Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lãnh Địa Ánh Sáng

LÃNH ĐỊA ÁNH SÁNG là câu chuyện về cuộc sống của một người phụ nữ vừa ly thân với chồng, đang trong thời gian chuẩn bị để ra toà ly hôn. Đây là quãng thời gian vô cùng khó khăn của cô. Sau khi quyết định ly thân, cô chuyển ra sống cùng con gái ba tuổi ở 1 căn hộ thuê ngoài. Đó là một căn hộ có cửa sổ trổ ra tứ phía, tràn ngập ánh sáng. Tình cờ sao, đây dường như là thế giới dành riêng cho 2 mẹ con cô, khi cô đang muốn tránh mặt chồng, tránh mặt mẹ đẻ và sắp xếp lại cuộc sống để bước vào hành trình làm mẹ đơn thân đầy cô đơn, tủi thân, vất vả... của người phụ nữ vẫn còn yêu chồng và bị anh ta bỏ rơi. Lãnh địa ánh sáng, với cách kể và lối viết vừa chân thực vừa lãng mạn, Yuko Tsushima đã đưa người đọc bước vào thế giới đầy riêng tư của nhân vật trong giai đoạn cuộc sống mới đầy khó khăn nhưng cũng đầy khát khao. Không gian đó như nép mình bên cạnh thị trấn nhộn nhịp để ngắm nhìn cuộc sống, vừa đủ là "bí thất" đầy riêng tư của hai mẹ con, cũng vừa đủ để không bỏ xa sự nhộn nhịp bên ngoài. Những giấc mơ, những mộng tưởng, sự trỗi dậy của trực giác và cả những ý nghĩ kỳ quặc của người mẹ… hay là sự thay đổi từ nội lực của người phụ nữ từ lúc chỉ biết dựa vào chồng nay phải tự mình làm trụ cột của gia đình. Một câu chuyện chân thực đủ buồn nhưng cũng rất đẹp và lấp lánh, là lời khẳng định rằng trong hôn nhân, phụ nữ cũng có quyền từ bỏ nếu gặp phải người đàn ông không thể đem lại hạnh phúc cho mình và những đảm bảo để cậy tin. Lãnh địa ánh sáng ra đời năm 1979, là tác phẩm giành giải Gương mặt văn học Noma lần thứ nhất nhưng tính thời sự của vấn đề đặt ra trong tác phẩm vẫn còn nhiều tác động đến ngày nay, về những đổ vỡ trong hôn nhân và cuộc sống của phụ nữ đơn thân nuôi con sau khi chia tay chồng. *** Đó là một căn hộ có cửa sổ trổ ra tứ phía. Tôi đã sống cùng con gái bé bỏng của mình suốt một năm trên tầng cao nhất ở một tòa nhà cũ bốn tầng. Một mình hai mẹ con tôi chiếm lĩnh cả tầng, cộng thêm sân thượng. Tầng trệt là cửa hàng điện máy, tầng hai và ba - mỗi tầng được ngăn đôi cho thuê làm văn phòng. Trong tòa nhà ấy, từ một công ty vỏn vẹn hai nhân viên là cặp vợ chồng chuyên nhận đặt hàng lộng khung hay gắn lên khiên mấy cái gia huy bằng vàng đến văn phòng kế toán và lớp dạy đan len, mỗi nơi sử dụng một phòng. Duy chỉ có căn phòng quay mặt ra đường cái trên tầng ba là bị bỏ trống suốt thời gian tôi sống ở đó. Cứ đêm xuống, lúc con gái đã ngủ say, tôi lặng lẽ bước vào căn phòng đó, khi thì mở hé cửa sổ ra để tận hưởng một quang cảnh khác với quang cảnh nhìn từ tầng bốn, lúc lại đi tới đi lui trong không gian trống trải ấy. Cảm giác như, đó là bí thất dành riêng cho tôi, không ai hay biết. Nghe nói, trước khi tôi dọn đến tòa nhà này thì tầng bốn là nơi ở của chủ nhà. Thảo nào, từ chuyện chỉ có tầng bốn mới có lối thông lên sân thượng, rồi chuyện quản lý tháp nước với ăng-ten máy truyền hình trên đó coi như được ủy thác cho tôi - được cái là phòng tắm trên sân thượng rộng rãi hơn hẳn - cho tới chuyện đêm đêm, khi mọi người trong các văn phòng đã về hết, tôi phải xuống tận