Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cái Chết Từ Trên Trời - James H. Chase

Truyện hình sự với khá nhiều án mạng, hung thủ là một ông trùm xã hội đen. Nhân vật chính diện là cảnh sát Conrad, lần này không phải là một anh hùng hào hoa đẹp trai với các cô nàng vây quanh, cũng không phải là một tay thám tử cừ khôi bách trận bách thắng. Nữ chính là nạn nhân, được nam chính bảo vệ nhưng không yêu nam chính. Vì không phải nam chính bách trận bách thắng nên kết thúc là không bảo vệ được nữ chính. Nàng chết. Hung thủ không bị bắt. Và kẻ chiến thắng là một tên sát thủ cừ khôi. *** Tiếng chuông điện thoại réo gắt vào lúc Janey Conrad đang bước vội xuống cầu thang. Cô mặc chiếc áo dạ hội vừa may màu xanh da trời, kiểu mới nhất. Tiếng chuông khiến cô dừng phắt lại, nét mặt đang hân hoan vụt trở nên cau có, thay đổi thật đột ngột như khi ta bấm vào một nút điện. Cô cất giọng lạnh lùng và bình tĩnh thường có vào lúc nổi giận. — Paul, chớ có trả lời! Chồng cô từ phòng khách bước ra. Anh khoảng ba mươi lăm tuổi, cao lớn và rắn chắc, mặc bộ smoking, tay cầm chiếc mũ dạ mềm. Lúc Janey mới quen, cô ngạc nhiên thấy anh giống kép James Stewart quá chừng và chính vì thế mà cô đồng ý lấy anh. — Nhưng anh phải trả lời, biết đâu họ cần đến anh, - anh nói với giọng dịu dàng kéo dài. Paul bước về phía điện thoại và cầm ống lên. Anh mỉm cười với vợ và giơ tay ra dấu im lặng. — Alô! — Paul đấy à? Bardin đây! Câu nói của viên thanh tra vang lên trong tai Paul và vọng ra ngoài khoảng im vắng của phòng chờ. Vừa nghe được giọng nói đó, Janey nắm chặt tay lại. Bardin tiếp: — Anh phải nhập cuộc rồi. Một cái lò sát sinh nơi biệt thự “Ngõ Cụt” của June Arnot. Xác ngập đến cổ, trong đó có cả nàng tiên kiều diễm June. Trời ơi! Một vụ sôi động! Bao lâu thì anh đến được? Conrad nhăn mặt và liếc nhìn Janey. Anh thấy bước chân cô cứng nhắc tiến về phía phòng khách. Anh nói: — Được rồi, tôi đến ngay. — Tốt. Tôi sẽ không để ai đụng chạm gì trước khi anh đến. Tôi cần anh trước khi bọn nhà báo nhao nhao đến quấy rầy. — Tôi đi ngay, - Conrad nhắc lại rồi cúp máy. — Cứt! - Janey nói nhỏ. Cô đứng trước lò sưởi quay lưng về phía anh. — Xin lỗi Janey, anh phải đi ngay. — Cứt! Cứt! - Janey nói mà không lên giọng. - Lúc nào cũng chỉ có chừng ấy chuyện thôi, với mấy thằng khốn thám tử của anh. — Nào! Janey. Thật đáng tiếc nhưng biết làm sao. Anh hứa là tối mai sẽ đưa em đi. Janey nghiêng mình về phía trước và vung tay gạt văng mớ đồ đạc, ảnh lồng khung, cả cái đồng hồ trên mặt lò sưởi. Conrad nhào vào phòng. — Janey! Đủ rồi! — Anh đi đi! - Janey vẫn một giọng trầm lặng. (Cô nhìn hình Conrad trong gương, mắt sáng lên vẻ thù ghét). - Anh cứ chơi cái trò bắt cướp đi. Không cần phải lo đến tôi nhưng đừng hy vọng thấy tôi lúc trở về. Từ nay về sau, tôi sẽ đi chơi một mình. — Này Janey, June Arnot vừa bị ám sát đấy. Anh phải đến đó ngay. Em nghe đấy, mai anh sẽ dẫn em đi đến nhà hàng Quốc Tế. Chịu không? — Chừng nào mà còn cái điện thoại chết tiệt trong phòng thì chúng ta không thể nào còn đi chung với nhau được nữa, - Janey nói giọng chua chát. - Paul, tôi cần tiền. Anh nhìn cô: — Nhưng mà, Janey... — Tôi muốn lấy tiền ngay tức khắc! Nếu anh không đưa thì tôi mang đồ đi cầm và chắc chắn không phải là thứ của tôi đâu. Conrad nhún vai. Anh lấy tờ 10 đôla đưa ra. — Được rồi, Janey. Nếu em quyết định như thế thì... Sao em không gọi điện cho Beth? Đi chơi một mình thật là ngốc. Janey cất tiền, ngước mắt nhìn anh rồi quay lưng đi. Conrad hoảng kinh khi nhận ra ánh mắt của vợ thật dửng dưng. — Anh chớ lo cho tôi. Cứ việc lo tới cái vụ giết chóc quái quỉ này đi. Một mình tôi cũng đủ rồi. Conrad định nói nhưng kịp ngừng lại. Một khi cô tỏ thái độ như thế thì khó mà nói chuyện phải trái được. Anh bình tĩnh hỏi: — Em đi đâu, tiện đường xe anh... — Ồ! Đi cho khuất mắt, - Janey chận lại và bước ra phía cửa sổ. Conrad mím chặt môi, bước ra ngoài phòng chờ, đẩy cửa lớn và đi nhanh về phía xe. Trong lúc lướt mình ngồi vào sau tay lái, anh cảm thấy một mối lo âu đến nghẹn lời. Anh không chịu chấp nhận dẫu biết rằng giữa anh và Janey đang nảy sinh rạn nứt. Hai người lấy nhau bao lâu rồi? Anh nhíu mày và ấn vào nút phát động xe. Gần ba năm thôi. Năm thứ nhất thật êm đẹp. Nhưng vào lúc đó anh chưa phải là điều tra viên chính thức của phòng Biện lý. Anh làm việc theo giờ giấc và tối nào cũng có thể đi chơi với Janey được. Khi anh được lên chức, cô đã rất hân hoan. Chỉ một sớm một chiều, lương anh tăng gấp đôi và hai vợ chồng rời căn hộ ba gian ở đường Wentworth để dọn đến căn nhà xinh xắn bungalow ở đất Hayland trong một khu sang trọng. Nhưng rồi Janey không còn hài lòng khi nhận thấy anh có thể bị gọi đi bất cứ sớm tối. Cô nói: — Anh là điều tra viên chính thức mà cứ hùng hục làm như một tên cớm hạng bét. — Nhưng anh là thám tử, thám tử đặc biệt cho biện lý cục khi xảy ra vụ việc quan trọng, lẽ tất nhiên anh phải có mặt, - Conrad kiên nhẫn giải thích với vợ như thế. Lúc đầu thì Paul không cho những lời cằn nhằn ấy là quan trọng vì mấy cú điện thoại bất ngờ làm hỏng cuộc vui buổi tối, nếu cô giận thì cũng là tự nhiên thôi. Tuy thông cảm nhưng Conrad vẫn mong cô vợ biết điều hơn. Nhưng Janey không chịu. Các vụ cằn nhằn ấy chuyển dần qua cãi vã lớn tiếng làm anh đâm ngán. Nhưng đây là lần đầu tiên Janey đòi anh đưa tiền để đi chơi tối một mình. Hơn bao giờ hết, Conrad lo ngại về tình hình mới xuất hiện này, Janey nom ngon mắt quá, đi chơi một mình không được. Conrad biết tính vợ mình dễ nhẹ dạ sinh chuyện. Có nhiều lúc vô ý, cô thốt những lời lẽ khiến anh biết trước kia cô đã từng qua những thời kỳ sống buông thả. Anh đã quyết không coi quá khứ của cô là quan trọng nhưng bây giờ khi nhớ lại những lời vợ kể vanh vách những cuộc vui, tên một vài người bạn cũ mà cô vung ra trong những lúc tức giận, anh lại thấy hơi khó chịu và cứ tự hỏi không biết cô có lại tìm thú đi hoang nữa không. Janey chỉ mới 24 tuổi, luôn luôn đòi hỏi, mà anh thì cái việc chăn gối chỉ ở mức trung bình. Với đôi mắt lá răm, mái tóc vàng óng, làn da nõn nà, chiếc mũi thon dài, Janey có thể quyến rũ bất cứ gã đàn ông nào. — Thật cứt! - Conrad thở dài lặp lại lời của vợ mà không hay biết. Và anh mở máy. *** Ba năm nay, June Arnot là một ngôi sao màn bạc lừng danh và tiếng đồn cô ta là người giàu nhất Hollywood. Cô cho xây một tòa nhà lộng lẫy trên ngọn đồi, cách thành phố Pacific vài cây số và cách Hollywood khoảng mười lăm cây số. Đây là một dinh thự sang trọng, kiêu sa mà June Arnot với tính hài hước sẵn có, đặt tên nó là “Ngõ Cụt”. Conrad dừng xe trước ngôi nhà nhỏ của người gác cổng có dây nho chằng chịt. Khách đến thăm phải ghi tên ở đây trước khi bước trên một lối đi dài cả cây số mới tới biệt thự. Bóng hình to bè của thanh tra Sam Bardin thuộc đội hình sự vụt hiện lên giữa bóng tối. Thấy Conrad, ông nói: — À, ông tá! Chẳng cần phải nôn nóng như thế. Cả đời anh chỉ có mỗi việc này mà thôi. Conrad mỉm cười: — Tôi đang định đi chơi với bà xã. Rồi đây cả tuần nhà tôi biến thành địa ngục cho mà xem. McCann có ở đây không? — Rủi quá, anh ta đi San Francisco rồi, mai mới về. Chuyện lộn xộn lắm, may mà có anh, Paul ạ. Chúng tôi cần một tay thiện nghệ mới mong giải quyết được vụ này. — Ta bắt đầu ngay đi. Anh kể xem anh biết những gì. Rồi sau đó, ta đi liếc sơ qua một chút. Bardin lấy khăn tay thấm mồ hôi trên khuôn mặt to tướng đỏ bầm và hất chiếc mũ ra sau. Ông ta to con, nặng nề, lớn hơn Conrad 11 tuổi nghĩa là khoảng 45. — Lúc 8 giờ rưỡi, chúng tôi nhận được một cú điện thoại của Harrison Hedor, ông bạn của cô Arnot. Ông có hẹn làm việc với cô ta tối nay. Khi đến nơi, ông thấy cánh cổng sắt mở ra. Lạ đấy vì thường thường là cửa khóa kỹ. Ông bước vào nhà người gác cửa, thấy hắn lạnh tanh với một viên đạn bắn vào đầu. Ông bốc điện thoại ở đấy gọi vào nhà nhưng không thấy ai trả lời. Tôi đoán là ông ta đã hoảng lên. Nhưng ông nói với chúng tôi là không dám vào sâu trong nhà và vội gọi chúng tôi. — Bây giờ ông ta ở đâu? — Đang ngồi trong xe tìm cách lại hồn bằng whisky, - Bardin toét miệng cười. - Tôi không có thì giờ hỏi kỹ ông ta nên bảo ngồi yên đó. Tôi đi xem xét. Năm người giúp việc đều bị hạ sát bằng một viên đạn. Tôi tưởng cô Arnot ở đâu đó vì có hẹn nhưng cô ta không có mặt trong nhà. - Ông rút bao thuốc mời Conrad và lấy cho mình một điếu - Tôi thấy cô nơi hồ tắm. (Ông nhăn mặt) - Có kẻ nào đấy tò mò mổ bụng cô ta coi chơi và cắt béng cái đầu không biết dùng để làm gì. Conrad gừ gừ: — Đó là hành động của một kẻ mất trí. Bây giờ thì sao? — Nhân viên đang làm việc trong nhà và nơi hồ tắm. Nếu có gì tìm được thì họ sẽ tìm ra. Anh có muốn đi một vòng ngó qua không? — Có chứ! Anh chàng y sĩ có thể cho ta biết giờ chính xác không? — Lão đang lo vụ đó. Tôi đã dặn lão chớ xê dịch cái xác chết trước khi anh đến. Chắc lão sẽ cho ta biết ngay. Bây giờ ta vào nhà người gác. Conrad theo ông ta vào một căn nhà nhỏ có cái bàn, cái ghế, cái divan đệm và bàn điện thoại. Trên bàn có quyển sổ ghi chép người đến thăm đang được mở ra. Người gác mặc đồng phục xanh ôliu, giày bốt đánh vécni, nằm gập mình trên bàn, đầu loang trong một vũng máu đỏ bầm. Hắn bị bắn đúng giữa mặt. Conrad nhìn vào quyển sổ. Bardin nhạo: — Không chắc có ghi tên sát nhân trong đó. Với lại người gác biết mặt hắn nên mới mở cổng. Conrad nhìn trang giấy còn trắng một nửa: «15 giờ. Ông Jack Belling, đường Lennox số 3 Có hẹn. Cô Rita Strange, 14 Crown Court. Có hẹn. 19 giờ. Cô Frances Coleman. 145 đường Glendale.…» — Anh nghĩ sao? - Conrad hỏi. - Cô gái Coleman này có mặt ở đây sát với giờ xảy ra vụ tàn sát. Bardin nhún vai: — Chẳng biết. Lúc nào có thì giờ chúng ta sẽ dò hỏi. Nếu cô ta dính dấp gì đến vụ này thì đã xé ngay tờ giấy cho mất tang tích rồi. — Đúng vậy, trừ phi cô ta quên. Bardin phác một cử chỉ sốt ruột. — Được rồi, ta đi. Anh còn cả đống việc phải làm. Lên xe thôi. Đến khúc quanh thứ hai thì chậm lại. Người làm vườn bị giết ở đó. Conrad lái xe trên con đường viền những cây cọ khổng lồ và những cây nhỏ nở hoa. Khoảng 300 mét, Bardin báo trước: — Ngay chỗ quanh. Họ dừng bên một chiếc xe đậu sát đường. Bác sĩ Holmès và hai người nội trú mặc áo blu trắng cùng một cặp cảnh sát viên, vẻ mặt chán nản đang tụ tập trước xe, lưng quay phía đèn pha. Conrad và Bardin tấp vào nhóm, vây quanh một ông già Tàu mặt mày nhăn nheo nằm ngửa, các ngón tay màu vàng trông như các vuốt, co quắp người vì hấp hối. Phía trước chiếc áo blu xanh nhuộm một màu đỏ. Bác sĩ lên tiếng: — Chào Conrad. Anh đến xem trò tàn sát đấy à? — Chỉ thăm sơ qua thôi, - Conrad nói. - Lão chết bao lâu rồi? — Khoảng một tiếng rưỡi, không hơn. — Nghĩa là sau 7 giờ? — Gần gần như thế. — Cùng một vũ khí như với người gác? — Có thể. Tất cả đều bị giết bởi một khẩu 45. - Ông bác sĩ nhìn Bardin - Tôi thấy như là một công trình của một tay nhà nghề, ông thanh tra ạ. Tay đó thạo việc lắm. Bắn một phát là đủ rồi. Bardin thốt ra tiếng càu nhàu: — Như thế thì chẳng biết gì nhiều. Khẩu 45 mà bắn thì không ai thoát dù người bắn là dân nhà nghề hay tay mơ. — Ta lên nhà đi, - Coniad nói. Chiếc xe chở họ tới biệt thự sau ba phút. Đèn đã bật sáng khắp các phòng. Hai người cảnh sát gác cửa vào. Conrad và Bardin bước lên các bậc thềm vào khách sảnh