Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ba Bộ Mặt Của I-A-Nút

Xta-nhi-xlap Ga-ga-rin BA BỘ MẶT CỦA I-A-NÚT Truyện tình báo Liên Xô Người dịch: Nguyễn Thụy Láng NHÀ XUẤT BẢN THUẬN HÓA HUẾ - 1987 Số trang: 240 Dịch từ nguyên bản tiếng Nga BA BỘ MẶT CỦA I-A-NÚT Báo Tiểu thuyết - Tháng 6-1984 àu ngầm «Van-ki-ri-a» mất tích Vào tháng sáu năm 1944, chiếc tàu ngầm của hải quân Đức mang tên Van-ki-ri-a bị mất tích. Khi thời hạn thẩm tra kết thúc, thì ở căn cứ hải quân, nơi chiếc tàu ngầm Van-ki-ri-a có trong danh sách, các tàu khác đã treo cờ rủ và các sĩ quan đều mang băng tang. Ban tham mưu xếp nó vào danh sách các tàu ngầm và thủy thủ bị mất tích, còn người thân của các thủy thủ thì được biết là họ đã hy sinh anh dũng trong một trận chiến đấu với kẻ thù của nước Đức vĩ đại. Ít người được biết số mệnh thật sự của chiếc tàu ngầm này. Hành trình các chuyến đi kéo dài của nó người ta lại càng biết ít hơn. *** Một người dáng vóc vạm vỡ, bắp thịt nở nang, da rám nắng, từ biển bước lên bãi tắm óng ánh cát vàng, gạt những giọt nước đọng trên mình rồi thủng thẳng đi dọc theo mép nước. Giờ này trên bãi tắm Ca-pa-ca-ban ở Ri-ôđơ Gia-nê-rô chỉ có ít người. Từ Đại Tây Dương, từng luồng gió mát thổi vào sâu trong lục địa xô bạt luồng khí nóng oi bức đang bốc lên từ những con đường rải nhựa của thành phố. Hắn ta đứng lại, lấy chân hất chiếc vỏ ốc nửa chìm nửa nổi trong cát. - Chào Ghéc-man! Người đàn ông đứng tuổi có bộ râu hung hung kiểu thủy thủ với thân hình rắn chắc cất tiếng chào. Y đang nằm ngửa cách Ghéc-man chừng dăm bước và bây giờ lật sấp, chống khuỷu tay nhỏm dậy, đưa tay che mắt cho khỏi bị chói nắng. - Chào bác sĩ Dên-khốp! Ghéc-man đáp lại rồi ngồi xuống cát bên cạnh y. - Anh đến muộn 15 phút đấy. - Có một chuyện hoàn toàn tình cờ, thưa bác sĩ. Ghéc-man nói. - Khỏi cần chi tiết. Ta hãy nói vào việc đi. Mong sao anh tránh khỏi được mọi chuyện tình cờ, chàng trai ạ. - Thuyền đã đến vào đêm qua. Đội thủy thủ đã được bố trí ngay tức khắc, và bây giờ chắc là đang vung tiền vào tiệc rượu chè. Trên thuyền chỉ còn lại thuyền trưởng và một gã Mê-hi-cô tên là Pê-rết. - Thế gã Pê-rết này làm việc ra sao? - Một chàng trai đáng tin cẩn. Có thể trông cậy vào anh ta. - Bọn họ chỉ có hai người thì không thể đưa thuyền ra khỏi cảng được! - Vâng, tất nhiên, nhưng tôi đã chuẩn bị thêm hai người nữa. Ghéc-man trả lời. - Hãy thận trọng đấy ! Đừng quên rằng chính phủ nước này, về hình thức, đang theo con đường trung lập. - Tôi hiểu ngài. Thưa bác sĩ. Cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra ở đâu ạ? - Ở vuông 27-15. Các anh cần phải có mặt ở đấy từ 23 giờ đến nửa đêm. Tín hiệu - pháo lửa đỏ để mọi góc độ nhìn thấy rõ và ở phía dưới là những đốm sáng xanh. Anh sẽ bắn pháo hiệu. Họ sẽ tự tìm đến chỗ anh. Mật khẩu của họ «Chào buổi sáng». Anh sẽ trả lời: «Địa bàn bị hỏng, bây giờ đêm nào cũng lạnh». - Tất cả đã rõ. Ngay đêm nay ạ? Ghéc-man hỏi. - Chính đêm nay. Hàng chở trên tàu là bao nhiêu? - Một trăm sáu mươi tấn - Ghéc-man trả lời. - Một trăm tấn ở dạng thỏi, còn lại là tiền đúc. Bác sĩ Dên-khốp cau mày. - Phải đúc lại tất cả. Với những số tiền đúc ấy thì nguy hiểm hơn đấy. Ghéc man nhún vai. - Đấy không phải là điều quan tâm của chúng ta, thưa bác sĩ. - Ghéc-man đáp... - Phải. - Dên-khốp xác nhận. - Thôi, đi đi, Ghéc-man! Trước tiên hãy xuống nước, sau đó lên bờ, ở đâu thì tùy ý. Ban ngày hãy nghỉ ngơi đi. Đêm nay anh phải đứng trước một công việc khó khăn nặng nề đấy. Hãy nhớ nhé: Ô vuông 27-15. *** Con cá Ma-rơ-lin to lớn lao nhanh vào tấn công. Đàn cá chuồn vọt lên, bay trên mặt nước, giương những cặp vây dài lướt sẹt trong màn đêm dày dặc để thoát nạn... Một lúc sau chúng lại hạ xuống nước. Chỉ còn một con vì bay cao hơn cả đàn nên không trở về với biển được. Bị mắc vào kính tiềm vọng, nó rơi xuống dưới chân những người đang