tầng trệt để đóng cửa cuốn ở chân cầu thang, đều là những chuyện đương nhiên phải làm của chủ nhà. Hồi cả tòa nhà được rao bán, một nữ doanh nhân có tiếng ở trong vùng, mang họ Fujino, đã mua lại rồi đặt tên là Tòa nhà Fujino số 3 và người dọn đến ở đầu tiên chính là tôi. Nghe nói, người chủ mới này vốn sở hữu toàn các cao ốc thương mại thì đây là căn đầu tiên cho thuê để ở, thêm phần tòa nhà bị xuống cấp, lại không được xây theo kiểu các chung cư thông thường nên bà ấy đâm ra lo sợ không có ai thuê, đành đưa ra giá thuê rẻ để thăm dò. Tình cờ sao, đối với tôi, đó lại là một may mắn hiếm có. Kể cả chuyện họ của chồng tôi trùng với tên của tòa nhà cũng là ngẫu nhiên. Vì thế mà người ta hay nhầm tưởng tôi là chủ nhà. Leo hết cầu thang vừa dốc vừa hẹp, cảm giác hơi thẳng đứng, sẽ tới một cánh cửa nhôm mà đối diện nó là một cửa khác bằng sắt, dẫn ra cầu thang thoát hiểm. Chính vì lối đi nhỏ như thế nên cứ mỗi lần muốn mở cửa vào nhà mình, tôi lại phải bước lùi một bậc thang hoặc bước hẳn sang phía thang thoát hiểm để có chỗ đứng. Gọi là cầu thang thoát hiểm vậy thôi chứ nó cũng chỉ là một cái thang sắt dựng vuông góc với mặt đất. Gặp lúc nguy cấp, chẳng thà tôi ôm con lăn xuống cầu thang bộ trong tòa nhà còn hơn, may ra giữ được mạng. Tuy vậy, dù có mở cửa vào bất kỳ thời gian nào trong ngày, cả căn hộ vẫn ngập tràn ánh sáng. Ngay cửa ra vào là khu vực bếp - phòng ăn được lát sàn bằng gỗ đỏ nên ấn tượng về độ sáng của căn hộ càng mạnh hơn. Đôi mắt trước đó đã quen với bóng tối nơi cầu thang khi tới đây khó mà không nheo lại. - Ui, ấm quá! Đẹp quá! Khi lần đầu tiên được đắm mình trong ánh sáng của căn hộ, cô con gái của tôi lúc đó sắp ba tuổi đã reo lên như vậy. - Đúng là ấm thật! Ông mặt trời kỳ diệu quá nhỉ? Nghe tôi nói vậy, con bé vừa chạy quanh phòng bếp vừa lên giọng: - Chứ sao! Giờ mẹ mới biết à? Bỗng dưng, ngay lúc đó, tôi có cảm giác muốn tự thưởng cho mình vì đã bảo vệ được con bé khỏi những biến đổi của môi trường nhờ lượng ánh sáng này. Mời bạn đón đọc Lãnh Địa Ánh Sáng của tác giả Yuko Tsushima & Thư Trúc (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Pierre Và Jean - Guy de Maupassant
Trong thời gian sáng tạo ngắn ngủi – quãng mười năm của cuộc đời không dài (1850-1893), Guy de Maupassant dành nhiều quan tâm cho truyện ngắn, và cũng nổi tiếng nhờ truyện ngắn. Có lẽ vì thế, sáu cuốn tiểu thuyết của ông ít được người đọc cũng như giới phê bình chú ý (tất nhiên vẫn có ngoại lệ, Lev Tolstoi, đại văn hào Nga cùng thời, coi cuốn "Một cuộc đời", cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Maupassant là "cuốn tiểu thuyết Pháp hay nhất, từ sau Những người khốn khổ của Hugo"). Khoảng vài chục năm cuối thế kỷ XX tình hình có khác và trong sự tiếp cận "đổi mới" tiểu thuyết Maupassant, các nhà nghiên cứu dành một vị trí khá đặc biệt cho Pierre và Jean, cuốn tiểu thuyết thứ tư, xuất bản năm 1888. Với dung lượng không lớn, chỉ như một truyện ngắn, Pierre và Jean có cấu trúc giản dị, văn chương trong sáng. Song, khảo sát sâu hơn, sẽ thấy bên dưới vẻ tự nhiên, đơn sơ, là công phu, là sự lão luyện về phương diện ngôn ngữ và thủ pháp