Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vì Sao Chúng Ta Làm Việc

Vì Sao Chúng Ta Làm Việc đưa ta đến lời giải cho bí mật của hạnh phúc nơi làm việc. Sau tất cả, Barry Schwartz đã chứng minh cho chúng ta thấy gốc rễ của thành công trong lao động hiếm khi được khuyến khích, trong khi chúng ta lại cố gắng làm những việc chỉ đem lại kết quả xấu. Tại sao chúng ta làm việc? Tại sao mỗi sáng ta lại phải kéo lê mình ra khỏi giường thay vì sống cuộc đời ngập tràn niềm vui với hết trò này đến trò khác? Nhưng câu hỏi tưởng như thật đơn giản và ai cũng dễ dàng trả lời. Nhưng Giáo sư Barry Schwartz lại chứng minh rằng thật ra câu trả lời chi nó lại vô cùng phức tạp, đáng kinh ngạc và vô cùng khẩn cấp. Ta làm việc vì ta phải kiếm sống. Chắc chắn rồi, nhưng chỉ có vậy thôi sao? Tất nhiên là không rồi. Khi bạn hỏi những người hài lòng với công việc tại sao họ làm công việc ấy, thì gần như tiền không phải là câu trả lời. Danh sách những lý do phi-tiền-bạc rất dài và rất thú vị. Nhiều người làm việc vì họ thấy vui. Những người hài lòng với công việc lao động vì thấy có trách nhiệm. Những người khác làm việc vì đó là cơ hội để hòa nhập cộng đồng. Nhiều người làm việc vì họ cảm thấy việc mình làm thật ý nghĩa. Những nguyên nhân phong phú khiến chúng ta thỏa mãn với công việc kể trên đã dấy lên một số vấn đề rất lớn. Tại sao trên thế giới này có vô vàn người mà công việc của họ lại chẳng có nhiều hoặc hoàn toàn vắng bóng những đặc tính này? Tại sao với hầu hết chúng ta, công việc thật là đơn điệu, vô vị và mòn mỏi? Tại sao chủ nghĩa tư bản phát triển lại tạo ra một mô hình làm việc hạn chế hoặc triệt tiêu các cơ hội nuôi dưỡng sự hài lòng phi vật chất tiềm năng – mà chính nó sẽ khuyến khích người ta làm việc tốt hơn? *** Vấn đề mấu chốt Tại sao chúng ta làm việc? Tại sao mỗi sáng ta lại phải kéo lê mình ra khỏi giường thay vì sống cuộc đời ngập tràn niềm vui với hết trò này đến trò khác? Thật là câu hỏi ngớ ngẩn. Ta làm việc vì ta phải kiếm sống. Chắc chắn rồi, nhưng chỉ có vậy thôi sao? Tất nhiên là không rồi. Khi bạn hỏi những người hài lòng với công việc tại sao họ làm công việc ấy, thì gần như tiền không phải là câu trả lời. Danh sách những lý do phi-tiền-bạc rất dài và rất thú vị. Người nào hài lòng với công việc thì lao động say mê. Họ làm việc quên mình. Tất nhiên không phải lúc nào cũng thế, nhưng cũng đủ để điều đó trở thành đặc điểm nổi bật của họ. Những người này được khơi gợi tinh thần thử thách. Công việc buộc họ phát huy khả năng – bước ra ngoài vùng an toàn của mình. Những người may mắn này cho rằng làm việc thật là vui, vui như chơi trò đoán ô chữ hay Sudoku vậy. Con người làm việc còn vì lẽ gì nữa? Những người hài lòng với công việc lao động vì thấy có trách nhiệm. Công việc cho họ phương tiện để có quyền độc lập và tự quyết. Và họ sử dụng quyền ấy để nâng cao khả năng của bản thân. Họ học những điều mới mẻ, phát triển bản thân cả trong công việc lẫn đời sống. Những người này làm việc vì đó là cơ hội để hòa nhập cộng đồng. Họ làm nhiều việc với tư cách là một thành viên nhóm, và ngay cả khi làm việc một mình, trong những lúc tĩnh lặng, họ vẫn có nhiều cơ hội tương tác với bên ngoài. Cuối cùng, những người này hài lòng với công việc vì họ cảm thấy việc mình làm thật ý nghĩa. Có thể là, công việc của họ khiến thế giới thay đổi. Nó khiến cuộc sống của những người khác tốt đẹp hơn. Và thậm chí theo những cách đầy ý nghĩa. Tất nhiên, chẳng có nhiều công việc, và tôi nghi ngờ là không có công việc nào, lúc nào cũng hội tụ tất cả những đặc điểm này. Nhưng những đặc trưng nghề nghiệp như thế này chính là điều sút ta ra khỏi nhà, thúc ta cõng việc về nhà, huých ta nói về công việc của mình với những người khác, và khiến ta ngần ngừ không muốn nghỉ hưu. Ta sẽ không làm việc nếu không được trả công, nhưng đó không phải là lý do mấu chốt. Và ta hay nghĩ vật chất là một lý do làm việc chẳng đẹp đẽ gì. Thật vậy, khi nói ai đó “làm việc vì tiền”, ta không chỉ đơn thuần là giới thiệu, mà còn có ý đánh giá nữa. Những nguyên nhân phong phú khiến chúng ta thỏa mãn với công việc kể trên đã dấy lên một số vấn đề rất lớn. Tại sao trên thế giới này có vô vàn người mà công việc của họ lại chẳng có nhiều hoặc hoàn toàn vắng bóng những đặc tính này? Tại sao với hầu hết chúng ta, công việc thật là đơn điệu, vô vị và mòn mỏi? Tại sao chủ nghĩa tư bản phát triển lại tạo ra một mô hình làm việc hạn chế hoặc triệt tiêu các cơ hội nuôi dưỡng sự hài lòng phi vật chất tiềm năng – mà chính nó sẽ khuyến khích người ta làm việc tốt hơn? Những người làm kiểu công việc này – dù trong nhà máy, cửa hàng thức ăn nhanh, kho hàng bán theo yêu cầu, hay quả thực, trong những công ty luật, lớp học, phòng khám và văn phòng – là làm vì tiền. Dù có cố gắng tìm kiếm ý nghĩa, thử thách, và không gian để được tự quyết đến đâu, thì họ cũng phải đầu hàng trước điều kiện làm việc. Cách thức công việc của họ được tổ chức thực sự chẳng cho họ một lý do ý nghĩa nào ngoại trừ tiền