nhỏ rồi bước xuống vào giữa nhà đến một sân trong lát gạch hoa. Các gian phòng quây ba mặt sân. Thanh tra O'Brien người cao nhưng gầy, mắt sắc, mặt đầy tàn nhang, từ phòng khách bước ra. Ông ta gật nhẹ đầu với Conrad, Bardin hỏi: — Anh tìm được gì không? — Chỉ có đầu đạn thôi, chẳng có dấu tay nào. Hình như kẻ sát nhân xộc vào giết hết rồi ra ngay không chạm vào vật gì cả. Conrad đến chân cầu thang ngước mắt nhìn lên. Ở các bậc cấp trên cao là xác một cô xẩm Trung Hoa. Cô mặc một áo ngắn trong nhà màu vàng, quần lụa có ren, màu xanh sẫm. Một vệt đỏ gớm ghiếc giữa hai bả vai. Bardin nói: — Hình như cô ta đang chạy trốn thì bị phơ. Anh muốn lại gần xem không? Conrad lắc đầu. Bardin nói tiếp: — Tang vật số 3 ở phòng khách. Ông dẫn Conrad vào một gian phòng bề thế, có bàn ghế, trường kỷ bọc da, đủ sức chứa từ ba mươi đến bốn mươi người. Gần cánh cửa ra vườn, người quản gia của June Arnot ngồi dưới đất, gập mình, lưng dựa vào thảm lót tường. Ông ta cũng bị một phát vào đầu. Bardin hỏi: — Anh muốn xem ở nhà bếp không? Còn hai người nữa ở đấy. Một đầu bếp Trung Hoa và một Philippines. Họ định chạy ra cửa nhưng không kịp. — Thôi đủ rồi, - Conrad nói. - Nếu có gì phải tìm thì nhân viên của anh sẽ thấy. — Ý kiến thâm thúy đấy. Ok! Ta xuống hồ tắm. Ông bước ra ngoài hành lang rộng. Trăng tròn đã lên tuôn làn sáng lạnh gắt xuống biển. Khu vườn thơm ngát hương hoa, một đài phun nước bóng loáng đằng xa tạo nên khung cảnh thần tiên. — Cô ta ưa thích ánh sáng và màu sắc phải không, - Bardin vừa nói vừa tiến về phía hồ tắm. - Nhưng cũng chẳng tới đâu. Kết quả cuộc đời phải nói là thê thảm: Đầu bị cắt, bụng bị phanh. *** Phía cầu nhảy cao 12 mét có mặt bác sĩ Holmès, hai người nội trú, một thợ ảnh và bốn cảnh sát viên. Họ đang nhìn về phía giữa hồ. Nước ở đó nhuộm màu đỏ tím, còn lại là một màu xanh tuyền. Khi Conrad và Bardin bước tới chỗ lát gạch xanh vây quanh hồ tắm, Bardin nói: — Tôi nhìn thấy một lần rồi và không muốn thấy lần thứ hai nữa. Họ họp với đám người kia dưới cầu nhảy. Bardin vung tay tiếp tục chỉ: — Trông kìa! Paul nhìn tấm thân trần truồng, bị cắt đầu, nổi bập bềnh. Bụng anh như thắt lại trước cảnh man rợ ấy. Anh quay mặt đi, hỏi: — Cái đầu ở đâu? — Tôi để nguyên chỗ đã tìm thấy. Trên bàn phòng mắc áo mũ. Anh muốn nhìn qua không? — Thôi cảm ơn. Có chắc là June Arnot không? — Chắc. Conrad quay sang bác sĩ Holmès. — Được rồi, ông thầy, tôi thấy đủ rồi. Ông bắt đầu công việc được đấy. Ông gửi bản sao báo cáo cho tôi chứ? Bác sĩ Holmès gật đầu. Bardin nói: — Này các bạn, móc cô ta lên. Chú ý nhẹ tay một chút. Ba người cảnh sát ngán ngẩm bước tới. Một người giơ cây sào tìm cách móc cái xác nổi. Conrad nói: — Trong lúc chờ đợi, ta đi nói chuyện với Fedor. Anh cho người gọi ông ta tới đây. Mọi người đi về phía ngôi nhà cùng với Conrad. Bardin hỏi: — Này, anh nghĩ thế nào? — Có vẻ như tay đó là khách quen nhà này. Đầu tiên là do người gác để hắn vào. Sau nữa hắn hạ sát tất cả gia nhân vì sợ bị nhận diện. — Trừ phi đó là một tên điên nổi cơn. — Nếu thế thì người gác không cho hắn vào. — Cũng có thể thế, tùy theo kẻ kia nói với người gác gì đó. Khi họ vào nhà, hai người cảnh sát vừa bước qua ngưỡng cửa, khiêng một cái cáng có phủ chăn lên xác người. Một anh cớm nói: — Hết rồi, sếp. Dọn sạch trơn. Bardin gừ gừ bước lên bậc cấp rồi xuống sân. — Theo anh thì Fedor không can gì vào đấy phải không? - Conrad ngồi xuống ghế hỏi. — Hắn không thuộc típ người làm nổi việc này. Cho dù đúng là hắn thì cũng phải có một cớ thật lạ. Vì cô ta là khách hàng duy nhất đã đem lại cho hắn một gia tài kha khá. — Một phụ nữ như cô ta tất phải có cả đống kẻ thù, - Conrad duỗi dài chân ra nói. - Kẻ nào làm cái cú này chắc phải nóng mũi lắm. — Hình như cô ta có liên hệ với khá nhiều kẻ không tốt, - Bardin đưa ra nhận xét. - Theo người ta nói, cô ta dính dấp với đủ thứ chuyện bê bối. Anh có nghe người ta đồn đại cô ta là bạn gái của Jack Maurer không? Conrad sững người chú ý. — Không, bạn gái là thế nào? Bardin mỉm cười: — Tôi nghĩ là anh nghe thì chú ý ngay. Tôi không có bằng cớ nhưng tiếng đồn thì nhiều. Cô ta không khoe nhưng người ta nói hai người là nhân tình nhân bánh của nhau. — Tôi muốn biết rõ chuyện này. Loại hành động như thế này đúng là gu của Maurer rồi. Hắn đủ sức tàn ác để xuống tay. Anh còn nhớ cú tàn sát hai năm trước đây không? Bảy người sắp hàng sát chân tường và thế là liên thanh bắn tằng tằng. — Chuyện đó không có gì chắc là của Maurer, - Bardin thận trọng nói. — Thế còn ai nữa? Bọn đó lấn quyền ông trùm, vậy là ông trùm xơi tái là có lý thôi. — Ông cảnh sát trưởng không tin. Ông ta nghĩ rằng đó là băng Jacobi đem trút tội cho Maurer. — Ông ta biết tôi nghĩ gì về cái luận cứ tồi tệ ấy rồi. Đúng là của Maurer và vụ này thì cũng có thể là của lão nữa... — Anh gầm gừ Maurer dữ quá, - Bardin nhún vai nói. - Chắc anh khoái thấy lão chui vô hộp lắm. — Không phải bị còng số 8 mà thôi đâu, - Conrad nói với vẻ hung dữ bất chợt. - Tôi muốn thấy lão lên ghế điện kia! Thằng chó chết ấy sống lâu quá rồi! Một cảnh sát viên bước vào sân. — Fedor đến rồi, sếp. Conrad và Bardin cùng đứng lên. Harrison Fedor, ông bầu của June Arnot đi tưng tưng bước vào sân. Đó là một con người mảnh dẻ, có cái nhìn sắc và trầm lặng, miệng như cái bẫy chuột chù và má hõm. Ông ta chộp lấy bàn tay Conrad lắc mạnh. — Ngọn gió lành nào đưa ông đến đấy? June có mạnh khỏe không? — Ngược lại thế kia, - Conrad bình thản trả lời - Cô ta bị giết rồi, cả đám gia nhân. — Trời! - Fedor nuốt nước miếng, mặt xịu xuống rồi gượng đến ngồi nơi chiếc ghế mây và nói tiếp. - Ông bảo cô ta chết rồi à? — Còn hơn là chết nữa! — Lạy Chúa! - Fedor giở nón ra và luồn các ngón tay vào mớ tóc lưa thưa. - Chết à? Khó tin quá! Ông ta nhìn sững Bardin rồi nhìn Paul. Cả hai không nhúc nhích, chờ đợi. — Lại bị giết! Yên lặng một chút, Fedor nói tiếp: — Chuyện chi lạ! Không biết tôi nên khóc hay nên cười đây? — Thế nghĩa là gì? - Bardin lầu bầu, mặt mày bất mãn. Fedor nhếch mép cười. — Ông không hiểu vì ông không làm việc với cô ta trong 5 năm như tôi. - Ông ta đứng lên, lấy ngón tay chỉ vào Bardin. - Tôi mà khóc được thì cứ treo cổ tôi lên. Có thể là tôi mất nồi cơm nhưng đỡ được gánh nặng. Con điếm ấy làm tôi đến mụ người. Có tôi thì không có nó, nó làm tôi nhức nhối vô cùng. Các ông không thể biết tôi phải chịu đựng như thế nào với con đĩ ấy. — Có ai đấy đã cắt đầu cô ta, - Conrad thong thả nói. - Rồi như chưa hả giận, hắn lại còn mổ bụng moi phèo ruột ra. Ông có biết ai có thể làm như thế không? — Cắt đầu! Trời ơi! Để làm gì vậy? — Cũng với lý do như mổ bụng: Kẻ đó thù hận cô ta. Ông có biết ai tức giận đến mức tàn ác như thế không? Fedor vụt ngoảnh mặt đi. — Không, tôi không biết. Trời! Báo chí biết chưa? — Không, họ chưa biết chừng nào mà tôi chưa tìm được gì chắc chắn để tiến hành công việc, - Bardin càu nhàu nói. - Này, nếu ông có biết ai có lý do làm như thế thì nên khai ra với chúng tôi. Hồ sơ sếp gọn nhanh chừng nào thì tốt chừng ấy cho mọi người, kể cả ông đấy. Fedor lưỡng lự rồi nhún vai: — Ông nói có lý. Ralph Jordan là thằng bồ hiện nay của cô ta. Tuy nhiên gần đây họ lại gấu ó nhau dữ dội. Cuộn phim hắn quay với June là cuốn cuối cùng. Hãng điện ảnh Thái Bình Dương phải xé hợp đồng với hắn. Họ chịu không nổi hắn nữa. — Tại sao vậy? - Conrad đốt thuốc hỏi. — Hắn phi cần sa sáu tháng nay rồi. Một khi hắn phê thì không gì ngăn hắn quậy. — Sao thế? — Hắn nổi điên - Fedor rút khăn tay thấm mồ hôi mặt. - Khoảng hơn tuần nay, hắn nổi lửa đốt sạch một phim trường. Và tuần qua, khi Laird tổ chức dạ hội nơi hồ tắm của ông ta, hắn làm trò nho nhỏ khiến Laird phải mất sạch tiền để dập tắt chuyện này. Jordan kiếm đâu ra được một chai axít đem rẩy vào áo tắm của các cô, thế là cả hơn ba mươi minh tinh nổi danh cứ tô hô như nhộng. Ban đầu chúng tôi còn khoái cười chí tử và được dịp rửa mắt nhưng sau thấy rằng cái chất lơ mơ đó không chỉ làm cháy áo tắm mà còn làm phỏng da nữa. Năm cô nàng phải vào bệnh viện, tình trạng thật thê thảm. Sáng hôm sau Laird xé hợp đồng với hắn. Conrad và Bardin nhìn nhau. Bardin gợi ý: — Tôi nghĩ là ta phải gặp ông bạn thích đùa dai ấy mới được. — Nhưng xin ông đừng nói tôi khai ra, - Fedor nằn nì. - Tôi đã khốn khổ về mấy chuyện ấy lắm rồi. — Ngoài Jordan, ông còn thấy ai có thể làm vụ này không? - Conrad hỏi. Fedor lắc đầu. — Không, phần lớn bạn hữu của June chẳng tốt đẹp gì nhưng chơi cái mảng này thì còn rét lắm. — Có phải là cô ta và Jack Maurer ngủ với nhau không? Fedor vội cúi mặt nhìn hai bàn tay. — Tôi không biết chuyện này. Conrad nhìn Bardin. — Thật kỳ diệu phải không? Hễ nghe đến tên Maurer là ai cũng nín khe. Hình như thằng cha đó không có trên cõi đời này. — Xin ông chớ phiền, - Fedor vụt chen vào. - Nếu biết chuyện gì thì tôi nói ngay, về Maurer thì tôi chỉ đọc trên báo chí thôi. — Cứ ca cái điệu ấy mãi, - Conrad chán nản nói. - Lúc nào gặp may, không biết chừng tôi sẽ tìm được một tay gồng mình không sợ Maurer lắm và biết được một chút gì đó. Nhưng có cái chán là chẳng biết khi nào. — Chớ nóng. Ông ta nói không biết thì hẳn là không biết thôi. - Bardin nói. Thanh tra O’Brien bước xuống sân. — Sếp, tôi có chuyện muốn nói. Bardin nắm tay ông ta đi vào phòng khách. Paul nói với Fedor: — Ông cứ ở đấy đi, - rồi anh theo hai người kia. — O’Brien tìm được súng lục rồi, - Bardin nói, nét mặt u ám của ông lúc này có dáng hân hoan. Ông giơ lên một khẩu súng 45 tự động. - Xem này! Conrad quan sát khẩu súng. Trên báng có khắc hai chữ viết tắt R.J, anh hỏi O’Brien: — Anh tìm ra ở đâu vậy? — Giữa bụi cây, cách cổng sắt khoảng 30 mét. Cá với anh trăm bạc là đúng rồi. Hết đạn, mới tác xạ không lâu và là một khẩu 45. — Tốt hơn là nên đi kiểm chứng, Sam ạ. Bardin gật đầu đưa khẩu súng cho O’Brien. — Mang về sở và đối chiếu với các đầu đạn anh vừa tìm được. - Rồi ông quay sang Conrad. - Chuyện trẻ con phải không? Có vẻ dễ dàng quá mà. Jordan chắc phải có chuyện nói với cánh ta. Đi chứ? *** Theo Fedor thì Ralph Jordan có một căn hộ trong chung cư ở đường Roosevelt. Hắn ta ở đấy không lâu sau khi June Arnot tống hắn ra khỏi biệt thự ở Hollywood và dù hắn còn giữ ngôi nhà sang trọng ở Beverley Hills nhưng hiếm khi hắn sống ở đó. Conrad ghé xe đậu vào một góc tối. Anh chú ý đến một chiếc Cadillac đen chui nửa thân trong nhà để xe. — Lái xe bạt mạng thật! Anh bước tới có Bardin theo sau. Cánh trái của chiếc Cadillac đâm vào vách làm vỡ miếng đèn pha nát vụn. Bardin mở cửa xe nhìn vào tấm thẻ đồng. — Đúng rồi. Xe của Jordan. Hắn sắp chết một cửa tứ rồi. — Ít ra là ta cũng biết chắc hắn đang có ở nhà, - Conrad nói. Rồi anh bước vào cửa, đẩy cánh cửa xoay, theo sát là Bardin. Một nhân viên to mập, hồng hào trắng trẻo, đôi tay nhỏ, trắng đặt trên chiếc bàn tiếp khách, ngước mắt kênh kiệu nhìn. — Ông cần gì? Bardin chồm tới trước, nhíu mày, nói oang oang. Khi muốn gây khó dễ thì ông cũng đủ sức để trả đũa. Tiếng ông rít lên: — Thanh tra Bardin. Cảnh sát thành phố. Jordan có ở đấy không? Hai bàn tay nhỏ nhúc nhích. — Chắc ông muốn hỏi về Ralph Jordan? Vâng, ông ta có ở đấy. Các ông muốn gặp? — Hắn về nhà lúc nào? — Sau 8 giờ một chút. — Lúc đó hắn có bình thường không? — Tôi không lưu ý. — Hắn ra đi khi nào? — Khoảng sau 6 