Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chăn Gối

Chăn Gối - Alberto Moravia Lê Thanh Hoàng Dân, Mai Vi Phúc dịch Trẻ xuất bản năm 1973, Sài Gòn Alberto Moravia , bút danh của Alberto Pincherle , (sinh ngày 28 tháng 11 năm 1907, Rome , Ý - mất ngày 26 tháng 9 năm 1990, tại Rome), nhà báo, nhà văn viết truyện ngắn và tiểu thuyết gia người Ý nổi tiếng với những bức chân dung hư cấu về sự xa lánh xã hội và sự thất tình tình dục . Ông là một nhân vật quan trọng trong văn học Ý thế kỷ 20 . Moravia mắc bệnh lao xương (một dạng viêm tủy xương thường do Mycobacterium tuberculosis gây ra ) khi 8 tuổi, nhưng trong vài năm bị giam trên giường và hai năm trong viện điều dưỡng, anh đã học tiếng Pháp, Đức và Anh; đọc Giovanni Boccaccio , Ludovico Ariosto , William Shakespeare , và Molière; và bắt đầu viết. Moravia từng là nhà báo một thời gian ở Turin và phóng viên nước ngoài ở London. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của anh ấy ,Glierencei (1929; Thời gian thờ ơ ), là một nghiên cứu thực tế gay gắt về sự bănghoại đạo đức của một người mẹ trung lưu và hai đứa con của cô ấy. Nó đã trở thành một cảm giác. Một số tiểu thuyết quan trọng hơn của ông là Agostino (1944; Hai vị thành niên ); La Romana (1947; Người phụ nữ thành Rome ); La disubbidienza (1948; Bất tuân ); và Il contista (1951; The Conformist ), tất cả đều về chủ đề cô lập và xa lánh. La ciociara (1957;Two Women ) kể về một sự thích nghi với cuộc sống của người Ý sau Thế chiến thứ hai. La noia (1960;The Empty Canvas ) là câu chuyện về một họa sĩ không thể tìm thấy ý nghĩa trong tình yêu hay công việc. Nhiều cuốn sách của Moravia đã được dựng thành phim chuyển động. Những cuốn truyện ngắn của ông bao gồm Racconti romani (1954; Roman Tales ) và Nuovi racconti romani (1959; More Roman Tales ). Racconti di Alberto Moravia (1968) là một tập hợp những câu chuyện trước đó. Các tuyển tập truyện ngắn sau này bao gồm Il paradiso (1970; "Paradise") và Boh (1976; Tiếng nói của biển và những câu chuyện khác ). Hầu hết các tác phẩm của Moravia đều đề cập đến sự khô cằn trong cảm xúc, sự cô lập, và sự thất vọng hiện sinh , đồng thời thể hiện sự vô ích của sự lăng nhăng tình dục hoặc tình yêu vợ chồng như một lối thoát. Các nhà phê bình đã ca ngợi văn phong rõ ràng, không trang điểm của tác giả, khả năng thâm nhập tâm lý, kỹ năng trần thuật và khả năng tạo nhân vật chân thực và đối thoại chân thực của tác giả . Nhận quyền truy cập độc quyền vào nội dung từ Phiên bản đầu tiên năm 1768 của chúng tôi với đăng ký của bạn. Đăng ký ngay hôm nay Quan điểm của Moravia về văn học và chủ nghĩa hiện thực được thể hiện trong một cuốn sách tiểu luận đầy kích thích, L'uomo come fine (1963;Người đàn ông như một kết thúc ), và cuốn tự truyện của anh ấy , Cuộc đời của Alberto Moravia, được xuất bản vào năm 1990. Anh ấy đã kết hôn một thời gian với tiểu thuyết gia Elsa Morante . *** Lê Thanh Hoàng Dân (sinh năm 1937) là một cựu giáo sư, nhà nghiên cứu và dịch giả người Việt Nam. Giáo sư sinh tại Sài Gòn (tên cũ của Thành phố Hồ Chí Minh). Trước năm 1975 ông là giảng viên tại các trường Đại học như Võ Trường Toản (Sài Gòn, từ khi thành lập đến năm 1965), Quốc gia Sư phạm Sài Gòn, Đại học Sư phạm Sài Gòn, Đại học Sư phạm Cần Thơ, Cao Đài, Hòa Hảo. Ông viết một số sách về tâm lý, giáo dục và liên quan đến các bậc học phổ thông. Tủ Sách Văn Học Thế Giới Chăn Gối NXB Trẻ 1973 Alberto