lương. Theo một báo cáo diện rộng do Gallup, một tổ chức thăm dò ý kiến có trụ sở tại Washington, D.C xuất bản vào năm 2013, số người lao động “chống đối” trên thế giới nhiều gấp đôi so với những người lao động “gắn bó” với công việc của mình. Gallup đã đo lường sự hài lòng với công việc trên toàn cầu trong gần hai thập kỷ. Tổng cộng họ đã khảo sát 25 triệu người lao động ở 189 quốc gia khác nhau. Trong những phiên bản mới đây nhất, họ thu thập thông tin từ 230.000 người lao động làm việc toàn thời gian và bán thời gian ở 142 quốc gia. Nhìn chung, Gallup đã nhận ra chỉ có 13% số người cảm thấy gắn bó với công việc của mình. Những người này làm việc đam mê và dành trọn thời gian để thúc đẩy công ty, doanh nghiệp mình tiến lên. Phần lớn chúng ta, khoảng 63%, không cảm thấy yêu công việc. Chúng ta lờ đờ, nửa tỉnh nửa mê lê lết qua hết một ngày dài, chẳng đầu tư công sức gì lắm cho công việc. Và số người còn lại thì làm việc cực kỳ chống đối, thực sự ghét việc. Nói cách khác, công việc thường xuyên là một nguồn khó chịu hơn là nguồn vui sướng cho gần 90% người lao động trên thế giới. Hãy nghĩ đến sự lãng phí các dịch vụ xã hội, lãng phí cảm xúc và có lẽ lãng phí cả tiền bạc mà con số thể hiện. 90% người trưởng thành dành một nửa thời gian thức để làm những việc họ không muốn làm và ở những nơi mà họ không muốn ở. Những câu hỏi khảo sát của Gallup đã nắm bắt được nhiều lý do làm việc mà tôi vừa liệt kê. Những khía cạnh công việc mà bài khảo sát nói đến là: cơ hội làm việc một cách “tương xứng”, hết sức mình; cơ hội để có hứng thú học hỏi và phát triển bản thân; để cảm thấy cảm kích, vui vẻ với đồng nghiệp và quản lý; để cảm thấy được tôn trọng ý kiến; để cảm thấy công sức mình bỏ ra là cần thiết; và để có những người bạn tốt ở nơi làm việc. Và đối với phần đông áp đảo, công việc của họ thiếu – thiếu nhiều – những điều đó. Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao? Cuốn sách này sẽ đưa ra một câu trả lời. *** Quan niệm sai lầm Hơn hai thế kỷ nay, cả xã hội và từng cá nhân chúng ta đã thấm nhuần một số quan niệm sai lầm về quan hệ của con người với công việc. Đó là một nguyên lý kinh tế học đã được chấp nhận từ lâu, được một số học thuyết tâm lý bồi thêm cho vững chắc. Nguyên lý ấy là: nếu bạn muốn có một ai đó – nhân viên, sinh viên, quan chức chính phủ hay con cái của bạn – làm một việc gì đó, thì bạn phải đền bù xứng đáng cho họ. Con người làm việc vì được thúc đẩy, vì phần thưởng, vì tiền. Bạn có thể thấy quan điểm này vận hành trong phương pháp “cà rốt và cây gậy”, một phương pháp chủ yếu trong những nỗ lực giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính hiện thời của thế giới. Để tránh tình trạng khủng hoảng tài chính tái diễn, người ta cho rằng cần phải thay thế những động cơ làm việc “ngớ ngẩn”, thủ phạm dẫn tới tình trạng khủng hoảng đó, bằng những động cơ “thông minh hơn”. Chúng ta phải có những động cơ đúng. Những thứ khác không thực sự quan trọng. Quan niệm này đã làm sống lại quan niệm của người phát kiến ý tưởng về thị trường tự do, Adam Smith. Trong cuốn Của cải của các quốc gia (The Wealth of Nations), xuất bản năm 1776, ông viết: Con người ta vốn thích được sống sung sướng nhất có thể; và nếu tiền lương vẫn như vậy dù anh ta có làm việc chăm chỉ hay không, thì anh ta sẽ lơ là và lười biếng vì được cho phép. Nói cách khác, con người làm việc vì tiền – chẳng hơn mà cũng chẳng kém. Niềm tin của Smith vào sức mạnh thúc đẩy của đồng tiền dẫn ông tới chỗ bênh vực cho cách thức phân chia công việc thành những thao tác nhỏ, lặp lại dễ dàng, cơ bản là vô nghĩa. Miễn là được trả lương, còn lại công việc đó tạo ra sản phẩm gì thì người ta chẳng quan tâm nhiều lắm. Và bằng cách phân chia công việc thành những thao tác nhỏ, xã hội sẽ đạt được năng suất làm việc khổng lồ. Để tán dương lợi ích của chuyên môn hóa, Smith đưa ra một ví dụ nổi tiếng, miêu tả một nhà máy sản xuất đinh: Một người kéo sợi dây ra, người khác lần theo nó, người thứ ba cắt, người thứ tư chộp lấy mẩu cắt ấy, người thứ năm tán cái đầu nó ra để tạo phần mũ... Tôi đã nhìn một phân xưởng nhỏ làm việc kiểu ấy, họ chỉ thuê có 10 người... Bọn họ có thể làm ra được hơn 48.000 cái đinh một ngày... Nhưng nếu cho làm việc riêng rẽ và độc lập... thì chắc mỗi người không làm nổi được 20 cái. Như chúng ta sẽ thấy sau này, quan điểm của Smith về loài người tinh vi hơn, phức tạp hơn và giàu sắc thái hơn nội dung vừa trích dẫn. Ông ta không tin rằng “con người trong công việc” nói lên toàn bộ câu chuyện, hay thậm chí là chuyện mấu chốt nhất, về bản chất con người. Nhưng dưới bàn tay những kẻ hậu bối của Smith, quan niệm đó đã mai một đi phần lớn độ tinh vi và khía cạnh phức tạp của nó. Hơn một thế kỷ sau, các quan điểm của Smith đã dẫn đường chỉ lối cho cha đẻ của cái được gọi là phong trào “quản lý khoa học”, Frederick Winslow Taylor. Taylor nghiên cứu tỉ mỉ về thời gian và cử động để tinh giản nhà máy, như cách Smith hình dung, để biến nhân công thành một