Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Từ Trái Đất Đến Mặt Trăng

Khi cuộc nội chiến Hoa Kỳ gần kết thúc, những tay súng cuồng tín của Câu lạc bộ Súng ở Baltimore rất nhàn rỗi. Một ngày đẹp trời, chủ tịch Impey Barbicane đưa ra một đề xuất được chào đón một cách nhiệt tình. Đó là việc liên hệ với Mặt trăng bằng cách phóng một quả đạn khổng lồ bằng một khẩu pháo khổng lồ! Trong khi dự án đáng kinh ngạc này đang được thực hiện, một người Paris, Michel Ardan, gửi điện báo cho Barbicane: “Hãy thay thế quả đạn hình cầu bằng quả đạn hình nón. Tôi sẽ ngồi vào trong đó”... Với các nhân vật được xây dựng hoàn hảo, sự hài hước luôn hiện hữu, Từ Trái đất đến Mặt trăng là một trong những tác phẩm vĩ đại của Jules Verne, một trong những dự đoán táo bạo nhất của ông. Tác phẩm được Thanh Yên dịch từ bản dịch tiếng Anh. *** Jules Gabriel Verne sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828 tại Pháp và được coi là cha đẻ của thể loại Khoa học viễn tưởng. Để theo đuổi việc viết văn, Jules Verne đã bỏ học luật, nghề cha ông định hướng. Cuốn tiểu thuyết đầu tay thành công Năm tuần trên khinh khí cầu (1863) đã mở đầu cho hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng về sau của Jules Verne như Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất (1864), Hai vạn dặm dưới biển (1870), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (1873)… Các  tác phẩm của ông được dịch khắp nơi trên thế giới. Jules Verne mất ngày 24 tháng 3 năm 1905. Sau khi ông qua đời, nhiều tiểu thuyết chưa in của ông vẫn được tiếp tục xuất bản. - Ông là nhà văn Pháp nổi tiếng, được coi là người khai sinh ra thể loại văn học Khoa học viễn tưởng. - Tác phẩm của ông được dịch nhiều thứ ba trên thế giới và được chuyển thể thành phim nhiều lần. - Danh tiếng ấy chắc hẳn đã là đẹp đẽ lắm rồi. Tuy nhiên ông còn xứng đáng được nhiều hơn thế. Và thật không công bằng khi chúng ta kể lại lịch sử văn học của thời đại này mà không đặt tiểu thuyết gia có lẽ là có tính sáng tạo bậc nhất vào một vị thế đúng đắn. - Ông đã dùng phòng thí nghiệm và kính viễn vọng để viết tiểu thuyết phiêu lưu. Ông không chỉ ghi lại quá trình các nhà bác học tạo nên những phát minh lớn, mà còn tiên đoán chúng. Đọc những tác phẩm cùa ông, ta có thể nhận thấy những mâu thuẫn vì trong số những ý tưởng khoa học còn có những kiến phát chưa thể xác minh. Và bỗng dưng năm sau, hoặc vài năm sau, những giả thuyết mà ông đặt ra mà đôi khi thậm chí ông còn không tin, đã trở thành sự thật, một cách hoàn toàn chính xác. Những nhà bác học đã hoàn toàn đồng tình với ý tưởng của ông, hay nói cách khác, ông đã đi trước họ!.. - Trước đây, người ta vẫn đặt câu hỏi liệu khoa học thực sự có đi ngược hướng với trí tưởng tượng văn chương hay không. Các nhà triết học thì đồng tình, lules Verne chứng minh điều ngược lại qua hành động. Ông dùng chất liệu khoa học để xây dựng nên những câu chuyện hấp dẫn, những cuộc phiêu lưu lôi cuốn. *** T rong cuộc nội chiến Hoa Kỳ, hay còn gọi là cuộc chiến tranh giữa các tiểu bang (1861-1865), tại thành phố Baltimore, bang Maryland đã xuất hiện một câu lạc bộ mới và có sức ảnh hưởng ngoài mong đợi của những người sáng lập. Nó nổi lên cùng với nguồn năng lượng đến từ những tham vọng quân sự đang lớn dần giữa các nhóm chủ tàu, chủ hiệu và thợ cơ khí. Các nhà buôn thuần túy bỏ bàn tính để trở thành đại úy, đại tá và tướng lĩnh mà chưa hề có mặt dù chỉ một ngày ở Trường đào tạo West Point; thế mà, họ vẫn mau chóng sánh ngang với những kẻ đồng cấp nơi lục địa già và cũng như những kẻ kia, giành được thắng lợi nhờ các khoản chi vô tội vạ vào đạn dược, tiền bạc và con người. Nhưng lĩnh