Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Robin Hood Chúa Trộm Oai Hùng

Alexandre Dumas - một tên tuổi rất thân thuộc với bạn đọc Việt Nam qua các tiểu thuyết : Bá tước Môngto Crixto , Hai mươi nǎm sau, Ba người lính ngự lâm  Robin Hood - Chúa trộm oai hùng, diễn ra trong hoàn cảnh lịch sử nước Pháp vào những nǎm 1160.  Với ngòi bút linh hoạt và sức tưởng tượng hết sức phong phú, Alexandre Dumas đã hấp dẫn người đọc qua những tình tiết hết sức bất ngờ, hồi hộp, hấp dẫn, lý thú, pha chút châm biếm khi miêu tả nhân vật chính - người anh hùng Robin Hood.  *** Dưới triều đại vua Henry đệ nhị, vào năm Gia-tô kỷ nguyên 1162: một buổi chiều, hai khách du hành, quần áo vấy bẩn vì đường trường, vẻ mặt tiều tuỵ vì mệt mỏi, đi qua những lối nhỏ của khu rừng Sherwood, trong lãnh địa bá tước Nottingham. Không khí giá lạnh; cây cối mới bắt đầu trổ lá xanh phớt tháng Ba, rung nhẹ trong làn gió bấc cuối cùng của mùa đông, một lớp sương mù ảm đạm tràn lan khắp vùng trong lúc những tia nắng tà tắt lịm trong những đám mây đỏ tím ở chân trời. Chẳng bao lâu bầu trời mù mịt tối tăm, những cơn gió lạnh lướt qua khu rừng, báo trước một đêm dông tố. Người tuổi tác hơn trong hai khách du hành trùm kín mình trong chiếc áo choàng, nói: — Này Ritson, gió thổi dữ lắm, mi có sợ rằng ta sẽ gặp bão trước khi tới nơi không? Chúng ta có thực đi đúng đường không? Ritson đáp: — Thưa các hạ, chúng ta đang tiến thẳng tới đích: nếu tôi không nhớ sai, thì một tiếng nữa chúng ta sẽ gõ cổng nhà người gác rừng. Hai người khách lạ im lặng bước đi trong ba khắc đồng hồ. Người mà bạn đồng hành xưng là các hạ bồn chồn lớn tiếng hỏi: — Chúng ta sắp tới nơi chứ? — Thưa các hạ, mười phút nữa thôi. — Được, nhưng cái người gác rừng mà mi gọi là Head đó có đáng để ta tin cậy không? — Hoàn toàn đáng tin, thưa các hạ, Head, anh rể tôi, là người thô lỗ, thực thà, ngay thẳng; anh ta sẽ kính cẩn lắng nghe cái câu chuyện kỳ lạ do Đức Ông bày đặt ra, anh ta sẽ tin ngay; anh ta chẳng biết thế nào là nói dối, cũng chẳng biết ngay cả ngờ vực là gì nữa. Kìa, thưa các hạ, - Ritson ngừng khen ngợi người gác rừng vui vẻ kêu lên, - xin hãy trông phía dưới kia làn ánh sáng phản chiếu nhuộm màu cây cối, nó tỏa ra từ căn nhà của Gilbert Head đấy! Hồi còn trẻ, mỗi buổi chiều khi chúng tôi đi săn mệt mỏi trở về, biết bao lần tôi đã sung sướng vui chào vì tinh tú này của gia đình! Ritson đứng im lặng mơ màng, mắt đăm đăm cảm động nhìn làn ánh sáng chập chờn, nhắc nhở y những kỷ niệm dĩ vãng. Nhà quí tộc chẳng để ý gì đến nỗi xúc động của tên đầy tớ, cất tiếng hỏi: — Thằng bé ngủ à? Ritson, vẻ mặt tức thời trở lại hoàn toàn hờ hững, trả lời: — Dạ, thưa các hạ, nó ngủ say lắm. Tôi thực không hiểu sao Đức Ông lại phải nhọc lòng giữ gìn mạng sống của một đứa bé có hại cho quyền lợi của ngài đến thế. Nếu ngài muốn dứt bỏ hẳn thằng bé đó đi, thì tại sao ngài lại không đâm cho nó một nhát dao vào tim? Tôi xin tuân lệnh ngài, xin ngài cứ nói đi. Để thưởng tôi, xin ngài hãy hứa viết tên tôi vào tờ di chúc của ngài, và thế là thằng bé ngủ khì kia sẽ chẳng bao giờ thức dậy nữa. — Mi im đi, - nhà quí tộc bỗng nhiên nói tiếp, - ta không thích cái chết của thằng bé vô tội này. Ta có thể sợ sau này sẽ có ngày bị tiết lộ ra, nhưng ta thà phải lo âu về nỗi sợ hãi đó còn hơn là phải ăn năn cắn rứt vì tội ác. Vả chăng, ta có lý do để hy vọng và ngay cả tin tưởng rằng tấm màn bí mật bao trùm lên sự ra đời của đứa bé này sẽ chẳng bao giờ bị vén lên cả. Nếu như có sự xảy ra khác thế, thì đó chỉ có thể là công trình của mi thôi, Ritson ạ; ta đoán chắc với mi rằng suốt đời ta lúc nào cũng nghiêm ngặt canh chừng các hành vi, cử động của mi. Dù được nuôi nấng như một gã quê mùa, thằng bé này sẽ không phải chịu cảnh tầm thường của thân phận mình, trong thân phận này nó sẽ tự tạo cho mình một hạnh phúc hợp với các sở thích và thói quen của nó, và nó sẽ chẳng bao giờ phải tiếc cái tên họ và tài sản mà nay nó bị mất đi mà không hề biết. — Mong sao các hạ được toại nguyện! - Ritson lạnh lùng đáp; - nhưng thực ra thì mạng sống của một đứa bé oắt như thế này chẳng đáng để ta phải nhọc nhằn đi từ Huntingdonshire đến Nottinghamshire. Cuối cùng hai khách du hành đặt chân xuống đất trước một ngôi nhà xinh đẹp giống như một cái tổ chim ẩn náu trong đám rừng rậm. — Anh ơi! Anh Head ơi! - Ritson kêu to bằng một giọng vui vẻ, sang