bộ phận của một bộ máy vận hành trơn tru. Và ông ta đã đặt ra những cơ chế khen thưởng để thúc đẩy nhân công làm việc chăm hơn, nhanh hơn, và chính xác hơn. Không lâu sau đó, quan điểm của Smith đã tác động đến suy nghĩ của một nhân vật tiếng tăm trong giới tâm lý học giữa thế kỷ 20, B. F. Skinner. Các nghiên cứu của Skinner trên chuột và bồ câu – qua những thí nghiệm đơn giản, lặp lại, hết lần này đến lần khác, với phần thưởng là thức ăn hoặc nước uống – đã khoác lên một cái áo mang màu sắc khoa học đúng đắn và phương pháp luận cho những cải cách môi trường làm việc do Taylor phát triển. Skinner đã chỉ ra rằng hành vi của con vật có thể bị ảnh hưởng mạnh mẽ và được kiểm soát chặt chẽ bằng cách điều khiển số lượng phần thưởng và tần số thưởng mà hành vi đó đem lại. Giống như Taylor phát hiện ra chế độ trả lương khoán theo sản phẩm (một số tiền cố định cho mỗi sản phẩm hoàn thành) đã nâng cao năng suất làm việc ở nhà máy, Skinner nhận ra rằng con chim bồ câu trong phòng thí nghiệm cũng nghe lời hơn với hình thức khoán tương tự. Bạn có thể hỏi tại sao lại có ai đó đi chọn làm việc trong xưởng đinh của Smith, tán đầu đinh hết phút này đến phút khác, giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác cơ chứ. Câu trả lời của Smith là, tất nhiên rồi, phàm là người thì chẳng ai thích làm việc trong xưởng đinh. Nhưng phàm là người thì cũng chẳng ai thích làm việc cho dù ở bất cứ đâu. Smith đang nói với chúng ta rằng lý do duy nhất cho việc người ta làm bất kỳ thể loại công việc nào chính là số tiền mà nó đem lại. Và miễn là số tiền ấy xứng đáng thì bản thân công việc ra sao lại chẳng thành vấn đề. Adam Smith đã nhầm về thái độ và động lực làm việc của chúng ta. Nhưng khi chủ nghĩa tư bản phát triển dưới ảnh hưởng của ông, bằng một bước xoay mình uyển chuyển của “lý thuyết động cơ cho vạn vật”, người ta đã cải tiến ra một mô hình làm việc bỏ qua hoặc xóa sổ tất cả những yếu tố tiềm năng khác có thể khiến con người ta hài lòng với công việc. Và dần dần, cả hành tinh này đều vận hành theo mô hình như thế, nên mỗi sáng người ta lê bước đi làm mà trong lòng đã chết đi mầm mống ý nghĩa công việc mình làm, đã nguội lạnh lòng thiết tha hay phai tàn những cảm giác hứng khởi do được thử thách khả năng. Vì chẳng có lý do gì để làm việc ngoại trừ tiền, nên họ sẽ làm việc vì tiền. Vậy là quan điểm sai lầm của Smith về lý do làm việc của con người đã trở thành đúng. Ở đây, tôi không định nói rằng trước cuộc cách mạng công nghiệp, lao động là việc vui vẻ. Không hề. Tuy nhiên, lao động của những nông dân, thợ thủ công, và người bán hàng, mặc dù có thể đã từng vất vả, nhưng người ta lại khá tự do, có quyền tự quyết và công việc cũng khá phong phú. Họ có cơ hội sử dụng tài khéo léo của mình để giải quyết các vấn đề phát sinh và tìm tòi những cách thức làm việc hiệu quả hơn. Tất cả những cơ hội này đã rớt lại phía sau khi người ta bước qua cánh cửa nhà máy. Biến những quan niệm sai thành đúng Có thể bạn đồng ý với Smith. Có thể bạn tin rằng với hầu hết mọi người, về cơ bản, công việc chỉ xoay quanh tiền lương và chẳng là gì hơn. Chỉ có “giới tinh hoa” mới muốn có công việc thử thách, ý nghĩa và sự gắn bó và chỉ có họ mới có thể trông đợi những điều đó từ công việc. Không chỉ là có phần hợm hĩnh, quan điểm này còn không đúng. Nhiều người làm những việc mà chúng ta vẫn cho là tầm thường – quản gia, công nhân nhà máy, nhân viên trực tổng đài – quan tâm đến nhiều yếu tố hơn là chuyện tiền lương. Trong khi nhiều chuyên gia lại làm việc chỉ vì tiền. Những điều mà mọi người tìm kiếm phần lớn phụ thuộc vào những gì công việc của họ có thể mang lại. Và điều kiện lao động ra đời từ cuộc cách mạng công nghiệp, được kéo dài mãi một phần nhờ vào các lý thuyết từ các ngành khoa học xã hội, đã tước đoạt một cách có hệ thống niềm hạnh phúc lao động của họ. Để làm được như thế, chúng đã cướp mất của con người một nguồn vui quan trọng – và trả về những công nhân tồi tệ. Bài học ở đây là tầm quan trọng của sự khích lệ vật chất đối với con người sẽ phụ thuộc vào cấu trúc vận hành của nơi làm việc. Và nếu chúng ta tổ chức môi trường làm việc dựa trên quan điểm sai lầm rằng con người làm việc chỉ vì tiền, thì chúng ta sẽ tạo ra một nơi làm việc khiến cho quan điểm sai lầm này trở thành đúng. Bởi vậy, chuyện “người lao động không làm việc vô tư nữa” là không đúng. Cái đúng là bạn sẽ không còn có thể nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình nữa nếu bạn chỉ giao cho người ta một kiểu công việc chán chường và tẻ nhạt. Để mọi người “hỗ trợ nhiệt tình” bạn cần giao cho họ công việc mà họ muốn làm. Và ta sẽ thấy việc người lao động làm việc hết mình, vô tư, không phải vì tiền không còn là mộng tưởng kiểu “bánh vẽ”. Viễn cảnh ấy nằm ngay trong tầm với của chúng ta. Cũng nên nói rằng nhiều năm qua, lý thuyết và thực tiễn về quản lý đã đi qua những giai đoạn công nhận – thậm chí còn ca ngợi – các động lực làm việc đa dạng của con người, và các nhà quản lý được khuyến