thuật truyện. Về mặt sự kiện, chất liệu của cuốn tiểu thuyết khá ít ỏi: trong một gia đình có hai con trai, người em bất ngờ được thừa kế một tài sản lớn. Biến cố không ở bản thân sự kiện, không do sự kiện tạo nên, mà ở những gì chúng tiết lộ. Và câu chuyện là diễn tiến của một phát hiện – người con lớn phát hiện quá khứ của mẹ mình, phát hiện quan hệ thực sự giữa các thành viên trong gia đình mình. Dần dắt truyện vẫn là một người kể biết hết mọi điều, nhưng ở đây sự "biết hết" rằng có chừng mực, bởi người này hay lẩn mình đi tại những khoảnh khắc chủ chốt, hoặc cứ để lửng lơ một số điều không được nói ra (như ý nghĩ của bà mẹ, của nàng thiếu phụ Rosémilly), hoặc cho sự vật được soi rọi từ điểm nhìn của Pierre, người con cả. Phương thức kể chuyện như thế khiến Pierre và Jean chuỷên thành cuốn tiểu thuyết viết về quá trình của một tư duy, thế giới chính của truyện là thế giới tinh thần, tâm trạng. Đó cũng là chất liệu ưa thích của tiểu thuyết thế kỷ XX, khi các tác giả ngày càng có xu hướng đưa người đọc vào thế giới riêng của một tâm tư, một trí óc, với những dằn vặt, ám ảnh, độc thoại nội tâm. Điều này lý giải vì sao hiện nay nhiều nhà nghiên cứu lại đánh giá Pierre và Jean là một bước chuyển từ truyền thống tiểu thuyết thế kỷ XiX sang tính hiện đại đang manh nha. Một yếu tố khác cũng khiến Pierre và Jean được coi như có tinh bán lề giữa tiểu thuyết hai thế kỷ, giữa truyền thống và cái mới, đó là bài Tựa quan trọng, một tiểu luận được Maupassant đặt cho tiêu đề "Tiểu thuyết". Như một tuyên ngôn, bài Tựa phát biểu những suy nghĩ của Maupassant về phê bình, về thể loại tiểu thuyết, về công việc sáng tác, và về chủ nghĩa hiện thực. Maupassant chống lại thiên kiến hẹp hòi trong phê bình và nhận xét rất chính xác về tính chất mở của tiểu thuyết, một thể loại động, tự do, cho đến bấy giờ vẫn theo quy phạm hoá chặt chẽ. Ông cũng nêu lên ý kiến của mình về chủ nghĩa hiện thực, những ý kiến được nhiều nhà nghiên cứu hiện nay tán thưởng, bởi theo họ, chúng lý giải nghịch lý cũng như tính biện chứng nội tại của khái niệm: sự thật và tính văn chương, phản ánh và hư cấu. Theo Maupassant, bằng việc lựa chọn sự kiện, bằng cách kết hợp, cấu tạo lại các sự kiện, nhà tiểu thuyết truyền đạt cho người đọc cái nhìn riêng của cá nhân anh ta đối với thế giới "tả thực là tạo ra ảo tưởng trọn vẹn về cái thực" do đó "các nhà hiện thực tài ba lẽ ra phải gọi là các nhà gây ảo tưởng thì đúng hơn". Suy nghĩ về công việc của nghệ sĩ, về những gì nghệ sĩ cần và có thể làm, Maupassant đã đặt chân vào con đường trên đó văn học thế kỷ XX sẽ quyết liệt dấn bước, đặt câu hỏi về bản thân, đặt câu hỏi về hành vi viết, hành vi đọc. Có thể đọc Pierre và Jean một cách thoải mái, như một câu chuyện nhẹ nhàng, pha chút ý vị trinh thám. Cũng có thể thưởng thức tác phẩm như một cuốn tiểu thuyết đậm sắc thái hội hoạ ấn tượng chủ nghĩa với hình ảnh trở đi trở lại và vai trò của nước, mô típ ưa thích trong hội hoạ ấn tượng, với tầm quan trọng dành cho sự cải tạo của cái nhìn, với thủ pháp cho nhân vật tự hình thành dần trong mắt độc giả, tương tự cách sử dụng những quệt màu liên tiếp để