Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phản Bội Chính Mình Và Quy Trình Chữa Lành (Julien Blanc)

THẾ NÀO LÀ PHẢN BỘI CHÍNH MÌNH.

Tất cả chúng ta đều sống theo kiểu làm vừa lòng ngươi khác, không chỉ riêng những người luôn luôn nói lời đồng ý, những người lúc nào cũng tỏ ra tốt bụng, luôn nói có, hay chỉ biết ẩn mình hoặc luôn luôn bất đồng ý kiến. Tất cả chúng ta đang đeo mặt nạ từ nhỏ đến lớn để mà làm người khác vừa lòng, để mà được xã hội chấp nhận, để không bị đào thải, để mà sinh tồn.

Vậy chúng ta là ai sau cái mặt nạ ấy?

Cái bạn cần nhận ra “ cái mặt nạ tốt bụng” đấy là không thật tâm, nó xuất phát từ sự sợ hãi, nó nảy sinh từ sự tiêu cực, và nó tiếp diễn sự tiêu cực trong con người của ban.

Một con người luôn tỏ ra lịch sự liệu thực tâm họ có lịch sự hay lịch sự chỉ vì sợ => đây là cách sống phản ứng lại vấn đề, Tìm mua: Phản Bội Chính Mình Và Quy Trình Chữa Lành TiKi Lazada Shopee

Hãy buông bỏ cảm xúc kiểu phản ứng, bạn sẽ cảm nhận được lần đâu tiên sự tốt bụng đến từ thực tâm, bạn sẽ cảm giác được truyền cảm hứng để là người tốt, không còn PHẢI CỐ để là người tốt nữa.

Xin đừng để ý đến sự tốt bụng, hãy quan tâm tới việc thực tâm. Người ta thà nhận sự từ chối từ người thực lòng còn hơn sự đồng ý từ cái mặt nạ giả tạo. Bạn thấy đó hàng ngày, ngoài xã hội hai cái mặt nạ tương tác với nhau là chuyện bình thường.

Nếu bạn chân thành một chút thôi, bạn sẽ cảm nhận không khí trong lành hơn hẳn, hãy hạ màn diễn, vứt cái mặt nạ đi, hãy thôi cái niềm tin bạn sẽ không bao giờ gây ra lỗi với người khác như kiểu “ Tôi sẽ không để ai buồn” => mọi mối quan hệ của bạn không phải lúc nào cũng tốt, và điều đó là chuyện bình thường.

Bạn nên cảm thấy ổn đôi khi gặp sự bất đồng ý kiến, điều quan trọng là ý định đằng sau những gì bạn thể hiện có tốt hay không? Ta không đồng ý với người khác nhưng ý định đằng sau đó là chê bai họ, hay đơn giản chỉ là ý tốt. Tập trung vào cái đó, cái ý định ban đầu của bạn.

Ngày còn bé thơ, bạn buồn, bạn chạy đến nói với mẹ bạn:

“ Mẹ ơi, con buồn quá “. Mẹ quát ngay: buồn cái gì mà buồn, chán cái gì mà chán… Bạn chạy vào trong góc, và không bao giờ thể hiện mọi cảm giác của mình nữa, mọi cảm xúc bạn thể hiện ra bên ngoài đều bị người khác từ chối.

Bạn đè nén cảm xúc của mình, bạn cảm thấy người khác mới có quyền bày tỏ. bạn cảm thấy bản thân mình không quan trọng Bạn nghĩ mọi người sẽ không quan tâm tới những gì bạn cảm thấy, những gì bạn sẽ nói ra.

Tại sao bạn cảm thấy như vậy? Tại sao và tại sao? Bạn có bao giờ tự hỏi mình chưa?

Đây toàn bộ là cảm xúc của những người chỉ muốn làm hài lòng người khác, bạn đeo mặt nạ lên là bạn đang từ chối chính mình. Từ chối mãi, không dừng, bằng cách tự nói với mình rằng: bản thân mình không quan trọng, và đặt người khác trước bản thân, rằng người khác hạnh phúc, thì bạn sẽ hạnh phúc. Bạn quan tâm quá nhiều về cái nhìn của mọi người.