đứng trên cầu tàu, chút nữa làm rơi chiếc mũ lưỡi trai của viên chỉ huy tàu. - Đồ dơ dáy! - Viên chỉ huy rủa rồi lấy chân hất con cá chuồn vào một góc. - Nửa giờ nữa là đến hẹn! - Tê-ô-đo Phôn Bết-man nhận định. - Anh tin rằng chúng ta đang ở đúng địa điểm đã định chứ? - Viên chỉ huy hỏi. - Hoàn toàn tin chắc. - Tốt. Chúng ta chờ đợi vậy. Chiếc tàu ngầm Van-ki-ri-a đã tắt đèn, đậu đúng ô vuông 27-15 trong tư thế chiến đấu: thân tàu dài và hẹp ẩn chìm dưới nước, chỉ có buồng chỉ huy, như một mỏm đá ngầm, nổi mập mờ trên mặt nước khó mà đoán nổi trong đêm tối. Địa điểm chúng ta đậu đúng trên chí tuyến Ma-kết. Viên thuyền phó thứ nhất phá tan sự im lặng. Trong khi đó chiếc thuyền «Ô-ri-nô-cô» đang tiến đến địa điểm hẹn. Vài giờ trước, dưới sự chỉ huy của Han-xơ Đrê-vít, một người Đức sinh ra ở Ác-hen-ti-na, con thuyền rời cảng Ri-ô đơ Gia-nê-rô ra khơi. Các nhà chức trách trên cảng theo thông báo của viên thuyền trưởng đã nhận xét trong các giấy tờ: cảng đến là Xan-tô Ca-ra-vê-lốc; hàng chuyên chở là máy khâu, đoàn thủy thủ gồm năm người. Đứng bên cạnh viên thuyền trưởng trên mạn tàu là người giúp việc có vẻ mặt rầu rĩ, đó là Pê-rết, mà trước đây theo lời đồn là một tên cướp sừng sỏ, gốc Mê-hi-cô. Ở đây còn có cả Ghéc-man và hai thủy thủ bỏ trốn từ chiếc tàu thủy Ác-hen-ti-na vì bị cám dỗ bởi viễn cảnh sẽ kiếm thêm chút đỉnh trong chuyến đi này. Tên chúng là Jô và Lu-ít. Trên thuyền gắn một máy nổ công suất lớn. Giờ đây, thuyền Ô-ri-nô-cô đang đi vào ô quy định, viên thuyền trưởng và Ghéc-man nhìn về phía trước. Pê-rết đứng bên tay trái, các thủy thủ đang chơi xúc xắc trong buồng của họ. - Có lẽ ta đã đến địa điểm - Viên thuyền trưởng nói và cho thuyền chạy chậm lại. - Dừng máy và chuẩn bị lửa hiệu. Mười lăm phút nữa chúng ta sẽ bắt đầu. Trên bầu trời, một phát pháo hiệu đỏ bùng lên như một ngôi sao và phía dưới nó nhấp nháy một đốm lửa xanh. *** - Lẽ ra đã đến lúc họ phải xuất hiện. Viên chỉ huy tàu ngầm Van-ki-ri-a vừa càu nhàu vừa đưa chiếc đồng hồ dạ quang lên tận mắt. - Mới quá có 10 phút. Phôn Bết-man trả lời - có thể họ đến muộn. - Thế anh tin chắc rằng chúng ta đang ở đúng vị trí ta phải có mặt chứ? - Viên chỉ huy hỏi lại. Tê-ô-đo Bết-man nói với vẻ bực mình: - Tôi đã đích thân kiểm tra lại những tính toán của hoa tiêu. Chính ông cũng có thể thấy rõ được điều đó. - Tôi đã thấy các đốm lửa rồi! - Tên nhận tín hiệu kêu lên. - Không thể nói khẽ hơn được à! - Viên chỉ huy càu nhàu - các anh không phải đang đi dạo chơi ở ngoại ô đâu nhé. Đứng bên bánh lái đi. Việc chuyển các hòm nặng từ thuyền lên tàu ngầm kéo dài đến tận lúc rạng đông. Tham gia vận chuyển có đoàn thủy thủ của cả hai chiếc tàu và thuyền. Pê-rết đã hai lần xuống tàu ngầm và trở về với một chai rượu vốt-ca chính phẩm trên tay. Trong một lần đi như vậy, chớp lấy thời cơ khi trong khoang không có ai. Pê-rết đã nhanh như cắt rút từ trong áo khoác ra một hộp kim loại dẹt to như hộp thuốc lá, cúi xuống nhét dưới một ống chạy dọc theo boong tàu Van-ki-ri-a. Đến sáng, tất cả các máy khâu đã nằm gọn trong chiếc bụng thép của tàu Van-ki-ri-a. Ghéc-man lên cầu tàu nói thầm vào tai viên chỉ huy khoảng 5 phút, sau đó trở về thuyền Ô-ri-nô-cô. Các thủy thủ tàu Va-ki-ri-a tháo dây buộc, và cả tàu lẫn thuyền đều tiến theo các hướng khác nhau. - Chúng ta đi lên phía bắc chứ, thuyền trưởng? - Ghéc-man nói - đến Rê-xi-phi, Pê-rết hãy đứng lên bánh lái đi. Ta muốn ứng tiền trước cho mấy anh bạn này. Ê! Jô, Lu-ít! Các thủy thủ đang ngồi trong khoang thuyền, buông thõng những cánh tay rã rời vì khuân vác từ đêm đến giờ, nặng nề đứng dậy đi về phía Ghéc-man đang đứng bên cửa buồng điều khiển. - Các chàng trai ơi, các anh giỏi lắm - Ghéc-man nói - các bạn nghĩ sao về một hớp rượu ngon và mấy đồng tạm ứng? Jô, một lên lai lực lưỡng, cười sung sướng và nhảy cẫng lên ở trên boong. - Tốt quá, thưa