Moravia Dịch: Lê Thanh Hoàng Dân, Mai Vi Phúc 196 Trang File PDF-SCAN *** Trước hết tôi cần phải nói ngay về vợ tôi. Yêu có nghĩa là, giữa bao nhiêu việc khác, tìm kiếm nét khả ái để nhìn ngắm và xét đoán người mình yêu. Và tìm kiếm nét khả ái không chỉ trong sự chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nàng, mà còn chiêm ngưỡng những khuyết điểm, dù ít hay nhiều. Ngay từ những ngày đầu của cuộc hôn nhân, tôi đã cảm thấy thích thú được nhìn ngắm Léda (tên nàng), được săm soi khuôn mặt và trọn cả con người nàng trong từng cử động nhỏ nhặt và từng nét mặt thoáng qua. Vợ tôi, ngày tôi cưới nàng, chỉ vừa hơn ba mươi tuổi. (Kể từ ngày đó và sau khi cho ra đời ba đứa con, một vài đường nét của nàng, tôi sẽ không nói là đã thay đổi, nhưng có biến đổi phần nào.) Tác người khá cao dù không thực sự cao lắm, trông nàng xinh đẹp, với một thân hình và một khuôn mặt khá hoàn mỹ. Khuôn mặt nàng dài và mỏng, có cái vẻ lẩn tránh, ngơ ngác, gần như khó dò được tình ý, mà một đôi khi những nữ thần cổ điển khoác lấy trong một vài bức tranh xưa cũ tầm thường, mà nét sơn phơn phớt bị sự meo mốc của thời gian khiến càng thêm phần mơ hồ. Cái vẻ độc đáo, vẻ đẹp khó nhận ra được nầy, tựa như một tia nắng phản chiếu lên một bức tường, hay một bóng mây trên mặt biển, mỗi lúc có thể mờ xóa đi, chắc hẳn là do mái tóc vàng màu kim khí, lúc nào cũng hơi rối, và những lọn tóc dài gợi lên nét vời vợi của niềm sợ hãi, sự trốn chạy, kể cả nét vời vợi của đôi mắt xanh lơ, bát ngát, hơi xếch lên, với con ngươi nở lớn và cái nhìn khép nép và phân vân, đã gợi lên, giống như mái tóc, một tâm trạng sợ sệt và bất chợt. Nàng có một sống mũi dài, thẳng và thanh tú, và một cái miệng rộng đỏ tươi, môi dưới viền rộng một cái cằm quá nhỏ, và nét môi quanh queo vô cùng gợi lên một nhục cảm đắm đuối và ám muội. Đó là một khuôn mặt không đều đặn và thế nhưng lại rất đẹp, một vẻ đẹp, như tôi đã nói, khó dò xét được tình ý, một vẻ đẹp mà trong một vài lúc nào đó và một vài trường hợp nào đó – như người ta sẽ thấy về sau – trở thành tiêu tán dần dần. Thân mình của nàng cũng giống như vậy. Nàng có một thân trên gầy ốm và thanh nhã của một cô gái, trái lại cái khối lượng, vẻ kiên cố, sự nở lớn của hông, bụng và hai chân để lộ ra một sức vạm vỡ và khêu gợi. Nhưng sự không tương xứng đó, giống như sự không tương xứng của khuôn mặt, biến mất dưới nét duyên dáng của một vẻ đẹp đã vây bọc lấy nàng từ đầu tới chân bằng một sự hoàn mỹ, giống như một điệu nhạc quen thuộc và thanh tao hay một ánh sáng đổi màu một cách huyền bí. Nói ra có vẻ lạ lùng, nhưng một đôi khi, nhìn nàng, tôi đâm ra nghĩ về nàng như nghĩ về một người với những đường nét và hình thể cổ điển, không khuyết điểm, hòa hợp nhịp nhàng, thanh tỉnh, cân đối. Tới mức cái vẻ đẹp đó, hãy gọi là vẻ đẹp tinh thần, vì không có một cách gọi nào khác, làm cho phấn khởi. Nhưng có lúc vẻ rực rỡ nầy bị rách đi và lúc đó tôi mới nhận thấy có nhiều sự thiếu đều đặn, vừa chứng kiến sự thay hình đổi dạng khổ sở của người nàng. Tôi khám phá ra được điều đó trong những ngày đầu tiên của cuộc hôn nhân và trong một giây lát tôi có cảm tưởng đã bị lừa gạt giống như một người lấy vợ vì quyền lợi nhưng hôm sau khám phá ra rằng của hồi môn của vợ quá nghèo nàn. Quả thực, một vẻ cau mày nhăn nhó và không thành lời, như để nói lên nỗi sợ hãi, niềm lo âu, sự ghê tởm và đồng thời một vẻ quyến rũ hững hờ một đôi khi làm cho khuôn mặt