vực trong đó người Mỹ đặc biệt bỏ xa người châu Âu là khoa học chế tạo đại bác. Không phải vũ khí của họ có độ hoàn hảo cao hơn mà đơn giản chỉ là họ tạo ra các kích thước lớn hơn; lớn chưa từng thấy, thậm chí lớn tới mức xưa nay chưa từng thấy. Có người còn bạo mồm nói rằng kể cả mãi mãi về sau… Ở các khoản bắn quét, phóng, xiên, hay lia, hoặc bắn thẳng, người Anh, Pháp và Phổ chẳng có gì cần học hỏi; nhưng súng đại bác, bích kích pháo và súng cối của đám người này chỉ là thứ súng lục bỏ túi nếu so với những cỗ máy ghê gớm của pháo binh Mỹ. Sự thật này chẳng làm bất ngờ ai. Người Yankee, dù đây là theo cách gọi coi thường của người miền Nam trong thời kỳ nội chiến dành cho dân Bắc Mỹ, thì chính họ, những thợ cơ khí đầu tiên trên thế giới, là các kỹ sư – cũng như người Ý là nhạc công còn người Đức là các nhà siêu hình học bẩm sinh. Chẳng gì nghiễm nhiên hơn, thế đấy, việc nhìn họ ứng dụng tài hoa ấn tượng của mình vào khoa học chế tạo đại bác. Chứng kiến sự kỳ diệu của các loại súng Parrott, Dahlgren và Rodman, thì lục địa già với những súng Armstrong, Palliser và Beaulieu vang lừng tên tuổi một thời đã buộc phải cúi đầu trước những kình địch ở bên kia Đại Tây Dương. Giờ đây khi một người Mỹ có kế hoạch hành động, anh ta sẽ trực tiếp tìm một anh Mỹ thứ hai để bàn bạc và mời hợp tác. Nếu có ba, họ sẽ chọn ra một thủ lĩnh. Khi có bốn, họ sẽ chỉ định người quản lý hồ sơ và văn phòng sẵn sàng hoạt động. Nếu có năm, họ sẽ tiến hành mọi nghi lễ cần thiết để cho ra đời một câu lạc bộ. Chính là cái câu lạc bộ nói trên. Mọi thứ diễn ra tại Baltimore. Nhà sáng chế ra loại đại bác mới ủng hộ các thợ đúc và thợ khoan. Từ đó hình thành nên cốt lõi, nền tảng cho sự ra đời Câu lạc bộ Súng. Rồi, chỉ vẻn vẹn một tháng sau ngày thành lập, câu lạc bộ đã có tới 1.833 hội viên hợp thức và 30.565 hội viên thông tấn. Một điều kiện được coi như yếu tố tiên quyết đối với mỗi ứng viên khi gia nhập câu lạc bộ này, là phải đã hoặc đang thiết kế, hoặc (ít hay nhiều) từng hoàn thiện một khẩu đại bác; hoặc, nếu không đại bác, chí ít cũng là loại súng ngắn nào đó. Ấy thế mà, nghe nói, chỉ các tay sáng chế ra súng lục ổ quay, súng cạc bin khạc lửa và các vũ khí tương tự cỡ nhỏ, mới gặp ít soi xét nhất. Riêng lính pháo binh luôn được xếp hạng ưu trong điều khoản chiếu cố. Quy ước để tổ chức các quý ông này, theo một trong những diễn giải khoa học nhất và cũng mơ hồ nhất, của Câu lạc bộ Súng, là “tương ứng với số lượng súng của họ và tỷ lệ thuận với bình phương khoảng cách đạt được khi đạn bắn ra”. Khi Câu lạc bộ Súng được thành lập, tương lai về các thiên tài phát minh của người Mỹ thật quá dễ mường tượng. Vũ khí quân sự của họ đạt tới tầm vóc khổng lồ, còn đạn của họ, vượt mọi giới hạn quy chuẩn, thỉnh thoảng chẳng may cắt đôi vài khách bộ hành vô tội. Những sáng chế này, trên thực tế, bỏ xa các thiết bị nhút nhát của pháo binh châu Âu lại phía sau. Cũng là lẽ công bằng khi nói thêm rằng những người Yankee này, dũng cảm như họ từng thể hiện, đã không hạn chế chính mình trong các học thuyết và công thức, nhưng đã phải trả giá đắt, bằng chính bản thân, cho các sáng chế của họ. Trong số họ có đủ các cấp sĩ quan, từ trung úy tới cấp tướng; quân nhân thuộc mọi lứa tuổi, trong đó có người vừa mới gia nhập ngành vũ khí cho tới những người đã già đi cùng xe chở pháo. Phần còn lại của nhiều người được tìm thấy trên chiến trường và dòng tên viết in hoa trong Cuốn sách Danh vọng của Câu lạc bộ Súng, nhiều người khác tỏa ánh vinh quang mang theo những dấu tích của lòng dũng cảm không thể bàn cãi. Nạng đỡ, chân gỗ, tay giả, móc thép, hàm cao su, sọ bạc, mũi bạch kim, đều được tổng kết lại; và