ông chủ, tốt quá! - Hắn nói. Lu-ít, một tên Ấn Độ bán thuần chủng có thân hình dài ngoằng và gầy gò, mỉm cười rụt rè. - Các bạn, hãy cầm lấy rượu và tiền đây này! Và có thể nghỉ ngơi được! - Ghéc-man nói. Các thủy thủ xoay lưng lại, sánh vai nhau đi về buồng thủy thủ ở phía mui thuyền. Ghéc-man nhìn viên thuyền trưởng đang đứng bên chiếc cửa sổ mở của buồng điều khiển, hắn đưa mắt về phía tấm lưng to bè của Lu-ít và dùng tay trái lấy khẩu súng máy trong chiếc tủ con ra. Những tiếng nổ vang lên liên tiếp. Lu-ít khựng lại, ngã sấp mặt xuống boong, co giật rồi hết cựa quậy: chai rượu từ từ tuột khỏi tay hắn. Viên đạn làm cho Jô sững lại dường như có một bức tường bỗng hiện lên trước mặt hắn. Hắn đứng sững trong giây lát, không nhúc nhích và thế là Ghéc-man lại nâng khẩu súng máy lên một lần nữa. Chỉ có điều hắn chưa kịp bắn thì Jô đã đột ngột quay ngoắt lại, đôi mắt mất hết thần sắc, nhìn thẳng, tiến về phía Ghéc-man đang giương súng. Jô tiến lại gần, còn Ghéc-man thì giật lùi về buồng điều khiển. Cuối cùng, trong buổi sáng yên tĩnh của biển khơi vang lên những tiếng nổ chát chúa của loạt súng máy, những viên đạn từ nòng súng bay ra cắm ngập và xé nát tấm ngực nở nang của tên lai. Hắn bước thêm được một bước cuối cùng, rồi thở khè khè đứt đoạn: - Ông... chủ... sao... lại… *** Hành trình của chiếc tàu ngầm hải quân Đức Van-ki-ri-a trong một thời gian được thực hiện trên mặt nước. Sau đó, viên chỉ huy ra lệnh bắt đầu lặn, vì tàu đi ngang qua khu vực nhiều tàu bè và thủy thủ tàu ngầm Đức không muốn để một ai phát hiện ra mình. - Tê-ô-đo, tôi sẽ ngủ chừng hai tiếng - viên chỉ huy nói với Phôn Bết-man - hãy cho tàu chạy về phía đảo Mác-tin Vác, từ đó ta sẽ rẽ về hướng xích đạo. Hai giờ nữa tôi sẽ thay ca cho anh. Tê-ô-đo suy nghĩ về những điều ngang trái mà số phận đã ném hắn - một sĩ quan tàu ngầm xuất sắc - vào cái hộp thép nhét đầy những máy khâu để thay thế cho những quả thủy lôi khủng khiếp. Tê-ô-đo Phôn Bết-man, tất nhiên hiểu rằng món hàng này quan trọng đối với nước đại Đức biết chừng nào. Nhưng công việc của hắn là đánh chìm các tàu địch chứ không phải là lẩn tránh giữa đại dương trên chiếc tàu ngầm không có máy phóng ngư lôi. Hắn liếc nhìn đồng hồ, mắng nhiếc tên cầm lái đã làm tàu lệch hướng mất 3 độ và lom khom chui qua những chiếc cửa hình ô-van của các ngăn buồng đi đến ca-bin. Song, Tê-ô-đo Phôn Bét-man đã không kịp tới đó. Một luồng khí nén từ phía sau xô hẳn ngã chúi xuống, đập cằm vào khung cửa. Hắn thấy đau ở cằm. Sau đó, viên thuyền phó thứ nhất không còn cảm thấy được gì nữa. Tên cầm lái ở vị trí trung tâm thấy lớp vỏ bọc có một chỗ bị bung vào phía trong và một dòng nước đen ngòm cuồn cuộn chảy về phía hắn rồi cuốn lấy hắn, vò xé hắn và dìm hắn chết ngập. Viên chỉ huy cũng chết ngập trong nước không kịp dậy. Các thủy thủ trong khoang mũi của tàu thì còn sống sót được một ít vì tiếng nổ làm cho chiếc tàu đứt làm đôi, nhưng phần mũi vẫn còn đủ kín. Chiếc quan tài bằng sắt vừa nhào lộn vừa chìm sâu xuống đáy đại dương, và ở đây nó bị một lớp nước dày chừng 300 mét đè lên. Chừng nửa dặm về bên phải, chiếc tàu chở hàng đang chạy từ Ri-ô Grăng đi Môn-rô-via thấy một vòm nước nổi lên lóng lánh dưới ánh mặt trời. Cột nước chùng chình giây lát rồi sau đó vỡ tung ra, gây nên sự kinh hoàng cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu Bra-xin mang tên «Xao-pao-lô». Khoảng đen lấp lánh các màu lan rộng ra ở ngay chỗ vòm nước đã biến đi. Con tàu quay mũi đến gần nó, hạ xuồng, bắt đầu lượm lặt những mảnh vỡ và xác chết bị tung lên cùng với những bóng nước bị vỡ ra trên mặt biển. Bấy giờ là thời chiến và thuyền trưởng tàu «Xao- pao-lô» cấm không được báo tin về sự kiện đã xảy ra. Viên thuyền trưởng cố xác minh quốc tịch của những xác người đã được thủy thủ mình vớt lên, nhưng việc đó không thể được. Chẳng có giấy tờ gì, chẳng