Thế những gì đang xảy ra trong bạn thì sao? Bạn mặc kệ nó, bạn nghĩ nếu tôi cần một ai đó và cần sự công nhận của họ thì ắt hẳn TÔI PHẢI LÀM HỌ VUI, PHẢI LÀM HỌ VỪA LÒNG.Còn cái cảm giác thật của bạn thì bạn lờ đi, bạn kìm nén nó trong một thời gian dài, lòng tự tôn của bạn sẽ không còn nữa khiến bạn nghĩ rằng bản than mình là không quan trọng. Bạn tạo ra một cái vòng lẩn quẩn không lối thoát, và đây là lúc bệnh trầm cảm sinh ra.

Trong đời mình, phần lớn khi mình nói ra cảm xúc nỗi buồn của mình, tất cả mọi người xung quanh bạn sẽ nói: “ Không sao đâu, mọi thứ ổn mà, có gì đâu mà buồn” và nghĩ người ta sẽ thoải mái khi được an ủi như vậy

Thực tế nó chỉ làm cho cảm xúc mình tệ thêm. Hãy để ý những lần tới khi bạn tương tác với người thân hoặc bạn bè mình, bạn nói như trên thì không đúng đâu bởi vì bạn đang làm họ cảm thấy BẤT ỔN khi cảm nhận cảm xúc buồn CỦA MÌNH. Điều chúng ta cần nhất những lúc buồn là có ai đó bên cạnh và chấp nhận cái nỗi buồn ấy, ở cùng ta và cùng nỗi buồn ấy thay vì cho rằng phải vui lên, cảm nhận nỗi buồn ấy là không tốt. Đúng hơn là, cảm nhận nỗi buồn là chuyện bình thường, cho phép bản thân cảm nhận mọi cảm xúc của mình là chuyện hoàn toàn ổn, và tôi sẽ ở đó chia sẻ cùng bạn.

Có nhiều người tương tác xã hội theo cách luôn cố tỏ ra cool bề ngoài để mọi người chấp nhận và bỏ quên sự chân thật, Luôn lo lắng mình nói vậy có ổn không ta, có hợp không, có hài hước không?

® Để thay đổi điều này bạn cần mang sự thật bên trong của mình ra bên ngoài bằng cách nói ra cái tiếng nói thực sự trong đầu của bạn,

Ví dụ: nếu bạn hết chuyện để nói, điều tốt nhất bạn nên làm là: “ tôi chẳng biết nói gì cả, tôi chuẩn bị thật nhiều nhưng không biết nói gì?...

Bạn cứ nghĩ rằng người ta sẽ chê cười bạn, nhưng thực sự đó là cái chân thât => đó là cái mặt nạ cần được gỡ xuống,

Ngay khi bạn nói bạn ngại, người khác thấy bạn ngại, điều nay còn tốt hơn nhiều khi bạn giấu nhẹm cái ngại đấy đí, phản hổi bạn nhận được bên trong mình là that „s ok

=> Giây phút đó là giây phút bạn nhận ra sự thịnh vượng đang ở trong bạn bằng cách chấp nhận bản thân, chấp nhận những gì trong nhận thức lẫn cả vô thức ( tiềm thức), chấp nhận những gì bạn đang trải nghiệm và cảm thấy chứ không phải tự bảo mình là không nên thế này, không nên thế khác… rồi lại đè nén.

® Hãy nhắm mắt lại và hồi tưởng khoảnh khắc mà bạn mở lòng, có ai đó đã chê cười những gì bạn nói, những gì bạn cảm nhận, họ nói điều đó là không bình thường, cảm nhận những cảm xúc của bản than mà bạn đã bị chối từ. Có thể lúc đó bạn đã buồn, đã quê, thậm chí căm ghét bản thân. Bạn nghĩ rằng mình không nên cảm giác như vậy: “ tại sao thôi lại cảm thấy tệ như vậy chứ?” => Hãy để tình huống ấy xảy ra trong đầu bạn một lần nữa, hãy hồi tưởng lại những rung động trong cơ thể.