khích tạo ra một đời sống công sở có khả năng vun đắp tình cảm gắn bó và ý nghĩa công việc, vì lợi ích của cả nhân viên lẫn của tổ chức. Nửa thế kỷ trước, “Thuyết Y” của Douglas McGregor(1) đã là một nỗ lực có tầm ảnh hưởng lớn trong dòng phát triển này, còn Stephen Barley và Gideon Kunda đã xuất bản một bài báo quan trọng liệt kê diễn biến thịnh suy theo thời gian của những quan điểm quản lý công việc này. Nhưng không hiểu sao, những quan điểm như thế này chưa bao giờ hoàn toàn tàn lụi. Phong cách làm việc thoải mái và khác người của Google cùng các công ty đang phát triển như diều gặp gió khác ở thung lũng Silicon có thể sẽ khiến người ta có ấn tượng rằng những công việc lao dịch theo dây chuyền đã lùi vào dĩ vãng. Nhưng giống như lực hút trái đất, quan niệm người ta làm việc chỉ vì tiền đã hết lần này đến lần khác kéo những hi vọng về những mục đích làm việc cao cả hơn dúi dụi trở về mặt đất. Qua nhiều thế kỷ, người ta đã nhận ra những quan niệm của Adam Smith về bản chất con người quả thật rất dai dẳng. Các quan điểm hoặc lý thuyết về bản chất con người có một vị trí độc nhất trong các ngành khoa học. Chúng ta không phải lo lắng rằng trật tự vũ trụ sẽ bị biến dạng do những giả thuyết của chúng ta về vũ trụ. Các hành tinh thực sự không quan tâm đến quan niệm hoặc lý thuyết của chúng ta về chúng. Nhưng chúng ta nên lo lắng rằng bản chất con người sẽ bị thay đổi bởi các lý thuyết chúng ta đưa ra về bản chất con người. Bốn mươi năm trước, nhà nhân chủng học lỗi lạc Clifford Geertz đã nói rằng loài người là “động vật chưa hoàn thiện”. Ý ông là bản chất con người chính là sản phẩm của xã hội xung quanh chúng ta. Rằng con người tạo ra chứ không phải phát hiện ra bản chất của mình. Chúng ta “thiết kế” bản chất con người, bằng cách thiết kế nên những tổ chức mà mình sống trong đó. Bởi vậy ta nên tự hỏi bản thân là mình muốn góp phần thiết kế nên loại bản chất nào. Nếu muốn góp phần tạo nên một kiểu con người tìm kiếm những thử thách, sự gắn bó, ý nghĩa, và sự thỏa mãn trong công việc, chúng ta phải bắt đầu từ việc xây dựng một con đường thoát khỏi cái hố sâu mà gần ba thế kỷ những hiểu lầm về động lực và bản chất chất con người đã đẩy chúng ta vào, và giúp bồi dưỡng những mảnh đất làm việc mà trong đó thử thách, sự gắn bó, ý nghĩa và sự thỏa mãn có thể đâm chồi. Mời các bạn đón đọc Vì Sao Chúng Ta Làm Việc của tác giả Barry Schwartz.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nói Nhiều Không Bằng Nói Đúng
Nói Nhiều Không Bằng Nói Đúng cung cấp 36 bí quyết để chiếm được cảm tình của người khác. Muốn có mối quan hệ xã hội tốt, hãy bắt đầu từ những lời nói làm đẹp lòng mọi người. Trong giao tiếp, hãy luôn nhớ các nguyên tác: Im lặng - Quan sát - Lắng nghe. Đừng nói quá thẳng thắn, khiến người nghe thấy khó chịu! Nói chuyện không dễ nghe sẽ khiến mọi người phản cảm và xa cách bạn, đồng thời dẫn đến việc bạn trở thành người có ấn tượng xấu. Lời nói hay như những giai điệu đẹp, ai cũng muốn nghe. *** NÓI HAY, NÓI NHỮNG LỜI LỌT TAI LÀ BƯỚC KHỞI ĐẦU DẪN BẠN ĐẾN THÀNH CÔNG TRONG GIAO TIẾP. K hi khả năng giao tiếp của bạn có vấn đề, ngoài việc không thể truyền đạt chính xác nội dung thông tin, bạn còn có thể mắc lỗi với người khác. Vì nói những lời không nên nói, sẽ khiến đối phương cảm thấy phản cảm và xa lánh bạn, dần dần, quan hệ xã hội của bạn sẽ rơi vào tình trạng nguy hiểm, bạn có thể bị mọi người xếp vào danh sách tránh tiếp xúc. Vi vậy, học nghệ thuật nói chuyện là một việc rất quan trọng, nó là nhịp cầu rút ngắn khoảng cách giữa bạn với mọi người, đồng thời, cũng là vũ khí tàng hình giúp bạn được mọi người yêu mến. Nhưng, để nói đúng nói đủ, và thành công trong nói chuyện, ngoài việc tránh nói những câu không có nội dung, còn cần nắm được một số bí quyết khác. Chúng ta thấy rằng, các nhà diễn thuyết, các nhà bình luận chuyên nghiệp, sở dĩ họ thu hút được sự lắng nghe của công chúng, thành công trong việc nói chuyện, chủ yếu là vì có một điểm chung, đó là "kiên trì lắng nghe và khả năng diễn thuyết bền bỉ", cộng với sự rèn luyện ngày này qua ngày khác, nên việc nói chuyện đối với họ trở nên đơn giản như ăn cơm và hít thở hàng ngày. Vi lẽ đó, chúng tôi xin giới thiệu với các bạn - những ai đang mong muốn trở thành người dễ mến cuốn sách này. Nội dung cơ bản của cuốn sách là "im lặng, quan sát, lắng nghe - 36 bí quyết để chiếm được cảm tình của người khác". Với một vài "chiêu" cơ bản, cuốn sách sẽ đồng hành cùng bạn đọc thực hành các kỹ xảo khi nói chuyện, chỉ cần bạn chú ý luyện tập, thì vào một ngày không xa, bạn cũng sẽ trở thành người có khướu ăn nói. Như vậy, dù trong hoàn cảnh nào, dù đối diện với ai, bạn đều có thể tự tin trong mọi lời ăn tiếng nói, khiến mọi người cảm thấy vui vẻ, bổ ích khi được nói chuyện với bạn, có ấn tượng tốt đẹp về bạn, từ đó, mối quan hệ xã hội của bạn trở nên rộng rãi, và bạn sẽ trở thành nhân vật được mọi người yêu quý. Mời các bạn đón đọc Nói Nhiều Không Bằng Nói Đúng của tác giả 2.1/2 Bạn Tốt.
