Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Màu Khác

Orhan Pamuk tiểu thuyết gia đã rất thành công với Tên tôi là Đỏ, Pháo đài trắng hay Cuốn sách đen, nhưng vì là một nhà văn tham vọng, “phổ màu” của ông còn muốn bao trùm rộng lớn hơn nữa, lên chính trị, hội họa cổ điển, những tản văn ngắn, và lên sự đọc. Những màu khác minh chứng cho tham vọng ấy khá rõ. Cuốn sách là sự nối dài đầy ngoạn mục, những “ngoại truyện” bổ sung cho các tiểu thuyết của ông, những thêm thắt về cảm giác vốn đã huy hoàng trong cuốn hồi ký tuyệt vời Istanbul, và nhất là ở đây, ta được chứng kiến Pamuk trong tư cách một người đọc cự phách; người đọc ấy hào phóng dẫn dắt ta đến với thế giới những tác giả mà ông sùng mộ nhiều chục năm nay: Camus, Flaubert, Dostoyevsky, Nabokov… những thế giới của sự đọc ấy mở rộng nhiều lần đường biên giới của sự viết ký tên Pamuk. Nhận định: “Những màu khác bao gồm nhiều bài viết khác nhau, từ báo chí và từ nhiều nguồn khác, được biên tập lại và đôi khi được viết lại, để làm nên một bức chân dung nhất quán về một văn nhân… Ngoài sự thông minh đầy quyến rũ và những quan sát đầy thông tuệ, Những màu khác còn là kêu gọi chúng ta hãy lùi lại mà suy ngẫm kỹ về những nguyên nhân lịch sử và tâm lý đã dẫn đến những vấn nạn đáng lo của thế giới ngày nay.” - Roger Kaplan, Washington Post Book World “Ông là nhà thơ của mê cung những suy tư và tưởng tượng của chính ông, về cái thần kỳ và về cái mập mờ lưỡng nghĩa.” - Colin Thubron, The New York Review ”Từ Những màu khác vang lên một giọng nói một phần tinh nghịch một phần u tối, cái thực tại soi chiếu trong đó là thực tại mà một con họa mi trong đời thường phải đâm ganh tị.” - Richard Eder, Los Angeles Times Book Review *** Đây là một cuốn sách làm từ các ý tưởng, hình ảnh và phân mảnh của cuộc đời chưa tìm thấy lối vào một trong các tiểu thuyết của tôi. Tôi đặt chúng cùng nhau ở đây trong một mạch tự sự. Đôi khi tôi ngạc nhiên thấy mình đã không thể đưa vào tác phẩm hư cấu tất cả những ý nghĩ tôi cho là đáng khám phá: những khoảnh khắc kỳ cục của cuộc đời, những cảnh đời thường nho nhỏ mà tôi muốn chia sẻ với người khác, và những lời lẽ phát ra từ tôi với sức mạnh và niềm vui khi có dịp say mê. Một vài phân mảnh mang tính tự truyện; có bài tôi viết rất nhanh; có bài bị gạt qua một bên khi tôi dành sự chú ý cho việc khác. Tôi quay trở lại với chúng rất giống như khi quay trở lại những tấm ảnh cũ, và - mặc dù hiếm khi đọc lại tiểu thuyết của mình - tôi thích thú đọc lại những bài viết này. Cái tôi thích nhất là những khoảnh khắc các bài này vượt lên được khỏi tính nhất thời, khi chúng không chỉ đáp ứng được yêu cầu của tờ tạp chí hay tờ báo đặt hàng, mà còn bày tỏ những mối quan tâm, niềm nhiệt tình của tôi nhiều hơn là tôi dự định tại thời điểm viết. Để mô tả những khoảnh