nhà thống kê xuất sắc Pitcairn tính toán rằng, suốt thời gian hoạt động của Câu lạc bộ Súng, cứ bốn người thì một thiếu đôi tay toàn vẹn và sáu người thì một không có đôi chân đủ đầy. Tuy nhiên, những pháo thủ can đảm này chẳng dành chút chú ý đặc biệt nào tới những thừa thiếu nhỏ nhoi này, mà chỉ cảm thấy niềm tự hào dâng tràn khi thông báo kết quả gửi về từ trận chiến: Con số tử vong gấp mười lần lượng đạn tiêu hao. Một ngày nọ, ấy vậy mà lại là ngày u buồn! Hòa bình được ký kết giữa những kẻ sống sót sau cuộc chiến; tiếng gầm rú của đạn pháo dần vơi, súng cối trở nên câm lặng, bích kích pháo bị bịt kín miệng trong thời gian không hạn định, đại bác, với những họng súng rầu rĩ, bị kéo vào kho… những hồi ức đẫm máu cũng lu mờ; cây bông mọc sum suê trên những cánh đồng được bón phân cẩn thận, tất cả đồ tang lễ được xếp sang một bên, cùng với nỗi đau thương; còn Câu lạc bộ Súng bị đẩy xuống trạng thái trì trệ vô thời hạn. Dăm ba nhà lý luận cấp cao thâm căn cố đế quay lại với việc sửa đổi các trù tính về luật súng đạn. Họ khăng khăng lật lại vấn đề về đạn pháo khổng lồ và bích kích pháo ngoại cỡ. Nhưng thiếu thực tiễn, mớ lý thuyết này có giá trị gì? Và như vậy, các phòng trong câu lạc bộ trở nên vắng ngắt, những người phục vụ ngủ gà gật nơi tiền sảnh, báo chí mốc meo trên bàn, tiếng ngáy vọng ra từ góc tối, còn hội viên của Câu lạc bộ Súng, khi xưa ầm ĩ trong cả phiên họp lẫn giờ giải lao, nay tụt xuống im ắng vì thứ hòa bình tai họa này và buông bỏ toàn bộ bản thân vào những giấc mơ về một nền pháo binh thuần khiết. “Thật là tệ hại!” Tom Hunter nói khi chiều tối, trong lúc đang mau chóng tôi cacbon cặp chân giả trong lò sưởi phòng hút thuốc. “Chẳng có gì để làm!” anh nói, giọng hằn học. “Chẳng có gì để trông mong! Cái loại tồn tại ghê tởm này! Đến khi nào súng ống lại đánh thức chúng ta dậy buổi sáng bằng tiếng nổ dễ chịu của nó đây?” “Những ngày đó qua rồi,” Bilsby dễ mến nói, cố duỗi đôi tay đã mất. “Đã là ngày xưa vui vẻ rồi! Một người phát minh ra súng và khó khăn lắm mới đúc ra nó, một người vội vã thử dùng để đối đầu với kẻ thù! Sau đó một người quay về doanh trại cùng lời cổ vũ của Sherman hoặc cái bắt tay thân thiện với McClellan. Nhưng giờ các tướng đều quay lại với bàn tính; và thay vì súng đạn, họ gửi đi các kiện bông. Trời ơi, tương lai ngành chế tạo đại bác của nước Mỹ tiêu rồi!” “Ây! Còn chẳng có viễn cảnh chiến tranh nào!” James T. Maston nổi tiếng tiếp lời, cào cào cái sọ nhựa kết của mình bằng bàn tay móc thép. “Chẳng có nguy cơ nào trong tương lai! Mà lại còn ở cái giai đoạn then chốt trong sự phát triển của khoa học pháo binh! Đúng thế đấy, các quý ông! Tôi, người đang nói với các bạn đây, sáng nay đã hoàn thiện một mẫu, đủ cả, gồm bố trí, mặt cắt, góc nâng, vân vân và vân vân của loại súng cối sẽ thay đổi mọi tình thế chiến trận!” “Không… không! Có thể như vậy ư?” Tom Hunter kêu lên, vô tình nhớ lại sáng chế trước kia của ngài J. T. Maston, bằng cách nào đó, trong lần thử nghiệm đầu tiên, đã tiêu diệt ba trăm ba mươi bảy tên địch. Một thành công hơn cả mơ ước. “Nhưng mà,” anh nói tiếp, “tiến hành nhiều nghiên cứu, đánh bại nhiều khó khăn thì cũng có ích lợi gì đâu? Chỉ lãng phí thời giờ! Tân Thế Giới có vẻ đã quyết tâm sống trong hòa bình; còn vị lãnh đạo hiếu chiến của chúng ta dự đoán rằng một số thảm họa sắp phát sinh từ sự gia tăng dân số tồi tệ này.” “Tuy nhiên,” đại tá Blomsberry đáp lời, “ở châu Âu họ luôn phải vật lộn để duy trì nguyên tắc của các dân tộc.” “Thì sao?” “Thôi nào, có thể là vẫn có chỗ cho lòng can đảm ở bên đó và nếu họ chấp nhận sự phục vụ của chúng ta…” “Cậu mơ mộng cái gì đấy?” Bilsby hét lên, “chế