vợ tôi nhăn lại. Vẻ nhăn nhó đó có thể nói là nó đã làm nổi bẩn lên một cách mạnh mẽ sự không đều đặn tự nhiên giữa các đường nét, và tạo cho diện mạo của nàng cái vẻ gớm guốc của một mặt nạ quái dị trong đó những đường nét có thể bị thêm thắn tới mức trở thành một bức hoạt họa, bởi một trò khôi hài đặc biệt, khiếm nhã vừa khó chịu: nhất là cái miệng, kế tới hai lằn nhăn viền quanh nó và hai lỗ mũi và con mắt. Vợ tôi thoa rất dày trên môi một màu son đỏ chói, ngoài ra, vì nước da tái, nàng đánh phấn hai bên má. Khi vẻ mặt bình thản, những màu sắc nhân tạo đó không dễ nhận ra và chúng hòa hợp vối màu mắt, tóc và da nàng. Nhưng khi nàng nhăn nhó, chúng đột nhiên có vẻ sống sượng và lộ liễu, thế rồi trọn cả khuôn mặt, một phút trước đây rất đỗi thanh tỉnh, sáng láng và đẹp một cách cổ điển, giờ đây gợi lên những đường nét quái dị và bốc lửa của những mặt nạ vào dịp giả trang ngày lễ Carême, cộng thêm vẻ tục tĩu khó tỉa mà người ta có thể gọi, trong những lúc co giựt như vậy, đó là sự yểu điệu, mức nồng nhiệt và kích thích của xác thịt. Và thân mình của nàng, cũng giống như khuôn mặt, có riêng cho nó một cách thức khinh thường sức quyến rũ của vẻ đẹp để vặn vẹo một cách khó coi. Nàng co rúm người lại trong một cử động sợ sệt và ghê tởm, nhưng đồng thời, giống như một vài vũ công và diễn viên câm đã làm để khích động khán giả, nàng duỗi chân và tay trong một tư thế tự vệ và kháng cự, kế đó thân mình của nàng uốn thành cánh cung như để mời gọi hay khêu gợi. Lúc đó nàng có vẻ như lấy tay gạt tránh một mối hiểm nguy tưởng tượng, nhưng đồng thời sự co rúm kịch liệt của hai bên hông hình như chứng tỏ rằng mối hiểm nguy đó và sự tấn công đó không làm cho nàng khó chịu. Tư thế trông chướng mắt và, một đôi khi càng chướng thêm vì vẻ mặt nhăn nhó, khiến có lúc, người ta nghi gờ rằng nó thuộc về cùng một người mới đây rất đỗi giữ gìn, rất đỗi thanh tĩnh và đẹp khôn tả. Tôi đã nói yêu có nghĩa là âu yếm những nét xấu nơi đối tượng tình yêu của mình, nếu có cũng bằng như những vẻ đẹp. Những vẻ nhăn nhó, những sự co rúm đó, mặc dầu khá vô duyên, đối với tôi, cũng thân thiết mau chóng không kém gì nét duyên dáng, sự cân đối và vẻ thanh tĩnh của những lúc thơ mộng nhất. Nhưng yêu còn có nghĩa là không hiểu thấu, vì, nếu quả thực có một mãnh lực yêu thương bao hàm sự thông cảm thì đồng thời cũng có một mãnh lực khác, mê đắm hơn, khiến bạn trở thành mù quáng trước người mình yêu. Mù quáng thì tôi không có, nhưng tôi thiếu sự sáng suốt tinh thần của một tình yêu chịu nhiều thử thách và lâu đời. Tôi biết rằng trong một vài trường hợp vợ tôi trở thành xấu xí, điều đó đối với tôi như có vẻ quái gở nhưng lại dễ thương, giống như tất cả những gì liên hệ tới nàng, và tôi không muốn, cũng như không biết phải làm thế nào vượt quá nhận xét đó. Ngoài ra tôi còn phải nói rằng những chứng giựt gân đó xảy ra rất ít, và không bao giờ vào những lúc chúng tôi gần gũi nhau. Tôi không nhớ có một lời nào, một cử chỉ nào của tôi đã gây ra nơi nàng sự biến đổi lạ lùng đó của khuôn mặt trở thành mặt nạ và thân mình trở nên con vật múa rối. Trái lại, chính trong những lúc chăn gối nàng mới có vẻ như đạt tới cực điểm của vẻ đẹp huyền hoặc và không tả xiết của nàng. Lúc đó nơi con ngươi nở lớn của cặp mắt to lớn của nàng có một lời kêu gọi từ tốn, dịu dàng, nhu mì, nhiều ý tứ hơn mọi lời nói. Miệng nàng có vẻ như bày tỏ, qua vẻ gợi dục và nét quanh quẹo của đôi