khắc vụt hiện đó, những khoảnh khắc kỳ lạ khi chân lý bằng cách nào đó được rọi sáng, Virginia Woolf từng dùng cụm từ “những khoảnh khắc hiện hữu”. Trong khoảng thời gian từ 1996 đến 1999 tôi viết những bài viết ngắn hằng tuần cho Oküz (Bò đực), một tạp chí chuyên về chính trị và hài hước; và tôi cũng vẽ minh họa cho những bài ấy. Đây là những bài tản văn ngắn trữ tình được viết một mạch, trong đó tôi rất ưa nói về con gái tôi và bạn bè của tôi, thăm dò các vật thể và thế giới bằng cặp mắt tươi mới, và nhìn thế giới bằng từ ngữ. Càng ngày, tôi càng bớt xem tác phẩm văn chương là kể về thế giới, mà là “nhìn thế giới bằng từ ngữ”. Từ thời điểm bắt đầu dùng từ ngữ như dùng màu trong hội họa, nhà văn có thể bắt đầu thấy thế giới thật diệu kỳ và lắm vẻ ngạc nhiên đến thế nào, và anh ta đào sâu vào ngôn ngữ để tìm ra giọng điệu riêng của mình. Để làm điều này anh ta cần giấy, bút, và sự lạc quan của một đứa trẻ nhìn thế giới lần đầu tiên. Tôi tập hợp những bài viết này để tạo thành một cuốn sách hoàn toàn mới lấy yếu tố tự truyện làm trung tâm. Tôi bỏ nhiều bài và cắt ngắn một số bài khác, chỉ lấy trích đoạn từ hàng trăm bài báo và đưa một số tiểu luận đến những vị trí xa lạ trong cuốn sách, những vị trí xem ra phù hợp với kết cấu của câu chuyện đó. Ví dụ, ba bài diễn văn được in thành một tập riêng ở Thổ Nhĩ Kỳ và nhiều ngôn ngữ khác dưới nhan đề Cái vali của cha tôi (gồm diễn từ Nobel cùng tên, cũng như bài “Ở Kars và Frankfurt”, bài diễn văn tôi đọc nhân dịp Giải thưởng Hòa bình Đức, và bài “Tác giả ngầm ẩn”, bài diễn văn tôi đọc tại Hội nghị Puterbaugh) xuất hiện ở đây trong các phần tách biệt để phản ánh cùng một câu chuyện tự truyện ấy. Ấn bản Những màu khác này được dựng nên từ cùng bộ khung của cuốn sách cùng tên xuất bản lần đầu ở Istanbul năm 1999, nhưng cuốn sách trước mang hình thức của một tập hợp, trong khi cuốn sách này được định hình như một chuỗi các phân mảnh mang tính tự truyện, những khoảnh khắc, những ý nghĩ. Nói về Istanbul, hay bàn luận về các cuốn sách, tác giả, bức tranh yêu thích nhất của tôi, với tôi luôn luôn là một cái cớ để nói về cuộc đời. Những mẩu chuyện New York được viết năm 1986, khi tôi viếng thăm thành phố lần đầu tiên, và tôi viết chúng để ghi nhận những ấn tượng đầu tiên của một người nước ngoài, dự định dành cho độc giả Thổ Nhĩ Kỳ. “Nhìn ra cửa sổ”, câu chuyện ở cuối sách, mang tính chất tự truyện mạnh đến nỗi tên nhân vật rất có thể là Orhan. Nhưng người anh trong câu chuyện, như tất cả các người anh trong các câu chuyện của tôi, xấu xa và bạo tàn, không liên hệ gì với người anh của tôi ngoài đời thực, Şevket Pamuk, sử gia kinh tế xuất sắc. Khi soạn cuốn sách này, tôi bàng hoàng nhận ra tôi có mối quan tâm đặc biệt và khuynh hướng thiên về các thảm họa tự nhiên (động đất) và thảm họa xã hội (chính trị), và do vậy tôi đã gạt ra kha khá bài viết u ám về chính trị. Tôi luôn luôn tin rằng ắt phải có một kẻ cuồng viết tham lam và gần như không thể lay chuyển thường trú trong tôi - một sinh vật không thể bao giờ viết cho đủ, kẻ lúc nào cũng biến cuộc sống thành từ ngữ - và để cho hắn ta vui lòng tôi cần phải tiếp tục viết. Nhưng khi soạn cuốn sách này, tôi khám phá ra rằng kẻ cuồng viết đó sẽ vui hơn nhiều, và bớt đau đớn vì căn bệnh viết lách của hắn, nếu hắn làm việc với một biên tập viên trao cho những bài viết của hắn một trung tâm, một bộ khung, và một ý nghĩa. Tôi mong độc giả nhạy cảm hãy chú ý đến việc biên tập sáng tạo của tôi cũng nhiều như chú ý đến nỗ lực mà tôi đặt vào bản thân việc viết. Tôi hầu như không đơn độc trong việc là người ngưỡng mộ nhiệt thành nhà văn, nhà triết học Đức Walter Benjamin. Nhưng để chọc tức một người bạn quá mức sùng bái ông (dĩ nhiên cô là một người trong giới học thuật), đôi khi tôi hỏi, “Ông nhà văn này có gì mà quá vĩ đại? Ông ấy chỉ hoàn thành có vài cuốn sách, và nếu ông nổi tiếng, ấy không phải nhờ những tác phẩm ông đã hoàn thành mà là nhờ những tác phẩm ông chưa bao giờ hoàn thành nổi.” Bạn tôi trả lời rằng toàn bộ các tác phẩm của Benjamin, như bản thân cuộc đời, không có ranh giới và do đó có tính chất phân mảnh, và đó là lý do tại sao nhiều nhà phê bình văn chương đã rất cố gắng mang lại ý nghĩa cho các tác phẩm đó, như họ làm với cuộc đời. Và mỗi lần như thế tôi mỉm cười nói, “Một ngày nào đó tôi sẽ viết một cuốn sách cũng chỉ tạo thành từ các phân mảnh.” Đây là cuốn sách ấy, được đặt trong một cái khung để gọi ra một trung tâm mà tôi cố gắng che giấu: tôi hy vọng độc giả sẽ thích thú với việc tưởng tượng sao cho cái trung tâm ấy thành hiện hữu. Mời các bạn đón đọc Những Màu Khác của tác giả Orhan Pamuk & Lâm Vũ Thao (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sài Gòn Năm Xưa - Vương Hồng Sển
Dựa vào cuốn Ký ức lục khảo về lịch sử Sài Gòn và vùng phụ cận của học giả Trương Vĩnh Ký viết năm 1885 (tức là sau 25 năm Sài Gòn bị thực dân Pháp chiếm đóng), Vương Hồng Sển đã... kể tiếp, nhắc lại những sự biến đổi từ thuở đó cho đến ngày Sài Gòn trở về với dân Việt.... Ở đây, tác giả chú trọng nhiều nhất là những đoạn sử vụn vặt buổi giao thời: Pháp - Nam - Chà - Chệc chung đụng, những chuyện Tây đến, Tây đi, những việc chưa ai nói rõ ràng, tác giả đã được nghe đến tận tai hoặc thấy tận mắt, nhiều đoạn do hiểu biết riêng, lắm đoạn nhờ các cố lão thuật lại.  