Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kẻ Vô Luân - André Gide

Cuốn sách này đáng giá bao nhiêu, tôi xin trao cho người với giá đó. Ấy là một Trái Cây chứa chất những tro than chát ngấm. Nó giống như loại Dưa Đắng ở Sa Mạc, mọc tại những vùng khô cằn nung nấu, và chỉ ban cấp cho cơn khát nước của con người một trận cháy bỏng càng thê thảm tàn khốc thêm; nhưng nằm trên mặt cát vàng (hoàng sa) không phải là không đẹp. Nếu như tôi có ý đưa nhân vật mình ra làm gương mẫu (cho người soi) thì phải nhìn nhận rằng tôi đã không thành công chi lắm; một vài kẻ hiếm hoi hỉ hữu nào đã vui lòng chú tâm hữu ý tới trận chìm nổi của Michel, ấy chẳng phải để cảm thông, mà chỉ là để nguyền rủa chàng, với tất cả lòng thiện lương sôi nổi của họ. Tôi đã không hoài công trang điểm Marceline bằng xiết bao đức hạnh; người ta không tha thứ được cho Michel đã vị kỉ không yêu chuộng nàng hơn thân mình. Nếu rằng tôi có ý muốn đưa cuốn sách ra đời nhằm cứu cánh lên án Michel, thì ắt là tôi cũng chẳng thành công gì ráo, chẳng đạt mục đích hơn được chút nào. Bởi vì không một ai người, ai kẻ, ai con, vui lòng cảm tạ tôi vì mối phẫn nộ của họ đối với những nhân vật. Phẫn nộ đối với Michel, và từ Michel cơn phẫn nộ tràn lan tới tác giả. Mép bờ rất mong manh. Một chút xíu thôi, và người ta đã muốn lẫn lộn tôi và nhân vật. Nhưng thật ra tôi không có ý muốn đưa cuốn sách ra đời như một cuộc lên án, mà cũng chẳng phải là trận biện hộ biện minh, và tôi đã tự giữ mình không thôi lời phán đoán. Công chúng độc giả ngày nay không cho phép tác giả được quyền làm khán giả suông. Tác giả sau khi miêu họa cơn kia, cuộc nọ xong, lầm lì không đưa lời nhận định, không bày tỏ lập trường, hoặc đứng phía này hoặc thiên về phía nọ, - đó là điều công chúng khổng thể tha thứ cho... Hà huống...? Hơn nữa, ngay cả trong giờ diễn tiến tồn lưu của tấn tuồng phù động, người ta còn muốn rằng tác giả phải liên tiếp bày tỏ lập trường, phải phán định rõ ràng rành mạch là mình đứng về phía của A hoặc của B, của Bê hoặc của Bối, mình ở bên cánh Philinte hay là bên phe Alceste, mình tán đồng Hamlet hay biểu đồng tình với Ophélie, mình theo chân Faust hay là bén gót theo Marguerite, mình lân mộ Adam hay là sùng mộ Jehovah? Mình tơ tưởng Nausicaa hay là mình nhớ nhung Pénélope? Mình muốn cùng Ulysse vượt trùng dương về trở lại cố hương Ithaque, hay là mình còn lưu luyến mãi cái hương mùi hương dị dị trong lãnh cốc Thần Nữ Calypso? Mình muốn xổ bồ đánh trận vây hãm thành Troie, hay là mình muốn bôn ba lùa bò về lên đầu non đồi sim trái chín? Quả thật, tôi không chủ trương rằng trạng huống trung lập (tôi suýt nói: tình huống lưỡng lự dùng dằng) là dấu hiệu vững chắc của một đầu não hoang viễn huệ năng; nhưng tôi tưởng rằng nhiều bộ óc hoằng đại thông tuệ đã từng chán ghét vô ngần cái lôi kết luận dứt khoát - và: đặt định chính xác một vấn đề, không phải là cho rằng vấn đề đã được giải quyết từ trước. Tiếng “vấn đề” tôi dùng