giờ. — Hắn ở trên lầu chót phải không? — Thưa phải. — Được rồi. Chúng tôi lên đó. Anh muốn giữ sức khỏe thì chớ mó vào điện thoại. Tôi đến thăm bất ngờ đấy. Trên đó có ai ở cùng với hắn không? — Tôi không biết. Bardin đi thẳng đến thang máy bước vào. — Như vậy là hắn ra đi lúc 6 giờ, trở về 8 giờ, thừa đủ thì giờ để đến “Ngõ Cụt” làm điều cần làm. — Nên coi chừng hắn, - Conrad nói khi cửa thang máy khép kín. - Nếu nó cần hận thù thì nguy hiểm đấy. — Hắn không phải là tên điên đầu tiên tôi va chạm và chắc cũng không phải là tên cuối cùng. Khốn thật! Bardin ngừng lại trước cửa căn hộ. — Kìa! Cửa mở. Ông bấm chuông, đợi một lát rồi lấy chân đá cánh cửa mở toang, liếc mắt nhìn vào phòng chờ. Trước mặt là một cánh cửa khép hờ. Bardin đẩy ra, bên trong là một phòng khách lớn, đèn sáng choang. Ông rống lên làm rung cửa kính. — Ê! Có ai ở trong nhà không? Sự im lặng trả lời thật nặng nề và ngột ngạt, lạnh tanh. Hai người nhìn nhau. Bardin nói: — Ồ, anh có nghĩ là hắn nấp ở đâu đó không? — Có thể hắn ra phố rồi. — Lão dưới kia không nói mà! — Ta ghé mắt vào một tí đi. Conrad bước vào một gian phòng, gõ cánh cửa phía trái. Anh xoay tay nắm thấy một gian phòng lớn. Cũng không có ai. Họ mở cửa phòng tắm. Chưa bao giờ họ trông thấy một cảnh bài trí sang trọng đến thế nhưng họ chỉ chú ý ngay đến cái bồn tắm. Ralph Jordan nằm dài ra đó, đầu gập xuống ngực, mình mặc chiếc áo choàng màu cặn rượu vang, khoác ngoài bộ đồ ngủ xanh nhạt. Trên bờ bồn tắm và phần trước áo hắn có loang màu đỏ. Hắn nắm trong tay một lưỡi dao cạo có cán, máu loang như vệt mực trên tranh vẽ. Bardin sờ tay Jordan. — Lạnh như một khúc thịt bò bỏ tủ đá. Ông nắm tóc Jordan lôi đầu hắn lên. Gonrad nhăn mặt khi nhìn thấy vết thương mở toác ra, sâu đến tận một động mạch bị cắt tiện đứt đôi. Bardin lùi lại. — Đấy, thật đúng như tôi nói: Một vụ việc quá đơn giản. Hắn đến đằng kia giết cô gái rồi trở về nhà tự cắt cổ. Hắn có ý tứ lắm. Càng dễ cho tôi làm việc. - Ông hút thuốc phà khói vào mặt người chết. — Tôi nghĩ là bác sĩ có việc làm suốt đêm đấy. Conrad loanh quanh trong phòng tắm, anh tìm thấy một con dao cạo điện. — Lạ là sao hắn lại có dao cạo tay. Đời bây giờ phải chạy quanh mới lùng kiếm được thứ này và tôi không nghĩ là Jordan lại có nó trong nhà. — Anh chớ làm rối lên. Có lẽ hắn dùng để cắt chai chân, lưỡi dao đa dụng mà. Ông đẩy một cánh cửa và thấy một tủ áo thật đầy đủ sang trọng. Conrad đang bước qua phòng bỗng ngừng lại. — Sam, cho anh xem cái này chắc anh phởn lắm - Anh chỉ một vật dính máu nằm trên đất. Bardin bước lại gần. — Trời đất! Con dao phạng. - Ông quì xuống gần con dao lưỡi nhọn. - Cam đoan đấy là vũ khí giết người. Đủ để cắt cổ ai đó và mổ bụng như anh kéo fermeture vậy. — Bộ anh không thấy làm lạ là một gã như Jordan lại có một con dao rừng Nam Mỹ như vậy sao? Bardin ngồi chồm hổm. — Có lẽ hắn mang về làm kỷ niệm. Cam đoan là hắn có đi Nam Mỹ hay Antilles, chắc là Antilles thôi. Nhất định đúng là tang vật và dám đưa đầu cá với anh là máu dính ở đấy đúng là máu của June Arnot. Conrad lật qua lại áo quần vắt trên ghế. — Quần áo không có vết máu. Tại sao cắt đầu người khác lại không dính máu. — Ui, được rồi, - Bardin nóng nảy kêu lên. - Anh đâu có cần vặn vẹo từng li từng tí như thế. Có thể hắn mang áo khoác hay một thứ gì tương tự như vậy. Đâu có gì là quan trọng. Đối với tôi như thế là đủ rồi. Anh không chịu sao? — Tôi không biết, - Conrad nhíu mày. - Mọi sự gọn ghẽ quá nên tôi ngờ là một cuộc xếp đặt. Khẩu súng lục có chữ đầu tên Jordan, cái xe bị bẹp dúm, Jordan tự vẫn và bây giờ là vũ khí giết người được tìm thấy. Đẹp quá nên khó tin là thực. Theo tôi thì có chuyện gì đó xộc xệch trong này. — Chuyện không ăn khớp là vì anh tận tâm quá, - Bardin nhún vai trả lời. - Thôi hết chuyện rồi. Tôi tin thì Cảnh sát trưởng cũng tin. Anh cũng sẽ đồng ý như thế nếu trong đầu không bị ám ảnh bởi ý muốn đưa Maurer lên ghế điện. Phải không? Conrad trầm ngâm gãi gãi cánh mũi. — Có lẽ thế. Ok! Chắc là tôi xong việc rồi. Anh muốn tôi đưa anh về Sở không? — Tôi ở đây để gọi họ tới. Tôi muốn nhân viên lục lọi hết trong nhà này. Ngay sau khi cắt đặt xong công việc, tôi sẽ trở về “Ngõ Cụt” rồi thông báo cho báo chí. Anh về nhà à? Conrad gật đầu. — Hên thật! Không làm việc đêm, một căn nhà ấm cúng, nàng tiên bên cạnh. Sao, bà Conrad mạnh khỏe chứ? — Ồ, chắc là mạnh thôi, - Conrad trả lời mà buồn bã nhận ra rằng mình không thấy có hứng khởi. *** Conrad len qua các đường nhỏ để tránh các rạp cinema vừa vãn xuất hát. Anh lo lắng không biết Janey có thực hiện lời dọa đi chơi một mình và đã về chưa. Anh tấp xe để đốt thuốc. Khi ném que diêm qua cửa kính, anh đọc thấy tên bảng đường: Thông lộ Glendale. Mãi tới khi đến đầu đường, anh mới nhớ là cô gái có tên Frances Coleman đến thăm June Arnot lúc 7 giờ tối đã ghi địa chỉ số 145 Thông lộ Glendale. Anh vụt ghé sát lề và ngồi một lúc nhìn qua kính che gió con đường vắng và buồn. Bác sĩ Holmès đã nói June Arnot chết khoảng 7 giờ. Cô gái này có thể thấy được gì không? Anh bước xuống xe tiến đến số 145. Đây là một chung cư tồi tàn. Có vài cửa sổ còn sáng ánh đèn. Qua cánh cửa kính lối ra vào, Conrad nhìn thấy một tiền sảnh đèn mờ và một cầu thang tối thui. Đủ thứ mùi vị xông lên: Mùi tỏi phi, nước đái mèo và rác rưởi phân hủy. Anh hất ngược mũ, nhíu mày bước vào đến trước dãy hộp thư đặt sát tường. Hộp thư của cô Coleman sếp hàng thứ ba, cô ở lầu 3. Conrad lội bộ lên thang gác. Một tấm thiếp trắng ghi tên cô ghim vào cửa. Conrad định gõ cửa nhưng nhận thấy cửa mở hé. Anh gõ cửa, đợi một lúc rồi lùi lại, thủ thế. Tối hôm nay anh đã trông thấy sáu xác chết thê thảm, ghê gớm rồi. Gáy anh lạnh ngắt. Anh đốt thuốc nhưng nhận thấy tay mình không run. Anh mỉm cười, nghiêng mình tới, đẩy cửa nhìn vào bóng tối. — Có ai đấy không? Không có tiếng trả lời. Một sự yên lặng chập chờn cùng với một mùi hoa thuốc phiện California. Conrad bước tới mò mẫm tìm công tắc. Anh nín thở bật đèn và cứ tưởng nhìn thấy điều tồi tệ: nhưng thật ra không có xác chết, không có máu, không có thứ vũ khí giết người nào hết... đấy chỉ là một căn phòng nhỏ với chiếc giường sắt, tủ commos, vài cái ghế và chiếc tủ lớn. Trông thật sơ sài như chiếc giường đóng đinh của ông fakir Ấn Độ. Conrad đứng yên một lát rồi mở cửa tủ: không có gì hết. Anh gãi gáy rồi bước ra. Trên tường nơi tiền sảnh có bảng: Gác dan ở tầng hầm. “Nào có mất mát gì!” Anh nghĩ. Anh bước xuống một thang gác dơ bẩn tối om. — Có ai không? Cửa mở và ánh đèn làm anh chói mắt. Một giọng nói êm dịu, mơn trớn phát ra: — Không có phòng cho thuê đâu. Conrad nhìn vào. Một người to béo mặc áo ngắn, ngồi sau bàn. — Anh có một căn hộ trống trên lầu 3 phải không. Cô Coleman vừa dọn đi à? — Ai nói với ông thế? — Tôi vừa mới lên trên ấy. Phòng trống trơn. — Ông là ai? Conrad lên giọng: — Cảnh sát! Ông to béo nhăn mặt. — Cô ta đi vào lúc nào? - Conrad nghiêm giọng hỏi. — Tôi không biết cô ta đã dọn đi. Buổi sáng vẫn còn. Thế là may, tôi đỡ phải trục xuất cô ta vào sáng mai này. — Tại sao? — Thì cũng bấy nhiêu chuyện đó. Chưa trả tiền thuê ba tuần. — Anh biết gì về cô ta? Cô ta ở đấy từ bao giờ? — Độ một tháng nay. Hình như là một diễn viên phụ cinema. Cô ta không tìm được việc ở Hollywood. Cô thật ngoan. Tôi mà có con gái thì mong nó được như cô ta. Ăn nói mềm mỏng, người xinh, tính tình trầm lặng, thật là có giáo dục. - Ông nhún vai. - Nhưng lại không có tiền. Mấy con người khá thì lại không kiếm ra tiền. Tôi đã khuyên về quê đi nhưng cô ta không nghe. Cô ta nói rằng sáng nay trả tiền cho tôi. Chắc lại không kiếm ra chứ gì. — Chắc vậy, - Conrad nói. Anh bỗng cảm thấy mỏi mệt vô cùng. Một cô phụ diễn đang thất nghiệp lại đến thăm June Arnot thì có mục đích nào khác hơn là hỏi vay tiền. Loại cô ta chắc không qua được nhà người gác. Khó tin rằng June Arnot chịu tiếp cô ta. Anh nhìn đồng hồ, đã quá nửa đêm. — Cảm ơn. Tôi chỉ cần biết bấy nhiêu thôi. Ông to béo hỏi: — Sao? Cô ta không gặp lôi thôi gì phải không? — Không đâu. Conrad quay trở ra. Bardin đã nói rằng chính Jordan làm cú đó. Sáng mai ông sẽ nói chuyện với ông Biện lý. Giá như anh biết rõ June và Maurer có cặp bồ với nhau nhỉ! Nếu họ đã ngủ với nhau thì có nhiều khả năng Maurer đã tổ chức cuộc tàn sát, mà cũng có thể chính Maurer ra tay. “Ui, kệ mẹ Maurer!”, Conrad nghĩ trên đường vào cổng nhà. “Mình không quên hắn được lấy 5 phút. Thật cực hơn là cảnh một gã si tình trồng cây si trước nhà người yêu”. Anh mở khóa bước vào phòng chờ tối thui. Khung cảnh vắng lặng. Anh mở cửa phòng ngủ và bật đèn: Chiếc giường đôi nằm trơ vơ. Janey quả đã đi hoang chưa về.   Mời các bạn đón đọc Cái Chết Từ Trên Trời của tác giả James H. Chase.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ba Bộ Mặt Của I-A-Nút
Xta-nhi-xlap Ga-ga-rin BA BỘ MẶT CỦA I-A-NÚT Truyện tình báo Liên Xô Người dịch: Nguyễn Thụy Láng NHÀ XUẤT BẢN THUẬN HÓA HUẾ - 1987 Số trang: 240 Dịch từ nguyên bản tiếng Nga BA BỘ MẶT CỦA I-A-NÚT Báo Tiểu thuyết - Tháng 6-1984 àu ngầm «Van-ki-ri-a» mất tích Vào tháng sáu năm 1944, chiếc tàu ngầm của hải quân Đức mang tên Van-ki-ri-a bị mất tích. Khi thời hạn thẩm tra kết thúc, thì ở căn cứ hải quân, nơi chiếc tàu ngầm Van-ki-ri-a có trong danh sách, các tàu khác đã treo cờ rủ và các sĩ quan đều mang băng tang. Ban tham mưu xếp nó vào danh sách các tàu ngầm và thủy thủ bị mất tích, còn người thân của các thủy thủ thì được biết là họ đã hy sinh anh dũng trong một trận chiến đấu với kẻ thù của nước Đức vĩ đại. Ít người được biết số mệnh thật sự của chiếc tàu ngầm này. Hành trình các chuyến đi kéo dài của nó người ta lại càng biết ít hơn. *** Một người dáng vóc vạm vỡ, bắp thịt nở nang, da rám nắng, từ biển bước lên bãi tắm óng ánh cát vàng, gạt những giọt nước đọng trên mình rồi thủng thẳng đi dọc theo mép nước. Giờ này trên bãi tắm Ca-pa-ca-ban ở Ri-ôđơ Gia-nê-rô chỉ có ít người. Từ Đại Tây Dương, từng luồng gió mát thổi vào sâu trong lục địa xô bạt luồng khí nóng oi bức đang bốc lên từ những con đường rải nhựa của thành phố. Hắn ta đứng lại, lấy chân hất chiếc vỏ ốc nửa chìm nửa nổi trong cát. - Chào Ghéc-man! Người đàn ông đứng tuổi có bộ râu hung hung kiểu thủy thủ với thân hình rắn chắc cất tiếng chào. Y đang nằm ngửa cách Ghéc-man chừng dăm bước và bây giờ lật sấp, chống khuỷu tay nhỏm dậy, đưa tay che mắt cho khỏi bị chói nắng. - Chào bác sĩ Dên-khốp! Ghéc-man đáp lại rồi ngồi xuống cát bên cạnh y. - Anh đến muộn 15 phút đấy. - Có một chuyện hoàn toàn tình cờ, thưa bác sĩ. Ghéc-man nói. - Khỏi cần chi tiết. Ta hãy nói vào việc đi. Mong sao anh tránh khỏi được mọi chuyện tình cờ, chàng trai ạ. - Thuyền đã đến vào đêm qua. Đội thủy thủ đã được bố trí ngay tức khắc, và bây giờ chắc là đang vung tiền vào tiệc rượu chè. Trên thuyền chỉ còn lại thuyền trưởng và một gã Mê-hi-cô tên là Pê-rết. - Thế gã Pê-rết này làm việc ra sao? - Một chàng trai đáng tin cẩn. Có thể trông cậy vào anh ta. - Bọn họ chỉ có hai người thì không thể đưa thuyền ra khỏi cảng được! - Vâng, tất nhiên, nhưng tôi đã chuẩn bị thêm hai người nữa. Ghéc-man trả lời. - Hãy thận trọng đấy ! Đừng quên rằng chính phủ nước này, về hình thức, đang theo con đường trung lập. - Tôi hiểu ngài. Thưa bác sĩ. Cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra ở đâu ạ? - Ở vuông 27-15. Các anh cần phải có mặt ở đấy từ 23 giờ đến nửa đêm. Tín hiệu - pháo lửa đỏ để mọi góc độ nhìn thấy rõ và ở phía dưới là những đốm sáng xanh. Anh sẽ bắn pháo hiệu. Họ sẽ tự tìm đến chỗ anh. Mật khẩu của họ «Chào buổi sáng». Anh sẽ trả lời: «Địa bàn bị hỏng, bây giờ đêm nào cũng lạnh». - Tất cả đã rõ. Ngay đêm nay ạ? Ghéc-man hỏi. - Chính đêm nay. Hàng chở trên tàu là bao nhiêu? - Một trăm sáu mươi tấn - Ghéc-man trả lời. - Một trăm tấn ở dạng thỏi, còn lại là tiền đúc. Bác sĩ Dên-khốp cau mày. - Phải đúc lại tất cả. Với những số tiền đúc ấy thì nguy hiểm hơn đấy. Ghéc man nhún vai. - Đấy không phải là điều quan tâm của chúng ta, thưa bác sĩ. - Ghéc-man đáp... - Phải. - Dên-khốp xác nhận. - Thôi, đi đi, Ghéc-man! Trước tiên hãy xuống nước, sau đó lên bờ, ở đâu thì tùy ý. Ban ngày hãy nghỉ ngơi đi. Đêm nay anh phải đứng trước một công việc khó khăn nặng nề đấy. Hãy nhớ nhé: Ô vuông 27-15. *** Con cá Ma-rơ-lin to lớn lao nhanh vào tấn công. Đàn cá chuồn vọt lên, bay trên mặt nước, giương những cặp vây dài lướt sẹt trong màn đêm dày dặc để thoát nạn... Một lúc sau chúng lại hạ xuống nước. Chỉ còn một con vì bay cao hơn cả đàn nên không trở về với biển được. Bị mắc vào kính tiềm vọng, nó rơi xuống dưới chân những người đang đứng trên cầu tàu, chút nữa làm rơi chiếc mũ lưỡi trai của viên chỉ huy tàu. - Đồ dơ dáy! - Viên chỉ huy rủa rồi lấy chân hất con cá chuồn vào một góc. - Nửa giờ nữa là đến hẹn! - Tê-ô-đo Phôn Bết-man nhận định. - Anh tin rằng chúng ta đang ở đúng địa điểm đã định chứ? - Viên chỉ huy hỏi. - Hoàn toàn tin chắc. - Tốt. Chúng ta chờ đợi vậy. Chiếc tàu ngầm Van-ki-ri-a đã tắt đèn, đậu đúng ô vuông 27-15 trong tư thế chiến đấu: thân tàu dài và hẹp ẩn chìm dưới nước, chỉ có buồng chỉ huy, như một mỏm đá ngầm, nổi mập mờ trên mặt nước khó mà đoán nổi trong đêm tối. Địa điểm chúng ta đậu đúng trên chí tuyến Ma-kết. Viên thuyền phó thứ nhất phá tan sự im lặng. Trong khi đó chiếc thuyền «Ô-ri-nô-cô» đang tiến đến địa điểm hẹn. Vài giờ trước, dưới sự chỉ huy của Han-xơ Đrê-vít, một người Đức sinh ra ở Ác-hen-ti-na, con thuyền rời cảng Ri-ô đơ Gia-nê-rô ra khơi. Các nhà chức trách trên cảng theo thông báo của viên thuyền trưởng đã nhận xét trong các giấy tờ: cảng đến là Xan-tô Ca-ra-vê-lốc; hàng chuyên chở là máy khâu, đoàn thủy thủ gồm năm người. Đứng bên cạnh viên thuyền trưởng trên mạn tàu là người giúp việc có vẻ mặt rầu rĩ, đó là Pê-rết, mà trước đây theo lời đồn là một tên cướp sừng sỏ, gốc Mê-hi-cô. Ở đây còn có cả Ghéc-man và hai thủy thủ bỏ trốn từ chiếc tàu thủy Ác-hen-ti-na vì bị cám dỗ bởi viễn cảnh sẽ kiếm thêm chút đỉnh trong chuyến đi này. Tên chúng là Jô và Lu-ít. Trên thuyền gắn một máy nổ công suất lớn. Giờ đây, thuyền Ô-ri-nô-cô đang đi vào ô quy định, viên thuyền trưởng và Ghéc-man nhìn về phía trước. Pê-rết đứng bên tay trái, các thủy thủ đang chơi xúc xắc trong buồng của họ. - Có lẽ ta đã đến địa điểm - Viên thuyền trưởng nói và cho thuyền chạy chậm lại. - Dừng máy và chuẩn bị lửa hiệu. Mười lăm phút nữa chúng ta sẽ bắt đầu. Trên bầu trời, một phát pháo hiệu đỏ bùng lên như một ngôi sao và phía dưới nó nhấp nháy một đốm lửa xanh. *** - Lẽ ra đã đến lúc họ phải xuất hiện. Viên chỉ huy tàu ngầm Van-ki-ri-a vừa càu nhàu vừa đưa chiếc đồng hồ dạ quang lên tận mắt. - Mới quá có 10 phút. Phôn Bết-man trả lời - có thể họ đến muộn. - Thế anh tin chắc rằng chúng ta đang ở đúng vị trí ta phải có mặt chứ? - Viên chỉ huy hỏi lại. Tê-ô-đo Bết-man nói với vẻ bực mình: - Tôi đã đích thân kiểm tra lại những tính toán của hoa tiêu. Chính ông cũng có thể thấy rõ được điều đó. - Tôi đã thấy các đốm lửa rồi! - Tên nhận tín hiệu kêu lên. - Không thể nói khẽ hơn được à! - Viên chỉ huy càu nhàu - các anh không phải đang đi dạo chơi ở ngoại ô đâu nhé. Đứng bên bánh lái đi. Việc chuyển các hòm nặng từ thuyền lên tàu ngầm kéo dài đến tận lúc rạng đông. Tham gia vận chuyển có đoàn thủy thủ của cả hai chiếc tàu và thuyền. Pê-rết đã hai lần xuống tàu ngầm và trở về với một chai rượu vốt-ca chính phẩm trên tay. Trong một lần đi như vậy, chớp lấy thời cơ khi trong khoang không có ai. Pê-rết đã nhanh như cắt rút từ trong áo khoác ra một hộp kim loại dẹt to như hộp thuốc lá, cúi xuống nhét dưới một ống chạy dọc theo boong tàu Van-ki-ri-a. Đến sáng, tất cả các máy khâu đã nằm gọn trong chiếc bụng thép của tàu Van-ki-ri-a. Ghéc-man lên cầu tàu nói thầm vào tai viên chỉ huy khoảng 5 phút, sau đó trở về thuyền Ô-ri-nô-cô. Các thủy thủ tàu Va-ki-ri-a tháo dây buộc, và cả tàu lẫn thuyền đều tiến theo các hướng khác nhau. - Chúng ta đi lên phía bắc chứ, thuyền trưởng? - Ghéc-man nói - đến Rê-xi-phi, Pê-rết hãy đứng lên bánh lái đi. Ta muốn ứng tiền trước cho mấy anh bạn này. Ê! Jô, Lu-ít! Các thủy thủ đang ngồi trong khoang thuyền, buông thõng những cánh tay rã rời vì khuân vác từ đêm đến giờ, nặng nề đứng dậy đi về phía Ghéc-man đang đứng bên cửa buồng điều khiển. - Các chàng trai ơi, các anh giỏi lắm - Ghéc-man nói - các bạn nghĩ sao về một hớp rượu ngon và mấy đồng tạm ứng? Jô, một lên lai lực lưỡng, cười sung sướng và nhảy cẫng lên ở trên boong. - Tốt quá, thưa ông chủ, tốt quá! - Hắn nói. Lu-ít, một tên Ấn Độ bán thuần chủng có thân hình dài ngoằng và gầy gò, mỉm cười rụt rè. - Các bạn, hãy cầm lấy rượu và tiền đây này! Và có thể nghỉ ngơi được! - Ghéc-man nói. Các thủy thủ xoay lưng lại, sánh vai nhau đi về buồng thủy thủ ở phía mui thuyền. Ghéc-man nhìn viên thuyền trưởng đang đứng bên chiếc cửa sổ mở của buồng điều khiển, hắn đưa mắt về phía tấm lưng to bè của Lu-ít và dùng tay trái lấy khẩu súng máy trong chiếc tủ con ra. Những tiếng nổ vang lên liên tiếp. Lu-ít khựng lại, ngã sấp mặt xuống boong, co giật rồi hết cựa quậy: chai rượu từ từ tuột khỏi tay hắn. Viên đạn làm cho Jô sững lại dường như có một bức tường bỗng hiện lên trước mặt hắn. Hắn đứng sững trong giây lát, không nhúc nhích và thế là Ghéc-man lại nâng khẩu súng máy lên một lần nữa. Chỉ có điều hắn chưa kịp bắn thì Jô đã đột ngột quay ngoắt lại, đôi mắt mất hết thần sắc, nhìn thẳng, tiến về phía Ghéc-man đang giương súng. Jô tiến lại gần, còn Ghéc-man thì giật lùi về buồng điều khiển. Cuối cùng, trong buổi sáng yên tĩnh của biển khơi vang lên những tiếng nổ chát chúa của loạt súng máy, những viên đạn từ nòng súng bay ra cắm ngập và xé nát tấm ngực nở nang của tên lai. Hắn bước thêm được một bước cuối cùng, rồi thở khè khè đứt đoạn: - Ông... chủ... sao... lại… *** Hành trình của chiếc tàu ngầm hải quân Đức Van-ki-ri-a trong một thời gian được thực hiện trên mặt nước. Sau đó, viên chỉ huy ra lệnh bắt đầu lặn, vì tàu đi ngang qua khu vực nhiều tàu bè và thủy thủ tàu ngầm Đức không muốn để một ai phát hiện ra mình. - Tê-ô-đo, tôi sẽ ngủ chừng hai tiếng - viên chỉ huy nói với Phôn Bết-man - hãy cho tàu chạy về phía đảo Mác-tin Vác, từ đó ta sẽ rẽ về hướng xích đạo. Hai giờ nữa tôi sẽ thay ca cho anh. Tê-ô-đo suy nghĩ về những điều ngang trái mà số phận đã ném hắn - một sĩ quan tàu ngầm xuất sắc - vào cái hộp thép nhét đầy những máy khâu để thay thế cho những quả thủy lôi khủng khiếp. Tê-ô-đo Phôn Bết-man, tất nhiên hiểu rằng món hàng này quan trọng đối với nước đại Đức biết chừng nào. Nhưng công việc của hắn là đánh chìm các tàu địch chứ không phải là lẩn tránh giữa đại dương trên chiếc tàu ngầm không có máy phóng ngư lôi. Hắn liếc nhìn đồng hồ, mắng nhiếc tên cầm lái đã làm tàu lệch hướng mất 3 độ và lom khom chui qua những chiếc cửa hình ô-van của các ngăn buồng đi đến ca-bin. Song, Tê-ô-đo Phôn Bét-man đã không kịp tới đó. Một luồng khí nén từ phía sau xô hẳn ngã chúi xuống, đập cằm vào khung cửa. Hắn thấy đau ở cằm. Sau đó, viên thuyền phó thứ nhất không còn cảm thấy được gì nữa. Tên cầm lái ở vị trí trung tâm thấy lớp vỏ bọc có một chỗ bị bung vào phía trong và một dòng nước đen ngòm cuồn cuộn chảy về phía hắn rồi cuốn lấy hắn, vò xé hắn và dìm hắn chết ngập. Viên chỉ huy cũng chết ngập trong nước không kịp dậy. Các thủy thủ trong khoang mũi của tàu thì còn sống sót được một ít vì tiếng nổ làm cho chiếc tàu đứt làm đôi, nhưng phần mũi vẫn còn đủ kín. Chiếc quan tài bằng sắt vừa nhào lộn vừa chìm sâu xuống đáy đại dương, và ở đây nó bị một lớp nước dày chừng 300 mét đè lên. Chừng nửa dặm về bên phải, chiếc tàu chở hàng đang chạy từ Ri-ô Grăng đi Môn-rô-via thấy một vòm nước nổi lên lóng lánh dưới ánh mặt trời. Cột nước chùng chình giây lát rồi sau đó vỡ tung ra, gây nên sự kinh hoàng cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu Bra-xin mang tên «Xao-pao-lô». Khoảng đen lấp lánh các màu lan rộng ra ở ngay chỗ vòm nước đã biến đi. Con tàu quay mũi đến gần nó, hạ xuồng, bắt đầu lượm lặt những mảnh vỡ và xác chết bị tung lên cùng với những bóng nước bị vỡ ra trên mặt biển. Bấy giờ là thời chiến và thuyền trưởng tàu «Xao- pao-lô» cấm không được báo tin về sự kiện đã xảy ra. Viên thuyền trưởng cố xác minh quốc tịch của những xác người đã được thủy thủ mình vớt lên, nhưng việc đó không thể được. Chẳng có giấy tờ gì, chẳng một dấu hiệu nào ngoài những dấu hiệu về chủng tộc. Ông ta không tìm được gì hết. *** Chiếc tàu ngầm «Van-ki-ri-a» bị mất trong tình trạng bí ẩn đối với các nhà chỉ huy Đức, nó chở 160 tấn ni-ken dưới dạng thỏi cùng với tiền đúc của Mỹ và Ca-na-đa. Ni-ken - một kim loại ánh bạc có giá trị bậc nhất trong bảng tuần hoàn của Men-đê-lê-ép với ký hiệu 28, là kim loại khó nóng chảy, cứng và không bị biến đổi trong không khí. Ni-ken trở thành một vấn đề nan giải đối với nước Đức cũng như nhiên liệu và còn có thể nan giải hơn. Dầu sao thì dầu lửa còn có thể thay thế được. Còn ni-ken thì không. Thiếu ni-ken không thể có vỏ thép. Thiếu vỏ thép không thể có xe tăng. Thiếu xe tăng thì không chiến thắng nổi trên những chiến trường của đại chiến thế giới lần thứ II. Thiên nhiên đã bớt xén, không cho nước Đức đủ ni-ken. Ở thung lũng sông Ranh chỉ có một trữ lượng ni-ken không đáng kể. Phần lớn ni-ken nước Đức phải mua của Ca-na-đa. Chiến tranh bắt đầu và nước Đức bị mất đi nguồn ni-ken từ Ca-na-đa. Hít-le chiếm được Hy-lạp và cùng với nó là các mỏ ni-ken. Nước chư hầu Phần Lan mở rộng cửa các mỏ ni-ken ở miền Bắc tại vùng Pết-xa-mô cho người Đức. Ở đó có các tù nhân và tù binh làm việc. Cả một quân đoàn SS đảm nhận bảo vệ các hầm mỏ và đảm bảo khai thác, liên tục loại quặng pyrit đỏ có hàm lựợng ni-ken và gửi về các nhà máy luyện kim ở Đức. Khi xe tăng T-34 của Liên Xô xuất hiện trên các chiến trường, các chuyên viên Đức kinh ngạc bởi độ bền của vỏ thép các xe tăng dó. Theo mệnh lệnh từ Béc-lin, chiếc xe tăng T-34 đầu tiên chiếm được đã được đưa về Đức. Ở đây, các nhà khoa học đã phân tích vỏ thép của nó. Họ xác định rằng vỏ thép của xe tăng Nga có một tỷ lệ ni-ken cao và do đó vỏ thép này cực kỳ bền vững. Việc thiếu ni-ken trong vỏ thép đã dẫn đến tình trạng là cho đến năm 1944, các nhà máy quốc phòng của Đức quốc xã phải sản xuất xe tăng vỏ dày hơn bình thường. Nhưng ngay vỏ như vậy vẫn dễ bị phá vỡ và các xe tăng «con hổ» «con báo» «phéc-đi-năng» rõ ràng là nặng nề hơn và yếu thế hơn các xe tăng và xe tự hành của Liên Xô. Ni-ken và ni-ken! Cần nhiều ni-ken hơn nữa! Mời các bạn đón đọc Ba Bộ Mặt Của I-A-Nút của tác giả Xta-nhi-xlap Ga-ga-rin.