sảng, - anh ơi! Mở cửa mau lên; mưa dữ quá, đứng đây tôi trông thấy ánh lửa cháy hồng trong lò sưởi của anh. Mở cửa ra, có người bà con xin được tiếp đãi đây. Bầy chó sủa vang ở phía trong nhà, người gác rừng thận trọng thoạt tiên đáp: — Ai gõ đó? — Một người bạn. — Bạn nào? — Roland Ritson, em anh đây. Mở cửa ra, anh Gilbert. — Cậu đấy à, có phải Roland Ritson, ở Mansfeld không? — Phải, phải, chính em đây, em của chị Marguerite. Nào, anh mở ra chứ? - Ritson bồn chồn nói thêm; - anh em mình sẽ trò chuyện ở bàn ăn. Sau cùng cửa mở ra, hai người khách bước vào. Gilbert Head thân mật bắt tay em rể, rồi lễ phép chào nhà quí tộc: — Thưa ngài kỵ sĩ, tôi rất hân hạnh được tiếp đón ngài. Xin ngài thứ lỗi cho: vừa đây tôi đã thất lễ, để cho cửa đóng giữa ngài và gia đình tôi. Chỗ này hẻo lánh, lại thêm bọn đạo tặc lảng vảng trong rừng, bắt buộc tôi phải thận trọng, bởi vì muốn thoát khỏi hiểm nghèo mà chỉ có dũng cảm và sức mạnh thôi thì không đủ. Thưa quí khách, ngài hãy nhận cho lời tạ lỗi của tôi, và hãy xem nhà tôi đây như nhà của ngài vậy. Mời ngài đến ngồi bên lò sưởi cho khô quần áo, tôi bảo người đi chăm lo cho ngựa của ngài. Lincoln ơi! - Gilbert mở hé cửa phòng bên nói to, - hãy dắt ngựa của quí ngài đây đến nhà kho, vì chuồng nhỏ quá không đủ chỗ tiếp nhận, đừng để chúng thiếu gì cả nhé: bỏ cỏ khô cho đầy máng, chất rơm cho thật nhiều vào. Một gã quê bận y phục kiểm lâm tức thì xuất hiện, bước qua phòng, rồi đi ra ngoài chẳng hề tò mò đưa mắt nhìn các người mới tới; sau đó một phụ nữ xinh đẹp, trạc ba mươi tuổi, đến đưa tay và trán cho Ritson hôn. — Chi Marguerite! Chị thân yêu! - Ritson kêu to, vừa vuốt ve vừa trông ngắm người chị với một niềm thán phục hồn nhiên pha lẫn kinh ngạc; - chị chẳng có chi thay đổi cả, vẫn vầng trán thanh khiết, vẫn cặp mắt sáng chói, môi và má vẫn tươi hồng như độ nào anh Gilbert theo tán tỉnh vậy. — Đó là vì chị sung sướng đấy, - Marguerite đưa mắt dịu dàng nhìn chồng đáp lời. — Em có thể nói: chúng tôi sung sướng, em Maggie ạ, - người gác rừng trung thực nói thêm. - Nhờ em vui tính, nên nhà ta chưa hề có dỗi hờn, cãi lộn. Nhưng về chuyện đó nói thế là đủ rồi, ta phải nghĩ đến khách chứ… Nào! Cậu em, hãy cởi áo choàng ra, còn ngài kỵ sĩ, xin hãy giữ hết nước mưa đầm đìa trên y phục giống như giũ hạt sương mai đọng trên lá cây. Rồi chúng ta dùng bữa tối. Lẹ lên, em Maggie, bỏ vào lò một hai bó củi, bày lên bàn những món ăn ngon, trải lên giường những tấm khăn trắng nhất; lẹ lên, em. Trong khi người thiếu phụ mau mắn làm theo lời chồng, Ritson hất áo choàng xuống phía sau, để lộ ra một đứa bé xinh đẹp bọc trong một chiếc áo lông xanh. Đứa bé mới mười lăm tháng, khuôn mặt tròn trăn, đỏ tươi, báo trước một sức khỏe hoàn toàn và một thể chất tráng kiện. Khi Ritson đã cẩn thận vuốt thẳng những nếp nhàu trên mũ của đứa bé, y đặt cái đầu nhỏ xinh của nó xuống dưới một tia ánh sáng, làm nổi bật lên tất cả vẻ đẹp, rồi nhẹ nhàng gọi chị. Marguerite chạy mau đến. — Chị Maggie, - Ritson nói, - em có một món quà tặng chị, để chị khỏi trách em là trở về với hai bàn tay trống không sau tám năm trời vắng mặt… Nào, chị hãy nhìn xem cái em đem tới cho chị đây. — Lạy thánh bà Marie! - Người thiếu phụ chắp tay lại kêu lên, - lạy thánh bà Marie, một thằng bé! Nhưng mà, cậu Roland, có phải chú thiên thần xinh đẹp này là của cậu không? Anh Gilbert, anh Gilbert, hãy lại đây mà xem một thằng bé đáng yêu quá.. — Một thằng bé! Một thằng bé trong tay Ritson à! - Không phấn khởi như vợ, Gilbert đưa mắt nghiêm khắc nhìn về phía em vợ, trầm giọng nói. - Này cậu, từ khi hết làm lính cậu đã thành người nuôi con nít ư? Sao mà kỳ cục vậy, chạy rông khắp đồng quê với đứa bé bọc trong tấm áo choàng! Thế là nghĩa lý gì kia chứ? Tại sao cậu lại đến đây? Thằng bé này là thế nào? Cậu hãy nói đi, hãy nói thực, tôi muốn biết tất cả mọi chuyện. — Thằng bé này không thuộc về tôi, anh Gilbert ạ; nó mồ côi, vị quí tộc đây mới là người bảo hộ nó. Đức Ông quen biết gia đình chú thiên thần này, ngài sẽ nói anh biết vì sao, chúng tôi tới đây. Này chị Maggie, trong lúc chờ đợi, xin chị hãy nhận cho cái của báu này, nó trĩu nặng trên cánh tay em từ hai ngày… tức là hai giờ. Em chán cái vai trò vú em này lắm rồi. Marguerite hăm hở giật lấy thằng bé đang ngủ, đem vào phòng mình, đặt lên giường, hôn tới tấp lên tay và cổ, bọc ấm trong tấm áo