tại đây, là dùng một cách miễn cưỡng. Lòng không muốn, mà buộc phải dùng. Tình phi đắc dĩ... Thật ra, nói cho đúng, thì trong lĩnh vực nghệ thuật, trong miền cõi địa hạt văn chương, không hề có vấn đề nào mà tác phẩm nghệ thuật lại chẳng là lời giải đáp viên túc tự tại tự như. Nếu bằng tiếng “vấn đề” người ta ngụ ý thể hội nghĩa "tấn tuồng” tôi có được phép nói rằng cái tấn tuồng cuốn sách này kể lại, dẫu rằng nó diễn ra trong linh hồn nhân vật của tôi, vẫn cứ là một tấn tuồng quá phổ quát, không thể nào chịu nằm lì giới hạn trong cuộc phiêu bồng chìm nổi dị biệt riêng tây của mình. “Vấn đề” kia, tôi không có ý tự phụ cho rằng mình phát minh ra nó. Nó vốn dĩ đã tồn lưu trước khi cuốn sách này xuất hiện. Thì dẫu... Thì rằng... Rằng Michel thắng cuộc hoặc thua cơn, rằng Michel thong dong duỗi dậy hoặc đồi phế rụng rơi, dù sao thì dù, “vấn đề” vẫn tồn liên tiên trình thị hiện; và cả cơn thắng, cả cuộc thua, tác giả đều không cho đó là một kết quả thu hoạch, vốn dĩ là, đã thế, đã thôi, (đã xong, đã xuôi, đã đành, đã đủ). Nếu rằng một vài tinh thần thông tuệ cao nhã chỉ chấp nhận nhìn thấy trong tấn tuồng kia, bản trình bày một trường hợp oái oăm quỷ dị: và chỉ nhìn thấy trong nhân vật kia, một kẻ bị bệnh hoạn éo le: nếu họ không biết rằng một vài ý tưởng cấp thiết liên can tới cõi chung rất mực rộng tầm, vẫn rất có thể âm thầm cư lưu trong tấn tuồng âm ỉ nọ - vâng, nếu họ quan niệm như thế, thì tội lỗi chẳng phải tại những ý tưởng kia hoặc tấn tuồng kia, mà tại tác giả. Tôi muốn nói: tại chỗ vụng về của tác giả, tại vì tác giả ăn nói không ra câu - mặc dầu y đã đặt vào trong sách này tất cả niềm tha thiết, tất cả những nước mắt sôi cuồng và xiết bao ân cần chăm sóc. Tuy nhiên, ý nghĩa tồn lưu thực tại âm thầm của cuốn sách và cái ý vị lân la mà công chúng tìm ra trong sách, đó là hai sự vụ khác biệt nhau vô cùng. Thiết tưởng: không cần quá nham nhở tự phụ hỗn mang, tôi nghĩ thế, người ta có thể liều chịu trận hững hờ trong buổi mới, không ai thèm ngó ngàng gì đến của lạ ngon ngọt ngẫu nhiên về ngày nhà ma thứ nhất - vâng thà như thế còn hơn là ngẫu nhĩ về gây cuồng hỉ tê mê cho một công chúng thèm ăn những vật đồ lai rai, rồi trôi biệt bỏ xuôi không có một ngày mai tao phùng trong cửa quỷ. Tuy nhiên? Chung quy, tôi chẳng có ý tìm hiểu chứng minh cái gì ráo, mà chỉ duy mong muốn hoạ sao cho nên hình và làm sao cho bức hoạ sáng tỏ với mù sương. TỰA của André Gide *** André Paul Guillaume Gide (22 tháng 11 năm 1869 – 19 tháng 2 năm 1951) là một trong những nhà văn xuất chúng của thế kỷ 20, người đoạt giải Nobel Văn học năm 1947. Sáng tác đầu tay của ông là cuốn tự truyện Les cahiers d'André Walter (Những cuốn vở của André Walter, 1891) viết bằng thơ và văn xuôi đầy chất thơ, kể về sự giằng xé, giày vò giữa thể xác và tâm hồn và sự tìm kiếm lối thoát trong các hình thái thần bí và thanh cao của tình yêu. Do bị bệnh lao không phải chịu quân dịch, những năm 1893-1894 André Gide du