gợi bức tranh toàn cảnh. Lại cũng có thể, như một vài nhà phê bình phân tâm học Pháp, tìm thấy ở tác phẩm mặc cảm Oedips ngầm ẩn bên dưới cấu trúc gia đình, và sự thấp thoáng của cái vô thức. Đó là cách tiếp cận riêng, là sở thích, là hứng thú cá nhân, tùy thuộc, nói như Maupassant, vào cái tạng của mỗi người NGƯỜI DỊCH *** Henri René Albert Guy de Maupassant (1850–1893) là nhà văn viết truyện ngắn nổi tiếng người Pháp. Guy de Maupassant sinh tại vùng Normandie ở miền bắc nước Pháp, trong một gia đình giàu có. Cha mẹ Maupassant ly thân năm ông lên mười một tuổi, và bà mẹ đã một mình nuôi dạy con. Từ ảnh hưởng ấy, bà đã trở thành nhân vật nữ trong rất nhiều câu chuyện của ông. Maupassant được gửi đến trường nội trú ở Yvetot vì bản tính bất trị, hay nổi loạn. Ông từng học ở trường Phổ thông cao đẳng tại Rouen và được bằng Cử nhân Văn chương. Sau khi tốt nghiệp, Maupassant gia nhập quân đội và tham gia Chiến tranh Pháp–Phổ (1870–1871). Năm 1871, ông đến Paris làm một viên chức nhỏ cho Bộ Hải quân. Từ năm 1878 trở đi ông làm một viên chức Bộ Giáo dục. Cuộc đời làm viên chức nhỏ kéo dài khá lâu, đã để lại nhiều dấu ấn trong tư tưởng và sự nghiệp của ông, góp phần quan trọng vào việc hình thành "hình tượng con người bé nhỏ" - một kiểu nhân vật văn học quan trọng sẽ ra đời vào cuối thế kỷ 19 và thịnh hành suốt nửa đầu thế kỷ 20. Với những khó khăn dồn dập, Maupassant ngày càng trở nên bi quan đến nỗi bị chứng nhức đầu kinh niên không dứt, chỉ có thể làm dịu cơn đau bằng cách hít ether. Việc lạm dụng ether đã gây cho ông nhiều ảo giác và cuối cùng Maupassant bị sụp đổ tinh thần hoàn toàn. Rồi ông trở nên giàu có, và chi tiêu bừa bãi vào thú ăn chơi. Nhưng sau thời gian này, ông trở nên tuyệt vọng, vào năm 1892 tự tử nhưng được cứu sống. Sau đó Maupassant bị giam trong dưỡng trí viện tư nhân Doctor Blanche tại Passy, Paris. Maupassant mất ngày 6 tháng 7 năm 1893, chỉ vừa 42 tuổi, trong thời kỳ thứ ba của bệnh giang mai, căn bệnh đã kết liễu cuộc đời của nhà văn.   Tiểu thuyết Một cuộc đời (Une vie, 1883) Anh bạn đẹp (Bel-Ami, 1885) Mont-Oriol (1887) Pierre et Jean (1888) Fort comme la Mort (1889) Notre Coeur (1890) Truyện ngắn Viên mỡ bò (Boule de Suif, 1880) La Maison Tellier (1881) Une partie de campagne (1881) Cô Fifi (Mademoiselle Fifi, 1882) Contes de la Bécasse (1883) Au soleil (1884) Clair de Lune (1883) Les sœurs Rondoli (1884) Yvette (1884) Miss Harriet (1884) Adieu (1884) Monsieur Parent (1885) Contes du jour et de la nuit (1885) La Petite Roque (1886) Toine (1886) Le Horla (1887) Sur l'eau (1888) Le Rosier de madame Husson (1888) L'héritage (1888) La Main gauche (1889) Histoire d'une fille de ferme (1889) La vie errante (1890) L'Inutile beauté Le père Millon (1899, sau khi chết) Le colporteur (1900) Les dimanches d'un bourgeois de Paris (1900) Bố của Simon (Le Papa de Simon) La Ficelle (1883) La Légende du Mont St Michel (1882) Kịch Histoire du vieux temps (1879) Musotte (1890) La paix du ménage (1893) Une répétition (1910) Phê bình Émile Zola (1883) Étude sur Flaubert (1884) Mời các bạn đón đọc Pierre Và Jean của tác giả Guy de Maupassant.