Bạn cảm nhận bạn sợ hãi, tức giận, bất kể cảm xúc gì, đưa cảm xúc vào cơ thể hiện tại vào lúc này.

Bạn thấy đau đớn, bị phản bội, buồn bã, ngượng ngùng, ngu ngốc, căm ghét bản thân, dằn vặt bản thân, hãy nhập vào cảm giác ấy.

Giờ ta bắt đầu nhận thức lại vấn đề, đem nhận thức tới khoảnh khắc ấy.

Nếu cảm thấy sự khó chịu thì hãy cảm nhận sự khó chịu đó, có mặt với sự khó chịu, chỉ cần cho phép bản thân cảm thấy khó chịu, đừng gượng ép bản thân, ngưng việc lờ đi sự khó chịu ấy, ngưng lại việc lờ đi, hãy cảm nhận nó. Hãy đẩy cảm xúc mình lên và đưa nó về ánh sáng của sự chấp nhận, không còn đè nén=> bạn đang fleeing nó, có feeling là có healing, đó là cách bạn đang chữa lành cho chính mình.

“ Có một điều còn đau đớn hơn khi người khác từ chối con người thật của bạn đó là khi người ta thích cái con người giả tạo của bạn, khi bạn đeo mặt nạ, khi họ ngày càng đồng ý với cái nỗi đau bên trọng bạn, cùng cố giúp bạn giấu cái nỗi đau nó càng trầm trọng hơn, với tôi điều đó thật sự tệ hại.

Không chỉ dừng lại ở đó, ví dụ bạn có được nhiều sự công nhận đi, điều gì xảy ra sau đó? Thế giới của bạn sẽ là thế giới 2 mặt vì người ta có thể công nhận bạn, thì người ta có thể từ chối bạn

=> sẽ tồn tại một sự sợ hãi KHI CỨ PHẢI CỐ ĐỂ MÀ không bị từ chối.

“ Họ chấp nhận tôi hiện tại nhưng liệu vài phút nữa họ có chấp nhận tôi không?”

“ Làm sao để tôi giữ được sự công nhận đó trong ngày mai”

Đó là một cuộc đua không điểm dừng của con người trong xã hội hiện tại, và bạn không bao giờ tới đích, cuộc đua này giết chết lòng tự tôn của bạn, khiến bạn căm ghét bản thân bạn và căm ghét người khác. Bởi bạn bỏ công sức để làm vừa lòng người khác nhưng họ không đáp trả lại, bạn sẽ bực tức “ bà này thật là, má thằng đó…” Rồi lại: ôi không, tôi không nên nghĩ như thế, rồi lại đè nén, tạo nên cái uất cho mình => đây là lý do nhiều người hành xử mất kiểm soát khi kìm nén quá lâu.

Hãy học cách buông bỏ, nhận ra những tương tác trước đây của bạn là giả tạo, để có một mối quan hệ lâu dài vì nếu không sẽ chẳng tới đâu cả, vì không có sự thân mật, mọi người không biết con người thật sự của bạn là ai, ví dụ như lúc nào cũng không có chính kiến, kiểu mọi thứ họ thích tôi cũng thích theo, thực tế là bạn đang như một cái bản sao của họ vậy, sẽ rất chán khi một người phải chơi hoặc cưới với một bản sao của mình, và họ thực sự muốn biết dưới cái mặt nạ kia bạn là ai, chẳng ai muốn một người dễ dãi, người ta muốn một người bạn thật sự, nếu có sự nhàm chán cô đơn, kiểm soát sẽ chẳng tồn tại sự tin tưởng nào bởi vì điều đó bạn lại đi căm ghét bản thân rồi lại ghét người ta, rồi ôi thôi cái vòng lẩn quẩn của cái kén ngột ngạt. (Julien Blanc)