môi, một lòng nhân từ hay thay đổi và thông minh và nguyên cả khuôn mặt của nàng tiếp nhận những cái nhìn của tôi giống như một tấm kiếng huyền bí và khiến yên tâm, nơi mà những sợi tóc rối màu vàng bắt hình dùng ra một cái khung tương xứng với tấm kiểng. Thân hình tự nó như cố định trong hình dáng đẹp nhất của nàng, nằm sóng sượng một cách vô tội và uể oải, rũ rượi và trơ trơ, giống như một miền đất hứa trả rộng vài ối ra tận chân trời xa thẳm, với những cánh đồng, những dòng sông, những ngọn đồi và thung lũng dưới những cái nhìn đầu tiên. Trái lại, vẻ nhăn nhó và dám co rúm hiện ra trong những trường hợp bất ngời và vô lối nhất; tôi chỉ cần nhắc lại một vài trường hợp. Vợ tôi luôn là một độc giả say mê loại tiểu thuyết trinh thám. Nơi những đoạn mà tình tiết chắc hẳn trở nên hấp dẫn và hồi hộp hơn đoạn trước, tôi đã để ý thấy vẻ mặt của nàng dần dần trở nên khó coi dưới vẻ nhăn nhó và vẻ mặt này không biến mất trước khi chấm dứt cái đoạn đã kích thích nàng. Mặt khác, vợ tôi là một con bạc. Tôi cùng đi với nàng tới Campione, Monte-Carlo, San Remo. Không một lần nào, khi đặt tiền xong và khi bánh xe quay tròn, làm quả cầu nhỏ nhảy trên các con số, vẻ nhăn nhó làm cho xấu xí lại không biến khuôn mặt của nàng. Cuối cùng đôi khi chỉ cần nàng xỏ kim, hay trông thấy một đứa trẻ chạy dọc theo một miệng hố, có thể rớt xuống đó, hay chỉ cần nàng nhận phải một giọt nước lạnh trên ót là cử động co rúm đó vồ lấy nàng. Tuy nhiên, để xét cho tận tường sự việc, tôi muốn đề cập tới hai trường hợp mà sự biến đổi độc đáo của vợ tôi hình như, theo tôi, có những nguyên nhân phức tạp hơn. Một hôm, ở tại miền quê, trong khu vườn của biệt thự chúng tôi đang ở, tôi cố gắng nhổ một cây cỏ mọc lan, rễ già và cao nghệu, giống như một cây con đã mọc ngay chính giữa sân trước nhà, không hiểu bằng cách nào. Công việc không phải dễ dàng, vì cây cỏ xanh và ướt trơn tuột giữa hai bàn tay tôi và ngoài ra rễ của nó như đã ăn rất sâu dưới đất. Mải lo nhổ cây cỏ, ,tôi không hiểu tại sao tôi lại ngước mắt nhìn vợ tôi, và tôi đã sửng sốt trông thấy khuôn mặt và thân hình của nàng bị biến đổi hoàn toàn bởi sự co rúm dị thường chỉ riêng có nơi nàng. Cùng lúc đó cây cỏ bị sức nặng của tôi nhổ lên, đã bứng rễ và còn dính với lớp đất bằng một cái rễ dày và dài, và tôi té ngửa ra phía sau, may thôi đầu tôi đập lên mặt xi-măng trải quanh biệt thự. Một lần khác chúng tôi mời vài người bạn tới dùng cơm tối tại nhà chúng tôi ở La mã. Trước khi khách tới, vợ tôi bận áo tiệc, đánh phấn thoa son và đeo nữ trang, muốn đi xem qua một vòng nơi nhà bếp để coi mọi sự được như ý không. Tôi đi theo nàng. Chúng tôi trông thấy chị bép đang kinh hoảng lên vì con tôm hùm, một con vật to lớn với hai càng dữ tợn và còn thoi thóp, chị ta không dám bắt nó và quăng vô chảo. Một cách rất giản tiện, vợ tôi bước gần bàn, nắm lấy cái lưng con tôm hùm và nhúng nó vô nước sôi. Để làm việc đó, nàng phải đứng cách xa cái lò cũng như con tôm, thì cũng được đi. Nhưng sự thận trọng đó chỉ cắt nghĩa một phần nào thôi vẻ nhăn nhó của khuôn mặt, xấu và thô, và cử động của thân mình, trong một lúc, làm uốn éo một cách khêu gợi hai bên hông dưới lớp tơ sáng chói của áo tiệc. Tôi tưởng tượng rằng nhiều lần, và trong những trường hợp khác nhau, vợ tôi đã phải nhiều phen trải qua sự giựt gân co rúm đó. Dù sao cũng có một vài sự kiện vẫn còn xác thực: không khi nào khuôn mặt và thân mình của nàng lại co giựt trong khi ân ái. Ngoài ra, những lần co giựt đó bao giờ cũng tiếp theo bằng một sự im lặng âm thầm, lơ lửng, giống với tiếng kêu được nén lại hơn là một sự câm nín hoàn toàn. Cuối cùng, những lần co giựt đó bao giờ cũng hình như phát sanh nỗi lo sợ một biến cố bất ngờ, đột ngột, sấm sét. Một nỗi lo sợ, như tôi đã nói, pha trộn đầy nét quyến rũ. Mời các bạn đón đọc Chăn Gối của tác giả Alberto Moravia.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Năm Em Gặp Anh - Cecelia Ahern