Những Đứa Con Phố Arbat - Anatoli Rybakov
Anatoly Naumovich Rybakov (Anatoli Rybakov) sinh ngày 14.1.1911 trong một gia đình gốc Do Thái ở Chernygov, từ năm 1919 chuyển về Moskva sống tại phố cổ Arbat. Tốt nghiệp phổ thông, nhà văn tương lai phải làm nhiều nghề kiếm sống: công nhân xưởng hóa chất, bốc vác, lái xe… nên hai mươi chín tuổi mới bước chân vào trường đại học Giao thông vận tải. Thế nhưng, học được ba năm, ngày 5 -11.1933, A. Rybakov bị bắt và lĩnh án tù giam ba năm vì tội “tuyên truyền phản cách mạng”. Mãn hạn tù, không được phép cư trú trong thành phố, anh lang thang hầu khắp nước Nga, nhận làm tất cả các công việc kiếm sống miễn là không phải khai báo, cho đến năm 1938 mới được vào biên chế chính thức, làm kỹ sư trưởng phòng quản lý vận tải đường bộ khu vực Riazan. Năm 1941, chiến tranh bùng nổ, A. Rybakov vào phục vụ trong các đơn vị vận tải quân đội, tham gia chiến đấu ở hầu khắp các mặt trận từ Moskva đến Berlin, năm 1946 làm đến chức trưởng ban cơ giới của quân đoàn, mang hàm kỹ sư thiếu tá. Do những thành tích xuất sắc trong chiến đấu chống quân phát xít, Rybakov được sửa lý lịch, thành “không có tiền sự, tiền án” và đến năm 1960 thì được khôi phục danh dự hoàn toàn. Một trường đời như thế mà để ngoài văn chương thì thậm vô lý - và năm 1947, Rybakov bắt đầu hướng vào hoạt động văn học, mở đầu là thiên truyện phiêu lưu li kỳ dành cho tuổi thiếu niên Thanh đoản kiếm (1948, được đưa lên màn ảnh hai lần, vào năm 1954, 1973) rồi hai phần tiếp theo: Con chim đồng (1956, thành phim năm 1974) và Tiếng súng (1975, trước đó, năm 1974 đã được dựng thành phim Mùa hè cuối cùng của tuổi thơ). Thành công của hai cuốn sách đầu tay giúp nhà văn tự tin đi tiếp mạch truyện viết cho thiếu niên: từ Những cuộc phiêu lưu của Krosh (1960, thành phim năm 1961) ông viết hai cuốn tiếp theo Những kỳ nghỉ của Krosh (1966, thành phim năm 1979), Người lính vô danh (1970, hai lần lên màn ảnh - Phút mặc niệm, 1971 và Người lính vô danh, 1984).  Ở thể loại tiểu thuyết dành cho người lớn, Rybakov thử sức bằng cuốn Những người cầm lái (1950, về những chiến sĩ lái xe vận tải, cựu đồng nghiệp của mình), và năm sau được giải thưởng Stalin hạng nhì. Khi Stalin thấy trong danh sách những nhà văn được đề nghị tặng giải thưởng mang tên mình có Rybakov, ông bèn bảo A. Fadeev, người đứng đầu Hội Nhà văn Liên Xô hồi ấy: “Thế đồng chí có biết người này đã bị khai trừ đảng và ba lần bị tòa xử về tội phản cách mạng?” Và Rybakov đã giải trình được: ông chưa hề được kết nạp nên không có chuyện khai trừ, còn án tù thì đã được hủy từ khi ông đang ở chiến trường. Tiếp đó, Rybakov thành công lớn với Ekaterina Voronina (1955, về đường đời một cô gái mồ côi trở thành nhà quản lý giao thông đường sông với những thăng trầm theo thời cuộc, được dựng thành phim năm 1957) rồi cho ra đời Mùa hè ở Sosnyaky (1964, về nhân tình thế thái tại công trường xây dựng một khu liên hợp hóa chất bên bờ hồ Baikal). Năm 1978, cuốn