tạo đại bác vì lợi ích của lũ ngoại quốc ư?” “Thế chả hơn là vô công rỗi nghề ở đây sao?” đại tá đáp trả. “Chính xác,” J. T. Matson nói, “nhưng chúng ta không cần tính đến cái kế đó.” “Tại sao không?” đại tá gặng hỏi. “Vì quan điểm về sự tiến bộ ở Cựu Thế Giới của họ trái ngược với thói quen tư duy của người Mỹ chúng ta. Những kẻ đó tin rằng không ai có thể trở thành tướng mà ban đầu không phục vụ với vai trò người cầm cờ; thế thì chẳng khác gì nói một người không thể chĩa súng nếu không tự làm ra một khẩu súng trước đó!” “Lố lăng!” Tom Hunter vừa nói vừa gọt đẽo tay ghế bành bằng một lưỡi mác, “nhưng nếu như vậy, tất cả những gì còn lại cho chúng ta chỉ là trồng thuốc lá và chưng dầu cá voi.” “Gì đây!” J. T. Maston gầm lên, “Sao chúng ta không tận dụng những năm còn lại của đời mình để hoàn thiện loại súng cầm tay? Chẳng lẽ không bao giờ có cơ hội tử tế để thử tầm đạn à? Chẳng lẽ ánh chói ngời từ súng của chúng ta sẽ không bao giờ làm bừng sáng không gian nữa à? Không có mâu thuẫn quốc tế nào nảy sinh để chúng ta tuyên bố chiến tranh chống lại các thế lực bên kia Đại Tây Dương hay sao? Chẳng lẽ không người Pháp nào đánh chìm tàu hơi nước của chúng ta, hay người Anh, bất chấp quyền lợi giữa hai dân tộc, treo cổ vài đồng hương của chúng ta hay sao?” “Không may mắn thế đâu,” đại tá Blomsberry đáp, “chẳng cái gì tương tự có khả năng xảy ra đâu, mà dù có, chúng ta cũng chả lợi dụng được gì từ nó. Tính nhạy cảm của người Mỹ đang sụt giảm mau chóng, rồi tất cả chúng ta đều sẽ lụn bại.” “Quá đúng,” J. T. Maston trả lời với giọng giận dữ chưa tan, “Có hàng ngàn chiến trường để chiến đấu, nhưng chúng ta không chiến đấu. Chúng ta hy sinh tay chân cho lợi ích của các dân tộc – những kẻ không biết phải làm gì với chúng! Nhưng khoan – khỏi tốn công tìm động cơ chiến tranh – chẳng phải Bắc Mỹ một lần nữa lại thuộc về người Anh?” “Chắc chắn thế rồi,” Tom Hunter đáp, giậm giậm nạng của mình trong cơn giận dữ. “Chà, nếu vậy,” J. T. Maston nói, “tại sao không đổi lại nước Anh thuộc về người Mỹ?” “Thế mới thích đáng và công bằng,” đại tá Blomsberry đáp lại. “Hãy kiến nghị với tổng thống Mỹ đi,” J. T. Maston ré lên, “và xem xem ông ta sẽ tiếp đón anh thế nào.” “Hừ!” Bilsby gầm gừ giữa bốn chiếc răng chiến tranh đã để lại cho mình, “Điều đó không bao xảy ra!” “Trời ơi!” J. T. Maston la lớn, “Thế thì ông ta hẳn không cần phiếu của tôi cho lần bầu cử tiếp rồi!” “Cũng không cần của chúng tôi luôn,” tất cả các thương binh hiếu chiến nhất trí đáp lời. “Trong lúc ấy,” J. T. Maston tiếp tục, “cho phép tôi nói điều này, nếu tôi không thể tóm được một cơ hội để thử nghiệm súng cối mới của mình trên chiến trường chân chính, tôi sẽ nói lời tạm biệt với tất cả thành viên của Câu lạc bộ Súng và đi chôn vùi bản thân trong các thảo nguyên ở Alaska!” “Trong trường hợp đó, chúng tôi sẽ đi theo anh,” những người khác kêu lên. Chuyện là trong tình cảnh đáng tiếc ấy, câu lạc bộ bị đe dọa trước nguy cơ giải tán, thì một tình huống bất ngờ đã xảy ra và ngăn chặn một kết thúc bi đát. Vào ngày tiếp theo sau cuộc trò chuyện này, mỗi thành viên của hội đều nhận được một giấy báo có niêm phong thuật lại nội dung sau: BALTIMORE, Ngày mùng ba tháng Mười, Chủ tịch Câu lạc bộ Súng trân trọng thông báo tới các đồng sự rằng, tại buổi họp khẩn cấp lần thứ năm, ngài sẽ mang đến cho họ một tin tức vô cùng thú vị. Ngài yêu cầu, do đó, họ sẽ phải chuẩn bị sẵn sàng để tham gia theo đúng lời mời này. Rất thân ái. IMPEY BARBICANE, Chủ tịch Câu lạc bộ Súng. Mời các bạn đón đọc Từ Trái Đất Đến Mặt Trăng của tác giả Jules Verne & Thanh Yên (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thắng Bại - Nguyễn Văn Hồng