Đọc Sài Gòn năm xưa giúp chúng ta hiểu biết thêm về lịch sử sự hình thành và phát triển của Hòn ngọc viễn đông mà ngày nay được mang tên - Thành phố Hồ Chí Minh   *** Vương Hồng Sển (1902-1996), bút hiệu Anh Vương, Vân Đường, Đạt Cổ Trai, là một nhà văn hóa, học giả, nhà sưu tập đồ cổ nổi tiếng. Ông được xem là người có hiểu biết sâu rộng về miền Nam và rất được kính trọng trong giới sử học và khảo cổ ở Việt Nam. Khi chết ông đã hiến tặng ngôi nhà (Vân đường phủ) và toàn bộ sưu tập đồ cổ của mình cho Nhà nước Việt Nam (tổng cộng 849 cổ vật khác nhau) với hy vọng thành lập một bảo tàng mang tên ông. Năm 2003, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định xếp hạng di tích lịch sử cấp thành phố ngôi nhà này (địa chỉ: số 9/1 đường Nguyễn Thiện Thuật, phường 14, Quận Bình Thạnh). Khi qua đời, ông Vương Hồng Sển đã hiến tặng lại những cổ vật, mà cả đời ông sưu tập được, cho thành phố và mong muốn những di vật này sẽ được trưng bày trong ngôi nhà cổ của ông, trong sự bài trí rất tinh tế và hài hòa với sự cổ xưa của ngôi nhà được biến thành "Nhà lưu niệm Vương Hồng Sển" [6]. Tuy nhiên, từ năm 1996, Sở Văn hóa Thông tin TP Hồ Chí Minh, với sự đồng ý của Ủy ban Nhân dân Thành phố đã di dời các cổ vật về quản lý và trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Thành phố, và tại Thư viện Khoa học tổng hợp. **** Bởi thấy tôi là người trong Nam, đầu pha hai thứ tóc, làm việc trong một cơ quan chuyên môn, thêm có tánh ham chơi cổ ngoạn, tom góp giấy má cũ đầy nhà, rồi tiếng đồn truyền ra: tôi sành sỏi chuyện xưa, tôi giỏi kê cứu điển cổ, báo hại phần đông văn hữu Bắc và Trung, ông nào quen một đôi lần, gặp nhau, hết năm ba câu lấy lệ, làm gì cũng hỏi vặn tôi về:   Mời các bạn đón đọc Sài Gòn Năm Xưa của tác giả Vương Hồng Sển.
Đồng Quê - Phi Vân
Đề tài nông thôn trong sáng tác của các nhà văn không phải là điều gì mới lạ. Tuy nhiên, để khắc họa được một bức tranh quê với đủ các diện mạo, màu sắc của nó không phải là điều dễ dàng. Có thể nói, phần lớn chủ đề tác phẩm của các nhà văn miền Nam *** Đây là những bài báo. Bởi thế cách hành-văn cũng như nội-dung đều có tính-cách “nhật-trình”. Lối văn gần như cẩu-thả. Câu-chuyện có vẻ nhất-thời. Nhưng tôi cứ để nguyên cho nhà xuất-bản. Nghĩ rằng: hồi ấy tôi đã để ngòi bút chạy theo dòng ý-tưởng, dầu khéo dầu vụng, cách thuật chuyện cũng được cái đặc-điểm là ghi tâm-trạng tôi lúc viết. Hình-ảnh những nhân-vật trong chuyện - những người đã cùng tôi sống chung - ngày nay đã mờ trong ký-ức. Kể lại một quãng đời phải chăng là sống lại với ngày qua? Có lẽ thế. Nhưng tôi muốn xa hơn: Vẽ một bức tranh phong-tục và tập-quán. Thật là quá cao-vọng. Tự thấy còn thấp-kém, nhưng tôi vẫn cố-gắng. Đây là những bài đầu, tôi ước-mong sẽ có thể viết thêm. Nếu chưa hiến được độc-giả những bài đúng theo nguyên-tắc tôi đã tự vạch, thì xin hẹn lại ở những bài sau. PHI-VÂN *** Phi Vân (1917-1977) là một nhà báo, nhà văn chuyên viết thể loại truyện vừa và tiểu thuyết mang sâu đậm dấu ấn Nam bộ trước 1954. Phi Vân tên thật là Lâm Thế Nhơn, sinh năm 1917 trong một gia đình trung lưu ở thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu. Ông chuyên viết phóng sự, truyện ngắn cho những tờ báo, tạp chí ở miền Nam trước đây như Tiếng Chuông, Dân Chúng, Tiếng Dân (của cụ Huỳnh Thúc Kháng) và làm chủ bút tờ Thủ Đô thời báo. Ông có lối viết linh hoạt, gọn gàng, pha chút hóm hỉnh, làm cho cho độc giả khóc, cười theo từng cảnh đời, từng nhân vật. Bối cảnh trong các tác phẩm của ông là làng quê Nam bộ xa xôi hẻo lánh với những người nông dân chất phác, cục mịch sống với tập tục cổ hủ, lạc hậu và cuộc sống cực nhọc tối tăm. *** Chỗ hứng-thú của quyển phỏng-sự ấy là nó cho ta thấy những phong-tục cũ-kỹ ở thôn-quê, những tin-tưởng dị-đoan của hạng bình dân lao-động. Nó cho ta thấy những cuộc giao-tiếp, xung-đột giữa bọn điền-chủ và tá-điền, những tâm-hồn mộc-mạc trong bọn nầy và những oai-quyền thế-lực của bọn kia. Đọc qua, chúng ta thấy mình len-lỏi chốn đồng quê, đang mục-kích những cuộc tụ-họp chơi-bời, những cảnh cần-lao rộn-rịp. Thỉnh-thoảng như đưa lại giọng hò trầm bổng trong đám gặt, như phất lại mùi thơm thanh-đạm của lúa vàng. Tác-giả lại còn dắt ta đi quanh co trong những sông rạch ở vùng Bạc-liêu, Cà-mau và sau mấy ngày dạo chơi mệt-mỏi, tác-giả dừng lại cho ta thấy một cảnh-sắc êm-đềm: trên bờ sông Trẹm, lững-lờ mấy làn khói trắng bốc lên và dưới hàng dừa xanh tươi, một thiếu-phụ ẵm con đứng đợi chồng về, lâu-lâu đuổi bầy gà đang bới trên giồng rau cải. Hoặc giữa đêm trường vắng-vẻ, chiếc thuyền xuôi mái theo Rạch Bần, tác-giả mời ta trông lên bờ sau hàng dừa nước âm-u, một vài ánh đèn le-lói; nghe từ xa đưa lại tiếng chày giã gạo, tiếng chó sủa đêm… Cho được kể lại rất tài tình những điều quan-sát rất kỹ-càng, làm cho ta như nghe, như thấy, lúc cảm, lúc vui, tất phải nhờ một ngọn bút tỉ-mỉ mà linh-hoạt, một giọng văn thành thật mà hữu-duyên, một cách viết tự nhiên, không rườm-rà mà đầy đủ. Ông Phi-Vân đã gồm cả mấy điều kiện ấy: Quyển phỏng-sự của ông như một tấn tuồng gay-cấn đặt trong cảnh trí xanh tươi; hay là - muốn nói cho rõ hơn - nó là một “nông kịch” chia ra nhiều lớp: có hồi hộp, có vui cười và và sau rốt kết cuộc rất thương-tâm, khiến cho độc-giả phải ngậm-ngùi cảm động. Có lẽ đó là bài luân-lý sâu sắc mà tác-giả không muốn chỉ cho rõ-ràng, để ta tự hiểu ngầm mà thương hại cho hạng nông dân lao-lực. Họ chỉ sống một cuộc đời mộc-mạc, siêng-năng; nhưng mãn kiếp phải làm nạn nhân cho bọn giàu sang thế-lực. Mà cả thảy chúng ta, theo như tác-giả nói lại là “nạn nhân của một thời-kỳ”; cho nên đối với mọi người ta nên để lòng thương hại và thứ dung, và nên cầu nguyện cho chốn đồng quê được chút vui tươi yên ổn… (Trích lục một đoạn bài diễn-văn của giáo-sư Nguyễn-văn-Kiết chủ-tịch của Hội Khuyến-học Cần-thơ đọc trong dịp lễ phát giải thưởng văn-chương Thủ-khoa Nghĩa năm 1943).   Mời các bạn đón đọc Đồng Quê của tác giả Phi Vân.