Cát nặng ra đời. Tiểu thuyết này kể về chặng đời 1910 - 1950 của một gia đình người Do Thái tại một địa phương có nhiều dân tộc chung sống ở miền bắc Ukraina, về mối tình sâu nặng bất chấp mọi rào cản qua hàng chục năm, về thảm kịch lò thiêu người của bọn phát xít làm thiệt mạng hàng triệu người dân tộc thiểu số thuộc những quốc gia khác và xóa sổ gần 1/3 tổng số người Do Thái trên toàn cầu, đồng thời kể lại gương chiến đấu dũng cảm của những chiến sĩ du kích chống phát xít. Tác phẩm đỉnh cao này kết hợp được cả vẻ đẹp văn chương, cả chiều sâu triết học, vừa có sự phân tích lý giải những sự kiện lịch sử, vừa có tính biểu tượng cao: hình tượng nữ nhân vật chính trong mối tình kể trên, và sau đó, ở phần cuối tiểu thuyết, là người mẹ, người vợ của Rakhile đầy tính ẩn dụ về lòng căm thù của dân Do Thái đối với phát xít Đức. Tác phẩm được chuyển thể thành phim truyền hình nhiều tập năm 2008. Chịu số phận lận đận hơn cả là tiểu thuyết Những đứa con của phố Arbat: được tác giả viết xong từ những năm 1960, thời Khrutshov, nhưng đến năm 1987 thời Gorbachov phát động cuộc cải tổ mới có thể đến với độc giả và năm 2005 thành phim truyền hình nhiều tập. Trong lứa thiếu niên ở phố Arbat đầu thế kỷ XX khá nhiều người tài, trong đó có nhà thơ - nhạc sĩ Bulat Okudjava và nhà văn Anatoli Rybakov cùng sống ở dãy nhà đánh số lẻ. Cả hai nhà văn bậc thầy này đều đã ra mặt trận chiến đấu: Okudjava - con trai của một tù nhân - tình nguyện nhập ngũ khi mới mười bảy tuổi, còn Rybakov – cựu tù nhân về tội “tuyên truyền phản cách mạng” – sung vào đơn vị vận tải quân sự và được phục hồi danh dự khi Okudjava đã có năm năm tuổi Đảng. Những đứa con của phố Arbat là tác phẩm sớm nhất viết về số phận lứa thanh niên mới lớn vào những năm 1930 và được dịch giả Lê Khánh Trường nhanh chóng chuyển sang tiếng Việt. Cốt truyện tự nhiên dựa trên những biến cố có thật trong đời tác giả, với nhãn quan đúng đắn của nhà văn, nhìn nhận chuyện quá khứ tuy vương nỗi buồn thương, nhưng bao trùm là một thái độ khoan dung, không oán thán, Những đứa con của phố Arbat được coi như một “quả bom tấn trong văn học”, mang lại vinh quang thực thụ cho nhà văn. Được đà, tác giả sau đó viết tiếp cả một chùm ba tiểu thuyết nữa: 1935 và những năm khác (1989), Kinh hoàng (1990), Bụi và tro (1994).  Cũng như đối với nhiều tác phẩm trước đó, Rybakov thường đi tiếp mạch của cuốn truyện thành công để làm thành những cuốn sách trọn bộ. Đặc biệt, giữa bộ truyện này với bộ truyện kia vẫn có mối liên quan gắn bó: nhân vật chính trong Những đứa con của phố Arbat là Sasha Pankratov từng xuất hiện thấp thoáng trong cuốn Tiếng súng. Người đọc có thể thấy nét đặc sắc này khi có trong tay bộ Tuyển tập tác phẩm Anatoli Rybakov gồm bảy cuốn, xuất bản năm 1995.  Anatoli Rybakov mất ngày 23.12.1998 tại New York, được đưa về an táng tại Moskva. Những đứa con phố Arbat NXB văn học 198x Mời các bạn đón đọc Những Đứa Con Phố Arbat của tác giả Anatoli Rybakov.