một dấu hiệu nào ngoài những dấu hiệu về chủng tộc. Ông ta không tìm được gì hết. *** Chiếc tàu ngầm «Van-ki-ri-a» bị mất trong tình trạng bí ẩn đối với các nhà chỉ huy Đức, nó chở 160 tấn ni-ken dưới dạng thỏi cùng với tiền đúc của Mỹ và Ca-na-đa. Ni-ken - một kim loại ánh bạc có giá trị bậc nhất trong bảng tuần hoàn của Men-đê-lê-ép với ký hiệu 28, là kim loại khó nóng chảy, cứng và không bị biến đổi trong không khí. Ni-ken trở thành một vấn đề nan giải đối với nước Đức cũng như nhiên liệu và còn có thể nan giải hơn. Dầu sao thì dầu lửa còn có thể thay thế được. Còn ni-ken thì không. Thiếu ni-ken không thể có vỏ thép. Thiếu vỏ thép không thể có xe tăng. Thiếu xe tăng thì không chiến thắng nổi trên những chiến trường của đại chiến thế giới lần thứ II. Thiên nhiên đã bớt xén, không cho nước Đức đủ ni-ken. Ở thung lũng sông Ranh chỉ có một trữ lượng ni-ken không đáng kể. Phần lớn ni-ken nước Đức phải mua của Ca-na-đa. Chiến tranh bắt đầu và nước Đức bị mất đi nguồn ni-ken từ Ca-na-đa. Hít-le chiếm được Hy-lạp và cùng với nó là các mỏ ni-ken. Nước chư hầu Phần Lan mở rộng cửa các mỏ ni-ken ở miền Bắc tại vùng Pết-xa-mô cho người Đức. Ở đó có các tù nhân và tù binh làm việc. Cả một quân đoàn SS đảm nhận bảo vệ các hầm mỏ và đảm bảo khai thác, liên tục loại quặng pyrit đỏ có hàm lựợng ni-ken và gửi về các nhà máy luyện kim ở Đức. Khi xe tăng T-34 của Liên Xô xuất hiện trên các chiến trường, các chuyên viên Đức kinh ngạc bởi độ bền của vỏ thép các xe tăng dó. Theo mệnh lệnh từ Béc-lin, chiếc xe tăng T-34 đầu tiên chiếm được đã được đưa về Đức. Ở đây, các nhà khoa học đã phân tích vỏ thép của nó. Họ xác định rằng vỏ thép của xe tăng Nga có một tỷ lệ ni-ken cao và do đó vỏ thép này cực kỳ bền vững. Việc thiếu ni-ken trong vỏ thép đã dẫn đến tình trạng là cho đến năm 1944, các nhà máy quốc phòng của Đức quốc xã phải sản xuất xe tăng vỏ dày hơn bình thường. Nhưng ngay vỏ như vậy vẫn dễ bị phá vỡ và các xe tăng «con hổ» «con báo» «phéc-đi-năng» rõ ràng là nặng nề hơn và yếu thế hơn các xe tăng và xe tự hành của Liên Xô. Ni-ken và ni-ken! Cần nhiều ni-ken hơn nữa! Mời các bạn đón đọc Ba Bộ Mặt Của I-A-Nút của tác giả Xta-nhi-xlap Ga-ga-rin.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tủ Sách Z.28 - Người Thứ Tám
eBook Tủ Sách Z.28 gồm có:  Z.28 13 Giờ Định Mạng by Người Thứ Tám Z.28 Bà Chúa Thuốc Độc by Người Thứ Tám Z.28 Ba Lê… Mắt Biếc Môi Hồng by Người Thứ Tám Z.28 Bản Án Tử Hình by Người Thứ Tám Z.28 Bão Ngầm Trên Biển Phong Lan by Người Thứ Tám Z.28 Bắc Kinh 72 Giờ Nghẹt Thở by Nguoi Thu Tam Z.28 Bí Mật Hồng Kông - Quyển Thượng by Người Thứ Tám Z.28 Bí Mật Hồng Kông - Quyển Hạ by Người Thứ Tám Z.28 Bóng Ma Trên Công Trường Đỏ by Người Thứ Tám Z.28 Bóng Tối Đồng Pha Lan by Người Thứ Tám Z.28 Buôn Súng Lậu by Người Thứ Tám Z.28 Cuba, Đêm Dài Không Sáng by Người Thứ Tám Z.28 Đan Mạch Người Chết Hồi Sinh by Nguoi Thu Tam Z.28 Đêm Cuối Cùng Của Tử Tội by Người Thứ Tám Z.28 Đêm Loạn Hăm Bua by Người Thứ Tám Z.28 Điệp Viên Áo Tím by Nguoi Thu Tam Z.28 Điệp Vụ Săn Người by Người Thứ Tám Z.28 Đoàn Vũ Khỏa Thân by Người Thứ Tám Z.28 Gián Điệp Hoa Quỳnh by Người Thứ Tám Z.28 Gián Điệp Siêu Hình by Người Thứ Tám Z.28 Hận Vàng Ấn Độ by Người Thứ Tám Z.28 Hồn Ma Diến Điện by Người Thứ Tám Z.28 Macao... Trinh Nữ Giang Hồ by Người Thứ Tám Z.28 Máu Loang Chùa Tháp by Người Thứ Tám Z.28 Mây Mưa Thụy Sĩ by Người Thứ Tám Z.28 Mèo Xiêm Cọp Thái by Người Thứ Tám Z.28 Một Vụ Đánh Cắp Tài Liệu Nguyên Tử by Người Thứ Tám Z.28 Người Đẹp Qui-Tô by Người Thứ Tám Z.28 Núi Đá Tiên Tri by Người Thứ Tám Z.28 Nữ Thần Ám Sát by Người Thứ Tám Z.28 Phi Tuần Vĩnh Biệt by Người Thứ Tám Z.28 Sóng Gió Tam Kiều by Người Thứ Tám Z.28 Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu by Người Thứ Tám Z.28 Tia Sáng Giết Người - Quyển Thượng by Người Thứ Tám Z.28 Tia Sáng