Luyện Đọc Nhanh
John Adams, Tổng thống thứ hai của Hoa Kỳ đã từng nói: “Càng đọc nhiều, người ta càng thấy còn nhiều điều cần phải đọc”. Dù bạn là ai, một Tổng thống, một nhà khoa học, một giáo viên hay một sinh viên trẻ tuổi, đọc để thu nạp kiến thức và làm mới thông tin không bao giờ là đủ. Cuộc đua không cân sức giữa quỹ thời gian hạn hẹp của bạn với tri thức mênh mông đã làm bạn không ít lần thấy hụt hơi và thoái chí. Sẽ có hai cách ứng xử khi bạn đứng trước cuộc đua này. Hoặc là từ chối cuộc đua, tạm bằng lòng với những tri thức hiện tại và thêm được chút nào hay chút đó. Hoặc là tìm cách cải thiện khả năng đọc, tối đa hóa tốc độ đọc hiện tại để chinh phục những “cự ly” ngắn trước. Bạn sẽ chọn cách nào? Dĩ nhiên, khi đọc tới những dòng này, bạn đã xác định chọn cách thứ hai. Bạn sẵn sàng tham gia cuộc đua nhưng trong lòng đầy hoang mang. Làm thế nào để thay đổi kỹ năng đọc đã trở thành thói quen? Liệu tăng tốc độ đọc có làm giảm khả năng hiểu và nhớ? Liệu mình có thể đạt được điều kỳ vọng hay không? Rất nhiều băn khoăn, lo lắng đến khi bạn bước tới ranh giới của sự thay đổi. Tất cả sẽ được hóa giải trong cuốn sách này. Nó sẽ đem đến điều kỳ diệu trong việc đọc từ chính đôi mắt, bàn tay và trí não của bạn. Điều quan trọng là bạn dám vứt bỏ những thói quen xấu đã gắn bó từ lâu và toàn tâm toàn ý luyện tập những phương pháp, những thủ thuật dù nhỏ nhất trong cuốn sách này. Hãy làm tốt nhất bản khảo sát ở phần đầu cuốn sách. Kết quả có thể làm bạn thất vọng nhưng đổi lại, bạn sẽ nhìn thẳng vào thực tại “đau khổ” và có thêm quyết tâm để “cải tạo” chính mình. Hãy biến những kỹ năng đọc thành thói quen, hãy để đôi mắt, bàn tay và trí não làm việc thật ăn ý khi bạn đọc. Bạn sẽ biết mình cần chọn cách đọc nào, đọc thầm, đọc dò hay đọc lướt cho từng loại tài liệu; biết khi nào cần tăng tốc còn khi nào đọc chậm lại,… Sau mỗi phương pháp, hãy thực hành với hệ thống bài tập từ dễ đến khó và vận dụng, tự sáng tạo ra những bài tập hàng ngày cho riêng mình. Hãy “đầu tư” thời gian để đọc và luyện tập các bí quyết từ những tay đọc siêu tốc trên thế giới. Chắc chắn bạn sẽ không tính nổi mình được “lãi” hơn bao nhiêu thời gian đâu. Hà Nội, tháng 11 năm 2012 CÔNG TY SÁCH ALPHA *** Với hầu hết tất cả mọi người thì "thời gian là vàng" và "tri thức là sức mạnh". Tuy nhiên, lại xuất hiện một nghịch lý là chúng ta sẽ mất rất nhiều "vàng" để có được "sức mạnh". Vậy thì, đâu là câu trả lời cho bài toán làm sao để vẫn có tri thức mà không bị mất quá nhiều thời gian. Nắm bắt được tình hình đó, Alpha Books xin giới thiệu đến độc giả cuốn sách"Luyện đọc nhanh". Alpha Books hi vọng đây sẽ là một trong những phương pháp hữu ích để độc giả có thể tiết kiệm thời gian, trong nhịp sống hiện đại ngày càng hối hả. Thời đại bùng nổ thông tin đem lại cho bạn những chân trời kiến thức rộng mở. Nhưng chân trời ấy càng rộng mở bao nhiêu thì quỹ thời gian của bạn lại càng bị thu hẹp lại bấy nhiêu. Những câu than vãn kiểu như: "Tôi không còn đủ thời gian đọc sách", "Tôi không thể nhớ nổi mình vừa đọc cái gì" hay "Đọc sách là trò chán ngắt" ngày càng nhiều. Và đó là chính là dấu hiệu của việc bạn đang dần đuối sức trước cuộc đua với thời gian và tri thức.                            