choàng đẹp mặc trong dịp lễ, rồi trở lại chỗ khách ngồi. Bữa ăn tối trôi qua vui vẻ; lúc cuối bữa, nhà quí tộc nói với người gác rừng: — Bà nhà rất khả ái, tỏ ra quan tâm tới thằng bé này, vì vậy tôi quyết định đưa ra với ông một đề nghị dính dáng với hạnh phúc tương lai của ông. Nhưng trước hết, xin cho phép tôi được trình bày ông rõ một số chi tiết đặc biệt về gia đình, sự sinh ra và thân phận hiện nay của đứa trẻ mồ côi khốn khổ mà tôi là người bảo hộ độc nhất. Cha nó là bạn đồng ngũ cũ của tôi trong thời niên thiếu, giữa nơi doanh trại; ông là bạn tốt và thân nhất của tôi. Khoảng đầu triều đại đức vua Henry đệ nhị, chúng tôi cùng đóng với nhau tại Pháp, khi thì ở Normandie, khi thì ở Aquitaine, khi thì ở Poiton; sau mấy năm cách biệt, chúng tôi gặp lại nhau trong xứ Galles. Anh bạn tôi, trước khi rời Pháp, có yêu say đắm một thiếu nữ, đã cưới rồi đem cô ta về Anh ở với gia đình mình. Chẳng may gia đình này lại thuộc một chi phái của một nhà vương giả, vốn tự hào, kiêu hãnh, đây óc thành kiến, không chịu thâu nhận người thiếu phụ đó, cô ta thì nghèo, chỉ có sự cao quí về tình cảm mà thôi. Sự sỉ nhục đó đập mạnh vào tim cô ta, cô ta chết tám ngày sau khi cho ra đời đứa bé mà tôi muốn cậy ông coi sóc; nó không còn cha nữa, vì anh bạn khốn khổ của tôi đã bị thương vong trong một trận chiến ở Normandie, nay đã mười tháng. Những ý nghĩ của bạn tôi lúc sắp chết là hướng về đứa con trai, anh ta kêu tôi đến, vội vàng cho tôi biết tên và địa chỉ của bà vú nuôi đứa bé, rồi yêu cầu tôi nhân danh tình thâm giao của chúng tôi mà nhận làm chỗ nương tựa, người bảo hộ cho đứa con côi. Tôi thề và tôi giữ lời thề, nhưng sứ mạng của tôi thực khó nhà làm trọn vẹn, thưa ông Gilbert, tôi còn là quân nhân, sống trong doanh trại hoặc ngoài chiến trường, không thể tự mình trông nom đứa bé yếu ớt này được. Về mặt khác, tôi không có bà con, bè bạn nào để có thể gửi gắm báu vật này mà không sợ cả. Tôi không còn biết khấn vái thần thánh nào nữa, thì một ý nghĩ chợt đến với tôi là nên hỏi Roland Ritson, là em vợ ông: anh ta tức thì nghĩ ngay đến ông, anh ta nói với tôi rằng, đã tám năm rồi xe duyên với một người vợ đức hạnh, đáng kính, ông vẫn chưa có được hạnh phúc làm cha, chắc chắn ông sẽ vui lòng đón nhận vào dưới mái nhà một trẻ mồ côi khốn khổ, con trai của một quân nhân dũng cảm. Nếu như Chúa ban cho đứa bé này mạng sống và sức khỏe, nó sẽ là người sống kề cận tôi trong lúc tuổi già; tôi sẽ kể lại cho nó nghe câu chuyện đau buồn và vẻ vang của đấng sinh thành ra nó; tôi sẽ dạy nó bước đi vững chắc trong cùng những nẻo đường mà chúng tôi, người cha oai dũng của nó và tôi, đã bước đi. Trong khi chờ đợi, xin ông nuôi nấng thằng bé giống như nó là con ông, mà ông sẽ chẳng phải nuôi nấng không công đâu, tôi xin đoan quyết với ông như vậy. Thưa ông Gilbert, xin ông hãy trả lời: ông có chấp nhận đề nghị của tôi không? Nhà quí tộc lo âu chờ đợi lời đáp của người gác rừng. Người gác, trước khi giao ước, đưa mắt nhìn vợ dò hỏi; nhưng bà Marguerite xinh đẹp ngoảnh đầu đi rồi, nghiêng cổ hướng về phía phòng bên, bà tươi cười lắng nghe tiếng đứa bé thở thì thào nhỏ nhẹ. Ritson, lén liếc mắt nhận xét về mặt của đôi vợ chồng, biết rằng chị mình đã sẵn lòng giữ đứa bé, mặc dầu Gilbert còn do dự, liền nói bằng giọng thuyết phục: — Tiếng cười của chú thiên thần này sẽ tạo nên niềm vui của gia đình chị, chị Maggie hiền hòa ạ. Lạy thánh Pierre! Tôi đoan chắc với chị như vậy, chị sẽ còn được nghe một thứ tiếng nữa cũng chẳng kém vui đâu, đó là tiếng những đồng ghi-nê mà Đức Ông đây hàng năm sẽ rót vào tay chị. Chà! Tôi trông thấy chị đã giàu có và luôn luôn sung sướng, dắt tay thằng bé xinh đẹp này trong các cuộc hội hè trong vùng, nó sẽ gọi chị là mẹ: nó sẽ ăn vận giống như một ông hoàng, sáng chói như vầng thái dương, còn chị thì rạng rỡ vì vui thú và kiêu hãnh. Marguerite không trả lời gì cả, nhưng nhìn Gilbert mà cười. Gilbert thì lặng lẽ, khiến cho nhà quí tộc hiểu lầm. Ông chau mày nói: — Thế nào, ông Gilbert, ông do dự sao? Đề nghị của tôi không vui lòng ông ư? — Xin lỗi ngài, đề nghị của ngài khiến tôi rất vui, chúng tôi sẽ giữ chú bé này, nếu như Maggie không thấy có chi trở ngại. Mình ơi, em nghĩ gì cứ nói ra, ý em sẽ là ý anh. — Vị quân nhân dũng cảm này có lý lắm, - thiếu phụ đáp; - ngài không thể nào nuôi nấng chú bé này được. — Thế thì sao? — Thì sao ư? Em