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Phản Bội Chính Mình Và Quy Trình Chữa Lành PDF của tác giả Julien Blanc nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Phép Xuất Hồn - Đỗ Thuần Hậu (1971)
Phép Xuất Hồn – Đỗ Thuần Hậu (1971) - Vô Vi Phép Xuất Hồn – Đỗ Thuần Hậu (1971) - Vô Vi Phép Xuất Hồn – Đỗ Thuần Hậu (1971) - Vô Vi Phép Xuất Hồn – Đỗ Thuần Hậu (1971) - Vô Vi Khi được xuất hồn lên cao, thì hình bóng ta ngó xuống bản thể ta. Tùy theo sự chịu khó của mỗi người tự ưng thuận công phu cho dày công thì sẽ được xuất hồn đủ hình bóng và thông hiểu quá khứ vị lai cùng được dạo Thiên cảnh. Các bạn nên để ý, khi được xuất hồn thì phải mê, trong đó có cái tỉnh, rồi ta thấy trên nê hườn (mỏ ác) tê lạnh, rồi hồn mới xuất được. Khi được xuất hồn lên cao, thì hình bóng ta ngó xuống bản thể ta. Tùy theo sự chịu khó của mỗi người tự ưng thuận công phu cho dày công thì sẽ được xuất hồn đủ hình bóng và thông hiểu quá khứ vị lai cùng được dạo Thiên cảnh. Các bạn nên để ý, khi được xuất hồn thì phải mê, trong đó có cái tỉnh, rồi ta thấy trên nê hườn (mỏ ác) tê lạnh, rồi hồn mới xuất được. Khi được xuất hồn lên cao, thì hình bóng ta ngó xuống bản thể ta. Tùy theo sự chịu khó của mỗi người tự ưng thuận công phu cho dày công thì sẽ được xuất hồn đủ hình bóng và thông hiểu quá khứ vị lai cùng được dạo Thiên cảnh. Các bạn nên để ý, khi được xuất hồn thì phải mê, trong đó có cái tỉnh, rồi ta thấy trên nê hườn (mỏ ác) tê lạnh, rồi hồn mới xuất được. Khi được xuất hồn lên cao, thì hình bóng ta ngó xuống bản thể ta. Tùy theo sự chịu khó của mỗi người tự ưng thuận công phu cho dày công thì sẽ được xuất hồn đủ hình bóng và thông hiểu quá khứ vị lai cùng được dạo Thiên cảnh. Các bạn nên để ý, khi được xuất hồn thì phải mê, trong đó có cái tỉnh, rồi ta thấy trên nê hườn (mỏ ác) tê lạnh, rồi hồn mới xuất được. Lúc xuất hồn, bản thể của ta đang ngồi, nếu có sự đụng chạm nhẹ thì không biết, còn con muỗi cắn thì biết và vẫn nghe tiếng kêu của con vật “Chỉ khi nào xuất hồn ra khỏi bản thể, nhập vào cỏi vô-vi mới học được Đạo của Tiên Phật, chớ ở cỏi trần loạn động và ô trược nầy làm gì học được Đạo thanh tịnh vô-vi của Đức Phật – Hồn là một luồng điển chủ chốt trong bản thể, khi được thanh lọc và tập trung đúng mức thì sẽ khai phá nổi “Huyền Quang khiếu” để vượt ra khỏi ngục tù trần thế, gọi là giải thoát” ĐỖ THUẦN HẬU”Cụ Đỗ Thuần Hậu dùng một lối văn tiểu thuyết, nhưng kỳ thật là để nói rõ sự huyền bí trong việc tu hành” “Trong câu chuyện “Mơ duyên quái mộng” Cụ Đỗ Thuần Hậu thuật lại lúc “Hồn và Vía” gặp mhau khắng khít tiền duyên, hai đàng triếu mến nhau, khuyến khích nhau trên đường công phu tu luyện. Thật là lương duyên tiền định giữa “Tiên Đồng” và ” Ngọc Nữ” là cặp vợ chồng thiêng liêng mà người thế thường cho là sống đồng tịch đồng sàng, thác đồng quan đồng quách là vậy.” Lúc xuất hồn, bản thể của ta đang ngồi, nếu có sự đụng chạm nhẹ thì không biết, còn con muỗi cắn thì