Quay trở lại với câu hỏi được đặt ra lúc đầu: "Làm thế nào để vẫn có tri thức mà không bị mất quá nhiều thời gian". Có hai phương án cho bạn lựa chọn đó là: "Hãy đọc nhanh lên" hoặc "Hãy đọc ít đi". Nhưng hẳn là với những độc giả của Alpha Books việc "hãy đọc ít đi" không có trong từ điển của chúng ta. Vậy thì làm thế nào để đọc nhanh lên, câu trả lời nằm trong cuốn sách "Luyện đọc nhanh". Cuốn sách chỉ ra cho bạn những thói quen xấu khi đọc sách để từ đó tìm ra phương pháp hữu hiệu nhất giúp bạn có thể đọc nhanh lên 3 đến 10 lần một cách nhanh chóng nhất. Nghe tưởng chừng như không tưởng, nhưng với những lý thuyết về đọc nhanh, đọc lướt, cách để tìm và tập trung và những đoạn quan trọng để đọc chậm lại và nắm bắt nội dung của cả cuốn sách, bạn đọc sẽ nhận thấy việc đọc nhanh cũng không quá khó khăn như ta tưởng. Hơn thế nữa, bạn đọc còn có một hệ thống các bài luyện tập từ dễ đến khó, từ ngắn đến dài một cách khoa học. Việc của bạn bây giờ chỉ đơn giản là hãy kiên trì luyện tập, luyện tâp và luyện tập.  Cuối cùng, Alpha Books xin gửi đến bạn đọc một ví dụ nho nhỏ đó là: "Sydney Sheldon" nhà văn viết truyện trinh thám nổi tiếng thế giới. Trong thời trai trẻ của mình, Sydney đã từng làm nghề tóm tắt truyện cho những hãng phim tại Mỹ. Và trong cuốn tự truyện của mình ông đã kể lại một lần ông sử dụng bốn tiếng đồng hồ để đọc hết 400 trang truyện và tóm tắt thành một bài văn ngắn dài 30 trang. Và nếu bạn đọc nghĩ rằng đó là một tốc độ đọc không tưởng thì bạn đã nhầm, vì cuốn sách "Luyện đọc nhanh" sẽ giới thiệu đến bạn đọc những "quái vật" thực sự trong tốc độ đọc sách, những con người đọc sách nhanh nhất hành tinh.   Mời các bạn đón đọc Luyện Đọc Nhanh do Alpha Books biên soạn.
Học Siêu Tốc Nhờ Tư Duy Khác Biệt
N ếu bạn đang cố gắng tìm cách cải thiện thói quen học tập, phần nhiều khả năng là do bạn đang có thứ cần phải học, điều này nghĩa là bạn không có thời gian đọc cả núi sách để tìm ra phương pháp học hiệu quả… Thông thường ở cấp trung học và đại học, nhiều giáo viên kỳ vọng bạn sẽ nắm được một phương pháp học tập tốt nhất. Nhưng dường như có rất ít các trường dạy học sinh cách ghi chép bài, và nói cho cùng, hầu hết giáo viên có nhiều tài liệu để dạy hơn số thời gian lên lớp. Kết quả là kỹ năng học hiếm khi trở thành một phần trong giáo án khiến bạn thiếu đi các kỹ năng để phát triển tiềm năng học thuật của bản thân… Nhiều người coi học là một việc đáng sợ. Chỉ các hiểm họa của nó thôi cũng đủ làm hiện hình những cơn ác mộng về những bài kiểm tra hóc búa phải làm, những biểu đồ đồ sộ cần điền và cả một dải ngân hà những con số cần tính toán – tất cả đều được lên lịch cho ngày mai. Thế là quá đủ để bất cứ ai chần chừ hoặc chết non vì quá căng thẳng… Học là điều chỉnh các nhịp độ. Là việc sử dụng não bộ mà không làm bạn phát điên. Nói cách khác, nó là việc tận dụng tối đa tiềm năng của bộ não bằng những kỹ thuật đơn giản giúp bạn thông minh mà vẫn tỉnh táo. Trong nỗ lực khiến bạn trở nên thông minh hết mức có thể theo cách đỡ đau thương và ít tốn thời gian nhất, cuốn sách này sẽ có vai trò thúc đẩy bạn bắt đầu một thứ mà hy vọng sẽ tạo nên một quãng đời chăm chỉ học tập và thành công. Tất cả những điều trên lý giải vì sao bạn nên đọc cuốn sách này. *** H y vọng bạn thấy cuốn sách này hữu ích. Sau khi đã thực sự thử tất cả các gợi ý trong sách trong vài tháng tới mà bạn vẫn thấy mình chẳng tiến bộ mấy, đã đến lúc chuyển sang giai đoạn hai. Ngồi lại với cha mẹ, thầy cô, hoặc người tư vấn và nói về việc tại sao những kỹ năng học ở đây không có tác dụng với bạn. Có thể có những lý do khác mà bạn chưa biết đang khiến các mục tiêu của bạn rời xa khỏi tầm với. Bất kể thế nào, đừng ngồi yên một chỗ. Tìm ra thứ gì đang làm bạn chậm lại và đánh bại nó. Trong mọi thứ bạn làm, hãy vươn tới sự xuất sắc (không phải hoàn hảo nhé, đó là một mục tiêu đáng sợ và phi thực tế cho bất cứ ai) và sau đó làm hết sức để đạt được sự thỏa mãn với sự toàn tâm của mình. Phần sau cùng cũng là phần khó nhất, đòi hỏi vài người trong chúng phải tốn cả đời để có thể làm chủ nó. Ít người có thể đạt giải Nobel, nhưng bằng sự cần mẫn bạn sẽ là người thành công. Mời các bạn đón đọc Học Siêu Tốc Nhờ Tư Duy Khác Biệt của tác giả 1980 Books.