Thắng Bại là bức tranh hoành tráng và chân thực về một thời cách mạng sôi động và oanh liệt của bà con lao động sống nơi cửa ô và nhân dân Hà Nội, cùng nhân dân cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng vùng lên làm Cách mạng tháng Tám và trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp tới ngày giải phóng Thủ đô. Bạn đọc như được sống lại cùng với các nhân vật trọng bầu không khí sôi sục cách mạng, cũng như hiểu rõ cảnh cơ cực bần hàn của người dân mất nước, để càng thêm quý, thêm yêu quá khứ hào hùng và vẻ vang của dân tộc, càng thấy rõ cái giá mà dân tộc ta đã phải trả để giành giữ độc lập và tự do. Cửa ô bất ngờ bùng cháy ngọn lửa cách mạng. Cùng với đồng bào Thủ đô, bà con nơi đây tập hợp thành đội ngũ tiến vào Hà Nội cướp chính quyền từ trong tay Nhật Pháp, giành lại độc lập tự do. Rồi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Rồi cả nước trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng bào sống nơi cửa ô vẫn bền bỉ sát cánh cùng nhân dân Hà Nội tiếp tục chiến đấu trong lòng địch cho tới ngày giải phóng Thủ đô... Mặc dù giặc Pháp đã cố tình bưng bít, tin thất thủ Điện Biên Phủ vẫn cứ lọt vào từng căn phòng kín của mỗi gia đình Hà nội. Để rồi ai nấy dường như lúc nào cũng dỏng tai lên đón đợi những tin tức từ hội nghị Giơ-ne-vơ vọng về... Không khí Hà Nội dồn nén hết mức. Người công khai, kẻ âm thầm chuẩn bị cho tương lai, phòng khi... nước đến chân... Cuối cùng thì, không còn là những lời thầm lén, vụng trộm mà là loa phát, báo đăng Trên bàn đàm phán tại hội nghị Giơ-ne-vơ, hiệp định đình chiến giữa hai chính phủ Việt Pháp đã được ký kết!. *** Trời sắp sáng. Từ trong lòng nội thành, mọi thứ tiếng nổ vọng ra tới cửa ô, lúc này đã thưa hơn. Và, cả những quầng lửa đỏ rực trên bầu trời Hà Nội, lúc này cũng đã nhạt dần… Suốt đêm, khúc đường nơi cửa ô này ồn ào, náo động bởi số đồng bào trong nội thành vì nhiều lí do khác nhau, cố nấn ná nuôi hi vọng vào lời sấm truyền: “Thăng Long phi chiến địa” do cổ nhân để lại. Song, lời sấm không ứng nghiệm. Thế là cuộc chiến tranh vệ quốc đã nổ ra, ngay tại giữa kinh thành Thăng Long ngàn năm văn hiến! Và, cho mãi tới tận khi tiếng súng đã thực sự rền vang, cùng với khói lửa chiến tranh ngùn ngụt bốc lên, thì số đồng bào này mới đành lòng dứt bỏ mái ấm thiêng liêng của gia đình mình, hối hả gồng gánh, dắt díu nhau lên đường… chạy tản cư. Khi đã vượt qua được cái ụ chiến đấu vừa rộng vừa cao[1] sừng sững đứng chắn ngang mặt đường Nam Bộ[2] thì ai nấy bỗng đều dừng lại, ngoái đầu nhìn về nơi súng nổ rền vang và lửa đang rừng rực bốc cao, nơi mà họ vừa từ đấy bước ra… Minh và Tấc từ trong Ngõ Bò đi ra, vừa tới cửa ô gặp ngay cảnh tượng ồn ào, hỗn độn của đám đông đồng bào, mà chỉ thấy có hai ba đồng chí tự vệ làm công tác giữ trật tự, tình hình cứ rối lên. Minh bèn bảo Tấc cùng mình xông vào can thiệp: đun nước mời đãi mọi người, can các đám cãi nhau… Một bà – nom cách ăn mặc ra dáng người giàu có – sau một hồi nghỉ ngơi, đến lúc con cháu giục mời đứng dậy đi tiếp thì bỗng nhiên đổi ý. Bà khăng khăng đòi quay trở lại ngôi nhà do chính bàn tay tần tảo của mình chắt chiu “từng đồng từng chữ” để tạo dựng nên. Nay dù thế nào bà cũng quyết đòi được chết tại chính cái ngôi nhà ấy. Người con trai Âu phục chỉnh tề, người con dâu áo “lơ muya” quần lĩnh trắng, khăn san, giày cườm (dường như chiến tranh là một sự quá đỗi bất ngờ, nên không kịp lo liệu cho mình…); và đàn cháu bốn năm đứa “có nếp có tẻ”, tíu tít bâu quanh! Ai nấy tha thiết khẩn nài, van xin… nhưng bà vẫn rền rĩ khóc than, chẳng chịu xiêu lòng! ... Mời các bạn đón đọc Thắng Bại của tác giả Nguyễn Văn Hồng.