Giết Người - Quyển Hạ by Người Thứ Tám Z.28 Tử Chiến Ngoài Khơi by Người Thứ Tám Z.28 Tướng Cướp Đổi Mạng by Người Thứ Tám Z.28 Vệ Nữ Đa Tình by Người Thứ Tám Z.28 Vượt Tuyến by Người Thứ Tám ... *** Người Thứ Tám tên thật là Bùi anh Tuấn (1925-?) sinh trưởng ở đất Bắc (tỉnh Thanh Hóa – vùng địa đầu xứ Trung Kỳ). Thời ở tuổi vừa ngoài 20, Nhật hạ Pháp qua cuộc đảo chính 9/3/1945, Phong trào Việt Minh nổi lên, và cướp chính quyền trong tay Thủ Tướng chính phủ Trần Trọng Kim đặt dưới quyền lãnh đạo tối cao của nhà Vua Bảo Đại, thì Bùi anh Tuấn đã là một đảng viên VNQDĐ. Ông lao mình tham gia các hoạt động chống lại VM. Kịp đến lúc tiếng súng mở đầu cuộc chiến tranh Việt – Pháp ngày 19/12/1946, Bùi anh Tuấn bị Ban Trinh Sát (tức Công An-Mật Vụ CS theo tên gọi bây giờ) nhận diện, bắt, và đưa đi an trí tại trại giam Đầm Đùn thuộc tỉnh Thanh Hoá (Liên khu IV), nổi tiếng là địa ngục trần gian, đã vào đây khó có ngày về. Chốn ngục tù hãi hùng này là nơi giam hầu hết các anh em đảng phái QG chống lại CS Việt Minh. Cũng như vài năm sau số mệnh lại cho ông có cơ hội thoát ngục trong đường tơ kẽ tóc. Bùi anh Tuấn lần mò về Hà nội, rồi vào Nam . Trong những năm, tháng bị an trí ở Đầm Đùn, ông có duyên may gặp một bạn tù đã ở vào tuổi trung niên. Thời Pháp thuộc, ông này dạy Anh văn ở Lycée Louis Pasteur Hà nội. Nay trong thân phận tù đầy, để cố quên mà tồn tại, mà sống, ông dạy Anh ngữ cho Bùi anh Tuấn. Học cho qua ngày. Nhưng sau này, nhờ vậy, Bùi anh Tuấn có sẵn số vốn cần thiết về ngôn ngữ Hoa Kỳ khi người Mỹ thoạt đặt bước vào Miền Nam (Trước kia đại đa số người Việt 3 miền Trung Nam Bắc chỉ biết có tiếng Pháp). Năm 1957 "Điệp viên Miền Nam trên đất Bắc" ra mắt lần đầu tiên trên tờ nhật báo Dân Chúng. Và trong 3 năm liên tục, nhiều cốt truyện Gián điệp Z. 28 đã được đăng tiếp (sau đó mới in thành sách), đem lại biết bao sôi nổi, hào hứng cho nhiều từng lớp độc giả thân mến. Với hàng triệu độc giả, sau hơn 50 cuốn truyện đã xuất bản, với địa vị mỗi ngày một củng cố sau gần 20 năm tung hoành trên trường văn gián điệp, Người Thứ Tám đã phá kỷ lục về số lượng người đọc và về số lượng tác phẩm xuất bản được ưa chuộng. TÁC PHẨM: Địa Ngục (Bùi anh Tuấn, 1956) Một Vụ Đánh Cắp Tài Liệu Nguyên Tử (1965) Gián Điệp Quốc Tế (1965) Núi Đá Tiên Tri (1965) Chiến Sĩ Điệp Báo Penkovskiy (1966) Gián Điệp Nhị Trùng (1966) Phù Tang Nổi Sóng (1966) Gián Điệp Siêu Hình (1966) Vạn Tượng Khói Lửa (1966) Z.28 Buôn Súng Lậu (1966) Bạn Muốn Thành Gián Điệp (1966) Bà Chúa Thuốc Độc (1967) Tia Sáng Giết Người (1967) Bản Án Tử Hình (1967) Đêm Cuối Cùng Của Tử Tội (1967) Tử Chiến Ngoài Khơi (1967) Máu Loang Chùa Tháp (1968) Bóng Tối Đồng Pha Lan (1968) Nữ Thần Ám Sát (1968)          Phi Tuần Vĩnh Biệt (1968) Vệ Nữ Đa Tình (1968) Hồn Ma Diến Điện (1969) Gián Điệp Hoa Quỳnh (1969) Mèo Xiêm, Cọp Thái (1969) Điệp Viên Áo Tím (1969) Đoàn Vũ Khỏa Thân (1969) Kẻ Thù Không Mặt (1969) Bóng Ma Trên Công Trường Đỏ (1969) Cạm Bẫy Trên Giòng Chao Phya (1969) Điệp Vụ Săn Người (1970) Bắc Kinh: 72 Giờ Nghẹt Thở (1970) Sóng Gió Tam Kiều (1970) Kẻ Cắp Bà Già (1970) Người Đẹp Qui-Tô (1971) Đòn Phép Điệp Báo (1971) Đêm Loạn Hăm Bua (1971) Hận Vàng Ấn Độ (1971) Mây Mưa Thụy Sĩ (1971)          Z.28 Vượt Tuyến (1971) Ba Lê… Mắt Biếc Môi Hồng (1972) Bão Ngầm Trên Biển Phong Lan (1972) Cát Sơ Mia... Sông Máu Thuyền Hoa (1972) 13 Giờ Định Mạng (1972) Nhà Thám Tử Cô Đơn (1972) Hạ Uy Di, Đáy Biển Mò Kim (1973) Bí Mật Hồng Kông (1973) Đan Mạch: Người Chết Hồi Sinh (1973) Riô... Đảo Tình Bốc Cháy (1973) Macao... Trinh Nữ Giang Hồ (1973) Tướng Cướp Đổi Mạng (1974) Cuba, Đêm Dài Không Sáng (1974) Nepal... Điệp Vụ Hoa Sen (1974) Bhutan Sấm Sét Rừng Khuya (1974) Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu (1975) Nam Tư, Anh Hùng Bạc Bịp ... Mời các bạn đón đọc Tủ Sách Z.28 của tác giả Người Thứ Tám.