biết và vẫn nghe tiếng kêu của con vật “Chỉ khi nào xuất hồn ra khỏi bản thể, nhập vào cỏi vô-vi mới học được Đạo của Tiên Phật, chớ ở cỏi trần loạn động và ô trược nầy làm gì học được Đạo thanh tịnh vô-vi của Đức Phật – Hồn là một luồng điển chủ chốt trong bản thể, khi được thanh lọc và tập trung đúng mức thì sẽ khai phá nổi “Huyền Quang khiếu” để vượt ra khỏi ngục tù trần thế, gọi là giải thoát” ĐỖ THUẦN HẬU”Cụ Đỗ Thuần Hậu dùng một lối văn tiểu thuyết, nhưng kỳ thật là để nói rõ sự huyền bí trong việc tu hành” “Trong câu chuyện “Mơ duyên quái mộng” Cụ Đỗ Thuần Hậu thuật lại lúc “Hồn và Vía” gặp mhau khắng khít tiền duyên, hai đàng triếu mến nhau, khuyến khích nhau trên đường công phu tu luyện. Thật là lương duyên tiền định giữa “Tiên Đồng” và ” Ngọc Nữ” là cặp vợ chồng thiêng liêng mà người thế thường cho là sống đồng tịch đồng sàng, thác đồng quan đồng quách là vậy.” Lúc xuất hồn, bản thể của ta đang ngồi, nếu có sự đụng chạm nhẹ thì không biết, còn con muỗi cắn thì biết và vẫn nghe tiếng kêu của con vật “Chỉ khi nào xuất hồn ra khỏi bản thể, nhập vào cỏi vô-vi mới học được Đạo của Tiên Phật, chớ ở cỏi trần loạn động và ô trược nầy làm gì học được Đạo thanh tịnh vô-vi của Đức Phật – Hồn là một luồng điển chủ chốt trong bản thể, khi được thanh lọc và tập trung đúng mức thì sẽ khai phá nổi “Huyền Quang khiếu” để vượt ra khỏi ngục tù trần thế, gọi là giải thoát” ĐỖ THUẦN HẬU”Cụ Đỗ Thuần Hậu dùng một lối văn tiểu thuyết, nhưng kỳ thật là để nói rõ sự huyền bí trong việc tu hành” “Trong câu chuyện “Mơ duyên quái mộng” Cụ Đỗ Thuần Hậu thuật lại lúc “Hồn và Vía” gặp mhau khắng khít tiền duyên, hai đàng triếu mến nhau, khuyến khích nhau trên đường công phu tu luyện. Thật là lương duyên tiền định giữa “Tiên Đồng” và ” Ngọc Nữ” là cặp vợ chồng thiêng liêng mà người thế thường cho là sống đồng tịch đồng sàng, thác đồng quan đồng quách là vậy.” Lúc xuất hồn, bản thể của ta đang ngồi, nếu có sự đụng chạm nhẹ thì không biết, còn con muỗi cắn thì biết và vẫn nghe tiếng kêu của con vật “Chỉ khi nào xuất hồn ra khỏi bản thể, nhập vào cỏi vô-vi mới học được Đạo của Tiên Phật, chớ ở cỏi trần loạn động và ô trược nầy làm gì học được Đạo thanh tịnh vô-vi của Đức Phật – Hồn là một luồng điển chủ chốt trong bản thể, khi được thanh lọc và tập trung đúng mức thì sẽ khai phá nổi “Huyền Quang khiếu” để vượt ra khỏi ngục tù trần thế, gọi là giải thoát” ĐỖ THUẦN HẬU”Cụ Đỗ Thuần Hậu dùng một lối văn tiểu thuyết, nhưng kỳ thật là để nói rõ sự huyền bí trong việc tu hành” “Trong câu chuyện “Mơ duyên quái mộng” Cụ Đỗ Thuần Hậu thuật lại lúc “Hồn và Vía” gặp mhau khắng khít tiền duyên, hai đàng triếu mến nhau, khuyến khích nhau trên đường công phu tu luyện. Thật là lương duyên tiền định giữa “Tiên Đồng” và ” Ngọc Nữ” là cặp vợ chồng thiêng liêng mà người thế thường cho là sống đồng tịch đồng sàng, thác đồng quan đồng quách là vậy.”
HỌC LÀM PHẬT (TRANH CHĂN TRÂU) - THÍCH TRƯỜNG LẠC