Ngoài Vòng Tay Anh Là Bão Tố - Lisa Kleypas
Sông Thames hùa cùng kẻ thủ ác hòng đoạt mạng cô. Cô không phải người dễ dàng nhượng bộ cái chết song cuộc chiến với tử thần đã làm cô mất đi trí. Người duy nhất che chở cô trong tai nạn này là cảnh sát Grant, nhưng anh vẫn ném vào cô một sự thật chua chát: Cô là cô gái điếm hạng sang đầy tai tiếng đất London. Nhưng... sự thật mà anh tin chắc ấy chưa hẳn là sự thật. Ngay đêm vớt cô lên từ cái giá buốt của sông Thames, anh biết cô sẽ không là cô dâu của bất cứ ai. Cô quá mong manh so với thân phận gái làng chơi quỷ quyệt từng làm anh mất mặt. Là tình hay là thù, là thù hay là tình? Anh không thể phân định nổi khi ôm cô trong vòng tay. Nhưng... có một sự thật mà cả hai người đều hiểu: Khi anh buông tay ra, cô sẽ rơi vào bão tố. *** Nhận định: "Tiểu thuyết của Lisa Kleypas như thứ sô cô la tuyệt ngon dễ làm người ta mê đắm mà không bao giờ biết ngấy." - Amazon - *** Lisa Kleypas sinh năm 1964, là một trong những tác giả Mỹ nổi tiếng nhất của dòng tiểu thuyết lãng mạn lịch sử và đương đại. Năm 1985, sau khi tốt nghiệp trường Đại học Wellesley với tấm bằng cử nhân khoa học chính trị, Lisa xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay. Cũng trong khoảng thời gian đó, cô đăng quang danh hiệu Hoa hậu bang Massachusetts và tham gia cuộc thi Hoa hậu Mỹ. Nhìn chung hầu hết tác phẩm của Lisa Kleypas đều có những kết thúc rất hậu, truyện của bà mang phong cách nhẹ nhàng là chính, tuy nhiên bà cũng theo đuổi dòng trinh thám một ít. Bà được xem là một trong những tác giả dòng lãng mạng có những cuốn sách bán chạy nhất, tác phẩm của bà được bán trên toàn thế giới và dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau. Các tác phẩm của cô đã được dịch sang 14 thứ tiếng, nằm trong danh sách bán chạy trên toàn thế giới và đem lại cho cô rất nhiều giải thưởng. Hiện cô đang sống ở Washington cùng chồng và hai con. *** Ngay từ lúc Grant Morgan gặp người phụ nữ ấy, anh đã biết rằng cô ta đẹp thật, nhưng sẽ không bao giờ là cô dâu của bất cứ ai. Anh theo tay chèo thuyền qua những xoáy sương mù, làn sương lạnh ẩm ướt bám vào da và đọng hạt trên chiếc áo khoác dạ anh đang mặc. Tay thọc sâu trong túi áo, anh đưa mắt chăm chú quan sát quang cảnh xung quanh. Con sông nhìn trơn láng dưới ánh sáng tù mù của những ngọn đèn treo trên các tảng đá hoa cương gắn bến đỗ. Đôi ba chiếc thuyền nhỏ chở khách xuôi ngược sông Thames, như những món đồ chơi thả trôi cùng sóng nước. Những đợt sóng lạnh lẽo vỗ vào bậc thềm và bờ kè. Cơn gió tháng Ba hiu hắt vờn quanh mặt và tai Grant, ngoan cố luồn vào sau chiếc cà vạt. Anh kìm lại một cơn rùng mình khi đăm đăm nhìn xuống dòng sông đen ì oạp sóng. Không ai có thể sống sót quá hai mươi phút trong nước lạnh như thế. “Thi thể ở đâu?” Grant cau mày sốt ruột. Anh đưa tay sờ tìm chiếc đồng hồ quả quýt trong áo khoác. “Tôi không có cả đêm đâu.” Tay chèo thuyền loạng choạng khi quay đầu lại nhìn người đàn ông đang theo mình. Sương mù vấn vít quanh họ mang màu vàng xám, khiến hắn phải nheo mắt để nhìn rõ hơn. “Ông là Morgan, phải không? Chính là ông Morgan… Sao thế nhỉ, tôi có kể lại cũng chẳng ai tin. Một người bảo vệ cho chính đức vua… Tôi cứ tưởng ông không phải động đến những chuyện giẻ rách như thế này kia.” “Đáng tiếc là không phải vậy.” Grant lẩm bẩm. ... Mời các bạn đón đọc Ngoài Vòng Tay Anh Là Bão Tố của tác giả Lisa Kleypas.