Ác Mộng Ven Hồ
Gina Royal là một phụ nữ bình dị sống cuộc sống êm đềm bên chồng và hai đứa con thơ tại vùng Wichita, tiểu bang Kansas. Thế giới của cô bỗng đảo lộn hoàn toàn vào ngày nọ, khi cô lái xe đưa các con đi học về thì phát hiện một chiếc xe hơi đã tông vào bức tường gara nhà cô, để lại một khoảng trống hoác đồng thời phơi bày bí mật kinh hoàng: một thi thể phụ nữ chết trong tư thế bị treo cổ. Gia đình Gina bỗng chốc rơi xuống vực thẳm. Để sinh tồn, cô buộc phải trốn chạy, bỏ đi mọi thứ mình từng có, những mong làm lại cuộc đời. Gina cuối cùng tìm được bến đỗ tại ngôi nhà nhỏ bên hồ Stillhouse. Nhưng hy vọng mới còn chưa kịp bén rễ thì cuộc đời một lần nữa đẩy cô đến bờ vực khốn cùng. Cô phải làm thế nào để giữ được sự tỉnh táo trong trò chơi ú tim của kẻ giết người đã hiểu rõ cô và cô cũng hiểu hắn rất rõ? Phải làm thế nào để vừa giữ an toàn cho các con, vừa phải gìn giữ sợi dây tình cảm mong manh với hai đứa trẻ tuy còn nhỏ mà đã phải chịu quá nhiều thương tổn?  Là tập đầu tiên trong series trinh thám Stillhouse gồm ba cuốn, cùng với Con lạch chết chóc và Dòng sông hắc ám, Ác mộng ven hồ sẽ đưa người đọc cùng Gina trải qua hành trình đi tìm sự thật với vô vàn ngã rẽ cùng những nút thắt mở bất ngờ đến phút chót. ----- Về tác giả Rachel Caine Rachel Caine là một trong những tác giả ăn khách nhất thế giới với hơn năm mươi đầu tiểu thuyết nằm trong danh sách bán chạy, bao gồm hai series truyện dành cho tuổi thiếu niên là Ma cà rồng vùng Morganville và Đại Thư viện. Các dòng sách bà theo đuổi gồm có: tiểu thuyết giật gân, huyền bí, kỳ ảo hiện đại, khoa học viễn tưởng và tiểu thuyết siêu linh dành cho giới trẻ. Bà hiện sống cùng gia đình tại Fort Worth, bang Texas, Mỹ. *** Ác mộng ven hồ Tác giả: Rachel Caine. Dịch giả: Ngụy Thanh Tuyên Thể loại: Trinh thám hiện đại phương Tây, hồi hộp Gwen Proctor là người mẹ đơn thân của hai đứa trẻ, con gái lớn 14 tuổi đang trong thời kỳ nổi loạn, con trai nhỏ 11 tuổi tương đối hiểu chuyện và biết quan tâm đến chị gái. Gwen cũng là học viên xuất sắc tại trường dạy bắn súng cạnh vùng hồ Stillhouse thuộc bang Tennessee. Ngôi nhà của họ tọa lạc ở nơi có phong cảnh rất nên thơ, nhưng Gwen giữ thái độ xa cách và hết sức thận trọng với hàng xóm. Cô ép mình tập luyện gắt gao những bộ môn tự vệ nhằm cố gắng duy trì tinh thần ổn định và giữ tính mạng cho bản thân và hai đứa con. Cách đây bốn năm, Gwen từng là người phụ nữ nội trợ hạnh phúc có chồng làm thợ mộc, cuộc sống vô tư vô lo trôi qua từng ngày, cho đến khi một tài xế say rượu tông vỡ nát bức tường garage nhà cô, làm lộ ra thi thể một phụ nữ chết trong tư thế bị treo cổ. Tôi định chọn “Ác mộng ven hồ” làm một quyển trinh thám đọc chơi vào cuối tháng 9, không nghĩ rằng nó cuốn hút như thế này, khiến tôi bỏ ngủ và đọc hết trong vòng chưa đến hai ngày. Cuốn sách khiến tôi liên tưởng nhiều đến quyển “Săn đuổi đến cùng” (Lisa Gardner), cả hai cuốn đều đưa độc giả hoàn toàn rơi vào bầu không khí căng thẳng nhiều phần tối tăm của câu chuyện, hồi hộp theo từng hành động của nhân vật, sợ hãi với diễn biến kịch tính của truyện. Cả hai cuốn cũng không nhấn mạnh lắm vào vai trò của cảnh sát, nhân vật chính không thuộc giới thi hành pháp luật, họ chỉ vô tình rơi vào vòng xoáy tội ác và phải nỗ lực bằng cả tính mạng để giải thoát chính mình + người thân. Ngay phần mở đầu của “Ác mộng ven hồ” đã có cảnh khiến tôi sợ. Nếu là vài năm trước thì tôi đã không dám đọc tiếp, nhưng nay bớt nhát rồi, thêm nữa là cách viết của tác giả quá cuốn hút nên tôi đánh liều đọc đến hết, và khá ưng ý với quyển sách này. “Ác mộng ven hồ” không có những câu tả cảnh hữu tình hay những lời thoại chứa đầy kiến thức tâm lý ứng dụng như trong truyện của Lee Child hoặc Baldacci, cách viết của Rachel Caine khiến tôi nghĩ đến Tử Kim Trần: miêu tả rõ ràng gãy gọn, tập trung vào nhân vật và hành động, rất thực tế nhưng không khô khan, cảm giác như không có chữ nào dư thừa. Thêm một lý do khiến tôi thích cuốn này là vì tác giả không đưa vào quá nhiều tình cảm lãng mạn, thay vào đó, chất trinh thám tỉnh lạnh và đậm đặc hoàn toàn làm hài lòng các độc giả trinh thám. Suốt quá trình đọc, tôi cảm nhận sâu sắc rằng Rachel Caine đúng là một tác giả NỮ viết cho bạn đọc NỮ, vì nội dung truyện nhấn mạnh vào diễn biến tâm lý của một phụ nữ trẻ, cách cô ấy bảo vệ con như một loài thú dữ, cách cô ấy so sánh người đàn ông trong hiện tại và người đàn ông của quá khứ, cách cô ấy vận dụng toàn bộ sức mạnh yếu ớt của nữ giới để chống lại kẻ xấu… Không biết những cuốn khác trong loạt truyện “Stillhouse” thì sao nhưng sau cuốn này thì tôi kết luận mình thích truyện của Rachel Caine. Có một số truyện trinh thám tôi từng đọc qua đề cập đến tác hại của Internet đối với cuộc sống con người, chẳng hạn như “Cây thập tự ven đường”, “Dữ liệu tử thần”, “Sát nhân mạng” (cả ba truyện vừa nêu đều của tác giả Jeffery Deaver). “Ác mộng ven hồ” cũng tương tự như vậy. Trước khi đọc cuốn này, tôi chưa từng tưởng tượng vợ con của một kẻ sát nhân sẽ nhận được thái độ đối xử như thế nào từ công chúng? Thông cảm, hay thờ ơ không quan tâm? Trái với lầm tưởng ngây thơ của tôi, mức độ thù hằn đổ lên đầu họ còn gấp nhiều lần đổ lên chính kẻ sát nhân. Họ chỉ là phụ nữ và trẻ con, và dù vô tội, họ vẫn bị những tay anh hùng bàn phím vô nhân tính thiếu não đe dọa bằng những từ ngữ tục tĩu dơ bẩn, những hành động tiểu nhân bỉ ổi. Trong truyện có nhiều câu, nhiều đoạn rất thấm thía mô tả suy nghĩ của Gwen Proctor khi cô và các con phải nhận lấy những lời lẽ / những cách cư xử mà họ hoàn toàn không đáng phải chịu. Tuy hiểu rằng người sử dụng Internet không phải toàn người xấu, nhưng quyển sách này vẫn đem đến cho tôi những góc nhìn mới, giúp tôi sáng mắt ra và từ nay thêm phần e sợ khi dùng Internet nói chung và mạng xã hội nói riêng. Thiết kế bìa rất hợp với tựa sách, lẽ ra tôi phải sợ nhưng tôi chỉ thấy bìa đẹp!, gợi liên tưởng đến bìa cuốn “Tiếng thét”của Hamanaka Aki. Phần dịch thuật xuất sắc, giúp cho việc đọc câu truyện càng trở nên dễ dàng và thú vị hơn đối với bạn đọc VN. Tuy có để ý tìm kiếm nhưng tôi không nhớ mình có gặp lỗi chính tả hay lỗi biên tập nào trong truyện hay không. Loạt truyện “Stillhouse” của tác giả Rachel Caine còn những cuốn khác gồm + Killman Creek: Con lạch chết chóc, đã được dịch tiếng Việt Còn những tựa sách sau thì tôi mạn phép tự dịch là + Wolfhunter River: Dòng sông săn sói + Bitter Falls: Thác nước đắng cay + Heartbreak Bay: Vùng vịnh tim vỡ Hy vọng những cuốn còn lại đều sẽ được dịch và xuất bản tiếng Việt. Bây giờ đọc tiếng Việt, vài năm sau nếu có cơ hội đọc lại nguyên tác tiếng Anh thì tôi nghĩ mình sẽ có thêm quãng thời gian tận hưởng những quyển sách thú vị này. *** (Sea, 29-9-2020) Cáo Biển Non Xanh Gina Royal có lẽ không tin nổi đến một ngày nọ gia đình hạnh phúc của cô lại rơi vào vực thẳm của bi kịch: Người chồng chung sống bao lâu nay thực ra là một thằng sát nhân bệnh hoạn! Tội ác của hắn chỉ thực sự lộ tẩy khi có 1 tai nạn hi hữu xảy ra ở gara, nơi hắn thường xuyên làm việc tại nhà. Gina bị cáo buộc đồng loã nhưng sau đó được tuyên trắng án. Để bắt đầu cuộc sống mới với 2 con, người phụ nữ này sẽ phải làm những gì? “Ác mộng ven hồ” là câu chuyện về hành trình chỉ có trốn chạy và trốn chạy của một người đàn bà yếu ớt không một tấc sắt trong tay. Rong ruổi hết bang này sang bang nọ với những thân phận mới. Mục đích của cô là để đem lại nơi chốn an toàn và ổn định cho các con của mình. Có vẻ định mệnh đã sắp đặt cô dừng chân lại ở vùng Hồ Stillhouse, bang Tenessa. Nhưng vì sao toà đã tuyên án vô tội mà Gina Royal vẫn phải chạy trốn ko ngừng? Nói đến đây tôi lại nhớ về “Thư” của Higashino Keigo: Một kẻ phạm tội bị cầm tù 15 năm; và 15 năm đó cũng là ngần ấy ngày cuộc đời em trai của anh ta bị “cầm tù” ở phía bên ngoài song sắt. Gina có phần giống với người em trong câu chuyện ấy, chính xác thì cuộc đời của cô ngay cả khi chồng bị tống vào ngục vẫn ko thể ngóc đầu lên được, nhưng cô thê thảm theo một cách khác. Cả 3 mẹ con liên tục bị đe doạ tấn công, giết chết. Những thân nhân của các nạn nhân mà thủ phạm là gã chồng cũ không chấp nhận việc Gina vô tội, người ta tìm cách truy lùng họ để trả thù. Bọn cuồng tín tôn thờ chủ nghĩa man rợ phát tán các hình ảnh thoá mạ các con cô…Bằng một cách nào đó, chính người chồng đầu ấp tay gối đã “cầm tù” và bóp nghẹt cơ hội làm lại cuộc đời của vợ con mình. Một con thú khát máu trong vỏ bọc người chồng mẫu mực liệu có bao giờ nghĩ đến viễn cảnh đó hay không? Tôi đọc cuốn sách này nhanh và hoàn thành sớm hơn tôi tưởng. Đây là một cốt truyện gần như đè bẹp yếu tố trinh thám thuần mặc dù có đầy đủ yếu tố: người chết, cảnh sát, nghi phạm, điều tra. Xương sống của truyện tập trung về đời sống nội tâm và cách ứng phó của nhân vật chính với các diễn biến bên ngoài. Nhiều lúc cứ ngỡ như đây là một cuộc chiến sinh tồn, vì vai trò của Gina không khác gì một con mồi dễ triệt hạ. Tôi cũng thừa nhận rằng không ít lần tôi phát bực với nhân vật này. Nhu nhược và yếu đuối, thường tìm cách đổ lỗi cho bản thân mình, có phần hơi kém thông suốt tâm lý của con cái, bề ngoài thì luôn đề phòng nhưng kì thực rất dễ tin người. Tin mình đi, Gina dễ tin người vãi lá; không cần đọc đến đoạn tác giả lồng ghép vào về sau thì ngay từ ban đầu cũng thừa dữ kiện để nhận ra rồi. Nhưng suy xét kĩ thì tôi thấy cũng dễ hiểu. Gina sống với không một sự giúp đỡ và tâm trạng cảnh giác cao độ luôn luôn khiến cô mệt mỏi. Hoàn cảnh khắc nghiệt làm thay đổi tâm tính của cả cô lẫn 2 con. Cuộc sống của cô là chỉ cần bạn ngồi yên một chỗ, rồi tai hoạ và rắc rối cũng sẽ tự dưng tìm đến bạn. Gina không thông minh lên được là bao, nhưng mạnh mẽ thì có, sự mạnh mẽ chậm dần đều. Đơn giản Gina chỉ là một phụ nữ an phận hiền lành, không có kĩ năng va vấp ngoài xã hội từ trước. Nếu nói thứ cảm xúc nào rõ ràng nhất sau khi đọc xong cuốn sách này thì đó là sự phẫn nộ. Không những nạn nhân là nữ, chết thảm, mà đối tượng bị đổ lỗi ở đây cũng vẫn lại là phụ nữ; Luôn là phụ nữ. Một xã hội nhân danh diệt trừ cái ác nhưng không hiểu rõ bản chất cái ác. Kẻ tội đồ lại thành “ai-đồ”, có fandom sùng bái. Cái nhìn thiển cận của đa số con người trong xã hội đối với một cá nhân có vết đen là vấn đề không thể tránh khỏi, vì khó có người nào thật sự muốn bản thân mình buộc phải có trách nhiệm nhân ái và bao dung với đồng loại. Luật pháp trong câu chuyện này còn thua cả luật rừng. Tôi thấy nực cười nhất là đám cảnh sát. Thầm nghĩ có lẽ tác giả muốn gia tăng độ khó và mức độ hiểm trở cho hành trình của nhân vật chính nên suốt từ đầu đến cuối không có nổi lấy 1 tay nào thông minh nhạy bén Nếu không muốn nói là có mặt chắc chỉ để hằm hè đe doạ. Và cuối truyện thì chỉ cần nói “Tôi nợ chị cả một trời xin lỗi” xí xoá là xong! Tôi không chê tác phẩm này về mặt logic phá án, bởi vì nó quá mờ nhạt, không có gì để phân tích và suy đoán thì biết lấy gì ra để chê? Chẳng có gì khác ngoài một vài biểu hiện không thiện chí và gây khó dễ cho nhân vật chính, không cấu thành nổi dữ kiện để đặt nghi vấn ai là kẻ đứng sau. Và như đã nói từ trước là Gina ngây thơ vãi lá, hoặc nếu tác giả xem đó là thử thách gây bất ngờ cho độc giả phát hiện ra điều bí mật thì xem ra quá nhẹ nhàng. Vậy suy cho cùng, chạy trốn mãi vẫn không thể là giải pháp thực sự hữu hiệu, Gina buộc phải đối mặt và phải trở nên cáo già hơn. Chúng ta chờ xem ở phần 2, “Con Lạch chết chóc” có khởi sắc hơn phần 1 này hay không nhé? À mà phải nói thêm rằng gã chồng trong truyện cũng thuộc dạng bệnh nhất trong