Doña Bárbara - Rómulo Gallegos
Rómulo Gallegos, tác giả của Doña Bárbara, là nhà viết tiểu thuyết nổi tiếng không những ở Venezuela – Tổ quốc ông – mà cả ở Trung và Nam Mỹ. Người đọc và nhà phê bình ở nhiều nước đều nhiệt liệt hoan nghênh tác phẩm của ông. Sinh năm 1884 và lớn lên trong một gia đình nghèo, Rómulo Gallegos, sau khi học xong trung học, phải đi làm “nghề gõ đầu trẻ” để kiếm sống. Với tư tưởng tiến bộ và nhiệt tình gắn bó với vận mệnh của đất nước, ông tham gia hoạt động chính trị rất sớm chống chế độ quân phiệt, độc tài Gómez đã bán rẻ quyền lợi kinh tế quốc gia cho tư bản nước ngoài và đàn áp tàn bạo nhân dân. Bắt đầu viết văn thật sự khi đã hơn ba mươi lăm tuổi, ông cho xuất bản tác phẩm đầu tay Reinaldo Solar (1920). Ngoài nhiều truyện ngắn, các tác phẩm khác gồm có Cây leo (1925), Doña Bárbara (1929), Canaima (1935), Cantaclaro (1934), Anh da đen khốn khổ (1937), Cũng trên mảnh đất ấy (1943), Cọng rơm trong gió (1952), Nổi loạn (1946). Đấu tranh không mệt mỏi cho tương lai tươi sáng của đất nước bằng cả hành động chính trị và tác phẩm văn học có tính chiến đấu sâu sắc, Rómulo Gallegos được bầu làm tổng thống Venezuela năm 1948, nhưng chẳng bao lâu ông bị các phe phái phản động lật đổ trong một cuộc đảo chính quân sự. Ông mất năm 1960. Đánh giá sáng tác văn học của Rómulo Gallegos, nhân dân nước ông và người đọc nước ngoài đặc biệt ca ngợi tính chiến đấu trong tiểu thuyết của ông nhằm cải tạo xã hội, giải phóng con người, chiến thắng thiên nhiên khắc nghiệt. Nổi bật hơn cả là Doña Bárbara được in lại rất nhiều lần ở Tây bán cầu, được dịch ra nhiều thứ tiếng và xuất bản ở nhiều nước thuộc các lục địa khác. Thảo nguyên bao la của Venezuela ngót sáu mươi năm trước đây, “Những dòng sông rộng không tưới cho đất trồng trọt, cũng không đưa đẩy thuyền bè ngược xuôi”, với những cuộc săn dồn bò hoang, săn cá sấu, bắt ba ba, tìm mật ong, đốt phá đồng cỏ trên phạm vi rộng cũng như những buổi liên hoan nhảy múa vào mùa chia đàn súc vật được miêu tả thật đặc sắc dưới ngòi bút của ông. Con người thảo nguyên cường tráng, chất phác, dũng cảm mà thiên nhiên hoang vu tạo nên và rèn luyện được dựng lên rất sắc sảo trong tác phẩm của ông. Tố cáo chế độ thống trị bất công, lên án bọn cầm quyền tàn bạo, vạch trần bọn ăn cướp Bắc Mỹ vừa trơ trẽn vừa nham hiểm trên đất Venezuela, tác giả tỏ ra là một nhà văn hiện thực sâu sắc, gây ấn tượng mạnh đối với người đọc. Nhưng đấu tranh bằng con đường nào để đất nước ông “sẽ có ngày trù phú và vui tươi” thì Rómulo Gallegos không vạch ra được. Con mụ địa chủ ác bá Doña Bárbara, tham lam cực kỳ, lại tự nguyện từ bỏ trang trại mà nó tạo nên bằng mọi thủ đoạn và đam mê hơn cả tình yêu say đắm, rồi lưu lạc nơi đâu chẳng ai biết nữa. Thằng cướp đất, cướp súc vật Bắc Mỹ cũng tự nguyện rời bỏ cơ ngơi nó chiếm được và đi kiếm ăn nơi khác khi thấy láng giềng của nó