Cái Giá Phải Trả - Warren Fellows
Năm 1978, Warren Fellows đã bị kết án tù chung thân ở Thái Lan do buôn bán và vận chuyển heroin. Cái Giá Phải Trả là câu chuyện về một cơn ác mộng không thể tưởng tượng trong một nơi mà chuột cống và gián là nguồn thực phẩm bổ dưỡng duy nhất, và nơi diễn ra hình phạt tồi tệ nhất là khun deo - phòng biệt giam, theo phong cách Thái. Warren Fellows biết mình phạm tội, nhưng ông đã phải chịu đựng và tồn tại trong một môi trường kinh hoàng ngoài sức tưởng tượng. Tác giả viết cuốn sách này không vì mục đích cầu xin sự tha thứ, cũng không phủ nhận mình là kẻ tội lỗi, nhưng đây là câu chuyện về một thử thách mà không ai muốn trải qua… Đau lòng, hấp dẫn và không thể đặt xuống là điểm nổi bật của cuốn sách này. "Warren Fellows thừa nhận rằng ông bị bắt là chính đáng, nhưng ngay cả một tù nhân phạm tội nặng nhất cũng thành vô tội trong hoàn cảnh này. Bức tranh mà ông miêu tả thật khủng khiếp. Nếu bạn muốn biết điều gì đã khiến Warren Fellows kinh hoàng, hãy đọc cuốn sách này". *** Hãy suy nghĩ về những ngày tồi tệ nhất trong cuộc đời bạn. Có lẽ đó là khi người mà bạn yêu thương qua đời; hoặc khi bạn bị thương nặng trong một tai nạn, hoặc bạn gặp một điều ghê sợ đến nỗi khó có thể chịu đựng nổi. Bây giờ hãy hình dung 4000 ngày như thế trong một nhà tù lớn. Trong cuốn sách này, W. Fellows mô tả những gì ông đã trải qua suốt 12 năm tại nhà tù Bangkok. Thật khó để tưởng tượng làm thế nào có thể tồn tại với tình trạng tinh thần kiệt quệ mỗi ngày. Hãy tưởng tượng bạn bị buộc phải đứng trong một hệ thống cống với tay chân bị xiềng. Một vài phút có lẽ sẽ dài bằng cả thế kỷ. Hãy tưởng tượng bạn phải ăn gián và chuột cống để duy trì sự sống. Nghe có vẻ siêu thực quá, phải không? Nhưng đó chỉ là một trong những khoảnh khắc mà tác giả cuốn sách này đã chịu đựng trong 12 năm ròng rã. “Cái giá phải trả” chính là những trải nghiệm đau thương mà Warren Fellows muốn gửi đến độc giả. Chỉ vì thiếu suy nghĩ, muốn kiếm tiền thật nhanh và thật dễ dàng nên ông đã đánh mất tuổi thanh xuân, đánh mất ý nghĩa cuộc sống. Nhưng trên hết, những hình ảnh kinh hoàng về cách con người đối xử với nhau trong nhà ngục đã trở thành nỗi ám ảnh khôn nguôi. Câu hỏi đọng lại trên tất cả các trang sách của ông là liệu con người có đáng phải chịu đựng những gì có lẽ chỉ tồn tại trong ác mộng như vậy? Tác giả không trực tiếp trả lời nhưng chắc chắn bạn sẽ có câu trả lời khi đọc xong trang cuối cùng của cuốn sách. Mạn phép gửi đến bạn đọc cuốn hồi ký này, hy vọng sẽ góp một phần nhỏ trong việc thức tỉnh những ai đang mê muội dấn thân vào con đường tội lỗi! Rằng, việc gì cũng có cái giá của nó. Người dịch Ung Thị Bạch Tuyết Mời các bạn đón đọc Cái Giá Phải Trả của tác giả Warren Fellows.