Nhan đề sách "Học Làm Phật" không đúng hẳn với nội-dung. Thật ra đây là cuốn "Tranh Chăn Trâu" hay "Thập Mục Ngưu Đồ", một cuốn sách rất được nhiều người biết đến trong Phật-học. Sách gồm có 3 phần: một là "Họa" = tranh vẽ, là 10 bức tranh vẽ cảnh mục-đồng chăn trâu, từ lúc khởi đầu trâu đi lạc hoặc trâu còn hung dữ cho đến khi bắt được trâu và huấn-luyện cho thuần-thục; hai là "Tụng" là những bài kệ (4 câu) đi kèm theo mỗi búc họa, và ba là "Luận Giải" là những bài bình-luận hoặc giảng-giải thêm những bức họa và những bài tụng, cần cho người sơ học dễ nắm bắt được ý-nghĩa. Hiện nay có nhiều sách "Thập Mục Ngưu Đồ", và 3 phần nói trên tuỳ-nghi thay đổi nhiều ít dài ngắn theo mỗi soạn giả.
Bách Gia Chư Tử
Bách Gia Chư Tử (諸子百家; Bính âm: zhū zǐ bǎi jiā) là những triết lý và tư tưởng ở Trung Hoa cổ đại nở rộ vào giai đoạn từ thế kỷ thứ 6 đến năm 221 TCN trong thời kỳ Xuân Thu và Chiến Quốc. Bách Gia Chư Tử (諸子百家; Bính âm: zhū zǐ bǎi jiā) là những triết lý và tư tưởng ở Trung Hoa cổ đại nở rộ vào giai đoạn từ thế kỷ thứ 6 đến năm 221 TCN trong thời kỳ Xuân Thu và Chiến Quốc. Đây là thời kỳ hoàng kim của triết học Trung Quốc vì rất nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng được phát triển và bàn luận một cách tự do. Hiện tượng này được gọi là trăm nhà tranh tiếng (百家爭鳴/百家争鸣 "bách gia tranh minh"; Bính âm: bǎijiā zhēngmíng). Nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng Trung Quốc ở thời kỳ này đã có ảnh hưởng sâu rộng tới cách sống và ý thức xã hội của người dân các nước Đông Á cho đến tận ngày nay. Xã hội trí thức thời kỳ này có đặc trưng ở sự lưu động của những người trí thức, họ thường được nhiều nhà cai trị ở nhiều tiểu quốc mời làm cố vấn về các vấn đề của chính phủ, chiến tranh, và ngoại giao. Đây là thời kỳ hoàng kim của triết học Trung Quốc vì rất nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng được phát triển và bàn luận một cách tự do. Hiện tượng này được gọi là trăm nhà tranh tiếng (百家爭鳴/百家争鸣 "bách gia tranh minh"; Bính âm: bǎijiā zhēngmíng). Nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng Trung Quốc ở thời kỳ này đã có ảnh hưởng sâu rộng tới cách sống và ý thức xã hội của người dân các nước Đông Á cho đến tận ngày nay. Xã hội trí thức thời kỳ này có đặc trưng ở sự lưu động của những người trí thức, họ thường được nhiều nhà cai trị ở nhiều tiểu quốc mời làm cố vấn về các vấn đề của chính phủ, chiến tranh, và ngoại giao.Thời kỳ này kết thúc bởi sự nổi lên của nhà Tần và sự đàn áp các tư tưởng khác biệt sau đó. Vào những năm cuối thời nhà Chu, từ cuối thời Xuân Thu tới khi Trung Hoa được nhà Tần thống nhất, hệ thống tư tưởng ở Trung Hoa bước vào giai đoạn nở rộ nhất. Gương mặt quan trọng nhất trong thời kỳ này chính là Khổng Tử, người sáng lập Nho giáo. Ông đã lập ra một triết lý đạo đức chặt chẽ không sa đà vào những suy luận siêu hình. Mục đích của ông là cải tổ triều đình, nhờ thế có thể chăm sóc dân chúng tốt hơn. Thời kỳ này kết thúc bởi