lịch sang Algérie và Tunisia, nơi ông phát hiện ra mình là người đồng tính luyến ái. Thời gian khủng hoảng kéo dài được ghi nhận bởi sự bất ổn tinh thần và những kiếm tìm chân lý thể hiện trong truyện vừa Le Retour de l'Enfant prodigue (Cuộc trở về của đứa con du đãng, 1907). Về mặt phong cách, Gide đã khắc phục lối viết cầu kì ban đầu, đến với một ngôn ngữ giản dị rõ ràng. Năm 1908, ông trở thành người đồng sáng lập Tổng quan mới của nước Pháp, một trong những tạp chí có ảnh hưởng đối với sự phát triển nền văn học Pháp và thế giới. Tiểu thuyết châm biếm Les Caves du Vatican (Những động ngầm dưới Vatican, 1914) đặt vấn đề về sự chấp nhận một cách mê muội những tín ngưỡng và lý tưởng. Năm 1926, tiểu thuyết Les Faux-monnayeurs (Những kẻ làm bạc giả) ra đời mang lại nhiều thành công cho ông, đó là một đóng góp thực sự vào sự phát triển thể loại tiểu thuyết. Một năm sau khi xuất bản truyện vừa Thésée (Theseus, 1946) - mà ông coi như một bức di thư văn học - André Gide được bầu làm Giáo sư Danh dự trường Đại học Oxford và được tặng giải Nobel năm 1947. Năm 1950, André Gide xuất bản tập cuối cùng của bộ Journal (Nhật kí). Ông mất năm 1951 ở Paris.   Những nhân vật của Gide đều mang bóng dáng cuộc đời ông, như ông từng viết: “Kẻ khác có thể đã viết nên một tập sách; nhưng câu chuyện tôi kể ra đây, tôi đã hồi tưởng lại bằng cả tâm hồn”. Để hiểu về những tác phẩm gây chấn động của Gide, cần nhìn lại chính đời ông. Gide sinh ra vốn là đứa trẻ nhạy cảm, sống bản năng. Về sau, ông lại gặp thêm quá nhiều bão táp trường đời: Mất cha từ nhỏ, chiến tranh liên miên, bệnh tật và đặc biệt là cú sốc năm 26 tuổi, khi ông phát hiện ra mình là người đồng tính. Trước đó, Gide đã mối tình lãng mạn kéo dài với cô em họ Madeleine Rondeaux từ khi ông mới là cậu bé 12 tuổi (ông đã hồi tưởng lại mối tình đầy ngang trái này trong tác phẩm Khung cửa hẹp). Phát hiện này khiến ông bị rối loạn cảm xúc. Về sau, ông vẫn trân trọng và cưới Rondeaux nhưng đồng thời chạy theo những mối tình đồng giới và thật bất ngờ, lại có con với một người phụ nữ khác. Như con thiêu thân, Gide lao vào những cuộc sa đọa trác táng và không ngần ngại phô bày trên trang giấy. Nhiều người đã lên án Gide kịch liệt, coi những tác phẩm của ông như liều thuốc độc cho người đọc. Bạn bè trong giới văn chương cũng có phần dè chứng ông. Nhưng Gide không vì thế mà chùn bước. Ông vẫn trung thành với bản chất con người, coi thường những hình thức phù phiếm, giả tạo. Ông nâng tầm quan điểm của mình lên thành triết lý trong Kẻ vô luân, kể về Michel, kẻ vượt qua mọi rào cản đạo đức trong hành trình nổi loạn để khám phá con người thật của mình. Mời các bạn đón đọc Kẻ Vô Luân của tác giả André Gide.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Người Tình Hoạt Ngôn