sẽ là mẹ nó, chứ còn sao nữa. - Rồi hướng về phía nhà quí tộc, bà nói thêm: - Nếu một ngày nào đó ngài muốn lấy lại cậu con nuôi này, chúng tôi sẽ đau lòng mà trả lại ngài, nhưng chúng tôi sẽ tự an ủi dẫu rằng mất nó, vì nghĩ rằng từ đây được gần ngài, nó sẽ sung sướng hơn là ở dưới mái nhà tầm thường của một kẻ gác rừng nghèo khổ. — Lời của vợ tôi là một cam kết, - Gilbert nói tiếp, - còn về phần tôi, tôi thề coi sóc chú bé này và làm cha của nó. Thưa ngài kỵ sĩ, đây là bảo chứng cho lòng thành tín của tôi. Ông rút một chiếc bao tay ở thắt lưng ra, ném lên mặt bàn. Nhà quí tộc cũng ném một chiếc bao tay lên bàn, trả lời: — Thành tín đáp lại thành tín, bao tay đền lại bao tay. Bây giờ cần phải thỏa thuận về khoản tiền ăn ở của thằng bé. Nào, ông hãy cầm lấy số tiền này; hàng năm ông sẽ nhận được bằng ngần ấy. Rút từ phía dưới tấm áo ngắn ra một túi da nhỏ đựng đầy tiền vàng, nhà quí tộc cố gắng đặt túi đó vào tay người gác rừng. Nhưng ông ta từ chối không nhận. — Xin ngài hãy giữ lại số vàng này; bánh mì và những cái vuốt ve của Marguerite thì không bán đâu. Một lát lâu sau cái túi da nhỏ từ tay Gilbert được đưa trả lại nhà quí tộc. Cuối cùng người ta điều đình rồi đồng ý, theo đề nghị của Marguerite, là số tiền ăn ở được trả hàng năm cho đứa bé sẽ được để vào một nơi chắc chắn, để rồi sẽ trao lại cho nó khi đến tuổi trưởng thành. Sự việc đã được dàn xếp vừa lòng tất cả, mọi người chia tay nhau, đi ngủ. Rạng sáng hôm sau, Gilbert trở dậy, thèm thuồng ngắm những con ngựa của khách; Lincoln đang bận chải ngựa. Gilbert nói với người đầy tớ: — Con vật đẹp ơi là đẹp! Chẳng ai tin là chúng vừa mới rong ruổi suốt hai ngày trời, vì chúng tỏ ra còn mạnh mẽ lắm. Lạy Chúa! Chỉ có các ông hoàng mới được cưỡi những con tuấn mã như thế này, hẳn là chúng phải đáng giá cả khối bạc to sụ như hai con ngựa của ta. Nhưng mà ta đã quên khuấy mất chúng, những bạn đồng hành khốn khổ này! Máng cỏ của chúng chắc là trống không. Thế rồi Gilbert bước vào chuồng ngựa. Chuồng vắng tanh vắng ngắt. — Sao thế này, chúng không còn ở đây. Ôi! Lincoln ơi, mày đã dắt ngựa ra đồng cho ăn cỏ phải không? — Thưa ông chủ, không. — Thực lạ lùng quá, - Gilbert nói lẩm bẩm; rồi xúc động vì một dự cảm thầm kín, ông chạy xông vào phòng của Ritson. Ritson không có mặt tại đây. Nhưng có lẽ cậu ta đã đi đánh thức ngài quí tộc, Gilbert bụng bảo dạ như vậy trong khi bước sang phòng của vị kỵ sĩ. Phòng này vắng tanh. Marguerite bế thằng bé mồ côi xuất hiện. Gilbert , kêu lên: — Mình ơi, ngựa của ta biến mất rồi! — Làm sao lại có thể thế được! … — Họ đã cưỡi ngựa của ta đi, mà bỏ ngựa họ lại cho chúng ta. — Nhưng vì sao họ lại bỏ ta mà ra đi như vậy kia chứ? — Hãy đoán xem, Maggie ạ, anh chẳng biết gì cả về chuyện này. — Có lẽ họ muốn giấu không cho ai biết họ đi hướng nào. — Thế thì có lẽ họ đã làm điều chi xấu xa phải tự trách mình chăng? — Họ không muốn cho ta biết trước họ lấy ngựa ta thế cho ngựa mệt lử của họ. — Không phải thế đâu: không ai cho là ngựa của họ đã đi tám ngày, vì sáng nay chúng còn tỏ ra lanh lẹ, mạnh mẽ lắm. — Kỳ lạ quá! Thôi đừng nghĩ đến nữa! Nào, hãy ngắm xem thằng bé xinh đẹp biết bao, đang cười kia kìa. Hãy hôn nó đi. — Rất có thể là vị quí tộc không quen biết đó vì muốn đền ơn ta nên đã đổi hai con ngựa đáng giá của ông ta lấy hai con ngựa già khọm của mình. — Có lẽ thế; vì sợ mình từ chối, ông ta đã ra đi trong lúc mình còn ngủ. — Ừ! Nếu quả là như vậy, tôi xin hết lòng cảm tạ ông ta; nhưng tôi chẳng hài lòng về cậu Ritson chút nào, cậu ta phải chào mình mới phải. — Ồ! Thế ra anh không biết, từ khi cô Annette, em gái khốn khổ của anh, vợ chưa cưới của cậu ta, chết đi, Ritson xa lánh vùng này hay sao? Cái cảnh hạnh phúc của vợ chồng mình sẽ gợi lại nỗi khổ của cậu ta. Gilbert thở dài thườn thượt đáp: — Em nói đúng. Annette đáng thương! Marguerite nói tiếp: — Trong vụ này phiền nhất là chúng ta không có cả họ tên, lẫn địa chỉ của vị bảo hộ thằng bé đó. Nếu nó bệnh, thì ta biết báo cho ai? Còn nó nữa, chúng ta sẽ gọi làm sao đây? — Hãy chọn tên cho nó, Marguerite ạ. — Anh hãy tự mình chọn lấy đi, Gilbert; nó là con trai, thì việc này là thuộc phần anh. — Ừ! Nếu em thích, chúng ta sẽ cho nó tên của người anh mà anh đã rất yêu mến; anh không thể nghĩ đến Annette mà không tưởng nhớ đến anh Robin bất hạnh. — Được rồi, thế là nó được đặt tên, và đây là thằng Robin dễ thương của chúng mình! Marguerite vừa nói to vừa phủ đầy những nụ hôn lên mặt đứa bé, nó cười với bà ta như thể bà Marguerite hiền hòa kia là mẹ sinh ra nó. Như vậy là đứa trẻ mồ côi ấy được đặt tên là Robin Head. Sau này, không hiểu vì sao, tiếng Head được đổi thành Hood, và đứa bé xa lạ này lừng lẫy tiếng tăm dưới cái tên Robin Hood. Một thứ tiền tệ xưa của nước Anh. Mời các bạn đón đọc Robin Hood Chúa Trộm Oai Hùng của tác giả Alexandre Dumas & Cao Xuân Hạo (dịch) & Trần Hoàng Ly (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Không Chồng Tôi Vẫn Sống - Kaui Hart Hemmings