Học Cách Mỉm Cười
H ọc cách mỉm cười – quả đúng như vậy, gấp trang sách lại tôi thấy mình đang mỉm cười. Cảm giác như tôi vừa có một buổi cà phê chuyện trò rất thân tình và ấm áp với tác giả Nguyễn Hoàng Ánh. Trong cuốn sách chị đề cập đến mọi khía cạnh của cuộc sống: từ tuổi mới biết yêu, chập chững vào đời tới hôn nhân, gia đình, con cái, ngoại tình, ly hôn, định kiến xã hội và các mối quan hệ trong công việc. Vấn đề nào chị cũng phân tích rất tỉ mỉ, không kém phần sắc sảo xen lẫn hài hước khiến tôi hoàn toàn bị thuyết phục. Cuốn sách này quả là một món quà quý cho các bạn trẻ thời nay khi có quá nhiều nỗi băn khoăn lo lắng trước các ngã rẽ của cuộc đời. Cuốn sách không phải được viết ra bởi một giảng viên đại học, nó được viết ra từ trái tim và tấm lòng của một người mẹ, người chị khá hiện đại với những góc nhìn mới mẻ đôi khi đi ngược lại với những định kiến xưa cũ. Sự thông minh, thẳng thắn, chân tình và ấm áp là những gì tôi cảm nhận được xuyên suốt cuốn sách. Và nó đã khiến tôi mỉm cười tin rằng cuốn sách sẽ truyền cảm hứng mạnh mẽ tới người đọc và chắc chắn nó sẽ giúp các bạn trẻ nhìn nhận rõ con đường mình sẽ đi. TÂM PHAN Sydney 18/5/2017 *** Lý do để yêu...!? For my daughter and her friends! Con gái yêu của mẹ! T hời gian trôi thật nhanh, thấm thoắt con đã 18 tuổi. Mới ngày nào con còn là em bé nhỏ xíu, sinh ra có 3,05 cân. So với thành tích của bà ngoại: sinh mẹ là con đầu lòng nặng 3,5 cân, cậu con là 3,8 cân, còn cô Út là 4,05 cân – ôôôôôôô!!!), thì mẹ con mình quả là khiêm tốn. Con là con đầu lòng của bố mẹ nên dù còn rất khó khăn nhưng tình cảm bố mẹ dành cho con thì không lời nào nói hết. Con có lẽ cũng cảm nhận được điều đó nên ngay từ đầu đã ra sức “bắt nạt” bố mẹ. Con khó ăn, khó ngủ, không theo ai cả trừ mẹ ra nhưng bố mẹ không một lời than phiền. Lúc ấy cuộc sống chưa bận rộn lắm nên bố mẹ có nhiều thì giờ dành cho con, điều mà em con không có được. Mẹ cứ ngồi ngắm con hàng giờ không biết chán. Còn bố con thì mỗi điều con muốn đều là mệnh lệnh, làm mẹ phát bực vì “phản sư phạm”quá. Cũng may, con khỏe mạnh, cứng cáp và nhanh nhẹn. Hồi đó, bố con hay đi công tác nên chủ yếu chỉ có hai mẹ con mình sống với nhau. Đã bao lần mẹ nhìn con mà tự nhủ: “Nhờ có con mẹ mới vượt qua được bao khó khăn, buồn khổ của cuộc đời để bước tiếp. Mong hai mẹ con mình sẽ bên nhau suốt đời.” Rồi con lớn lên, dần trở thành người trợ giúp cho mẹ trong nội trợ, chăm sóc em,... Con và mẹ còn cùng sẻ chia niềm đam mê với âm nhạc, văn học. Mẹ vẫn hi vọng chúng ta sẽ luôn bên nhau, là bạn của nhau suốt đời. Vẫn biết cuộc đời bên ngoài nhiều gió mưa bão tố, nhưng mẹ vẫn mong đôi cánh nhỏ nhoi của mẹ sẽ che chở cho con được dài lâu. Mẹ đã rèn giũa để con tự lập được, nhưng bản năng người mẹ trong mẹ lại không ngừng bao bọc con. Song chúng ta không cưỡng lại được quy luật của cuộc sống. Con giờ đã 18 tuổi, lớn bổng thành một thiếu nữ. Nhìn con xúng xính trong tấm áo dài, xỏ chân vào đôi giày cao gót – quà tặng của bố mẹ nhân ngày con tốt nghiệp phổ thông – mẹ biết là con đã không còn chỉ muốn nằm trong vòng tay mẹ nữa. Con đã biết mong chờ lời khen từ nhiều người bạn khác giới, và rồi từ một người đặc biệt nào đó. Con biết yêu! Cũng từng là thiếu nữ, mẹ hiểu sự diệu kỳ cũng như khó khăn của quãng thời gian ấy và cảm xúc ấy, nhưng thật khó để truyền đạt lại cho con. Tuổi trẻ luôn đầy kiêu hãnh và cũng đầy tự ái, tuổi trẻ cũng cho rằng mình có con đường của riêng mình. Làm sao để làm con tin rằng những gì con cảm nhận bây giờ, trước con và sau con, triệu triệu cô gái đều cảm thấy. Nhưng số những người tìm được hạnh phúc từ cái gọi là cảm xúc “yêu” ấy lại vô cùng ít ỏi. Có muôn vàn những xúc cảm mong manh khiến người ta khởi sự “yêu” một người, chẳng hạn như: #1 Tự dưng thấy “thinh thích” khi “người ấy” nhìn mình. #2 Tự dưng đỏ mặt khi bắt gặp ánh mắt người ấy. #3 Tự dưng tim đập dồn dập vì một cử chỉ quan tâm. #4 Tự dưng thấy nhơ nhớ khi không gặp “người ta”. #5 Trước mặt người ta bỗng muốn chải chuốt điệu đàng, không còn ăn mặc, nói năng thoải mái như trước nữa. #6 Khi bước vào cả lớp học đầy người nhưng lại thấy vô cùng trống trải khi “người ta” không có ở đấy! #7 Lắm khi, vì một lý do rất “chuối củ” là “chúng nó” có đôi hết rồi mà mình thì “một mình”! #8 Vì “đối tượng” đẹp trai (bây giờ có vẻ quá phổ biến). #9 Bên “người ta” mình tự dưng thấy như bay bổng vậy, hạnh phúc vô cùng. #10 Tổng kết lại, “chỉ vì mình đã lớn”, như bài thơ của Nguyễn Bính đã nói hộ tâm tình:   “Năm xưa em bé tuổi mười ba Em được mẹ yêu quý nhất nhà Sống giữa tình thương thơ mộng quá Tháng ngày mê mẩn bướm cùng hoa   Em ngoan ngoãn lắm, rất vâng lời Thỉnh thoảng chỉ hay hờn mát thôi Mẹ cười âu yếm: “Sau khôn lớn Đi lấy chồng rồi dỗi với ai?”   