Người Tình Hoạt Ngôn là cuốn thứ ba trong series Travis Family. Câu chuyện đẩy lên kịch tính ngay từ những tình tiết đầu tiên, buộc nhân vật chính phải bộc lộ cá tính của mình ngay lập tức. Người đọc sẽ thấy tò mò, sau đó là đồng cảm, rồi đến ngưỡng mộ với một người con phải vượt qua bi kịch gia đình để tồn tại. Ở Ella hội tụ đầy đủ yếu tố tổn thương cũng như mạnh mẽ của một người lẽ ra đã trở thành một bản lỗi của giáo dục gia đình. Khép mình, sợ bộc lộ bản thân, sợ sự gắn bó nhưng rất giàu tình cảm, thẳng thắn và kiên định, đó là Ella. Ella như một con ốc luôn thu mình lại, sẵn sàng giơ những cái gai sần sùi để đe dọa bất cứ ai muốn tiến lại gần mình, hòng che giấu sự yếu đuối núp dưới lớp vỏ cứng. Phẳng lặng, an toàn, luôn là sự lựa chọn của cô, và cô hài lòng với bình yên mình tự thêu dệt nên. Cho đến khi cuộc đời – hay chính là gia đình mà cô đã cố rũ bỏ – xô cô đến với 2 người đàn ông khác. Một người khơi dậy bản năng che chở, bản năng làm mẹ trong cô, vốn dĩ được xây dựng từ thời thơ ấu. Và Jack – người làm sống lại người đàn bà đầy đam mê và tham lam về tình cảm. Jack – là hiện thân của tất cả những gì cô vẫn phớt lờ – sự bất ổn, mãnh liệt, liều lĩnh. Jack – ích kỷ trong tình yêu, nhưng sự ích kỷ cho người mình yêu. Jack gia trưởng và thích kiểm soát, luôn phải là người nói tiếng cuối cùng, nhưng chỉ khi thấy mình là phần tốt đẹp của người mình yêu. Phải là sự dữ dội ấy mới đủ để phá vỡ lớp vỏ cứng gai góc, rồi sau đó cũng chính cái cứng cỏi ấy mới đủ mạnh để che chở và mang lại yên bình cho một cuộc đời mới tìm lại bình yên sau giông bão.​ *** Series Travis Family gồm có: Sugar Daddy Blue Eyed Devil - Quỷ Mắt Xanh Smooth Talking Stranger - Người Tình Hoạt Ngôn Brown Eyed Girl Mời các bạn đón đọc Người Tình Hoạt Ngôn của tác giả Lisa Kleypas.
Cha và Con - Cormac Mccarthy
“Cormac McCarthy là bậc thầy của nền văn học Mỹ và Cha và con là tác phẩm hay nhất mà ông đã từng viết… Một câu chuyện khiến người đọc thật sự choáng váng và cảm động. Nó khám phá những điều còn lẫn khuất trong trái tim con người” - “Cha và con” rạng lên bởi sự nhẹ nhàng khác thường… giản đơn mà kỳ bí. Tác phẩm vừa được bao bọc trong một tấm màn huyền ảo lại vừa mang một dáng vẻ trong suốt như pha lê. Truyện không hề đưa ra một lối thoát cũng như một kết thúc bình yên nào cả nhưng chính thông điệp không lời sâu thẳm mà đáng sợ đó mới là sự ám ảnh khó quên với người đọc” – The New York Times - “Không một nhà văn Mỹ nào kể từ thời Faulkner dám đi sâu đến như thế vào lãnh địa tối tăm của tội ác và sự cứu rỗi linh hồn. Nhẹ nhàng như một điệu Van, “cha và con” có thừa sự trang nhã để làm hài lòng những độc giả khó tính nhất” – The Boston Globe - “Mỗi trang của cuốn truyện đều chứa đựng một sự lôi cuốn tự nhiên diệu kỳ khiến cho không một độc giả nào có thể cuỡng lại được ham muốn dõi theo cuộc sinh tồn khốc liệt của các nhân vật… Một khi đã cầm cuốn sách lên bạn sẽ không thể đặt nó xuống… Cho dù bạn là ai, bạn vẫn có thể cảm thụ được đầy đủ “Cha và Con” là một kiệt tác vừa bi thương, vừa sâu sắc” – Book Forum. Mời các bạn đón đọc Cha và Con của tác giả Cormac Mccarthy.