Năm Em Gặp Anh nhẹ nhàng, lãng mạn, sâu sắc và tinh tế trong từng chi tiết nhỏ. Cecelia Ahern là một nhà văn nổi tiếng với các truyện dài: Cảm ơn ký ức, Món quà bí ẩn, Có một nời gọi là chốn này... viết sâu sắc và hư ảo, luôn biết cách khơi gợi để người đọc nhìn thấy những phần sâu thẳm nhất trong tâm hồn mình. Cô bị trầm cảm nặng nề, nhưng cũng chính nhờ một năm ở nhà theo chế độ "về vườn", cô khám phá ra những sở thích của chính mình lâu nay bị guồng quay công việc che lấp, tình cảm gia đình, xóm giềng, và tìm được một  tình yêu đích thực. *** Cecelia Ahern, sinh ngày 30-9-1981, là con gái của cựu Thủ tướng Bertie Ahern Ireland, bắt đầu viết tiểu thuyết từ năm 2004. Ngoài ra, cô còn có nhiều truyện ngắn in trong các tuyển tập, mà tất cả nhuận bút đều được dành để làm từ thiện. Năm 2000, cô từng tham gia một ban nhạc về thứ ba trong cuộc thi nhạc pop toàn quốc để chọn ứng viên tham dự cuộc thi Eurovision Song. Trước khi bắt đầu viết văn, cô đã tốt nghiệp đại học ngành báo chí và truyền thông đại chúng. Năm 2002, Cecelia Ahern viết tiểu thuyết đầu tay, PS, I Love You, được xuất bản năm 2004, và sau đó trở thành sách bán chạy số 1 ở Ireland, Vương quốc Anh, Mỹ, Đức và Hà Lan. Nó cũng được bán ở hơn 40 nước khác. Cuốn sách cũng đã được chuyển thể thành phim và ra rạp năm 2007. Tiểu thuyết thứ hai của cô, Where Rainbows End (Nơi cuối cầu vồng), cũng là sách bán chạy số 1 ở Ireland và Vương quốc Anh, và giành giải CORINE của Đức năm 2005. Tiểu thuyết mới nhất của cô là 'Flawed' và đã được xuất bản cuối năm 2017.   Trước khi bắt tay vào sự nghiệp viết lách, Cecelia Ahern đã có bằng Báo chí và Truyền thông đại chúng. Hai mươi mốt tuổi, cô viết tiểu thuyết đầu tiên, Tái bút Anh yêu em. Cuốn sách ngay lập tức trở thành tiểu thuyết bán chạy nhất trên thế giới và được chuyển thể thành phim với sự tham gia diễn xuất của Hilary Swank. Những tiểu thuyết tiếp theo của cô: Nơi cuối cầu vồng, Nếu em thấy anh bây giờ, Có một nơi gọi là chốn này, Cảm ơn ký ức, Món quà bí ẩn, Cuốn sách của ngày mai đều là những cuốn sách bán chạy nhất. Tiểu thuyết của cô được xuất bản ở bốn mươi sáu quốc gia và bán ra trên mười triệu bản. Cecelia cũng là nhà đồng sáng tạo seri hài kịch ăn khách trên kênh ABC Network Samantha Who? với sự tham gia diễn xuất của Christina Applegate. Năm 2008, Cecelia giành giải thưởng Nhà văn mới xuất sắc nhất tại lễ trao giải Người phụ nữ của năm của tạp chí Glamour. Cecelia hiện đang sống ở Dublin, Ireland. Để đăng ký nhận những bản tin độc quyền về Cecelia Ahern Harper-Collins và tìm hiểu thêm những cuốn sách, bài phỏng vấn, hình ảnh ... của Cecelia, hãy ghé vào trang www.cecelia-ahern.com. Các tác phẩm của Cecelia Ahern đã được xuất bản tại Việt nam: Sức Mạnh Tình Yêu - PS I Love You Nhật Ký Của Ngày Mai Năm Em Gặp Anh Nếu Em Thấy Anh Bây Giờ Nơi Cuối Cầu Vồng Cô Gái Trong Gương Mời các bạn đón đọc Năm Em Gặp Anh của tác giả Cecelia Ahern.