sự nổi lên của nhà Tần và sự đàn áp các tư tưởng khác biệt sau đó.Vào những năm cuối thời nhà Chu, từ cuối thời Xuân Thu tới khi Trung Hoa được nhà Tần thống nhất, hệ thống tư tưởng ở Trung Hoa bước vào giai đoạn nở rộ nhất. Gương mặt quan trọng nhất trong thời kỳ này chính là Khổng Tử, người sáng lập Nho giáo. Ông đã lập ra một triết lý đạo đức chặt chẽ không sa đà vào những suy luận siêu hình. Mục đích của ông là cải tổ triều đình, nhờ thế có thể chăm sóc dân chúng tốt hơn.Một nhà triết học khác là Lão Tử, cũng tìm cách cải cách chính quyền, nhưng triết học của ông ít có tính ứng dụng hơn. Ông được cho là người sáng lập Đạo giáo, với giáo lý căn bản là tuân theo Đạo. Trong khi Khổng giáo chủ trương tuân theo đạo trời bằng cách phải sống tích cực nhưng có đức, Đạo giáo khuyên không nên can thiệp và phấn đấu. Người thứ hai góp phần phát triển Đạo giáo chính là Trang Tử. Ông cũng dạy một triết lý gần tương tự. Tuy nhiên, cả hai không tin rằng Đạo có thể giải thích được bằng lời, vì vậy sách của họ mâu thuẫn và thường rất khó hiểu. Trường phái lớn thứ ba là Mặc Tử, người cũng tìm cách cải cách triều đình để đảm bảo đời sống cho người dân. Tuy nhiên, ông tin rằng nguyên nhân căn bản của mọi tai họa và khốn cùng của con người là do yêu người này mà ghét người kia, và vì vậy ông giảng giải thuyết kiêm ái: Thông thường, người ta với những người có quan hệ gần gũi ta đối xử với họ khác hơn so với một người hoàn toàn xa lạ. Mặc Tử tin rằng chúng ta phải đối xử với tất cả mọi người như đối với người thân nhất của chúng ta vậy. Nếu tất cả chúng ta đều làm như thế, những thứ như chiến tranh và đói nghèo sẽ biến mất. Một nhà triết học khác là Lão Tử, cũng tìm cách cải cách chính quyền, nhưng triết học của ông ít có tính ứng dụng hơn. Ông được cho là người sáng lập Đạo giáo, với giáo lý căn bản là tuân theo Đạo. Trong khi Khổng giáo chủ trương tuân theo đạo trời bằng cách phải sống tích cực nhưng có đức, Đạo giáo khuyên không nên can thiệp và phấn đấu. Người thứ hai góp phần phát triển Đạo giáo chính là Trang Tử. Ông cũng dạy một triết lý gần tương tự. Tuy nhiên, cả hai không tin rằng Đạo có thể giải thích được bằng lời, vì vậy sách của họ mâu thuẫn và thường rất khó hiểu.Trường phái lớn thứ ba là Mặc Tử, người cũng tìm cách cải cách triều đình để đảm bảo đời sống cho người dân. Tuy nhiên, ông tin rằng nguyên nhân căn bản của mọi tai họa và khốn cùng của con người là do yêu người này mà ghét người kia, và vì vậy ông giảng giải thuyết kiêm ái: Thông thường, người ta với những người có quan hệ gần gũi ta đối xử với họ khác hơn so với một người hoàn toàn xa lạ. Mặc Tử tin rằng chúng ta phải đối xử với tất cả mọi người như đối với người thân nhất của chúng ta vậy. Nếu tất cả chúng ta đều làm như thế, những thứ như chiến tranh và đói nghèo sẽ biến mất.Một trường phái lớn khác là Pháp gia. Xuất phát từ một nhánh của Khổng giáo, Pháp gia tin rằng con người vốn bản tính ác và chỉ vị kỷ. Kiểu