các loại bệnh. Các bạn đọc “Vỏ bọc hoàn hảo”- Lisa Gardner; “Những thiên thần mất tích”- Karin Slaughter; “Sau cánh cửa đóng”- B.A Paris dễ thấy hình ảnh tương tự nhưng đảm bảo không “bệnh” bằng Chồng của Gina đâu, mặc dù hắn chỉ xuất hiện qua sự hồi tưởng của cô là nhiều. Phần 1 kết thúc mở, phần 2 sẽ hứa hẹn gay cấn hơn. *** GINA ROYAL Wichita, bang Kansas Gina chẳng bao giờ hỏi tới cái gara. Ý nghĩ ấy sẽ khiến cô phải thao thức bao đêm ròng suốt nhiều năm về sau, làm mí mắt cô nóng ran, đùng đùng giật liên hồi. Lẽ ra mình phải hỏi. Phải biết. Nhưng cô đã không hỏi, cô không biết, và cuối cùng, chính điều đó đã hủy hoại cô. Thường thường, cô về nhà lúc ba giờ chiều, nhưng chồng cô gọi, báo rằng anh có việc gấp ở sở làm và cô phải tới trường đón Brady và Lily thay anh. Cũng chẳng vấn đề gì lắm, thật thế - vẫn còn vô khối thời gian để dọn dẹp nhà cửa trước khi nấu bữa tối. Anh tỏ ra rất đáng yêu và rối rít xin lỗi khi làm xáo trộn lịch trình của cô. Thực sự, Mel có lẽ là người đàn ông tốt nhất, hấp dẫn nhất trên đời và cô sẽ đền đáp cho anh; cô đã quyết định như thế. Tối nay, cô sẽ nấu món anh thích nhất: gan chiên bơ hành, uống kèm với vang pinot noir thượng hạng mà cô vừa lấy ra khỏi tủ và đang bày trên bàn bếp kia. Sau đó là buổi tối cả nhà quây quần, là ngả người trên sofa xem phim cùng lũ trẻ. Chắc sẽ là bộ phim siêu anh hùng mới ra mà bọn trẻ kêu gào đòi xem suốt mấy hôm nay, dẫu Mel rất kĩ tính với các thể loại phim ảnh cho trẻ nhỏ. Lily sẽ cuộn người lại như cục bông tròn nóng sực, rúc sát vào Gina, còn Brady nằm dài trong lòng bố, đầu gác lên tay ghế. Chỉ có những đứa trẻ dẻo người mới nằm thoải mái được như thế, nhưng đó là điều Mel yêu thích nhất trần đời: thời gian bên gia đình. Chậc. Điều yêu thích thứ hai, sau nghề mộc của anh. Gina hy vọng tối hôm nay anh sẽ không kiếm cớ ra ngoài và lại hì hục làm cái nọ, sửa cái kia trong xưởng mộc. Một cuộc sống bình thường. Dễ chịu. Không hoàn hảo - tất nhiên rồi. Chẳng ai có cuộc hôn nhân hoàn hảo cả, phải không nào? Nhưng Gina cảm thấy hài lòng, nói chung là thế. Cô rời nhà mới được có nửa giờ, đủ lâu để phi tới trường, đón bọn trẻ, và phóng trở lại nhà. Ôi trời! Ngộ nhỡ nhà ai bị cháy thì làm sao đây? Đó là ý nghĩ đầu tiên nảy ra trong đầu khi cô rẽ vào góc đường và thấy đèn hiệu nhấp nháy ở khu phố nhà mình. Cô đứng tim trước ý nghĩ đó, nhưng ở giây tiếp theo, giây phút ích kỷ, cô lại nghĩ: Thế này thì bữa tối muộn mất. Chuyện nhỏ nhặt là thế nhưng khiến người ta phát bực. Đường bị chặn hoàn toàn. Cô đếm thấy có ba chiếc xe cảnh sát đằng sau rào chắn, đèn chớp trên xe họ khiến những ngôi nhà gần như giống hệt nhau ở gần đó chìm trong màu đỏ lừ của máu và màu xanh tái của những vết bầm. Một xe cứu thương và một xe cứu hỏa nằm thu lu ở tít cuối đường, rõ ràng đang bị bỏ không. “Mẹ ơi?” Brady, cậu bé bảy tuổi đang ngồi ở ghế sau, hỏi. “Mẹ, có chuyện gì vậy mẹ? Là nhà ta ạ?” Giọng cậu có vẻ phấn khích. “Nhà mình cháy à mẹ?” Gina cho xe đi thật chậm và cố quan sát hiện trường: một bãi cỏ bị xới tung, một thảm lan diên vĩ bị san phẳng và mấy lùm cây bị nghiền nát. Một cái xác hộp thư móp méo vắt vẻo nửa trong nửa ngoài rãnh thoát nước. Hộp thư nhà họ. Bãi cỏ nhà họ. Nhà của họ. Phía cuối bãi chiến trường đó là một chiếc SUV màu nâu sẫm, động cơ vẫn còn đang xì khói. Chiếc xe bị kẹt phân nửa trong bức tường ở mặt tiền gara - xưởng của Mel - và ngật ngưỡng tì lên đống đổ nát từng là một phần của ngôi nhà gạch vững chãi. Cô vẫn luôn nghĩ rằng nhà mình rất vững chãi, rất chắc chắn, rất bình thường. Đống gạch vụn và những miếng thạch cao vỡ nát như một bãi nôn kia nom mới kinh tởm làm sao. Chúng trông mong manh quá. Cô hình dung ra chiếc SUV khi nó lao lên lề đường, hất tung hộp thư, trượt trên sân, và đâm sầm vào gara. Khi trong đầu vẽ ra cảnh tượng đó, chân cô cuối cùng cũng nhấn xuống phanh xe mình, lực đạp khá mạnh, đủ để cô cảm nhận được cú xóc đến tận xương sống. “Mẹ!” Brady hét lên, gần như sát vào tai cô, và theo phản xạ, cô đưa tay lên ra hiệu cho con im lặng. Bên ghế khách, Lily, mười tuổi, đã gỡ tai nghe ra và nhoài về phía trước. Miệng con bé há hốc khi nó nhìn thấy nhà mình bị phá, nhưng nó không nói một lời. Mắt nó vẫn đang trố ra vì choáng. “Mẹ xin lỗi.” Gina nói, nhưng gần như không nhận thức được mình đang nói gì. “Có gì đó không ổn, con ạ. Lily? Có sao không con?” Mời các bạn mượn đọc sách Ác Mộng Ven Hồ của tác giả Rachel Caine & Ngụy Thanh Tuyên (dịch).
Vết Khắc Hằn Trên Cát
Vết Khắc Hằn Trên Cát “Cuốn sách ly kỳ về Cuộc đổ bộ này sẽ khiến bạn thích thú, còn chúng tôi thì vô cùng yêu thích. Tác giả đưa chúng ta trở đi trở lại giữa Mỹ và Normandie, theo bước chân của Alice. Những tình tiết hồi hộp đang chờ bạn đó.” - Femme actuelle ------------- GIỚI THIỆU SÁCH: “Điều quan trọng với cô, là Lucky không chết như những người khác trên bãi biển. Cái chết đó, anh đã quyết định nó, anh muốn nó.” Một mạng sống đáng giá bao nhiêu? Tháng Sáu năm 1944, viên lính biệt kích Lucky đã ngã xuống trên một bãi biển ở Normandie. Hai mươi năm sau, Alice, vị hôn thê của anh phát hiện một giao kèo bí mật chỉ vài giờ trước khi xảy ra cuộc đổ bộ năm 44, anh đã mạo hiểm tính mạng để đổi lấy một khoản tiền khổng lồ! Và hành trình đi khắp nước Mỹ để lục lại quá khứ của Alice bắt đầu. “Bussi dẫn dắt những tình tiết hồi hộp với một sự tinh quái đến mức một lúc nào đó, độc giả phải tự hỏi mình có bị lừa hay không. Và cuốn tiểu thuyết cũng thật hài hước nhờ viên thám tử tư đầy hăng hái. Một cuốn trinh thám thật thú vị, cuốn hút.” - Le parisien aujourd’hui en France -------------- GIỚI THIỆU TÁC GIẢ: Michel Bussi sinh ngày 29 tháng Tư năm 1965 tại Normandie. Ông là nhà văn, nhà chính trị học, giáo sư địa lý tại đại học Rouen và được biết đến chủ yếu với những cuốn tiểu thuyết trinh thám. Theo tạp chí Le Figaro, ông đứng thứ hai trong danh sách các nhà văn Pháp có tác phẩm bán chạy nhất năm 2018, với 975.800 bản. Các tác phẩm của Michel Bussi đã được dịch sang 34 thứ tiếng, một số được chuyển thể thành phim điện ảnh và phim truyền hình. Vết khắc hằn trên cát là bản biên tập lại của cuốn tiểu thuyết trinh thám đầu tay Ohama crimes (tạm dịch: Tội ác ở Ohama) xuất bản năm 2007, từng nhận được nhiều giải thưởng như Sang d’encre, Octave Mirbeau… Các tác phẩm khác của Michel Bussi đã được xuất bản tại Việt Nam: Xin Đừng Buông Tay Hoa Súng Đen Mẹ Đã Sai Rồi Kho Báu Bị Nguyền Rủa Vết Khắc Hằn Trên Cát ... *** Lời tác giả Cuốn tiểu thuyết này ra đời từ một ảo ảnh Tuy cuốn tiểu thuyết này nay mới được nhà Presses de la Cité xuất bản lần đầu, dưới nhan đề Vết khắc hằn trên cát, nhưng tôi đã viết nó từ rất lâu rồi. Hai mươi năm, chính xác là vậy. Dẫu các tiểu thuyết của tôi không được kết nối bằng một nhân vật chính xuyên suốt, cũng chẳng theo một trật tự nào; dẫu mỗi độc giả đều có thể bắt đầu khám phá những cuốn sách của tôi từ bất cứ câu chuyện nào, thì câu chuyện này vẫn có vị trí đặc biệt trong cuộc đời viết văn của tôi, bởi đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên tôi viết. Dù lúc đó tôi đã gần ba mươi, thì liệu có thể gọi Vết khắc hằn trên cát là tiểu thuyết của tuổi trẻ được không? Được chứ, chắc chắn rồi! Được chứ, bởi khi viết Vết khắc hằn trên cát, tôi không biết liệu một ngày nó có được xuất bản không (và thậm chí, nói thật lòng, tôi cũng không quá tin tưởng vào điều đó). Đó là điểm khác biệt cơ bản với những cuốn tiểu thuyết khác của tôi. Được chứ, bởi khi viết Vết khắc hằn trên cát, tôi không biết bất cứ quy tắc viết tiểu thuyết trinh thám nào, tôi đã tạo ra, hình dung, biến đổi chúng. Có thể các miêu tả nơi chốn quá dài dòng, có thể viên thám tử tư quá lãng mạn, tên giết người thuê quá vụng về, nhưng bằng cách ấy hẳn tôi đã tạo ra cách kể chuyện của riêng mình. Được chứ, bởi tiểu thuyết này chứa đầy những ám chỉ, tham khảo, có thể cả ám ảnh, những thứ sẽ được dùng lại, có khi được phát triển thêm trong các tiểu thuyết sau của tôi, tôi để các bạn khám phá chúng qua từng trang… Được chứ, bởi vào năm 1994, các nhà văn không có Internet, Google Earth, hay từ điển bách khoa trực tuyến… Họ không thể, chỉ bằng một cái nhấp chuột đơn giản, có được cả trăm bức ảnh về súng lục hay danh sách đầy đủ huân, huy chương của quân đội Mỹ từ thời Georges Washington. Năm 1994, cần phải lựa chọn, hoặc là lao vào một cuộc nghiên cứu tìm hiểu dài dằng dặc… hoặc là tự sáng tạo ra tất cả! Các tiểu thuyết về sau của tôi đều được thu thập tư liệu cẩn thận, miêu tả địa điểm chính xác (chí ít cũng gần như luôn chính xác), rồi được các biên tập viên thận trọng đọc đi đọc lại. Vết khắc hằn trên cát đã lọt qua lưới lọc của thực tế và độc giả có thể thỏa sức phân biệt đúng sai, phân biệt những gì có thật và những gì thuộc về trí tưởng tượng thuần túy của tác giả, người đã biến đổi hiện thực theo ý mình, mà sự hư hư thực thực của câu chuyện không hề bị ảnh hưởng. Thậm chí còn nhờ thế mà càng mạnh mẽ hơn, và ở đây tôi có thể thú nhận rằng đôi lúc tôi thấy giận tất cả các công cụ mới dành cho nhà văn; tôi ước mình có thể miêu tả các địa điểm như cách tôi hình dung về chúng chứ không phải như những gì hiện ra trên màn hình biết tuốt của tôi, có thể sáng tạo ra các nhãn hiệu ô tô, quần áo hay rượu, đi theo những trình tự tư pháp mà tôi nghĩ phải thế chứ không bị bó chặt vào những luật lệ, sắc lệnh hay quy định thực tế… Bạn có thể đáp lại rằng chẳng có gì ngăn tôi làm vậy và có lẽ bạn hoàn toàn đúng; đó chắc chắn là việc mà một ngày nào đó tôi sẽ làm. Vả lại, tuyệt đối chân thành mà nói, tôi cũng đã đôi lần làm vậy, một cách thầm lặng, tôi, người viết những cuốn tiểu thuyết trinh thám mà chưa một lần bước chân vào Sở cảnh sát! Được chứ, bởi cuốn tiểu thuyết này đã trải qua nhiều cuộc đời. Chính xác là ba. Ở cuộc đời thứ nhất, nó ngủ yên mười năm trời trong ngăn kéo bàn làm việc của tôi, dưới nhan đề L’Ardoise(tạm dịch: Đá đen), trước khi có một nhà xuất bản đồng ý xuất bản. Ở cuộc đời thứ hai, khi được đặt lại tên là Omaha Crimes(tạm dịch: Những tội ác Omaha), nó hé lộ với tôi thế giới của tiểu thuyết trinh thám. Rồi từ nay trở đi với tên Gravé dans le sable(Vết khắc hằn trên cát), nó tiếp tục chuyến phiêu lưu tươi đẹp và bắt đầu cuộc đời thứ ba. Trước khi, biết đâu đấy, đến với cuộc đời thứ tư trên màn ảnh rộng… Thực ra, ý tưởng của cuốn tiểu thuyết này ra đời từ một ảo ảnh điện ảnh. Theo những ký ức về bộ phim Le Jour le plus long (tạm dịch: Ngày dài nhất), tôi tin mình thấy cảnh các tay lính Mỹ đang tấn công một vách đá, một bức tường bê tông, theo thứ tự đã được ấn định trước do một viên trung úy hô lên. 1, 2, 3, 4… Và tôi xem lại bộ phim: chẳng có chút dấu vết nào của cảnh tượng rùng rợn đó. Nhưng trái lại, cũng không nhà sử học nào có thể khẳng định với tôi là không có một trật tự tấn công nhất định, hay các phương thức xác định trật tự đó. Do thiếu sự thật lịch sử, tôi đã tưởng tượng ra tất cả. Chúc các bạn đọc sách vui vẻ cùng Alice, Lison, Nick, Ralph, Emilia, Lucky, Ted… Tất cả họ đều có vị trí đặc biệt trong tim tôi, như những người bạn ấu thơ mà ta sẽ nhớ đến nhiều hơn những người ta gặp sau này. Tôi biết rằng với các độc giả đọc tôi từ đầu, những người từng biết đến Vết khắc hằn trên cát dưới tên Omaha Crimes, với bìa đen trắng có hình các sà-lan đổ bộ gợi đến một cuốn sách về ký ức chiến tranh, thì cuốn sách này vẫn mang phong vị riêng, và có lẽ vẫn là cuốn sách yêu thích của họ. Thậm chí họ có thể sẽ nhìn cuốn tiểu thuyết địa phương này lan đến khắp các hiệu sách tại Pháp, đến cả những hiệu sách vô danh, dưới tên