Cuốn sách này là một tác phẩm hư cấu. Bất kỳ những sự kiện lịch sử, những người thật hoặc những địa danh có thật nào được nhắc tới đều được sử dụng với tư cách là tình tiết hư cấu. Các danh tính, nhân vật, địa danh, và sự kiện khác đều là sản phẩm của trí tưởng tượng của tác giả, và bất kỳ sự trùng hợp nào với những sự kiện hoặc địa danh hoặc con người, còn sống hay đã khuất, đều hoàn toàn là ngẫu nhiên. Mele Bart, một cô nàng San Francisco trẻ trung và xinh đẹp, đã đồng ý trở thành phù dâu trong đám cưới anh bạn trai cũ tệ bạc. Anh ta đã từng kiên quyết chia tay dù biết Mele đã có thai. Vấn đề ở đây là, Mele có nên đưa cô con gái Ellie 2 tuổi rưỡi tới tham dự đám cưới của bố nó? Trước khi đám cưới diễn ra, để tránh nghĩ nhiều, Mele đã tham gia một cuộc thi viết sách nấu ăn. Cảm hứng của Mele được chắt góp từ những trải nghiệm thú vị nhưng cũng đầy cam go mà cô có được khi là một bà mẹ đơn thân. Và Mele rút ra được một châm ngôn sống cho chính mình: “Khi đắm chìm trong thức ăn và những câu chuyện của người khác, nỗi buồn của bạn sẽ tan biến”. Nhưng dù sao, việc tự làm mình phân tâm đâu ngăn cản thời gian? Mele sẽ làm gì khi ngày cưới của bố Ellie ngày càng đến gần, và những cảm xúc của cô đang hỗn loạn hơn bao giờ hết? “Không chồng tôi vẫn sống” sẽ cho bạn đáp án theo một cách thật bất ngờ, nhiều xung đột, đầy ắp cảm xúc và không kém phần hóm hỉnh. Tác phẩm là câu chuyện về sự trưởng thành, tình mẹ, về việc học cách chữa lành những thương tổn và tiếp tục cuộc sống; về những khó khăn của người phụ nữ khi nuôi dạy con cái, và điều đó đáng trân trọng như thế nào *** B uổi chiều chứa đựng lời hứa hẹn rằng nó sẽ sớm trôi qua. Một tia nắng vàng đồng rơi xuống qua những đám mây, không khí trở nên lạnh sắc hơn, và những chiếc đèn pha halogen từ những chiếc xe hơi trên phố Fell and Oak khiến khu vui chơi nhỏ sáng lên như sân khấu. Mele Bart đang nhai hạt điều đựng trong chiếc cốc in hình nhân vật hoạt hình Dora và quan sát con gái cô chơi trên chiếc cầu trượt màu hồng. Ellie, một sai lầm tuyệt vời, đã được hai tuổi rưỡi. Thật kỳ diệu. Mele còn nhớ lúc đưa cô bé về nhà từ bệnh viện, cái đầu bé nhỏ của bé còn chưa vừa với tấm đệm hỗ trợ của ghế ngồi xe hơi. Mele liên tục nhìn lại phía sau trong sự cảnh giác. Hai ngày trước cô rời khỏi căn hộ một mình và giờ thì cô đang quay lại cùng với một đứa bé. Trong những tuần đầu tiên, có những lúc Ellie khóc và khóc, cô bé luôn lắc đầu quầy quậy, khi đó Mele chỉ muốn ném cô bé ra ngoài cửa sổ. Cô khóc theo con, tự hỏi cuộc đời của một bà mẹ đơn thân sẽ trở nên như thế nào, khi mà tình yêu của cuộc đời cô đã đá cô để quay lại với tình yêu của cuộc đời anh ta. Nhưng giờ đây, khi cô nhìn con gái mình, cô tự hỏi trước khi có con bé thì cuộc đời thậm chí có gì là tốt đẹp. Cô đã có những gì? Cô đã làm gì trong suốt thời gian đó? Xem phim, ăn sáng muộn, viết truyện ngắn, nấu ăn cho những người phụ nữ, tổ chức tiệc tối cho những người phụ nữ mà họ dường như cũng chẳng đáng quý mến là mấy. Tuy nhiên, điều đó không giảm bớt sự phẫn nộ của cô đối với gã người yêu cũ nói dối như cuội của mình. Ellie đang tự nói chuyện với mình trên xích đu bằng lốp xe – cô bé có vẻ khá là hống hách trong thế giới tưởng tượng của riêng mình. Trong cuộc sống trước kia của Mele, cô chưa từng làm việc này: ngồi trong khu vui chơi và điền bảng câu hỏi cho Cuộc thi viết Sách Nấu ăn của Câu lạc bộ Làm Mẹ San Francisco. Cô thậm chí chưa từng lường trước việc cô sẽ gia nhập một câu lạc bộ làm mẹ, nhưng chỉ sau một vài tháng suốt ngày ở bên con gái, cô biết rằng cô cần tìm kiếm một cuộc sống khác đằng sau những bức tường căn hộ của họ, vì lợi ích của cô và đứa trẻ. ... Mời các bạn đón đọc Không Chồng Tôi Vẫn Sống của tác giả Kaui Hart Hemmings.