Alexis Zorba: Con Người Hoan Lạc - Nikos Kazantzakis
Zorba – Con người hoan lạc là một tác phẩm hết sức thú vị về chân dung một người đàn ông. Từ cuộc đời sống động của ông, Nikos Kazantzaki đã khái quát cả triết lý sống của riêng mình, hết sức sâu sắc mà không hề buồn tẻ. Zorba, một người làm công bình thường, theo người kể chuyện đến khai thác than non trên đảo Crete (Hy Lạp). Tác phẩm xoay quanh cuộc sống tại đó, nơi hai người trở thành bạn thiết của nhau, và Zorba đã là nguồn cảm hứng của người kể chuyện. Tuy vậy, Zorba và người kể truyện là một cặp tương phản thực sự. Và tất cả tác phẩm, thú vị thay, dùng chính cuộc đối thoại giữa họ để khắc hoạ nên một con người hoan lạc, với một thế giới đầy đủ tư tưởng, tôn giáo, triết lý, đam mê, tình yêu và tình dục. Zorba là một lão già, nhưng tuổi già không hề khiến lão đánh mất niềm vui sống. Lão vẫn hăng say hưởng nhận mọi điều say mê ở đời, từ công việc trong công xưởng, từ sự hồi tưởng về những chuyến phiêu lưu cũ, từ những khinh khi với đám tu sĩ, cho đến cả lạc thú tình ái. Lão sống hoàn toàn bản năng, với tất cả những ham muốn hưởng thụ cuộc đời đến từng khoảnh khắc của mình. Ngọn lửa cháy bùng từ hết thảy vui buồn mà Zorba bao giờ cũng đỏ hừng hực đó là niềm mơ ước của mọi người trong đời sống. Đó chính là sự bất hủ của nhân vật mà Nikos Kazantzaki đã tạo nên. Để tô điểm thêm cho Zorba, người kể chuyện được xây dựng tương phản một cách hết sức lý thú. Đó là một chàng trai trẻ mọt sách, chỉ thích nghiên cứu giáo lý Phật giáo. Anh chàng yếu đuối đó không thiết tha với cuộc sống hiện thực, cho dù đó là tình ái chăng nữa. Nhưng rồi, đến một khi, anh chàng ngơ ngác nhận ra sự trống rỗng của những kinh kệ buồn tẻ, những đạo đức chỉ dẫn con người đến một chỗ bơ vơ, vô định, dẫn cuộc sống đến chỗ tĩnh tại, đúng hơn là một sự diệt vong. Trên nền một thứ văn chương nồng nhiệt, thông minh, cuốn hút, Zorba– con người hoan lạc đã xây dựng được một điển hình, đã viết nên một triết lý sống. Và vì thế, xứng đáng là một kiệt tác. *** Nhận định “Một chuyến viễn du tuyệt diệu vào những xứ sở đầy nắng ấm của tinh thần con người… và bất hủ như South Wind, Candide hay The Odysey…” – The New York Times “Với Alexis Zorba thì tất cả các nhân vật của văn học hiện đại đều là loại mắc chứng khó tiêu cả. Lão là Người và lão nói giọng Hy Lạp” – Time “Mỗi trang sách đều sống động với những ý tưởng, những hình ảnh với sự chính xác, tập trung và rung động của thơ ca.” – The New Yorker “Một cuốn tiểu thuyết lớn lao với lão nhân vật chính người Hy Lạp, vừa hừng hực vừa phóng túng, và thô ráp kiểu nông dân, Zorba cũng không khác gì Zarathustra, một vũ công thiên tài.” – SDM Mời các bạn đón đọc Alexis Zorba: Con Người Hoan Lạc của tác giả Nikos Kazantzakis.
Tình Yêu Kéo Dài 3 Năm - Frédéric Beigbeder
Tình yêu kéo dài ba năm, luận đề này được chứng minh không những về mặt khoa học mà còn căn cứ vào những số liệu thống kê xã hội học. Và vậy là, năm thứ nhất người ta mua đồ, năm thứ hai người ta chuyển chỗ kê đồ và năm thứ ba người ta chia đồ. Marc Marronnier, một tay chơi huyênh hoang chuyên viết về thú ăn chơi của giới thượng lưu, bỗng một ngày mất hết phương hướng khi phát hiện ra quy luật tồn tại của tình yêu. Sau khi ly dị vợ, Marc cảm thấy như đang trên đường xuống địa ngục, với rượu bia, gái gú…Trên con đường ấy, anh chàng hận đời đưa ra những cái nhìn đầy mỉa mai, hài hước. Nào là: tình yêu bắt đầu trong nước hoa hồng và kết thúc trong nước rửa lòng lợn; hay tình yêu là một thảm họa tuyệt vời, biết được rằng mình đang lao đầu vào một bức tường, thế mà vẫn cứ tăng tốc… Rồi một ngày, Marc lại đem lòng yêu Alice, và cuốn sách này sẽ bàn về việc phải chăng tình yêu chỉ kéo dài ba năm hay vẫn tồn tại đâu đó một thứ được gọi là điều kỳ diệu của tình yêu? Một cuốn tiểu thuyết ngắn gọn, khiến bạn bật cười nhưng cũng làm bạn cảm thấy tâm đắc được viết ra bởi tác giả vốn là một tay chơi ngoại hạng, Frédéric Beigbeder, một trong mười tác giả không thể bỏ qua theo bình chọn của tờ Le Figaro. Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Kéo Dài 3 Năm của tác giả Frédéric Beigbeder.