng ở Trung Hoa cổ đại nở rộ vào giai đoạn từ thế kỷ thứ 6 đến năm 221 TCN trong thời kỳ Xuân Thu và Chiến Quốc. Bách Gia Chư Tử (諸子百家; Bính âm: zhū zǐ bǎi jiā) là những triết lý và tư tưởng ở Trung Hoa cổ đại nở rộ vào giai đoạn từ thế kỷ thứ 6 đến năm 221 TCN trong thời kỳ Xuân Thu và Chiến Quốc. Đây là thời kỳ hoàng kim của triết học Trung Quốc vì rất nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng được phát triển và bàn luận một cách tự do. Hiện tượng này được gọi là trăm nhà tranh tiếng (百家爭鳴/百家争鸣 "bách gia tranh minh"; Bính âm: bǎijiā zhēngmíng). Nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng Trung Quốc ở thời kỳ này đã có ảnh hưởng sâu rộng tới cách sống và ý thức xã hội của người dân các nước Đông Á cho đến tận ngày nay. Xã hội trí thức thời kỳ này có đặc trưng ở sự lưu động của những người trí thức, họ thường được nhiều nhà cai trị ở nhiều tiểu quốc mời làm cố vấn về các vấn đề của chính phủ, chiến tranh, và ngoại giao. Đây là thời kỳ hoàng kim của triết học Trung Quốc vì rất nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng được phát triển và bàn luận một cách tự do. Hiện tượng này được gọi là trăm nhà tranh tiếng (百家爭鳴/百家争鸣 "bách gia tranh minh"; Bính âm: bǎijiā zhēngmíng). Nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng Trung Quốc ở thời kỳ này đã có ảnh hưởng sâu rộng tới cách sống và ý thức xã hội của người dân các nước Đông Á cho đến tận ngày nay. Xã hội trí thức thời kỳ này có đặc trưng ở sự lưu động của những người trí thức, họ thường được nhiều nhà cai trị ở nhiều tiểu quốc mời làm cố vấn về các vấn đề của chính phủ, chiến tranh, và ngoại giao.Thời kỳ này kết thúc bởi sự nổi lên của nhà Tần và sự đàn áp các tư tưởng khác biệt sau đó. Vào những năm cuối thời nhà Chu, từ cuối thời Xuân Thu tới khi Trung Hoa được nhà Tần thống nhất, hệ thống tư tưởng ở Trung Hoa bước vào giai đoạn nở rộ nhất. Gương mặt quan trọng nhất trong thời kỳ này chính là Khổng Tử, người sáng lập Nho giáo. Ông đã lập ra một triết lý đạo đức chặt chẽ không sa đà vào những suy luận siêu hình. Mục đích của ông là cải tổ triều đình, nhờ thế có thể chăm sóc dân chúng tốt hơn. Thời kỳ này kết thúc bởi sự nổi lên của nhà Tần và sự đàn áp các tư tưởng khác biệt sau đó.Vào những năm cuối thời nhà Chu, từ cuối thời Xuân Thu tới khi Trung Hoa được nhà Tần thống nhất, hệ thống tư tưởng ở Trung Hoa bước vào giai đoạn nở rộ nhất. Gương mặt quan trọng nhất trong thời kỳ này chính là Khổng Tử, người sáng lập Nho giáo. Ông đã lập ra một triết lý đạo đức chặt chẽ không sa đà vào những suy luận siêu hình. Mục đích của ông là cải tổ triều đình, nhờ thế có thể chăm sóc dân chúng tốt hơn.Một nhà triết học khác là Lão Tử, cũng tìm cách cải cách chính quyền, nhưng triết học của ông ít có tính ứng dụng hơn. Ông được cho là người sáng lập Đạo giáo, với giáo lý căn bản là tuân theo Đạo. Trong khi Khổng giáo chủ trương tuân theo đạo trời bằng cách phải sống tích cực nhưng có đức, Đạo giáo khuyên không nên can thiệp và phấn đấu. Người thứ hai góp phần phát triển Đạo giáo chính là Trang Tử. Ông cũng dạy một triết lý gần tương tự. Tuy nhiên, cả hai không tin rằng Đạo có thể giải thích được bằng lời, vì vậy sách của họ mâu thuẫn và thường rất khó hiểu. Trường phái lớn thứ ba là Mặc Tử, người cũng tìm cách cải cách triều đình để đảm bảo đời sống cho người dân. Tuy nhiên, ông tin rằng nguyên nhân căn bản của mọi tai họa và khốn cùng của con người là do yêu người này mà ghét người kia, và vì vậy ông giảng giải thuyết kiêm ái: Thông thường, người ta với những người có quan hệ gần gũi ta đối xử với họ khác hơn so với một người hoàn toàn xa lạ. Mặc Tử tin rằng chúng ta phải đối xử với tất cả mọi người như đối với người thân nhất của chúng ta vậy. Nếu tất cả chúng ta đều làm như thế, những thứ như chiến tranh và đói nghèo sẽ biến mất. Một nhà triết học khác là Lão Tử, cũng tìm cách cải cách chính quyền, nhưng triết học của ông ít có tính ứng dụng hơn. Ông được cho là người sáng lập Đạo giáo, với giáo lý căn bản là tuân theo Đạo. Trong khi Khổng