Bước Đường Cùng - Nguyễn Công Hoan
Bước đường cùng - Nguyễn Công Hoan là tiểu thuyết gắn liền với số phận của anh Pha, một người nông dân với những khó khăn chồng chất đã đánh dấu đỉnh cao về tư tưởng của nhà văn Nguyễn Công Hoan và là một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam trước Cách mạng *** Nguyễn Công Hoan  (1903 - 1977) là nhà văn tiêu biểu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Thế giới truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đa dạng, phong phú, như một "bách khoa thư", một "tấn trò đời"mà đặc trưng là xã hội thuộc địa nửa phong kiến ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Với một số lượng khá lớn như vậy, truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan họp lại thành một bức tranh rộng lớn, khá đầy đủ về xã hội cũ. Về nghệ thuật viết truyện ngắn, phải nói rằng Nguyễn Công Hoan là người có nhiều khả năng và kinh nghiệm. Truyện của ông thường rất ngắn. Lời văn khúc triết, giản dị. Cốt truyện được dẫn dắt một cách có nghệ thuật và kết cục thường rất đột ngột để hấp dẫn người đọc. Mỗi truyện như một màn kịch ngắn có giới thiệu, thắt nút và mở nút. Tiêu biểu là các truyện ngắn: Kép Tư bền, Người ngựa, ngựa người..., tiểu thuyết  có Bước đường cùng... Ngay từ khi xuất hiện, Nguyễn Công Hoan luôn gây được sự chú ý, quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình và nhiều thế hệ độc giả. Mặc dù có nhiều người khen kẻ chê, nhưng truyện ngắn truyện dài của Nguyễn Công Hoan sừng sững tạo thành một thế Tam Đảo, Ba Vì hùng vĩ. Trong thời tiền chiến, ai mà chẳng đọc qua các quyển: Tắt lửa lòng, Bước đường cùng, Tấm lòng vàng, Cô giáo Minh, Trên đường sự nghiệp, Lệ Dung, Nợ nần, Bơ vơ, v. v... Hơn nữa, một số tác phẩm của ông đã được và Đoàn Kịch nghệ nổi tiếng thời ấy phóng tác thành tuồng cải lương, lưu diễn từ Nam chí Bắc và được đồng bào các giới tán thưởng nồng nhiệt! Ông sáng tác đủ mọi chiều hướng: Trữ tình, Xã hội, Tranh đấu, Giáo dục,... nhưng có một điểm nổi bật hơn hết là mỗi tác phẩm của ông đều mang một sắc thái đặc biệt... đánh dấu một bước tiến mới cho bộ môn tiểu thuyết thời ấy. Nhưng, từ 20 năm qua... những tác phẩm của ông hầu hết bị thất lạc, bị mai một vì nạn Đất Nước qua phân! *** Anh em rất ngạc nhiên về cái thái độ của Nghị Lại chịu nước lép. Thấy sự đoàn kết rất có công hiệu, Dự trỏ vào đống lúa xếp đầy sân: - Đáng lẽ mẫu bảy thóc của anh Thi với anh San đã vào túi tham không đáy hết cả. Pha lo ngại: - Nhưng quyết hắn trả thù, mà thù này phải biết hắn tính toán kỹ lưỡng lắm. Thi gật đầu: - Cho nên hôm nào lúa của anh chín, ta nên rủ người đi cho đông, và phải cẩn thận lắm, kẻo thua mất. San xua tay: - Nếu tám sào của anh Pha bị hắn cướp hết thì thóc của chúng mình gặt về, đem chia ba. Mấy anh em rất cảm động. Một lát Pha nói: - Bác trưng bảo rằng thua, nhưng tôi cho là không đúng. Chúng mình ba lần gặt, đã được đến hai lần, dù có thua một lần ta cũng vẻ vang quá rồi. Dự tiếp: - Như thế tức là đằng nào mình cũng giữ phần thắng lợi rồi. Bốn người cười vui vẻ, nghỉ tay để uống nước. Bát chè tươi sóng sánh dưới ánh trăng. Tiếng thình thịch đập lúa ở sân các nhà theo luồng gió lạnh hiu hắt đưa đi làm cho làng An Đạo có vẻ hoạt động. Một lát, San nói: - Từ nay chúng ta phải giữ mình. Hắn có đến hằng trăm thứ khí giới, mà ta chỉ có trơ mỗi đứa hai cánh tay không. Dự đáp: - Nhưng hai cánh tay mạnh mẽ, hai cánh tay làm cho đất cát có giá trị. ... Mời các bạn đón đọc Bước Đường Cùng của tác giả Nguyễn Công Hoan.