Người Thầy Thuốc - Noah Gordon
“Người thầy thuốc” (Noah Gordon) là câu chuyện về một cậu bé người Anh vượt qua địa giới châu Âu để đến Ba Tư với ước mơ trở thành thầy thuốc. Cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh London (Anh) thế kỷ 11. Lên chín tuổi, Rob Cole và đàn em thơ mất mẹ. Không lâu sau người cha qua đời. Phường hội thợ mộc chia lũ trẻ bơ vơ về các gia đình nuôi nấng. Rob được một phó cạo kiêm thầy lang hay say xỉn bảo hộ. Từ đó, với hành trang đặc biệt là năng khiếu dự cảm cái chết (với những nỗi kinh hãi, bi thương), Rob rong ruổi khắp nước Anh trên một chiếc xe ngựa… Định mệnh đã sắp đặt cho cậu gặp gỡ với một thầy thuốc, người khiến Rob muốn đến được Ba Tư, chạm vào gấu áo vị thầy thuốc nổi danh trong lịch sử y học - Abu Ali at-Husain ibn Abdullah ibn Sina. Trên con đường chông gai đó, dù có lúc phải từ bỏ tình yêu, đối mặt với cái chết, hay đội lốt một người khác, Rob Cole vẫn dần bước. Anh muốn trở thành thầy thuốc. Với “Người thầy thuốc,” Noah Gordon đã kể một câu chuyện ấn tượng về thời kỳ Trung cổ với những chất liệu sinh động liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau như: lịch sử, tôn giáo, y học… Những trang sách cũng là những câu chuyện đẹp về tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình và nghị lực vượt qua nghịch cảnh, theo đuổi ước mơ. “Người thầy thuốc” được bình chọn là một trong mười cuốn sách được yêu thích nhất mọi thời đại tại Madrid Book Fair năm 1999. Nhà văn Noah Gordon sinh năm 1926 tại Mỹ. Chủ đề chính trong các tiểu thuyết của ông là lịch sử y học và vấn đề y đức. Bên cạnh đó, lịch sử, văn hóa Do Thái cũng là một mảng đề tài lớn trong các sáng tác của ông. Noah Gordon từng được trao nhiều giải thưởng văn học của Tây Ban Nha, Italy và Mỹ... *** "Cuốn tiểu thuyết lôi cuốn của Gordon tái tạo thế kỷ 11 mạnh mẽ đến mức độc giả bị cuốn theo hàng trăm trang sách bởi đợt thủy triều của trí tưởng tượng và những chi tiết lịch sử xác thực." - Publishers Weekly. "Người thầy thuốc mang màu sắc The Pillars of the Earth của Ken Follett, nhưng với sự phát triển sâu hơn ở cả cốt truyện lẫn nhân vật... Quả là một cuốn sách mở mang đầu óc và khó quên." - Zoltaire's Blog. "Câu chuyện phiêu lưu tràn ngập cảm hứng về cuộc tìm kiếm tri thức y học diễn ra trong một thế giới đầy bạo lực, mê tín và thành kiến." - Library Journal. *** Noah Gordon sinh năm 1926 ở Worcester, Massachusetts, Mỹ. Sau khi tốt nghiệp ngành báo chí và Anh ngữ ông theo nghề làm báo. Trong thời gian làm biên tập viên khoa học cho một tờ báo ở Boston ông đã có một số truyện ngắn ra mắt bạn đọc đăng trên các báo hàng đầu ở Mỹ. Ông đã nổi tiếng ngay với tiểu thuyết đầu tay The Rabbi (Giáo sĩ Do Thái). Các tác phẩm tiếp theo The Death Commitee, The Jerusalem Diamond, Shaman... cũng đều trở thành sách bán chạy. Chủ đề chính trong các tiểu thuyết của Gordon là lịch sử y học và y đức. Phần sau sự nghiệp, ông tập trung nhiều hơn vào chủ đề Tòa án dị giáo và lịch sử văn hóa Do Thái. Ông từng nhận các giải thưởng Que Leer Prize (Tây Ban Nha) và Boccaccio Literary Prize (Ý), James Fenimore Cooper Prize for Best Historical Fiction (Mỹ)...   Mời các bạn đón đọc Người Thầy Thuốc của tác giả Noah Gordon.