69 - Ryu Murakami
Ở tuổi 32, Murakami Ryu đã viết lại tuổi 17 của mình một cách chân thực nhất! 69 có thể nói là một tác phẩm tươi sáng nhất của Murakami Ryu. Trên cái nền nâu trầm bỗng vút qua một nét màu sáng tươi. Người đọc bất ngờ như khi đi qua rừng sâu bỗng thấy trước mình cánh đồng bạt ngàn hoa thơm cỏ lạ. Những đóa hoa của tình yêu thơ ngây và tuổi trẻ chưa bị đời làm cho gục ngã. Không những thế, 69 còn là tác phẩm hài hước và kích động vô cùng. Rất nhiều lần ta phải bật cười vì vui thích, hân hoan như tìm lại thấy người em thuở sơ đầu. Tác phẩm này gần như là tự truyện. Nhân vật Yazaki, mười bảy tuổi, đang học phổ thông dường như là hình bóng của chính Murakami Ryu.  *** "Cái tuổi trẻ mà mình muốn sống nó y như Ryu đã mô tả trong sách này. Cảm giác tâm đắc làm sao khi bạn nghe y chang cái thứ âm nhạc mà ông nội nhân vật chính đang nghe trong truyện, này thì Beatles, Rolling Stones, Led Zeppelin...???? Y như là bạn xem Deadpool và thấy vui quá chừng khi thằng ôn này nhắc tới Yoda, Liam Neeson, Ripley Alien hay Sinead O'Connor. Tuổi trẻ nó cần phải chất như vậy. Nó rất là ngầu như Jeff Buckley tuy đang chết đuối trên sông nhưng người ta vẫn nghe hắn rống điệp khúc Whole Lotta Love của Led vậy." (Độc giả Viet Hung) *** Nếu bạn đã nghe đến danh tiếng của Haruki Murakami và Banana Yoshimoto, hẳn bạn phải biết đến “Tổ hợp 2 Murakami và 1 Banana”, và người còn lại, chính là Ryu Murakami. Cùng chung một thể loại hiện thực huyền ảo, nhưng nếu Banana được biết đến với phong cách nhẹ nhàng mà sâu lắng, Haruki sáng tạo và đầy sức hút, thì Ryu lại nổi tiếng về chiều sâu và sức nặng của những chủ đề được phản ánh. Cuốn “69” mình review lần này lại có phần nhẹ nhàng hơn những tác phẩm bình thường của Ryu Murakami, vì nó là một cuốn dạng “bán hồi ký”, nên gần như loại bỏ yếu tố huyền ảo ra ngoài, và mang trong mình hơi thở rất rõ rệt của một quãng đời đã trôi qua. Và “69” chính là cách Ryu Murakami chọn tái hiện tuổi trẻ của mình, thứ thanh xuân không dịu dàng man mác như nhiều người, mà nổi loạn, phá cách, có phần “hư hỏng”, mà vẫn xanh tươi không kém. “69” là hồi tưởng về năm 1969, năm 17 tuổi hoa mộng của cậu thiếu niên Yazaki Kensuke (gọi tắt là Ken), một thanh niên nổi loạn. Dù không thuộc bất cứ nhóm nào, nhưng cậu lại quen biết với hầu hết các thành phần “bất hảo” trong trường, và từ đó, kiến tạo nên “năm tươi đẹp nhất cuộc đời” bằng việc thành lập một “đại nhạc hội”. Ken cố gắng mời “Lady Jane” Kazuko của đội Kịch làm vai nữ chính, và phá cả buổi luyện tập “Ngày hội thể thao quốc gia” để nàng đồng ý tham gia. Ken còn chủ mưu việc treo biểu ngữ giữa đêm khuya ở trường học, rồi sáng dậy gọi cả đài truyền hình đến đưa tin, để rồi hơn một trăm năm mươi ngày tiếp theo bị đình chỉ học và quản thúc tại gia. Trong khoảng thời gian đó, Ken vẫn lên kế hoạch cho buổi “đại nhạc hội”, và sau cùng, đã thực hiện thành công điều mình muốn dù gặp nhiều trắc trở. Giờ đây 32 tuổi, đã thành nhà văn nổi tiếng và ở ẩn để viết cuốn sách thứ hai sau thành công rực rỡ của cuốn đầu, Ken hồi tưởng lại những năm tháng nổi loạn huy hoàng ấy, và nhiều thứ khác đã xảy ra với những thanh niên ấy ngày nào. “69” là cuốn tiểu thuyết dạng bán hồi ký của Ryu Murakami, mang một âm hưởng tươi sáng và lạc quan hiếm hoi trong sự nghiệp văn chương của ông, vốn đào sâu vào tâm trí và sự bất hạnh của con người thông qua các yếu tố bạo lực và ma tuý. Cả cuốn tiểu thuyết chứa đựng thực tế về thập niên 60 của thế kỷ trước đầy biến động trong lòng đất nước Nhật Bản, khi giới trẻ hâm mộ cuồng nhiệt các ban nhạc rock, jazz, các diễn viên, nhà văn, triết gia nổi tiếng của phương Tây. Đó cũng là