giăng dây thép cương quyết bảo vệ đất đai và súc vật của mình. Đó là do ông bị hạn chế trong quan điểm đấu tranh giai cấp gay gắt trong thời đại ngày nay để giải phóng xã hội, cải tạo con người, là ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng – những hạn chế rất dễ hiểu vào những năm 1925-1930. Dù sao, với những ưu điểm nổi bật của nó, nhà nghiên cứu văn học Đức Ulrich Leo đã đánh giá Doña Bárbara “là một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất, vừa khỏe khoắn vừa mềm mại, vừa rộng lớn vừa thâm thúy, vừa hùng tráng vừa trữ tình… có thể so sánh với bất kỳ tác phẩm văn học hiện đại nào.” NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP PHÚ KHÁNH ... Mời các bạn đón đọc Doña Bárbara của tác giả Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn.
Kiếm Sống - Macxim Gorki
Macxim Gorki (1864 – 1934) là nhà văn vĩ đại của giai cấp vô sản, là ngọn cờ đầu của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc đời hoạt động văn học gần nửa thế kỷ, ông đã để lại một sự nghiệp chói lọi, một di sản sáng tác khổng lồ, nó là niềm tự hào của nhân dân Nga và của cả loài người tiến bộ. Truyện ngắn Macxim Gorki có sự kết hợp hài hoà yếu tố lãng mạn và hiện thực. Ở đó có sự gắn bó máu thịt của ông với nhân dân và đất nước qua các giai đoạn cách mạng. Trong truyện ngắn Macxim Gorki bộc lộ niềm khao khát tự do và ca ngợi ý chí hào hùng, bất khuất của con người, phơi bày tính chất tàn bạo của chế độ xã hội – chính trị trước cách mạng, cái chế độ giết chết mọi cái có sức sống trong con người; quá trình trăn trở, tự ý thức đầy gian khổ của các tầng lớp “dưới đáy” để vươn tới sự đổi đời; đề cao và thi vị hoá lao động: phê phán lối sống và tâm lý ươn hèn của tầng lớp trí thức tiểu tư sản và tư sản; những truyện ngắn triết lý, những truyện có tính chất tự thuật… Danh tiếng của Gorky như giọng văn học duy nhất từ những tầng lớp đáy xã hội và như một người ủng hộ nhiệt thành cho cuộc cải cách xã hội, chính trị và văn hoá Nga (tới năm 1899, ông công khai liên kết với phong trào Dân chủ xã hội Mác xít) khiến ông trở nên nổi tiếng trong cả giới trí thức và số lượng ngày càng gia tăng các công nhân "có ý thức". Ở trung tâm của mọi tác phẩm của ông là một niềm tin ở giá trị vốn có và khả năng của con người (личность, lichnost'). Ông đưa ra các cá nhân đầy sức sống, nhận thức về phẩm giá tự nhiên của họ, và có cảm hứng từ nhiệt tình và ý chí của họ, những người chống lại các điều kiện sống đang ngày càng tồi tệ đi quanh mình. Tuy nhiên, cả các tác phẩm cũng như những bức thư của ông cho thấy một "con người không ngừng nghỉ" (một người thường xem xét lại mình) đấu tranh để giải quyết những tình cảm về đức tin và thái độ hoài nghi trái ngược bên trong, tình yêu cuộc sống và sự phẫn nỗ với sự tầm thường và nhỏ mọn của thế giới con người. Mời các bạn đón đọc Kiếm Sống của tác giả Macxim Gorki.