Người Đẹp Trong Khách Sạn - Hoàng Minh Tường
Người đẹp trong khách sạn là tiểu thuyết được xuất bản năm 1990  Có một lần, sau ba tháng làm việc ở Băng Cốc, nơi đặt trụ sở văn phòng UNESCO khu vực, Pôn Vericơn trở về căn phòng của mình ở khách sạn Hoa Sen. Người ta đã chuẩn bị cho anh một bữa ăn hết sức thịnh soạn với những món ăn mà anh ưa thích. Ngồi xuống bàn ăn mà mắt Pôn cứ nhìn đi đâu đó, tựa hồ như anh vừa bị mất một cái gì, thiếu vắng một cái gì. Và anh cứ ngồi hút hết điếu xì gà này tiếp điếu khác, chai rượu vang còn nguyên trước mặt, những món ăn nguội ngắt. *** Hoàng Minh Tường là một trong những nhà văn hiện đại của Việt Nam, tác giả cuốn Thời của thánh thần Hoàng Minh Tường từng trải qua các nghề dạy học, viết báo và viết văn. Hoàng Minh Tường là một trong những nhà văn hiện đại của Việt Nam, tác giả cuốn Thời của thánh thần vừa phát hành đã bị thu hồi. Tiểu thuyết Đồng chiêm, Nhà xuất bản Thanh niên (1979) Đầu sông, (1981) Những ngả đường, Nhà xuất bản Công an nhân dân (1986) Gặp lại dòng sông, Nhà xuất bản Lao động (1986) Những người ở khác cung đường, Nhà xuất bản Giao thông vận tải (1988) Con hoang (1989) Người đẹp trong khách sạn (1990) Giá như được yêu một người (1994) Thủy hỏa đạo tặc, Nhà xuất bản Văn học (1996) Đen và béo, Nhà xuất bản Kim Đồng (1997) Đồng sau bão, Nhà xuất bản Văn học (2000) Ngư phủ, Nhà xuất bản Công an nhân dân (2005) Thời của thánh thần. Nhà xuất bản Hội nhà văn (2008) Gia phả của đất. Nhà xuất bản Phụ Nữ (2013) Nguyên khí. Nhà xuất bản Dân Khí,NgườiViêtshop,(2014) Le temps des Genies Invincibles - Nhà xuất bản La Fremillerie - Paris,(2014) Thi sĩ sang sông - Bản dịch tiếng Hàn Quốc - Nhà xuất bản B books - Seul,(2015) Thời của Thánh Thân Bản dịch tiếng Nhật - Nhà xuất bản Đại học Ngoại ngữ Tokyo - Tokyo,(3/2016) Những mảnh Rồng Nhà xuất bản Vipen,Berlin,Đức (2018) Truyện ngắn Cưới lại, Nhà xuất bản Hà Nội (1992) Gã viết thuê, Nhà xuất bản Hội nhà văn (1999) Những mảnh đời khác nhau, Hoàng Minh Tường, Phạm Ngọc Chiểu, Nhà xuất bản Tác phẩm mới (1986) Những chuyện tình xưa cũ,Nhà xuất bản Hoi nha van, (2000) Nàng Êva mù, Nhà xuất bản Lao động (2005) Cá hóa Rồng, (2006) Khoảng xanh non, (2007) Ngôi nhà ma,(2013) Bút ký, phóng sự Đa thê: Nhà xuất bản Lao động (1995) Nghìn lẻ một nàng dâu (2002) Thôn quê liệt truyện (2006) Chuyện một người thầy (2007) Bình minh đến sớm, Nhà xuất bản Kim Đồng (1986, 1990), Nhà xuất bản Trẻ (2000) Bạn văn ngoài vùng phủ sóng, Nhà xuất bản Hội nhà văn (2011) Mời các bạn đón đọc Người Đẹp Trong Khách Sạn của tác giả Hoàng Minh Tường.