Em ghét từ lâu chuyện lấy chồng Một mình có phải nhẹ nhàng không? Tha hồ thơ thẩn, tha hồ rảnh Chẳng phải vì ai đợi - chờ - mong   Không biết làm sao phải lấy chồng? Dại gì đi ở với đàn ông Xa mẹ xa cha, thôi em chịu Không lấy chồng đâu, nhất định không...   Năm nay em đã lớn khôn rồi Mái tóc chùng buông chấm quá vai Ửng chín dậy thì trên má lúm Nụ cười duyên dáng dưới đôi môi   Nghĩ chuyện năm xưa lại nực cười Em ngây thơ quá chẳng bằng ai Khóc cười giận dỗi vô duyên thế Có biết gì đâu - nũng nịu hoài   Em ghét từ lâu chuyện lấy chồng Một mình có phải nhẹ mình không Tha hồ thơ thẩn, tha hồ rảnh Không khổ vì ai, chẳng nhớ nhung   Cứ sống cô đơn thế khỏi phiền Chiếu dài giường rộng chẳng ai chen Không, em nhất định, không đâu nhé Em hứa rằng không đấy, đợi xem   Soi gương bỗng thấy tóc em dài Vương vương rủ xuống rối bên vai Hững hờ lấy lược ra toan gỡ Nhưng gỡ làm chi - đẹp với ai   Đã bảo rằng em thích độc thân Mà lòng riêng vẫn cứ bâng khuâng Ô hay! Lạ quá làm sao thế Rõ ghét ông trời đến oái oăm...” (Bài thơ Không biết làm sao phải lấy chồng) Nói cho cùng, theo bài thơ ấy thì con gái mẹ bây giờ đã lớn lắm rồi. Các con may mắn hơn thời xưa, được tự do yêu đương trước khi lấy chồng. Nhưng tình yêu cũng là một chuyến hành trình đầy gian nan và rủi ro. Vì vậy, mẹ mong rằng trước khi bước vào chuyến đi hệ trọng ấy, con và các bạn con hãy dừng lại đôi chút, nghĩ xem “Vì sao mình lại muốn yêu người ấy?” Ở tuổi các con, chuyện tình cảm còn mang nhiều yếu tố cảm tính. Mà tình yêu lại là hành trình một chiều, khi con đã bắt đầu bước chân lên chuyến hành trình ấy thì sẽ không bao giờ quay lại điểm khởi đầu được nữa. “Tình yêu đầu tiên – Trò chơi cuối cùng”. Đừng để trò chơi ấy lấy đi sự vô tư, trong trẻo của con nếu con không chắc về tình cảm của cả hai bên. Hãy nghĩ xem, người bạn trai của con và cả con nữa, có thể dành cho nhau những tình cảm giống như câu chuyện dưới đây không: Một cô gái hỏi bạn trai của mình: - Tại sao anh yêu em? - Sao em lại hỏi như thế, sao anh tìm được lý do chứ! - Chàng trai trả lời. - Không có lý do gì tức là anh không yêu em. - Em không thể suy diễn như thế được. - Nhưng bạn trai của bạn em luôn cho cô ấy biết lý do anh ta yêu cô ấy. - Thôi được, anh yêu em vì em xinh đẹp, giỏi giang, nhanh nhẹn. Anh yêu em vì nụ cười của em, vì em lạc quan. Anh yêu em vì em luôn quan tâm đến người khác. Cô gái cảm thấy rất hài lòng. Vài tuần sau cô gặp phải một tai nạn khủng khiếp, nhưng rất may cô vẫn còn sống. Bỗng nhiên cô trở nên cáu kỉnh vì cô thấy mình vô dụng. Vài ngày sau khi bình phục, cô nhận được lá thư từ bạn trai của mình: “Chào em yêu! Anh yêu em vì em xinh đẹp. Thế thì với vết sẹo trên mặt em bây giờ anh không thể yêu em được nữa. Anh yêu em vì em giỏi giang, nhưng bây giờ em có làm được gì đâu. Vậy thì anh không thể yêu em. Anh yêu em vì em nhanh nhẹn, nhưng thực tế là em đang ngồi trên xe lăn. Đây không phải lý do giúp anh có thể yêu em. Anh yêu em vì nụ cười của em. Bây giờ anh không thể yêu em nữa vì em lúc nào cũng cau có, than vãn. Anh yêu em vì em quan tâm đến người khác, nhưng bây giờ mọi người lại phải quan tâm đến em quá nhiều. Anh không nên yêu em nữa. Đấy, em chẳng có gì khiến anh phải yêu em, vậy mà anh vẫn yêu em. Em có cần lý do nào nữa không, em yêu?!” 1 1 Truyện sưu tầm Internet. Cô gái bật khóc, và chắc chắn cô không cần một lý do nào nữa. Còn các bạn có bao giờ hỏi những người thân của mình vì sao họ yêu bạn không? Tình yêu đôi khi không nhất thiết phải cần lý do đâu bạn ạ! Đúng, tình yêu không cần lý do. Nó chỉ cần tình cảm và sự hi sinh cho nhau, cần trách nhiệm và cam kết với nhau, cùng vô vàn điều khác nữa mà người ta chỉ có được khi đã trưởng thành. Vì vậy, mẹ không cấm cản khi các con có những “vấn vương”, nhưng mong các con hãy giữ đúng giới hạn để tình cảm và cả cuộc sống của các con được tươi vui, trong trẻo như nó đáng có. Nhớ rằng: “Hãy là hoa, xin hãy khoan là trái, Hoa nồng hương mà trái lắm khi chua.”2 2 Trích từ bài thơ của nhà thơ Tôn Nữ Thu Hồng (1922-1948) được giới thiệu trong “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh - Hoài Chân, Đinh Tị và Nxb Văn học, 2013. Chúc con và các bạn cùng lứa tuổi có được một tuổi trẻ vui tươi và một tình yêu đẹp! Mời các bạn đón đọc Học Cách Mỉm Cười của tác giả Nguyễn Hoàng Ánh.