giáo chủ trương tuân theo đạo trời bằng cách phải sống tích cực nhưng có đức, Đạo giáo khuyên không nên can thiệp và phấn đấu. Người thứ hai góp phần phát triển Đạo giáo chính là Trang Tử. Ông cũng dạy một triết lý gần tương tự. Tuy nhiên, cả hai không tin rằng Đạo có thể giải thích được bằng lời, vì vậy sách của họ mâu thuẫn và thường rất khó hiểu.Trường phái lớn thứ ba là Mặc Tử, người cũng tìm cách cải cách triều đình để đảm bảo đời sống cho người dân. Tuy nhiên, ông tin rằng nguyên nhân căn bản của mọi tai họa và khốn cùng của con người là do yêu người này mà ghét người kia, và vì vậy ông giảng giải thuyết kiêm ái: Thông thường, người ta với những người có quan hệ gần gũi ta đối xử với họ khác hơn so với một người hoàn toàn xa lạ. Mặc Tử tin rằng chúng ta phải đối xử với tất cả mọi người như đối với người thân nhất của chúng ta vậy. Nếu tất cả chúng ta đều làm như thế, những thứ như chiến tranh và đói nghèo sẽ biến mất.Một trường phái lớn khác là Pháp gia. Xuất phát từ một nhánh của Khổng giáo, Pháp gia tin rằng con người vốn bản tính ác và chỉ vị kỷ. Kiểu triều đình tốt nhất và đóng góp nhiều nhất cho phúc lợi nhân dân sẽ là một triều đình kiểm soát chặt chẽ các bản năng của con người. Triều đình này sẽ cai trị bằng những pháp luật cứng rắn và chặt chẽ; sự trừng phạt sẽ nghiêm khắc và nhanh chóng. Lòng tin vào việc cai trị bằng pháp luật là lý do tại sao họ được gọi là Pháp gia. Một trường phái lớn khác là Pháp gia. Xuất phát từ một nhánh của Khổng giáo, Pháp gia tin rằng con người vốn bản tính ác và chỉ vị kỷ. Kiểu triều đình tốt nhất và đóng góp nhiều nhất cho phúc lợi nhân dân sẽ là một triều đình kiểm soát chặt chẽ các bản năng của con người. Triều đình này sẽ cai trị bằng những pháp luật cứng rắn và chặt chẽ; sự trừng phạt sẽ nghiêm khắc và nhanh chóng. Lòng tin vào việc cai trị bằng pháp luật là lý do tại sao họ được gọi là Pháp gia.
Bồ Đề Đạt Ma quán tâm pháp - Thích Minh Thiền
Tài liệu này ghi lại phần luận của Tổ Bồ-Đề Đạt-Ma trong quyển sách Bồ-Đề Đạt-Ma Quán Tâm Pháp do thầy Minh Thiền dịch và giảng giải tại chùa Hội Tông, Phú Định, vào năm 1973, xuất bản bởi Nhà xuất bản Quế Sơn, Võ Tánh. Quán Tâm Pháp là tên chung cho ba thiên luận về Huyết Mạch, Ngộ Tánh và Phá Tướng.   LUẬN HUYẾT MẠCHBa cõi lăng xăng đều từ một tâm. Phật trước Phật sau đều chỉ dùng tâm truyền tâm, chẳng lập văn tự. Có người hỏi: Nếu không lập văn tự, vậy lấy gì là tâm?Đáp: Ông nói tôi tức là tâm của ông, tôi trả lời với ông tức là tâm của tôi.Nếu tôi không có tâm thì lấy đâu biết để trả lời với ông; ông nếu không có tâm thì làm sao ông biết hỏi tôi. Cho nên biết: Hỏi tôi tức là tâm của ông đó. Từ lũy kiếp đến giờ, nhẫn đến hành tung hoạt động bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào đều là cái tâm vốn có của ông, đều là Phật vốn có của ông. Cái nghĩa “chính tâm là Phật” là như thế. Ngoài tâm này rốt ráo không có Phật nào khác có thể được. Nếu lìa tâm này mà tìm Bồ-đề, Niết-Bàn, thì thật là không tưởng. Tánh chơn thật của mình không phải pháp nhân pháp quả, đó là nghĩa của tâm. Tự tâm là Niết-Bàn. Nếu nói ngoài tâm có Phật và Bồ-Đề có thể được thì thật là không tưởng.Phật và Bồ-Đề ở chỗ nào? Ví như có người dang tay bắt hư-không có được gì không? Vì sao thế? Vì hư-không chỉ có tên chớ nào có hình tướng! Bắt đã chẳng được, bỏ cũng chẳng được. Thế là hư-không không thể bắt được.Trừ tâm này ra mà tìm Phật rốt rồi không được cũng giống như vậy. Phật là tự tâm làm ra. Tại sao lìa tâm mà tìm Phật? Phật trước Phật sau chỉ nói về tâm. Tâm tức là Phật, Phật tức là tâm; ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm. Nếu nói ngoài tâm có Phật vậy Phật ở đâu? Ngoài tâm đã không Phật sao lại còn làm ra cái thấy có Phật để mà dối gạt lẫn nhau, rồi không thể rõ được cái tâm vốn có của mình, lại bị vật vô tình nó nhiếp mất tự do; nếu không tin hiểu như thế, để tự dối gạt thật là vô ích. Phật không lỗi lầm, chúng sanh điên đảo chẳng biết giác ngộ tâm mình là Phật. Nếu biết tự tâm là Phật chớ nên tìm cầu Phật ngoài tâm.(Lược trích)