Đốt Đời - Đào Hiếu
Trong tác phẩm này có một nhân vật nữ tên Ngọc. Tất nhiên ngoài đời “nhân vật” ấy có tên khác. Mà không phải là một người. Thật ra nhân vật Ngọc trong truyện là do hai người ngoài đời ghép lại. Một cô năm nay mới 21 tuổi, tạm gọi là cô A, một cô 28 tuổi, tạm gọi là cô B. Cách đây hơn một tháng, tôi nhận được điện thoại của mẹ cô A, báo tin cô bị bệnh rất nặng. Tôi hỏi bệnh gì, bà chỉ khóc, không nói. Tôi đến nhà thăm. Đó là một phòng trọ chừng 12 mét vuông, 5 người ở. Cha, mẹ, cô A và người chị, cộng với một bé trai con của người chị. *** Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Truyện ngắn và tạp văn Bầy chim sẻ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1982. Những bông hồng muộn, Nhà xuất bản Trẻ 1999. Tình địch, Nhà xuất bản Trẻ 2003. Thơ Đường phố và thềm nhà, Nhà xuất bản Trẻ 2004. *** Chung Quanh Tác Phẩm “Nổi Loạn" Cuộc phóng vấn do tác giả Đoàn Giao Thủy, Báo “Diễn Đàn Paris” thực hiện và đăng trên số 28 phát hành tháng 3/1994 tại Pháp. Trong sáu tháng cuối năm 1993, cuốn tiểu thuyết NỔI LOẠN của Ðào Hiếu đã nổi lên như một sự kiện văn học ở Thành Phố Hồ Chí Minh. Trong chừng mực nào đó: có thể gọi “vụ án NỔI LOẠN”, bởi vì đã có lời buộc tội đăng trên báo chí, cuốn sách đã bị tịch thâu và tác giả đã bị bắt giam và truy tố. So với các vụ án văn nghệ trước kia, đây chỉ là một vụ án nhỏ, song nhìn chung không có gì thay đổi về phương pháp của nhà cầm quyền dùng để triệt hạ một tác phẩm: tác phẩm bị kết án, tác giả bị đi tù, song tác giả không được quyền giải thích công khai về tác phẩm của mình. Chỉ có một điều là ở cuối thể kỷ thứhai mươi này việc bỏ tù một nhà văn vì tác phẩm của họ không còn dễ dàng như xưa nữa! Trong lần về thăm Việt Nam vừa qua tôi có dịp nói chuyện với nhà văn Ðào Hiếu cũng như nhiều người có thẩm quyền trong giới văn nghệ sĩ ở Sài Gòn về cuốn sách và các sự kiện chung quanh nó. Khi đó khả năng anh bị bắt giam đã được nêu ra. Trở lại Âu châu được tin anh bị bắt thật, tôi tự thấy có trách nhiệm giới thiệu những lời trao đổi với anh mà tôi ghi được. Như một chứng từ! Như quyền trả lời của một người bị buộc tội. Phải nói ngay rằng đây không phải là một phân tích về nội dung cuốn sách: xin dành phần đó cho bạn đọc hay các nhà chuyên phê bình văn học. Trước khi đi vào phần trao đổi, có lẽ cần nói đôi điều về tác giả cũng như bối cảnh của vụ án. *** T ác giả: Du Tử Lê Với vốn sống phong phú, nếu không muốn nói là "ngoại khổ", óc nhận xét tinh tế và kinh nghiệm "trận-địa-chiến-tiểu-thuyết", Đào Hiếu, theo tôi, là một trong rất ít nhà văn hàng đầu ở lãnh vực hiện-thực-xã-hội. Hư cấu nếu có trong truyện của ông, chỉ tựa "làm duyên" cùng, chữ nghĩa chỉn chu mà thôi. Mấy yếu tố căn bản vừa kể, vốn là điểm mạnh của họ Đào trong thể loại truyện dài, một lần nữa, lại xuất hiện "hoành tráng" trong tác phẩm "Đốt Đời", dầy trên 250 trang. Khác hơn truyện dài "Bù Khú Tiên Sinh" xây dựng trên những mảng sương mù ký ức nhà sàn và, sự chập chờn lửa rừng thực / ảo, ở tác phẩm mới này, Đào Hiếu ném người đọc vào giữa tâm bão của những mặt xã hội kín, khuất. Đó là câu chuyện của một người con gái từ vai trò tiếp viên café, trở thành nạn nhân của một đường giây phân phối ma túy - loại mới nhất: methamphétamine - sau khi vô tình rơi vào cõi "thiên la địa võng". Những cánh tay xúc-tu của loài bạch tuộc đen, đã đưa một cô gái quê, nổi trôi từ tầng địa ngục này, qua tầng địa ngục khác. Cái may mắn duy nhất của cô là gặp, nhận được chân tình của một người đàn ông lớn tuổi… Truyện dài "Đốt Đời"của Đào Hiếu, với tôi, không chỉ là sản phẩm lao động trí tuệ - với những thông điệp báo động, cháy bỏng khẩn thiết của một nhà văn, trước những vấn nạn vây khổn xã hội - mà nó còn như một tự sự kể, một hành trình sống khốc liệt của cô gái quê, và, của những người đồng cảnh ngộ. Vì truyện dài"Đốt Đời"là một hồi ký, một tự sự kể, cho nên tự thân đã là cả một khối thuốc nổ hiện thực cực mạnh, khiến nó không cần phải có những cao trào, những nút thắt, nút mở hay, những cố gắng đào xới tâm lý hoặc, khai thác bản năng tình dục của con người để lôi cuốn người đọc. Bởi tính cao trào, sức công phá đã tiềm ẩn trong từng con chữ… Hơn thế, để giảm bớt tính "sát thương" của khối chất nổ, đôi chỗ, tác giả đã dùng tới sở trường trào phúng, (riễu cợt ngay cả chính mình), cũng như bản chất thi sĩ của ông, hầu giúp người đọc có được đôi chút thư giãn cần thiết. Thí dụ: "Em bước vào làm bóng tối hỗn loạn Xô đẩy tan tác Đêm rách nát sau tiếng nổ của gót hài Những ánh đèn tự chọc vào mắt mình Đứt bóng. Trăng rớt xuống sân vỡ như gương soi Máu nguyệt động chảy đen trần gian…" (Trích chương 4) Cũng vì tràn ngập vốn sống tiếp thu được từ "hiện trường", nên những chương đoạn trong Đốt Đờilà những cảnh phim chuyển động mau. Những cắt lát dứt khoát, quyết liệt, khiến người đọc khó rời khỏi trang sách. Tôi muốn nói, ngoài trải nghiệm hiện thực, tài hoa của Đào Hiếu còn san bằng, xóa sạch khoảng cách giữa tiểu thuyết và đời thường. Bên cạnh đó, qua từng con chữ, người đọc cũng gặp được không ít những liên-ảnh bất ngờ, mới mẻ, đôi chỗ lại đậm đặc chất thi ca. Ở phương diện kỹ thuật này, tôi nghĩ, Đào Hiếu đã là một thi sĩ, nhiều hơn một nhà văn. Thí dụ, ngay từ khởi truyện, Đào Hiếu đã so sánh