triều đình tốt nhất và đóng góp nhiều nhất cho phúc lợi nhân dân sẽ là một triều đình kiểm soát chặt chẽ các bản năng của con người. Triều đình này sẽ cai trị bằng những pháp luật cứng rắn và chặt chẽ; sự trừng phạt sẽ nghiêm khắc và nhanh chóng. Lòng tin vào việc cai trị bằng pháp luật là lý do tại sao họ được gọi là Pháp gia. Một trường phái lớn khác là Pháp gia. Xuất phát từ một nhánh của Khổng giáo, Pháp gia tin rằng con người vốn bản tính ác và chỉ vị kỷ. Kiểu triều đình tốt nhất và đóng góp nhiều nhất cho phúc lợi nhân dân sẽ là một triều đình kiểm soát chặt chẽ các bản năng của con người. Triều đình này sẽ cai trị bằng những pháp luật cứng rắn và chặt chẽ; sự trừng phạt sẽ nghiêm khắc và nhanh chóng. Lòng tin vào việc cai trị bằng pháp luật là lý do tại sao họ được gọi là Pháp gia.
Bồ Đề Đạt Ma quán tâm pháp - Thích Minh Thiền
Tài liệu này ghi lại phần luận của Tổ Bồ-Đề Đạt-Ma trong quyển sách Bồ-Đề Đạt-Ma Quán Tâm Pháp do thầy Minh Thiền dịch và giảng giải tại chùa Hội Tông, Phú Định, vào năm 1973, xuất bản bởi Nhà xuất bản Quế Sơn, Võ Tánh. Quán Tâm Pháp là tên chung cho ba thiên luận về Huyết Mạch, Ngộ Tánh và Phá Tướng.   LUẬN HUYẾT MẠCHBa cõi lăng xăng đều từ một tâm. Phật trước Phật sau đều chỉ dùng tâm truyền tâm, chẳng lập văn tự. Có người hỏi: Nếu không lập văn tự, vậy lấy gì là tâm?Đáp: Ông nói tôi tức là tâm của ông, tôi trả lời với ông tức là tâm của tôi.Nếu tôi không có tâm thì lấy đâu biết để trả lời với ông; ông nếu không có tâm thì làm sao ông biết hỏi tôi. Cho nên biết: Hỏi tôi tức là tâm của ông đó. Từ lũy kiếp đến giờ, nhẫn đến hành tung hoạt động bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào đều là cái tâm vốn có của ông, đều là Phật vốn có của ông. Cái nghĩa “chính tâm là Phật” là như thế. Ngoài tâm này rốt ráo không có Phật nào khác có thể được. Nếu lìa tâm này mà tìm Bồ-đề, Niết-Bàn, thì thật là không tưởng. Tánh chơn thật của mình không phải pháp nhân pháp quả, đó là nghĩa của tâm. Tự tâm là Niết-Bàn. Nếu nói ngoài tâm có Phật và Bồ-Đề có thể được thì thật là không tưởng.Phật và Bồ-Đề ở chỗ nào? Ví như có người dang tay bắt hư-không có được gì không? Vì sao thế? Vì hư-không chỉ có tên chớ nào có hình tướng! Bắt đã chẳng được, bỏ cũng chẳng được. Thế là hư-không không thể bắt được.Trừ tâm này ra mà tìm Phật rốt rồi không được cũng giống như vậy. Phật là tự tâm làm ra. Tại sao lìa tâm mà tìm Phật? Phật trước Phật sau chỉ nói về tâm. Tâm tức là Phật, Phật tức là tâm; ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm. Nếu nói ngoài tâm có Phật vậy Phật ở đâu? Ngoài tâm đã không Phật sao lại còn làm ra cái thấy có Phật để mà dối gạt lẫn nhau, rồi không thể rõ được cái tâm vốn có của mình, lại bị vật vô tình nó nhiếp mất tự do; nếu không tin hiểu như thế, để tự dối gạt thật là vô ích. Phật không lỗi lầm, chúng sanh điên đảo chẳng biết giác ngộ tâm mình là Phật. Nếu biết tự tâm là Phật chớ nên tìm cầu Phật ngoài tâm.(Lược trích)