Vượt Lên Hàng Đầu - Jeffrey Archer
Tiểu thuyết "Vượt Lên Hàng Đầu" là câu chuyện kể về 3 nghị sĩ trẻ thành đạt đang trên đường chạy đua vào chức Thủ Tướng. Ai sẽ thắng? Đây là cuộc chạy đua đầy mưu mô, không khoan nhượng và... Một điều không thể ngờ là những người vợ và những người tình của họ cũng góp phần không nhỏ trong sự thắng thua này. *** Tiểu thuyết Vượt Lên Hàng Đầu(First among equals) khi xuất bản ở Anh là câu chuyện xung quanh cuộc sống cá nhân và sự nghiệp của 4 chính trị gia người Anh (Simon Kerslake, Charles Seymour, Raymond Gould và Andrew Fraser) trong giai đoạn từ 1964-1991. Tác phẩm xoay quanh cuộc ganh đua để trở thành Thủ tướng Vương quốc Anh. Một vài tình huống trong cuốn tiểu thuyết được lấy từ sự nghiệp chính trị của chính tác giả lúc mới bước chân vào Hạ viện Anh. Trong cuốn tiểu thuyết cũng xuất hiện các nhân vật chính trị của nước Anh bao gồm cả Winston Churchill, Alec Douglas-Home, Harold Wilson, Edward Heath, Margaret Thatcher... Khi được xuất bản tại Hoa Kỳ, cuốn tiểu thuyết đã được viết lại. Theo đó câu chuyện xung quanh nhân vật Andrew Fraser bị loại bỏ và chuyển giao cho các nhân vật khác, đáng chú ý là Simon Kerslake. Một số sự kiện như: thay đổi đối tượng hôn nhân và mất đi người con trai của mình là những sự kiện xảy ra với Andrew Fraser trong cuốn sách xuất bản tại Anh thì lại được chuyển sang cho Simon trong cuốn xuất bản tại Mỹ. *** Jeffrey Archer (sinh ngày 15/04/1940) là nhà văn người Anh và cũng là một chính trị gia. Ông từng là một thành viên Quốc hội (1969-1974), và Phó Chủ tịch Đảng Bảo thủ (1985-1986). Jeffrey Archer sáng tác cuốn tiều thuyết Hai số phận (có tên gốc tiếng Anh là Kane and Abel) vào năm 1979. Tựa đề “Kane and Abel” dựa theo câu chuyện của anh em Cain và Abel trong Kinh Thánh Cựu Ước. Tác phẩm được xuất bản tại Vương quốc Anh vào năm 1979 và tại Hoa Kỳ vào tháng 2 năm 1980 và cuốn sách đã được phổ biến trên toàn thế giới. Sách đạt danh hiệu sách bán chạy nhất theo danh sách của từ New York Times và năm 1985 nó được đưa lên chương trình truyền hình miniseries của CBS cũng với tên là Kane & Abel. Một số tác phẩm của tác giả Jeffrey Archer đã được dịch xuất bản tại Việt nam: Kẻ Mạo Danh Không Hơn Một Xu Không Kém Một Xu Vượt Lên Hàng Đầu Điều Lệnh Thứ Mười Một Luật Giang Hồ Hai số phận Bước Ngoặt Trong Câu Chuyện Quyền Lực Thứ Tư Ấn Tượng Sai Lầm ... *** Lời tuyên bố của Nữ hoàng đã được thông qua trước Thượng và Hạ Nghị viện. Khi cú sốc ban đầu đã được cả nước chấp nhận, chiến dịch bầu cử lại một lần nữa được đưa lên những trang đầu của báo chí. Cuộc bầu thứ nhất cho thấy Đảng Bảo thủ dẫn trước hai điểm. Báo chí gắn điều này với quan hệ không bình thường của công chúng với vị Lãnh tụ mới của Đảng Lao động nhưng cuối tuần thứ nhất, Đảng Bảo thủ bị giảm bớt một điểm và báo chí cho rằng Raymond đã bắt đầu tốt việc quản lý của anh. — Một tuần lễ là cả một thời gian dài trong chính trị, - anh nói một câu trích, - và còn hai tuần nữa phải tiếp tục. Các học giả đã đưa ra giả thuyết rằng Raymond đã tăng được uy tín của mình lên trong tuần lễ đầu do anh đã nhận được nhiều sự quan tâm hơn ở cương vị Lãnh tụ Đảng Lao động. Anh cảnh báo các cơ quan báo chí tại Trung tâm của Đảng Lao động rằng đó có thể là một tháng trăng mật kỷ lục ngắn nhất, và họ cũng không thể đợi chờ anh xử sự giống như chú rể trong ba tuần. Dấu hiệu đầu tiên của sự đổ vỡ cuộc hôn nhân đã tới khi Bộ Lao động và Giới thiệu việc làm tuyên bố rằng nạn lạm phát đã tăng lên lần đầu trong vòng chín tháng. — Và ai là Quan chưởng ấn trong ba năm cuối? - Simon hỏi trong lời phát biểu buổi tối đó ở Manchester. Raymond cố gắng làm giảm bớt số liệu như một sự trục trặc trong tháng, nhưng ngày hôm sau Simon khẳng định rằng còn có nhiều tin tức xấu hơn xung quanh sự lũng đoạn thị trường. — Tuần trăng mật, cuộc hôn nhân tan vỡ và sự ly hôn, tất cả ở trong một giai đoạn mười bốn ngày, - Raymond nói giễu cợt. - Điều gì có thể xảy ra trong bảy ngày tới? — Có thể là sự hòa giải? - Joyce đặt giả thiết. ... Mời các bạn đón đọc Vượt Lên Hàng Đầu của tác giả Jeffrey Archer.