mới, với chút ghen tị. Cả một chút buồn nữa, gần giống như khi ta để cậu bé gần nhà ra đi sống cuộc đời mình ở nơi khác, nhưng lại dặn cậu đừng quên nơi mình từ đó ra đi. Có điều gì đó thần kỳ khi một cuốn tiểu thuyết đầu tay, được một nhà xuất bản địa phương phát hành, vài năm sau, lại ra mắt khắp cả nước, rồi ra thế giới, và hơn cả một cuộc đời thứ ba, là hàng nghìn cuộc đời mới, bởi mỗi lần gặp gỡ với một độc giả là một lần cuốn sách sống thêm một cuộc đời. Michel Bussi *** Cuốn sách ly kỳ về cuộc đổ bộ này sẽ khiến bạn thích thú, còn chúng tôi thì vô cùng yêu thích. Tác giả đưa chúng ta trở đi trở lại giữa Mỹ và Normandie, theo bước chân Alice, với những tình tiết hết sức ly kỳ và hồi hộp. Femme Actuelle Bussi dẫn dắt những tình tiết hồi hộp tinh quái đến mức một lúc nào đó, độc giả phải tự hỏi mình có bị lừa hay không? Và cuốn tiểu thuyết cũng thật hài hước nhờ viên thám tử tư đầy hăng hái. Một cuốn trinh thám thật thú vị, cuốn hút. Le Parisien Aujourd’hui En France *** 6 tháng Sáu 1944, bờ biển Omaha, Mũi Guillaume Chiếc sà-lan mở bụng. Một trăm tám mươi tám biệt kích Mỹ nhào xuống làn nước lạnh rồi nhanh chóng tản đi. Nhìn từ trên cao Mũi Guillaume, họ trông chẳng lớn hơn những con kiến trên tấm khăn trải bàn nhàu nhĩ. Khó mà ngắm bắn được họ. Lucky Marry là người đầu tiên vào đến bờ biển, gần như đứt hơi. Anh nằm dài trên cát ướt, khuất sau một khối đá granite nhỏ và thùng chất nổ nặng trịch anh vừa đặt phía trước. Anh nghe thấy tiếng chân chạy nhanh sau lưng và hơi thở gấp gáp. Ralph Finn cũng lao vào nấp sau chỗ trú ẩn tạm bợ. Còn sống! Anh quan sát nhanh Mũi Guillaume, chìm trong sương mù tít trên cao, rồi đến bức tường bê tông nằm trước họ năm chục mét. Anh mỉm cười với Lucky, nụ cười của kẻ tử tế bị cuốn vào cảnh hỗn loạn của thế giới, nhưng vẫn sẵn sàng hành xử đến cùng như một anh hùng vô danh. Một tiếng nổ vang lên cách họ chưa đầy mười mét. Không có tiếng hét nào. Những đám mây cát ướt bốc lên. Alan Woe hiện ra từ trong sương và nằm xuống cạnh Lucky và Ralph. Anh ta cũng còn sống! Anh ta nhìn sâu vào mắt Lucky. Một ánh mắt bình tĩnh, đầy chất trí tuệ. Chút nhân tính bổ sung. Điều đó giúp được gì cho anh ta, ở đây? — Một! – trung úy Dean hô. Ngay lập tức, như những cỗ máy vận hành trơn tru, Lucky, Ralph, Alan chĩa súng về phía Mũi Guillaume và bắn. Loạt đạn đột ngột vang lên đinh tai. Một cơn mưa đạn trút vào lô cốt nằm cheo leo trên đỉnh vách đá. Vừa ngắm, Lucky vừa tự ép mình nghĩ đến Alice. Anh sẽ bình an, nhờ có cô,như mọi khi. Một tiếng thét xé rách tiếng đạn nổ ồn ào. Benjamin Yes khốn khổ đã không tiến được xa. — Hai! – Dean hô. Đã hai rồi ư? Vừa tiếp tục bắn một cách mù quáng, Lucky vừa quay đầu lại. Giữa những con sóng đục ngầu trào lên rồi lại rút xuống, trong một thoáng, anh thấy thân xác những đồng đội đã ngã xuống, thân thể những đồng đội bị thương, cả thân thể trơ ì của những người không dám đánh đến cùng, không dám chạy trên bãi biển trống, chỉ nhô đầu lên khỏi mặt nước. Trong số đó, có Oscar Arlington. Cuối cùng hắn cũng đến được bờ biển. Ướt sũng, bò trong bùn xám, hắn chậm chạp tiến gần đến thùng thuốc nổ. Hắn run rẩy, không thể giữ chắc súng, đôi mắt đỏ ngầu. Lucky bắt gặp ánh mắt kinh hoàng của Arlington. — Ba! – trung úy Dean hô. Một tiếng nổ dữ dội đáp trả loạt đạn của toán biệt kích Mỹ. Những vụn đất ướt màu son trùm lên họ. Oscar Arlington, người lấm lem đất, nước và nước mắt, gần như không thể nhận ra, đã đến được chỗ họ sau thùng thuốc nổ. Lucky không nhìn hắn lấy một lần. Anh phải quên đi. Anh phải tập trung vào khuôn mặt Alice, vợ chưa cưới của anh, người vợ chưa cưới xinh đẹp của anh. Nhưng dẫu sao anh cũng sẽ thắng, như mọi khi, bằng cách này hay cách khác, anh sẽ chiến thắng mọi Arlington trên đời. — Bốn! – trung úy Dean hô. Một cơn rùng mình lan khắp người Lucky. Anh mỉm cười. Ngay cả khi chơi poker, anh cũng chưa từng cảm thấy kích thích đến thế. Ngay cả trước những món tiền đặt cược khủng nhất. Cuộc đời là một trò chơi tuyệt vời, trò chơi đáng giá 1,44 triệu đô-la! Anh nhắm mắt rồi lại mở mắt: khuôn mặt hiền dịu của Alice giờ đã thay thế màn sương bụi. Anh là bất tử. Anh cảm thấy bàn tay mềm oặt của Oscar Arlington tìm cách túm vạt áo rằn ri của anh. Quá muộn. Không chần chừ thêm nữa. Cuối cùng anh cũng sắp biết. Sắp tìm ra câu trả lời cho thương vụ điên cuồng được tiến hành ba ngày trước. Lucky là người điên rồ nhất hay tài giỏi nhất trong tất cả lính biệt kích của chiến dịch Overlord? Ba ngày trước… Mời các bạn đón đọc Vết Khắc Hằn Trên Cát của tác giả Michel Bussi & Danh Việt (dịch).
Hannibal Trỗi Dậy
Hannibal Trỗi Dậy Hannibal Trỗi dậy “Một tuyệt phẩm của máu và bạo lực nơi những nỗi kinh hoàng của chiến tranh được miêu tả một cách đẹp đẽ, nếu có thể dùng từ đó, khi Hannibal buộc phải trở thành kẻ ăn thịt người mà sau này sẽ trở thành thương hiệu của hắn.”- Independent --------- Trước HANNIBAL Trước SỰ IM LẶNG CỦA BẦY CỪU Trước RỒNG ĐỎ Một đứa trẻ đã sống sót qua nỗi kinh hoàng Thế chiến, qua những kẻ ăn xác, qua sự tàn bạo man rợ của chiến tranh. Nó đứng trong tuyết, hoàn toàn đơn độc khi thế giới chìm trong máu, băng giá và tro tàn. Đứa trẻ đã bước vào mùa đông đằng đẵng của lòng mình và con quái vật khủng khiếp nhất tiểu thuyết lẫn màn ảnh thời hiện đại ấy trỗi dậy: Bác sĩ Hannibal Lecter. *** “Một đứa trẻ đã sống sót qua nỗi kinh hoàng Thế chiến, qua những kẻ ăn xác, qua sự tàn bạo man rợ của chiến tranh. Nó đứng trong tuyết, hoàn toàn đơn độc khi thế giới chìm trong máu, băng giá và tro tàn. Đứa trẻ đã bước vào mùa đông đằng đẵng của lòng mình và con quái vật khủng khiếp nhất tiểu thuyết lẫn màn ảnh thời hiện đại ấy trỗi dậy: BÁC SĨ HANNIBAL LECTER” Hannibal là ai? Hannibal, hay còn được biết đến cái tên với đầy đủ là Hannibal Lecter, là một tay bác sĩ nổi tiếng tài ba trong giới phẫu thuật học. Tuy vậy, bản chất thực sự của hắn lại là con quái vật ăn thịt người hung tợn với những thủ đoạn giết người khôn khéo và tàn bạo đủ khiến người đọc phải rợn tóc gáy. Đây là nhân vật kinh điển đã xuất hiện trong 4 tập truyện trong series về Hannibal của nhà văn người Mỹ Thomas Harris. Trong đời thực, tên sát nhân này được lấy cảm hứng từ Dr. Alfredo Balli Trevino, kẻ đã giết và ăn thịt chính người bạn trai của mình. Mặc dù là tập cuối cùng trong bộ truyện, thế nhưng Hannibal Trỗi Dậy lại miêu tả về những sự việc đầu tiên trong cuộc đời của Hannibal, dẫn dắt người đọc theo dòng cảm xúc của gã sát nhân để ta hiểu được rằng, trước khi biến thành con quái vật khát máu, Hannibal đã từng là một con người bình thường, có tình yêu thương có cảm xúc. Thậm chí, nếu không vì những thăng trầm đẩy hắn xuống vực sâu của tội ác, hắn đã có thể trở thành một thiên tài lừng lẫy ghi dấu trong lịch sử nhân loại. “Một tuyệt phẩm của máu và bạo lực nơi những nỗi kinh hoàng của chiến tranh được miêu tả một cách đẹp đẽ, nếu có thể dùng từ đó, khi Hannibal buộc phải trở thành kẻ ăn thịt người mà sau này sẽ trở thành thương hiệu của hắn” – Theo INDEPENDENT. Sơ lược về nội dung của cuốn sách Mạch truyện được dẫn dắt từ tuổi thơ của Hannibal Lecter kéo dài cho đến khi tên sát nhân này 18 tuổi. Vốn xuất thân từ một gia đình quý tộc và quyền quý, Hannibal từ nhỏ đã thông thạo tận ba thứ tiếng: Anh, Đức và Lít Va. Không những thế, cậu bé Hannibal còn phát triển khả năng của mình ở những môn học khác như toán, lý,… dưới sự giảng dạy của người thầy Jacob. Tuy nhiên, khi chiến tranh ập đến, cậu bé Hannibal đã mất đi những người thân của mình, mà đau thương nhất chính là cô em gái Mischa, khi Hannibal tận mắt chứng kiến cảnh cô em gái của mình bị những tên tội phạm chiến tranh ăn thịt.  Có lẽ vì chính những kí ức đau thương ấy đã tác động đến tâm lý của cậu bé Hannibal hồn nhiên, nhân hậu, thông minh, biến cậu trở thành một kẻ giết người hàng loạt sau này. Khi tương lai của một vĩ nhân, bị phá hoại bởi bom đạn chiến tranh Không phải chỉ riêng trong tác phẩm này mà chúng ta nhìn ra được cái đau thương mà chiến tranh mang lại. Thế chiến thứ hai khi ấy đi qua, để lại cho toàn thế giới với cái chết của hàng triệu người, gắn liền với nó là nỗi đau mất mát. Mất mát không chỉ về thể xác, tinh thần, mà còn mất mát về những hoài bão. Khi nghiền ngẫm về tuổi thơ của Hannibal, có lẽ không ít độc giả sẽ tự mường tượng ra hình ảnh của một vĩ nhân tương lai cùng những giải thưởng danh giá trong các lĩnh vực toán học, vật lý, ngôn ngữ,… “Hannibal Lecter biết đọc từ khi mới chào đời hoặc trong mắt chị vú thì đúng là như vậy. Chị từng có một thời gian ngắn đọc sách cho thằng bé nghe hồi nó lên hai, thường là đọc cuốn truyện cổ Grimm được mình họa bằng các tranh khắc gỗ vẽ những hình người có móng chân nhọn. Thằng bé lắng nghe chị vú đọc, ngả đầu áp vào người chị trong lúc nhìn các trang giấy, sau đó chị vú phát hiện ra thằng bé đang tự mình đọc, tì trán lên cuốn sách rồi nâng người lên cách trang sách một đoạn, đọc thành tiếng theo lối phát âm của chị vú. Cha Hannibal có lòng hiếu kỳ rất mạnh. Xuất phát từ lòng hiếu kỳ về con trai mình, bá tước Lecter đã sai người hầu lôi những cuốn từ điển nặng trịch từ trên giá sách trong thư viện của lâu đài xuống. Từ điển tiếng anh, tiếng Đức cùng hai mươi ba tập từ điển Litva; rồi sau đó Hannibal một mình xử lý đống sách.” “Cũng vào năm Hannibal lên sáu, bá tước Lecter bắt gặp con trai đang tìm cách đo chiều cao của lâu đài dựa vào chiều dài các bóng tháp, làm theo các hướng dẫn mà theo lời thằng bé là do chính Euclid đưa ra. Đến lúc đó, bá tước Lecter bèn tìm các gia sư giỏi giang hơn cho thằng bé – vậy là sáu tuần sau đó, thầy Jakov – một học giả không xu dính túi từ Leipzig – xuất hiện” Nếu không vì chiến tranh, Hannibal của sau này, chắc hẳn đã lẫy lừng trên các mặt báo và truyền thông thời ấy vì những phát kiến vĩ đại của mình. Tuy rằng giọng văn của Thomas Harris không chất đầy sự thương cảm, nhưng bù lại, bằng cách miêu tả về chính tài năng thiên bẩm và khả năng học hỏi không ngừng ấy của Hannibal bị vùi dập bởi chiến tranh, cũng đủ để khơi dậy sự tiếc nuối trong lòng người đọc. Nhưng cái kinh khủng hơn cả, vẫn là nỗi đau tinh thần, thứ đã thật sự biến cậu thành một con quái vật. Mở đầu câu truyện, độc giả hẳn sẽ thấy xao xuyến bởi nét đáng yêu của cô bé Mischa, em gái Hannibal, cũng như cảm nhận được tình anh em gắn bó keo sơn giữa cả hai. Khi chứng kiến cái chết của cha mẹ mình và những người khác dưới sự phá hủy của bom đạn, Hannibal tự nhủ chính mình là bờ vai vững chắc những chăm sóc, đùm bọc cho cô em gái nhỏ bé của mình. Tưởng chừng chỉ phải chống chọi với cái cô độc của mùa đông, nhưng điều kinh hoàng chỉ thật sự ập đến khi những kẻ tội phạm chiến tranh, đứng đầu là Grutas, chiếm giữ và biến Mischa thành bữa ngon của chúng. Sự kiện ấy có lẽ đã đeo bám cậu cho đến mãi sau này, Hannibal vẫn luôn bắt gặp nó trong những giấc mơ, cùng câu nói đã khiến cậu ám ảnh: “Y xoay bộ mặt lấm máu về phía ban công, nhổ một sợi lông dính trong miệng ra rồi nói, “Bọn tao mà không ăn thì sẽ đi đời nhà ma.” Chúng vứt vào trong ngọn lửa album ảnh gia đình Lecter cùng các món đồ chơi bằng giấy của Mischa ,tòa lâu đài của con bé, những con búp bê giấy của nó. Đến lúc này, Hannibal đang đứng trên sàn nhà trước lò sưởi, một cách đột ngột, không hề ý thức được nó đã leo xuống cầu thang như thế nào, và sau đó chúng lại đang ở trong chuồng ngựa, mấy món quần áo nhét giữa rơm, những món quần áo trẻ em thằng bé không nhận ra và cứng quèo vì máu. Đám đàn ông túm tụm tiến lại gần, sờ mó da thịt thằng bé và Mischa. “Mang con bé này