nhân vật nữ của ông với một con khỉ nhỏ. Một con khỉ nhỏ lí lắt, tinh ranh, với bản chất ngây ngô, khờ khạo, như nhân vật nữ, hay như chính ông? Tôi rất thích những ý tưởng, hình ảnh rất thơ, khá nhiều trong "Đốt Đời" của họ Đào. Như: "…Ông cầm cuốn sách lên tay, mở ra. Cơn gió từ những trang sách thổi vào mặt. Những dòng chữ ùa ra, bay quanh ông như đàn chim. Đó là tập thơ đầu tay của ông: mới mẻ, trong trắng, nhưng vẫn còn bí ẩn như một thế giới chưa được biết đến…"(Trích chương 3) Hoặc: "…Trong căn phòng im lặng giữa một xóm lao động nghèo nàn, tiếng khóc của ông như tiếng giun dế luẩn quẩn giữa bốn bức vách ẩm mốc. Ông nghe rất rõ và ngạc nhiên thấy như đó là tiếng khóc của một người nào khác vô hình, vừa đến chia sẻ cùng ông…" (Trích chương 14) Hoặc nữa: "…Lúc ấy trái bần chín trĩu cả những vạt rừng. Mùi thơm của nó làm ngây ngất những cơn gió. Con sóc nhỏ không còn hái trái cho người cha mà hái tặng ông. Nó chuyền cành lanh lẹ, dẫn dụ ông đi lạc vào một cõi trời đất nồng nàn thứ mùi ngai ngái của vỏ cây lên men…" (Trích chương 21) Trong rất nhiều trang văn của mình, Đào Hiếu cũng đem lại cho người đọc những xúc động tự nhiên, khi ông viết về những cái chết của một số sinh vật, có nghiệp duyên với ông từ thời niên thiếu và, cái chết của chúng…đã sống lại, vì cái chết của con chó nhỏ, người bạn trung thành của cô-gái-ma-túy… Tôi muốn gọi đó là những dòng chữ chói lọi tình yêu và, tinh ròng tình bạn, của những kẻ bị gạt ra bên lề xã hội. Nhưng tình người nơi họ, lại là một thứ gì giống như xa xỉ và, xa lại với những sinh vật vô cảm, được gọi là con người nhởn nhơ giữa xã hội. Tuy sống cạn kiệt thân, tâm với những "cái chết trắng", với những kẻ trộm chó, với những "diệu thủ" trộm cắp, tiêu thụ đồ gian, xe gian, thậm chí sát nhân,…họ Đào vẫn không quên cho thấy, ở cái thế giới bạo lực hoang dã kia, thấp thoáng đâu đó, vẫn là những bảo bọc, chia sẻ của tình người. Phải chăng, tác giả muốn nhấn mạnh, giữa khi đạo lý nhân quần ngày một phá sản, thì đám người sống bên lề xã hội, trong chừng mực nào đó, vẫn có cho riêng họ một thứ đạo lý: "Đạo lý giang hồ"?! Trên tất cả mọi trải nghiệm, sống trong và, sống giữa tâm-bão-đen hiện thực xã hội, tôi vẫn thấy cái Tâm-Nhân-Bản của ông. Theo tôi, chính ngọn lửa nhân bản rực rỡ nơi họ Đào, đã làm thành nhân cách nhà văn, qua từng trang sách. Từ đấy, tôi không nghĩ, có dễ chúng ta còn thấy phải đòi hỏi thêm điều gì, nơi nhà văn đã sống, như một đường gươm này! DU TỬ LÊ (California, Aug. 2014) Mời các bạn đón đọc Đốt Đời của tác giả Đào Hiếu.
Tắt Lửa Lòng - Nguyễn Công Hoan
Sách Nói Tắt Lửa Lòng Tắt lửa lòng là một tiểu thuyết tình cảm lãng mạn của nhà văn Nguyễn Công Hoan, giới thiệu lần đầu tiên năm 1933. Tác phẩm này nhanh chóng trở nên phổ biến, và rất nhiều người chuyển thể thành vở kịch, bản nhạc khác nhau. Soạn giả Trần Hữu Trang đã biên kịch lại và chuyển thể lại thành vở cải lương "Lan và Điệp" năm 1936. Và cái tên "Lan và Điệp" trở thành huyền thoại từ đó, thậm chí nó còn nổi tiếng hơn cả tên tác phẩm Tắt lửa lòng. *** Nguyễn Công Hoan quê ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên). Ông sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế. Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều câu thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích tầng lớp quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông sau này. Ông có ba người em trai đều tham gia hoạt động cách mạng và giữ cương vị quan trọng là Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương) Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyễn Công Bồng nguyên Phó Tổng Giám đốc Nha Công an và Nguyễn Công Mỹ nguyên Tổng Giám đốc đầu tiên của Nha bình dân học vụ. Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, làm nghề dạy học ở nhiều nơi (như Hải Dương, Lào Cai, Nam Định,…) cho đến khi Cách mạng tháng Tám nổ ra. Nguyễn Công Hoan viết văn từ sớm, tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan (viết năm 1920, được Tản Đà thư điếm xuất bản năm 1923) là một đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ. Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Giám đốc kiểm duyệt báo chí Bắc Bộ, kiêm Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Sau đó ông gia nhập Vệ quốc quân, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân, giám đốc trường Văn hóa quân nhân, chủ nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo. Ông là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1948. Năm 1951 ông làm việc ở Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách Sử Việt Nam hiện đại từ Pháp thuộc đến năm 1950 dùng cho lớp 7 hệ 9 năm. Ông cũng viết bài cho báo Giáo dục nhân dân, cơ quan ngôn luận đầu tiên của Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ. Từ sau năm 1954, ông trở lại nghề văn với cương vị Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam (khóa đầu tiên 1957-1958), ủy viên Ban Thường vụ trong Ban Chấp hành Hội nhà văn Việt Nam các khóa sau đó. Ông cũng là ủy viên Ban chấp hành Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, chủ nhiệm tuần báo Văn (tiền thân của báo Văn nghệ). Nguyễn Công Hoan mất ngày 6 tháng 6 năm 1977 tại Hà Nội. Tên ông được đặt cho một phố ở Hà Nội, đoạn giữa hai