trái tim nồng cháy của tuổi trẻ, mơ ước những điều vĩ đại, và thực hiện những điều không tưởng, dẫu chỉ đơn giản là để chứng tỏ bản thân, hay sâu xa hơn, là để gây ấn tượng với một cô gái. Chương cuối của cuốn sách kể về chuyện tình ngắn ngủi trong sáng của Ken với Kazuko thật sự rất bất ngờ, với những tư tưởng và hành động của Ken, không ngờ cậu chàng lại… ngây thơ đến thế. Thật là tuổi trẻ! Mình nghĩ mình sẽ sớm đưa Ryu Murakami lên hàng những nhà văn mình thích nhất mọi thời đại sau khi đọc hết những gì ông viết. *** Ryu Murakami sinh năm 1952 tại Sasebo, Nagasaki) là một nhà văn và nhà làm phim người Nhật Bản. Năm 1976, khi còn là sinh viên đại học nghệ thuật Musashino, ông đã thắng giải thưởng danh giá Akutagawa và giải tác giả mới Gunzo với tác phẩm Màu xanh trong suốt miêu tả một nhóm người trẻ tuổi đắm chìm trong tình dục, ma túy và nhạc rock. Cùng với Nakagami Kenji, Murakami Haruki và Yoshimoto Banana, ông được xem là tác giả tiêu biểu đại diện cho thời đại mới [1]. Ở Nhật, các tác phẩm của Ryu Murakami có tầm ảnh hưởng lớn đến mức năm 1997, tạp chí Times nhận định rằng ông là “Một trong 11 người sẽ cách mạng hóa Nhật Bản”. Tác phẩm đầu tay của ông xuất bản năm 1976 đoạt ngay giải Gunzo, và một năm sau đó là giải văn học cao quý Akutagawa. Ngòi bút đầy tỉnh táo của Ryu Murakami xoáy vào những mặt gai góc của xã hội Nhật Bản, từ lối sống buông thả, trụy lạc của giới trẻ đến những ám ảnh khủng khiếp do thiếu niềm tin vào cuộc sống… Một số tác phẩm của tác giả Ryu Murakamiđã được dịch, xuất bản tại Việt Nam: Xuyên Thấu - Ryu Murakami Những đứa trẻ bị bỏ rơi trong tủ gửi đồ - Ryu Murakami Màu Xanh Trong Suốt - Ryu Murakami 3 Đêm Trước Giao Thừa - Ryu Murakami Thích Gì Làm Nấy 69 Thử vai     Mời các bạn đón đọc 69 của tác giả Ryu Murakami.
Ngõ Lỗ Thủng - Trung Trung Đỉnh
Ngõ lỗ thủng là cuốn tiểu thuyết được nhà văn Trung Trung Đỉnh viết vào những năm 80 (của thế kỷ 20). Câu chuyện xảy ra trong tiểu thuyết cũng là câu chuyện của chính cuộc đời ông. Đó là cuộc sống của những người dân trong giai đoạn chuyển tiếp từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường với ngổn ngang bao sự đổi thay. Chỉ là một cái ngõ thông thường như bao cái ngõ quanh co của thành phố Hà Nội, nhưng ở cái ngõ đó, cuộc sống của những người công nhân, trí thức, thợ thủ công, lao động tự do được bộc lộ một cách đặc trưng nhất.  Ngõ lỗ thủng viết về những con người của một thời chỉ tin vào những tình cảm trong sáng. Nhóm người này quan niệm rằng: Sống ở trên đời có khó khăn đến đâu chỉ cần có tình cảm với nhau là vượt qua hết. Mặc dù thực tế là khi họ mang niềm tin, tình cảm đó để đi xin việc, đi nhờ vả thì chẳng ai đón nhận cả. Sự sụp đổ niềm tin đến không chỉ với nhóm bạn này, mà ngay với cả bà Điếc, một nhân vật có tên mà đã thành không tên trong đời sống.  Trung Trung Đỉnh muốn đưa ra một thồng điệp về cuộc sống, về con người với những "lỗ thủng" - Đó không còn là cái lỗ đục tường làm nơi qua lại công viên, nó đã trở thành lỗ thủng của nhân cách, của tri thức, của văn hóa len lỏi trong từng con người". *** Tác giả Trung Trung Đỉnh tên thật là Phạm Trung Đỉnh, nhưng vào những ngày đầu mới viết văn, tập đánh máy, ông đã đánh nhầm thành Trung Trung Đỉnh. Sau này, thấy cái tên ấy nghe cũng giòn giã và cũng là một kỷ niệm nên ông lấy luôn làm bút danh”. Sở dĩ có những dòng giới thiệu như thế, vì từ khi nhà văn Trung Trung Đỉnh về làm Giám đốc NXB Hội Nhà văn, nhiều người thấy mục “Chịu trách nhiệm xuất bản” ghi tên Phạm Trung Đỉnh chứ không phải Trung Trung Đỉnh, trong khi “hai người là một”.  