đi đi, đằng nào nó chẳng chết. Đi chơi thôi nào, đi chơi thôi nào.” Giờ chúng đang túm lấy con bé, đồng thời cất tiếng hát. “Gã nhỏ bé trong rừng, tĩnh lặng…” ” Đây chính dấu mốc quan trọng mở đầu cho con thú dữ, cho một sự trỗi dậy của tên tội phạm khét tiếng: “Hannibal Lecter”. Những tranh cãi xung quanh mối quan hệ giữa Hannibal và phu nhân Murasaki Murasaki có lẽ là một người phụ nữ sẽ để lại nhiều ấn tượng mạnh cho người đọc khi đã buông quyển sách xuống, không chỉ vì phong thái sắc sảo, thoắt ẩn thoắt hiện đầy bí ẩn của bà, mà còn vì câu chuyện tình cảm giữa bà và Hannibal được giới độc giả tranh cãi một cách rầm rộ kể từ khi quyển sách được ra mắt cho đến nay. Giới thiệu một chút về Murasaki. Khi Hannibal 13 tuổi, cậu được chuyển về cô nhi viện (nhưng thật chất trước đây nơi này chính là lâu đài Lecter, ngôi nhà mà cả gia đình Hannibal đã sinh sống). Do chính tác động tiêu cực trước cảnh tượng em gái mình bị ăn thịt, mà Hannibal trở nên tách biệt với xã hội và không thể nào giao tiếp với những đứa trẻ khác. Cậu trở thành học sinh cá biệt, là cái gai trong mắt những người xung quanh, nhất là các giáo viên trong trường. Chính vì thế, ông Robert Lecter, người em ruột của ba cậu và vợ của ông, phu nhân Seba Murasaki đã quyết định nhận nuôi cậu. Phải chăng một trang mới đã mở ra với Hannibal, khi cậu học được rất nhiều thứ từ ông: cậu học được cách cảm thụ hội họa, cảm nhận những tinh hoa từ các tác phẩm nghệ thuật. Nhưng điều đó chưa phải là hết, bên cạnh Murasaki, cậu tiếp thu thêm được những tinh hoa từ văn hóa nghệ thuật Nhật Bản, từ trà đạo, kiếm đạo cho đến những chiến tích lẫy lừng của những vị Samurai cổ xưa. “ Cánh cửa phòng áp mái ngày xưa vốn được lắp vào một chỗ khác trong ngôi nhà, một khuôn mặt được khắc lên cửa cửa, một cái mặt nạ hài kịch Hy Lạp. Phu ngân Murasaki, cầm theo cây đèn nến, dẫn đường đi sâu vào trong căn phòng áp mái rộng mênh mông, băng qua bộ sưu tập ba trăm năm tuổi những món đồ lưu kho, những rương hòm, đồ trang hoàng Giáng Sinh, đồ trang trí bãi cỏ, các món nội thất bằng liễu gai, trang phục kịch Noh và trang phục kịch Kabuki cùng một dãy con rối dùng cho các lễ hội kích cỡ như người thật treo lủng lẳng trên một thanh xà. Ánh sáng yếu ớt len qua tấm rèm chắn sáng trên cửa sổ mái nằm cách xa cửa vào. Cây nến phu nhân Murasaki đang cầm chiếu sáng một bàn thờ nhỏ một thần bằng nằm đối diện cửa sổ. Trên bàn thờ, đặt ảnh các bậc tổ tiên của cô và của Hannibal. Một đàn hạc giấy, rất nhiều hạc giấy, vây xung quanh các bức ảnh […] Khi phu nhân Murasaki kéo tấm rèm che cửa sổ mái lên, ánh sáng đầu ngày bao trùm lên Hannibal, bao trùm lên sự hiện diện tối đen bên cạnh nó, bao trùm lên bàn chân bọc thép, cây quạt chiến được nắm trong hai bàn tay đeo găng sắt, giáp che ngực và cuối cùng là chiếc mặt nạ sắt và chiếc mũ sắt có sừng của một chỉ huy samurai. Bộ giáp được đặt theo tư thế đang ngồi trên một bệ nâng. Vũ khí của vị samurai, đoản kiếm và trường kiếm, đoản đao và một cây rìu chiến, nằm trên một cái giá phía trước một bộ giáp.” “Có một cuộn giấy da nằm trên cái bệ trước bộ giáp. Cuộn giấy mở ra một đoạn vừa đủ để lộ khung hình đầu tiên, vị samurai mặc giáp trong buổi tiếp kiến tùy tùng. Trong lúc Murasaki bày biện lại thần bằng, Hannibal mở cuộn giấy ra thêm một đoạn nữa, đến khung hình tiếp theo, vị samurai mặc giáp trước một dãy những cái đầu samurai, mỗi một cái đầu kẻ thù đều được đi kèm với cái tên của kẻ đã chết, thẻ tên được gắn vào mái tóc, còn trong trường hợp kẻ này trọc đầu thì thẻ tên được gắn vào tai” Tuy nhiên điều gắn kết lớn nhất mà Hannibal tìm thấy ở phu nhân, có lẽ là sự đồng cảm: “Nếu cháu không muốn nói bằng tiếng Pháp tiếng Anh hay tiếng ý thì chúng ta có thể sử dụng một số từ tiếng Nhật, chẳng hạn như kieuseru. Nó có nghĩa là “biến mất”. Cô để một cuốn hoa xuống, ánh mắt dời khỏi những bông hoa, nhướng lên nhìn thẳng vào thằng bé. “Thế giới Hiroshima của cô đã tan biến trong chớp mắt. Thế giới của cháu cũng bị tước đoạt khỏi cháu. Giờ cháu và cô có một thế giới để chúng ta dựng xây – cùng với nhau. Trong giây phút này, trong căn phòng này.” Như những gì lịch sử ghi lại, hai quả bom nguyên từ giáng xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki vào năm 1945 đã để lại một chấn động trong lịch sử nhân loại bởi sự tàn phá khủng khiếp của nó: hơn 140 ngàn người chết cũng như để lại sự kinh hãi cho những người đã may mắn sống sót qua giây phút hoảng loạn ấy. Và phu nhân Murasaki cũng không nằm ngoài số đó. Mặc dù không đề cập quá rõ những mất mát bà đã từng chịu đựng, nhưng với tính cách rắn rỏi, mạnh mẽ nhưng không kém phần mềm mại của người phụ nữ người Nhật ấy, ta có thể đủ chiêm nghiệm ra những vết xước tâm hồn đủ lớn để làm nên con người của bà lúc này. Vì có mất mát mà có thấu hiểu, một nỗi đau lại gặp gỡ một nỗi đau mà điểm cắt chung của nó là sự mất mát. Tình cảm của Hannibal dành cho Murasaki và ngược lại, thật sự khó nói bởi nó không phải là tình cảm máu mủ đơn thuần, và mỗi người sẽ có một cách cảm nhận khác nhau về nó. Tuy nhiên đứng trên phương diện của mình, nó như là một lời thề sẽ bảo vệ hết mình của Hannibal dành cho bà, một sự đền đáp ơn nghĩa của trò dành cho Thầy. Ta không thể biết rõ rằng, Hannibal đã thật sự dành một tình cảm mãnh liệt cho Murasaki từ giây phút nào. Từ những bài học, từ sự tiếp xúc thường xuyên dưới danh nghĩa cô-cháu của cả hai, hay chính là từ cái chết bất đắc kỳ tử của ông Robert Lecter khi đang ra tay trả thù cho bà? Nhưng có bộc phát lúc nào đi nữa, phải chăng Murasaki đã dần trở thành lý tưởng sống của cậu, vẫn là tín hiệu cho cậu thấy mình vẫn là con người, dù cho chính Hannibal phản lại những lời khuyên khẩn thiết dành cho bà trong những lần tàn sát khốc liệt của mình sau này. Hannibal – Một kẻ giết và ăn thịt người hàng loạt Ở phần này, mình xin phép được gọi Hannibal bằng “hắn”, vì để đúng với cách Thomas gọi Hannibal trong những lần đi “săn người” trong nguyên tác của mình. Tổng số nạn nhân của Hannibal trong cả bộ truyện là 28, và tính riêng tác phẩm này là 6 người. Tuy nhiên, trong bài viết này mình chỉ sẽ đề cập đến Paul Đồ Tể, nạn nhân đầu tiên của Hannibal, và nạn nhân cuối cùng, Grutas, kẻ man rợ và hung hãn năm nào đã nhẫn tâm ra tay sát hại cô em gái Mischa đáng thương của Hannibal. Nói về Paul Đồ Tể, hay Paul Momund cũng vốn là một tội phạm chiến tranh (nhưng giờ hắn là một gã bán thịt), bị rất nhiều người miệt thị và ghét bỏ trong khu chợ. Trong một lần cùng Hannibal đi mua sắm, phu nhân Murasaki đã bị hắn ta xúc phạm với ngôn ngữ miệt thị về dân tộc và thể xác. Điều đó dấy lên nỗi căm phẫn trong lòng Hannibal và khiến cả hai bên xung đột. Nhưng chỉ đến khi ông Robert Lecter lên cơn đau tim khi đang trả thù Paul Đồ Tể và ra đi mãi mãi, thì đó mới là động cơ chính thức để Hannibal ra tay giết chết Momund. Và kinh hãi nhất, sau khi giết chết Paul, Hannibal đã biến tên đồ tể thành bữa trưa của hắn. “Giờ thanh gươm lại vung lên, vạch vào người Paul thành hình chữ X, mắt Paul trợn trừng sửng sốt và gã đồ tể cố tháo chạy, tóm lấy hai bên xương đòn, một dòng máu từ động mạch gã bắn ra xịt vào mặt Hannibal. Hai nhát chém tiếp theo rạch vào phía sau chân Paul và gã đồ tể bị cắt đứt gân kheo đổ sụm xuống, rú lên như một con bò. Paul đồ tể ngồi dựa vào cái cây bị đốn trơ gốc. Hắn không nhấc tay lên được nữa. Hannibal nhìn thẳng vào mặt gã. “Mày có muốn xem tao vẽ gì không?” Thằng bé chìa tập ra. Trên tờ giấy là hình vẽ cái đầu Paul Đồ Tể nằm trên một cái dĩa phẳng, tóc gắn nhãn tên. Cái nhãn đề Paul Momund, Thịt Ngon. Hình ảnh xung quanh rìa tầm nhìn của Paul tối dần lại. Hannibal vung gươm và trong một thoáng, mọi cảnh vật trong mắt Paul chuyển sang tư thế nằm ngang, rồi sau đó, áp sáu máu biến mất và bóng tối bao trùm” Hiển nhiên, kẻ đầu tiên mà cảnh sát đưa vào diện tình nghi chính là Hannibal, nhưng điều khiến cho người đọc vừa ngưỡng mộ, cũng vừa kinh hãi chính là việc hắn có thể đánh lừa cả máy nói dối và thoát tội một cách dễ dàng. Như đã đề cập ở trên, hắn vừa có khả năng về ngôn ngữ lẫn những môn khoa học trí tuệ, thì qua cuộc điều tra này, người ta còn tìm thấy ở con quái vật khả năng thâu tóm cảm xúc lẫn đánh lừa người khác. Điều này không chỉ được đề cập trong Hannibal Trỗi Dậy, mà trong những tập truyện trước của series này, độc giả cũng đã được dịp chiêm ngưỡng khả năng đáng sợ này của hắn ta. Tiếp theo, Vladis Grutas Nhắc đến Grutas, mình không thể nào không căm phẫn trước những chiêu trò đồi bại lẫn tàn nhẫn của hắn ta. Là kẻ cầm đầu trong băng đảng những tội phạm chiến tranh, hắn (hoặc cùng những tên đồng phạm khác), đã từng phạm vào nhiều tội danh khác nhau liên quan tới buôn lậu các tác phẩm tranh vẽ nổi tiếng, buôn người hay kinh khủng nhất: giết người. Dường như cái chết chẳng là gì đối với một con quỷ dữ như gã cả. Sau khi ra tay giết chết hàng loạt những người anh em khác của Grutas bằng những cách thức dã man khác nhau, Hannibal cuối cùng cũng đã tìm ra và kết liễu Grutas trên con thuyền buôn người của gã. “Grutas vội vã tiến về phía khẩu súng, trong lúc đó vẫn nói không ngừng: “Mày đã ăn thịt nó, nửa tỉnh nửa mê, đôi môi mày hau háu ngậm cái thìa”  Hannibal ngẩng đầu nhìn lên trần nhà, hét lên, “KHÔNGÔNGÔNGÔNGÔNG!” và chạy về phía Grutas, giơ cao thanh đoản đao, đè chân lên khẩu súng rồi rạch một chữ “M” lên mặt Grutas, chạy dài suốt từ trán xuống cằm y, vừa rạch vừa gào thét, “ ‘M’ viết tắt của Mischa! ‘M’ viết tắt của Mischa! ‘M’ viết tắt của Mischa!’ Grutas giật lùi trên sàn và Hannibal rạch một chữ “M” to tướng lên người y.” Nhịp văn nhanh và gấp rút, đủ để mình thấy ớn lạnh với hình ảnh cái xác của gã ta nằm lăn lóc dưới tay của Hannibal. Quả thật cách giết người của hắn vô cùng tinh vi, khéo léo, hay nói cách khác, đầy nghệ thuật bởi những điều hắn đã học được từ hội họa và phẫu thuật học. Nhưng nếu lật lại tuổi thơ của Hannibal, nó vẫn để lại cho mình một sự tiếc nuối, khi một thiên tài đã mãi mãi nằm lại ở hố sâu địa ngục, một con quỷ dưới hình dạng con người với sự thèm khát máu thịt, mà đến mức Popil, viên cảnh sát chuyên điều tra những sự việc liên quan đến hắn phải thốt lên: “Giờ hắn là gì? Hiện tại, ta vẫn chưa tìm được cách gọi chính xác. …, chúng ta cứ gọi hắn là con quái vật đi.” Lời kết Tuy là tập cuối cùng được sản xuất trong cả vũ trụ Hannibal, thế nhưng bạn đọc có thể yên tâm tìm đọc nó đầu tiên bởi lẽ “Hannibal Trỗi Dậy” tường thuật lại những sự kiện đầu tiên của cả cuộc đời hắn ta, nhất là về nguồn gốc con quái vật luôn ngự trị trong hắn. Điều khác biệt nhất so với ba tập truyện còn lại, chính là mình nhìn thấy một Hannibal với nhiều cung bậc cảm xúc cùng nhiều mặt tính cách hơn của hắn. Từ một cậu bé lanh lợi, sang một sinh viên tài ba, cho đến một quý ông lãng mạn trong mắt Murasaki, và cuối cùng, con quái vật ăn thịt người man rợ. Mình tin rằng sẽ không hiếm độc giả sẽ cảm thấy rợn tóc gáy với những chiêu trò giết người tinh xảo của hắn, cũng như thán phục trước đầu óc của một tên thiên tài điên loạn. Vì vậy, sau khi buông quyển sách xuống, hãy dành chút ít thời gian xem thêm phiên bản điện ảnh của tác phẩm này nhé, chắc chắn sẽ không làm bạn thất vọng đâu. “Cô có nghĩ là Chúa muốn ăn thịt Isaac không, bởi vậy nên ngài mới bảo Abraham giết chết cậu ta?” Hannibal hỏi. “Không, Hannibal. Tất nhiên không phải thế. Thiên thần đã can thiệp kịp thời” “Không phải lúc nào cũng vậy,” Hannibal nói. Review chi tiết bởi: Trọng Kiên – Bookademy Mời các bạn đón đọc Hannibal Trỗi Dậy của tác giả Thomas Harris.