phố Ngọc Khánh và Nguyễn Chí Thanh. Nguyễn Công Hoan được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996. *** Năm giờ chiều hôm sau ở chợ Gỏi, người ta đã thấy phường kèn trống, bát âm, và phu đòn, sắp sẵn nhà táng lính xa ngồi chờ ở gốc đa để đón đám ma. Cảnh xuân mà ảm đạm. Mặt trời chìm tây, hất cái bóng úa tàn lên những đám mây bạc mờ, lộn ra các mầu óng ánh như khảm. Cây khô chưa nẩy lộc, đứng lom khom bên cạnh đường. Khóm tre kẽo kẹt, làm tơi tả chiếc lá vàng sum soe bay, rồi nằm mắc trên bụi tầm xuân dại. Một chốc, ba chiếc ô tô từ đằng xa phăng phăng chạy lại, bốp còi inh ỏi, đến đầu chợ thì dừng. Tiếng kèn nổi lên, theo gió đưa đi những giọt rền rỉ sầu thảm, khói hương phảng phất bay lên, đám ma thong thả theo lối rẽ vào làng Văn Ngoại, rồi đi quanh rặng tre trên bờ sông. Người đưa đám mỗi lúc một đông. Trông thấy Điệp, Xuân, và một vị sư bác chùa Phương Thành, nghiêm trang đi sát sau cữu, thì ai nấy đều nhớ đến cảnh ngộ Lan mà sụt sùi giọt lệ. Trời về chiều đã tăng cái vẻ sầu thảm, trời về chiều lại bày thêm cảnh đám ma có giọng khóc nỉ non ai oán… Tạo hóa như khéo vẽ nên bức tranh đoạn trường! Trống vẫn thúc, kèn vẫn rên. Hồn và xác Lan trong chiếc nhà táng, nghêng ngang theo sau tiếng bát âm ẻo lả, lượn vùng quanh lũy, qua mấy thửa ruộng trồng má đề thì hạ xuống, cạnh cái gò chính Điệp và Lan đã ngồi nói chuyện hôm mười sáu tháng năm khoảng mười lăm năm trước. Trời thấp dần. Núi non xa dần. Cảnh vật xung quanh đã nhuộm một mầu sẫm, buồn rười rượi như sắp chết. Bức màn sương, trên rủ xuống, xa đưa lại, cũng dần dà trùm khuất mọi nơi, rải rác vẻ u ám thê lương vào buổi chiều hôm hiu hắt. ... Mời các bạn đón đọc Tắt Lửa Lòng của tác giả Nguyễn Công Hoan.
Tấm Lòng Vàng & Ông Chủ - Nguyễn Công Hoan
Cuốn sách “Tấm Lòng Vàng, Ông Chủ” là hai tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Công Hoan được chọn lọc và biên tập một cách rất kỹ lưỡng. *** Nguyễn Công Hoan quê ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên). Ông sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế. Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều câu thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích tầng lớp quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông sau này. Ông có ba người em trai đều tham gia hoạt động cách mạng và giữ cương vị quan trọng là Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương) Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyễn Công Bồng nguyên Phó Tổng Giám đốc Nha Công an và Nguyễn Công Mỹ nguyên Tổng Giám đốc đầu tiên của Nha bình dân học vụ. Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, làm nghề dạy học ở nhiều nơi (như Hải Dương, Lào Cai, Nam Định,…) cho đến khi Cách mạng tháng Tám nổ ra. Nguyễn Công Hoan viết văn từ sớm, tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan (viết năm 1920, được Tản Đà thư điếm xuất bản năm 1923) là một đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ. Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Giám đốc kiểm duyệt báo chí Bắc Bộ, kiêm Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Sau đó ông gia nhập Vệ quốc quân, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân, giám đốc trường Văn hóa quân nhân, chủ nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo. Ông là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1948. Năm 1951 ông làm việc ở Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách Sử Việt Nam hiện đại từ Pháp thuộc đến năm 1950 dùng cho lớp 7 hệ 9 năm. Ông cũng viết bài cho báo Giáo dục nhân dân, cơ quan ngôn luận đầu tiên của Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ. Từ sau năm 1954, ông trở lại nghề văn với cương vị Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam (khóa đầu tiên 1957-1958), ủy viên Ban Thường vụ trong Ban Chấp hành Hội nhà văn Việt Nam các khóa sau đó. Ông cũng là ủy viên Ban chấp hành Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, chủ nhiệm tuần báo Văn (tiền thân của báo Văn nghệ). Nguyễn Công Hoan mất ngày 6 tháng 6 năm 1977 tại Hà Nội. Tên ông được đặt cho một phố ở Hà Nội, đoạn giữa hai phố Ngọc Khánh và Nguyễn Chí Thanh. Nguyễn Công Hoan được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996. *** Anh Đĩ Nuôi ở chờ ba hôm. Trong ba hôm trời, anh những rầu gan nẫu ruột. Anh giận vợ điêu bạc, oán chủ lật lừa. Anh thấy cái đời của kẻ nghèo khó nó như cái đời bỏ đi vậy. May sao, hôm thứ tư thì bà chủ về. Anh mừng quá. Anh cố tố cáo việc riêng của ông để bà phân xử. Nhưng mãi anh không dám dàn mặt bà vì từ lúc về đến nhà, bà gắt gỏng ầm ĩ, bà hỏi việc này, việc nọ, bà quát tháo với cả mọi người. Thỉnh thoảng bà mắng những câu quái gở: - Tao thì đuổi hết cả chúng bay đi. Đến tận trưa, anh Đĩ Nuôi đắn đo mãi, mới lên nhà trên. Thì lạ quá, bà chủ vừa thấy anh đã giở trận lôi đình. Bà xám mặt lại, nghiến răng, trỏ vào mặt anh mà nói: - À, quân bạc, mày rút ruột tao. Anh Đĩ ngạc nhiên. Run sợ, anh ấp úng đáp: - Bẩm lạy bà, con mới đến đây vài hôm nay. Bà chủ cười gằn: - Lạy bà! Ra chúng bay bạc thật. Tao biết cả. Mày tưởng tao không có mắt hay sao? Nói xong, bà đứng phắt dậy, túm tóc anh, rồi cứ lưng phát mãi. ... Mời các bạn đón đọc Tấm Lòng Vàng & Ông Chủ của tác giả Nguyễn Công Hoan.