Trung Trung Đỉnh viết nhiều và đã giành nhiều giải thưởng lớn. Tác phẩm của anh được ghi nhận trong lòng bạn đọc. Từ tạp chí VNQĐ anh chuyển ngành ra làm phó tổng biên tập báo Văn Nghệ và sau cùng làm giám đốc nhà xuất bản Hội Nhà Văn trước khi nghỉ hưu. Trở lại với những ám ảnh về cái ngõ trong “Chuyện tình ngõ lỗ thủng” hơn chục năm sau khi cuốn sách ra đời, tôi đã xin phép tác giả gộp nó lại cùng tiểu thuyết “Tiễn biệt những ngày buồn” để chuyển thể thành một kịch bản phim truyền hình 24 tập lấy tên là “Ngõ lỗ thủng”. Có lẽ đó là một phim dài tương đối đầy đủ về một con ngõ phố Hà Nội của thời bao cấp. Phim thành công mức nào, tôi chả nói chỉ biết sau khi phát sóng, “Ngõ lỗ thủng” nhận được giải kịch bản hay nhất năm do khán giả bình chọn. Tôi đi nhận giải mang về chiếc phong bì đựng tiền thưởng trao ở trường quay, bảo với biên kịch Đặng Diệu Hương đồng tác giả ghi mấy chữ tặng lại cho nhà văn nguyên tác Trung Trung Đỉnh. Hương nắn nót ghi vào ngoài phong bì lời đề tặng đầy kính trọng và yêu quý. Tôi đưa phong bì cho Trung Trung Đỉnh trong mâm tiệc ở một hội nghị Văn học quốc tế tổ chức ở Hồ Tây. Anh vui vẻ nhận hẹn sẽ dành để nhậu vào lúc khác. Hôm sau gọi điện hỏi phong bì bao nhiêu tiền thưởng thấy Trung Trung Đỉnh ắng đi. Tiền nào. Tiền phong bì giải hôm qua em đưa anh ở Hồ Tây ấy. À, thôi bỏ mẹ mất rồi Tiến ạ. Anh về tìm mãi không thấy chắc nó rơi đâu đó. Mời các bạn đón đọc Ngõ Lỗ Thủng của tác giả Trung Trung Đỉnh.
Scaramouche - Kiếm Sĩ Không Trái Tim - Rafael Sabatini
“Người ta tự hỏi liệu còn người kể chuyện nào khác có thể khéo léo đến thế trong việc phủ kín các trang viết của mình với những âm mưu đối đầu với âm mưu, với hiểm nguy xen cài lãng mạn, trên một tấm phông nền đầy những màu sắc sống động, với lụa là và nhung phục, đao kiếm và trang sức.” Scaramouche - Kiếm sĩ không trái tim là câu chuyện về André-Louis Moreau. André-Louis Moreau chào đời mang theo khiếu hài hước cùng cảm giác thế giới thật điên rồ. Nhưng khi chứng kiến người bạn thân thiết bị Hầu tước de La Tour d’ Azyr sát hại, André-Louis cảm thấy mình buộc phải dấn thân vào sự điên rồ của thế giới để xác lập lại công lý và tạo cơ hội cho những tư tưởng của bạn mình tìm thấy tiếng nói của chúng trên đầu lưỡi anh. Từ một luật sư, anh trở thành một nhà diễn thuyết, một anh hề, một kiếm sĩ, rồi một chính trị gia. Ở mỗi ngã rẽ của đời mình, anh đều chạm mặt với Hầu tước một cách đầy bi kịch. Nhưng đợi anh ở cuối con đường gian truân ấy lại chẳng phải là công lý như anh hằng mong đợi mà là một sự thật tréo ngoe và buốt giá. Được viết bằng thứ văn chương phong phú, giàu hình ảnh, đầy những đối thoại sắc sảo, những quan sát tinh tế, cuốn tiểu thuyết ra đời từ năm 1921 này vẫn chưa bao giờ đánh mất đi sức hấp dẫn của nó. Ở nhiều nơi, nó đã được xếp vào hàng kinh điển. Một dấu son trong sự nghiệp chói sáng của Rafael Sabatini. *** Rafael Sabatini (1875 - 1950) là nhà văn chuyên viết truyện thám hiểm - lãng mạn và thu được nhiều thành công lớn. Ông đã nhận được giải Book Prize. Một số tác phẩm nổi tiếng của ông  là: Chim ó biển (1915), Cuộc đời chìm nổi của thuyền trưởng Blood (1922)... Ông xuất hiện trên bầu trời văn học cùng thời với rất nhiều tên tuổi rực sáng khác như A. Dumas, W. Scott, và là một trong những tác giả được mến mộ nhất thời ấy, với dòng tiểu thuyết hiệp sĩ, lãng mạn. Một số tác phẩm nổi tiếng của Rafael Sabatini: - Này chiến trận, này cuồng si - Chim ó biển (The sea hawk, 1915), - Cuộc đời chìm nổi của thuyền trưởng Blood (Captain Blood, 1922); - Scaramouche - Kiếm Sĩ Không Trái Tim (1921); - Tình Yêu Ra Trận - Bellarion the Fortunate (1926)...  Mời các bạn đón đọc Scaramouche - Kiếm Sĩ Không Trái Tim của tác giả Rafael Sabatini.