Năm Chú Lợn Nhỏ - Agatha Christie
Năm Chú Lợn Nhỏ, Nguyên tác : Five little Pigs, là tập 25 trong series về Thanh Tra Hercule Poirot. Vụ án xảy ra mười sáu năm trước. Amyas Crale, một họa sĩ có tài năng và đào hoa bị đầu độc bởi chất độc coniine. Chất độc này vốn do Meredith Blake, một nhà thực vật học nghiệp dư, và người quen của Amyas chiết xuất từ thảo dược. Tối hôm trước, Meridith vừa khoe với các bạn bè người quen về chất này, và sáng hôm sau thì ông thấy chai chứa chất này chỉ còn non nửa. Ngay lập tức mọi nghi vấn đổ dồn lên Caroline Crale, vợ của họa sĩ. Tối hôm trước, cô nghe Meridith khoe về chất coniine và các tính chất của chất này, và là người ra khỏi phòng thí nghiệm của Meridith sau cùng. Nhiều bằng chứng gián tiếp khác cho thấy Caroline có trộm chất độc này đem về phòng. Đã thế, Caroline lại đang mâu thuẫn với chồng – Amyas đang cặp bồ với Elsa Greer, người đang làm mẫu vẽ cho bức tranh của ông, và có ý định bỏ Caroline cùng cô con gái Carla mới lên năm tuổi để lấy Elsa. Ngoài ra, những ngày gần đó hai vợ chồng lại cãi nhau to tiếng rất nhiều. Tòa án (và hầu như tất cả mọi người khác) đều tin rằng Caroline Crale là người có lỗi. Tuy nhiên, cô không bị tử hình, mà chỉ bị án chung thân do có những tình tiết giảm nhẹ. Nhưng một năm sau, Caroline qua đời. Trước khi chết, Caroline viết một bức thư gửi con gái, viết rằng mình vô tội. Cô bé Carla tin bà, vì mẹ mình không bao giờ nói dối. Cô con gái Carla được đưa ra nước ngoài sống cùng bà con. Mười sáu năm sau, khi chuẩn bị kết hôn, Carla muốn biết sự thật, và đề nghị Poirot điều tra lại vụ án này. Tất nhiên đến lúc này thì bằng chứng đã bị thời gian xóa nhòa hết. Tuy nhiên, ngoài Caroline thì chỉ có năm người khác ở trong nhà lúc đó cùng Amyas Crale, tức nếu Caroline vô tội thì chỉ có năm người có khả năng giết Amyas. Ai là kẻ sát nhân trong số này? Trong đầu Poirot liên tưởng đến một bài đồng dao trẻ con về năm chú lợn con, và đó là lý do của tên sách (một tình tiết hay gặp trong các tiểu thuyết của Agatha Christie) This little piggy went to market, This little piggy stayed home, This little piggy had roast beef This little piggy had none, And this little piggy cried wee wee wee all the way home. Poirot liên kết năm chú lợn con với năm nhân vật trên. Phillip Blake, em của Meredith là chú lợn con đi chợ (“went to market”); Meredith Blake là chú lợn con ở nhà (“stayed at home”); Elsa Greer là chú lợn con có thịt bò nướng “had roast beef”) Cecilia Williams, nữ gia sư, thì không có gì (“had none”) Angela Warren, em gái của Caroline thì khóc chạy về nhà (“cried wee wee wee all the way home”) Đương nhiên cuộc điều tra của Poirot xoay quanh năm nhân vật trên. Ông bắt họ động não, quay lại những sự kiện mười sáu năm trước, so sánh, tìm ra những mâu thuẫn, những điều họ vô tình hoặc cố giấu, để lần ra đáp án. Nửa đầu truyện này khá rề rà, mà cũng phải thôi, mười sáu năm đã qua còn gì. Những người có liên quan đến vụ án không phải ai cũng còn sống, những gì họ nhớ được chỉ là những mảnh ghép, lại không hoàn toàn đúng đắn. Nhiệm vụ của Poirot quả là hết sức nặng nề, phải tìm cách tiếp cận từng người, bắt họ nhớ lại cả những gì không đáng kể, tìm ra những mâu thuẫn trong các lời khai, bộc lộ tính cách, lý do, vân vân. Tuy nhiên, khi năm người trên đều viết lại những gì nhớ được sau khi nói chuyện với Poirot, thì là lúc cuộc điều tra có tiến triển nhanh. Các dữ kiện mới làm người đọc phải có cái nhìn khác với trước, và những khía cạnh khác nhau trong tính cách từng nhân vật cũng bộc lộ. Và kết thúc đúng là rất bất ngờ nhưng vô cùng hợp lý (mình bị lừa mấy lần!). Cho nên, mình nghĩ rằng người nào đã có cảm tình với Agatha Christie thì sẽ thích cuốn này. Túm lại là rất nên đọc! Review: Ha Le *** Tên của Hercule Poirot được lấy theo hai nhân vật thám tử khác là Hercule Popeau của nhà văn Marie Belloc Lowndes' và Monsieur Poiret của Frank Howel Evans trong đó Poiret là một thanh tra cảnh sát người Bỉ đã nghỉ hưu và sống ở Luân Đôn. Hercule Poirot xuất hiện lần đầu trong tiểu thuyết trinh thám đầu tay của Agatha Christie Vụ án bí ẩn ở Styles (The Mysterious Affair at Styles) xuất bản năm 1920. Hercule Poirot bắt đầu thực sự nổi tiếng sau khi tiểu thuyết Vụ ám sát Roger Ackroyd (The Murder of Roger Ackroyd) được Agatha Christie cho xuất bản năm 1926, sau đó nữ nhà văn còn cho ra đời nhiều tiểu thuyết xuất sắc khác về Poirot như Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông (Murder on the Orient Express), The ABC Murders (1935), Cards on the Table (1936) hay Five Little Pigs (1942). Lần xuất hiện cuối cùng của Poirot là trong tiểu thuyết Thám tử rời sân khấu (Curtain: Poirot's Last Case) xuất bản năm 1975 chỉ một năm trước khi Agatha Christie qua đời. Sau khi Thám tử rời sân khấu được xuất bản, tờ New York Times trong số báo ra ngày 6 tháng 8 năm 1975 đã có một bài điếu văn với tựa đề "Hercule Poirot is Dead; Famed Belgian Detective" ("Hercule Poirot đã chết; Thám tử người Bỉ danh tiếng"), Poirot là nhân vật giả tưởng duy nhất cho đến nay có được vinh dự này. Mặc dù Hercule Poirot là nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong số các tiểu thuyết của Agatha Christie nhưng ngày từ năm 1930 nhà văn đã bộc lộ sự chán ngán với nhân vật này, tuy nhiên bà vẫn tiếp tục sáng tác các tiểu thuyết mới xoay quanh viên thám tử người Bỉ vì theo Christie thì nhiệm vụ của nhà văn là sáng tác ra những gì công chúng yêu thích, và Poirot lại là nhân vật được độc giả hết sức yêu mến. *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Năm Chú Lợn Nhỏ của tác giả Agatha Christie.
Một, Hai, Ba Những Cái Chết Bí Ẩn - Agatha Christie
Một, Hai, Ba Những Cái Chết Bí Ẩn là tập 23 trong series về Thanh Tra Hercule Poirot. Một buổi sáng, Hercule Poirot tìm tới nha sĩ Henry Morley để chữa răng. Không ngờ chỉ vài giờ sau, ông đã phải trở lại để điều tra nguyên nhân cái chết của nha sĩ. *** Tên của Hercule Poirot được lấy theo hai nhân vật thám tử khác là Hercule Popeau của nhà văn Marie Belloc Lowndes' và Monsieur Poiret của Frank Howel Evans trong đó Poiret là một thanh tra cảnh sát người Bỉ đã nghỉ hưu và sống ở Luân Đôn. Hercule Poirot xuất hiện lần đầu trong tiểu thuyết trinh thám đầu tay của Agatha Christie Vụ án bí ẩn ở Styles (The Mysterious Affair at Styles) xuất bản năm 1920. Hercule Poirot bắt đầu thực sự nổi tiếng sau khi tiểu thuyết Vụ ám sát Roger Ackroyd (The Murder of Roger Ackroyd) được Agatha Christie cho xuất bản năm 1926, sau đó nữ nhà văn còn cho ra đời nhiều tiểu thuyết xuất sắc khác về Poirot như Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông (Murder on the Orient Express), The ABC Murders (1935), Cards on the Table (1936) hay Five Little Pigs (1942). Lần xuất hiện cuối cùng của Poirot là trong tiểu thuyết Thám tử rời sân khấu (Curtain: Poirot's Last Case) xuất bản năm 1975 chỉ một năm trước khi Agatha Christie qua đời. Sau khi Thám tử rời sân khấu được xuất bản, tờ New York Times trong số báo ra ngày 6 tháng 8 năm 1975 đã có một bài điếu văn với tựa đề "Hercule Poirot is Dead; Famed Belgian Detective" ("Hercule Poirot đã chết; Thám tử người Bỉ danh tiếng"), Poirot là nhân vật giả tưởng duy nhất cho đến nay có được vinh dự này. Mặc dù Hercule Poirot là nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong số các tiểu thuyết của Agatha Christie nhưng ngày từ năm 1930 nhà văn đã bộc lộ sự chán ngán với nhân vật này, tuy nhiên bà vẫn tiếp tục sáng tác các tiểu thuyết mới xoay quanh viên thám tử người Bỉ vì theo Christie thì nhiệm vụ của nhà văn là sáng tác ra những gì công chúng yêu thích, và Poirot lại là nhân vật được độc giả hết sức yêu mến. *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Khi ngồi vào bàn để ăn trưa, ông Morley không vui vẻ lắm. Ông phàn nàn về món thịt muối, ông hỏi tại sao cà phê lại giống nước bùn lỏng và nói rằng chưa bao giờ bánh bích quy lại dở như vậy. Ông Morley có dáng người nhỏ nhắn với khuôn mặt cương nghị và cái cằm hiếu chiến. Chị ông, một bà quản gia có tầm vóc đẹp, chăm chú nhìn ông rồi hỏi ông một lần nữa xem có phải người ta đã chuẩn bị cho ông nước tắm quá lạnh không. Ông gắt gỏng, trả lời không và liếc nhìn tờ báo hàng ngày. Một lát sau, ông tuyên bố rằng chính phủ, mà cho đến lúc đó ông chỉ lấy làm tiếc về sự thiếu khả năng, bây giờ rõ ràng đã trở nên tai hại. Cô Morley bằng giọng rất trầm, bảo rằng đấy là điều đáng tiếc. Các ông bộ trưởng, dù họ là thế nào đi nữa, luôn luôn tỏ ra có một ích lợi nào đó, cô giục ông em giải thích tại sao chính phủ hiện tại lại bất lực, ngớ ngẩn và nguy hiểm. Ông Morley đã làm cho cô vừa lòng, khi uống một tách cà phê thứ hai mà ông cảm thấy ghê tởm và cuối cùng ông thú nhận lý do thực sự làm ông bực mình. - Các cô gái đều giống nhau cả thôi - ông nói - Họ chỉ nghĩ tới bản thân và không thể tin họ được! - Có phải cậu nói về Gladys phải không? - Vâng. Cô ấy vừa báo cho em biết là bà của cô ta bị một cơn kịch phát và cô ấy cần phải đi đến Somerset. - Thực là chán, nhưng không phải lỗi tại cô ấy. Ông Morley lắc đầu, rầu rĩ: - Ai chứng minh cho em rằng bà cô ấy thực sự có một cơn kịch phát? Biết đâu đấy chẳng phải là một cú đánh lừa với sự tiếp tay của chàng trai đáng ngờ mà cô ta luôn luôn đi cùng? Họ đã quyết định kiếm lấy một ngày nghỉ, chỉ thế thôi! - Chị khó tin điều đó với Gladys. Chị luôn luôn thấy cô ấy là người có lương tâm. - Tất nhiên! Nhưng... - Đấy là một cô gái thông minh và yêu lao động, chính cậu đã nói với chị điều đó. - Vâng, Georgina, em đã nói điều đó! Nhưng đấy là trước khi cô ấy lui tới với con người ấy. Cô ấy đã thay đổi nhiều trong thời gian gần đây. Người ta không nhận ra cô ấy nữa. Cô ấy mơ mộng, luôn nghĩ đến việc khác, hay bồn chồn… Mời các bạn đón đọc Một, Hai, Ba Những Cái Chết Bí Ẩn của tác giả Agatha Christie.