Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Tham Vọng Sụp Đổ

Không có gì khiến cho Pietro Monatti gớm ghiếc bằng một thái độ sống bị chi phối bởi những tính toán cùng những động lực độc đoán của lòng vị kỷ. Chàng căm ghét những biểu hiện thường tình của tính ích kỷ, đó là do sự khinh miệt mang tính bản năng đối với những điều ti tiện nhỏ nhen của hạng người chỉ biết có mình, đó cũng là do lòng ngưỡng mộ cũng mang tính bản năng không kém đối với những hành vi và ý đồ cao cả, hơn thế nữa, đó cũng là một số kinh nghiệm khốn khổ buổi thiếu thời tạo nên. Quả thật những kinh nghiệm này đã giúp Pietro tin chắc rằng mình có một ý thức đầy trăn trở và nghiêm ngặt đến độ sẵn sàng từ chối một hành vi thuần túy tự tư tự lợi, và (khác hẳn với mọi người do bản tính ích kỷ tự nhiên chỉ biết xử sự tốt đẹp do tính toán hoặc sức mạnh của ý chí) chàng cũng tin chắc mình có xu hướng tự nhiên thiên về đức hy sinh, lòng trung hậu, tính vị tha cùng tất cả những đức hạnh cao cả của con người. Khám phá đó là kết quả của một cuộc khủng hoảng dai dẳng và điều đáng kể hơn, đó còn là nguyên tắc đem lại một loạt hạnh phúc. Bởi vì khi đã tạo cho mình một sự nhất quán và chỉnh đốn cuộc sống của mình theo những bình diện phù hợp với tính cách của mình Pietro cuối cùng đã tìm được một sự bình yên trong tinh thần giúp chàng đạt tới sự thành công trong công việc và tạo được những mối quan hệ tốt đẹp. *** Chung quanh ngôi nhà, trong vòng rào tối tăm và trần trụi như một nghĩa địa không có nấm mồ, ngọn gió đói khát vì thiếu bụi rậm và cây cối để lay động cứ quất vào các mô đất biến dạng của các bồn hoa. Andréa vừa rảo bước vừa ngước mắt nhìn bầu trời. Ngọn gió khô ran vẫn là là sát mặt đất. Những tia chớp lặng lẽ và ở tít trời xa thỉnh thoảng lóe lên cho thấy những lớp mây chồng chất lên nhau, bất động và lơ lửng trên các khu vườn và nhà cửa. Những bức màn màu nhựa thông, những bức màn làm nên từ những ngọn đồi trùng điệp, chúng toát ra một vẻ tĩnh lặng đến bi thảm giữa một cảnh trí xôn xao, dao động. Trái lại, cứ mỗi lần tia chớp lóe lên, người ta có thể nhận ra trên nền trời lấp lánh và vỡ vụn, những ngọn cây đen lay động, những chiếc lá quay cuồng, những cành cây vặn vẹo và gãy rời ra dưới sức mạnh hung hãn của gió. Ghì chặt túi xách vào người. Andréa băng qua khu vườn, vượt cổng rào và đi vào con đường dốc nhỏ. Trước khi đến nhà Marie-Louise, nàng đã quyết định sẽ trở về nhà ngay, nơi Pietro đang đợi nàng. Nàng tuân theo kế hoạch này, nhưng từ giờ phút này trở đi, đó là vì một sự trung thành máy móc hơn là một sự cần thiết, về nhà hay đến một nơi nào khác cũng thế thôi. Lâu đài của những kế hoạch trong đầu nàng đã sụp đổ, với nàng chỉ còn lại cơn điên đầy kiêu hãnh đã hoạch định nên nó, cơn điên đó giờ đây trở nên mãnh liệt và khốc liệt hơn bao giờ cả, nó dẫn nàng tới một sự nổi loạn tột cùng. Stefano sợ mình tự tử, nàng nghĩ thế, vì thế anh ta muốn đoạt lấy khẩu súng, nhưng anh ta lầm, anh ta lầm to. Nàng đi khoảng mươi mười hai thước thì một chiếc tắc xi vượt qua nàng và dừng lại cách đó mấy bước, dưới tán lá thấp của một cây to rì rào xao động trong gió, trước cổng một ngôi nhà. Andréa dồn bước để kịp thế chỗ người khách sắp bước xuống. Đó là một bà đứng tuổi, bà ta đội một cái khăn ngắn màu tía và mặc một chiếc áo dạ hội in hoa khá dài. Bà ta cao và gầy, với mái tóc hoa râm hơi ngả màu xanh do tác dụng của thuốc nhuộm, đôi mắt xanh nhớn nhác và có phần khó chịu, chìm khuất trong những nếp nhăn, mũi to, miệng rộng và cổ với những đường gân nổi rõ dưới làn da héo hon đầy phần sáp. Andréa đứng trên vỉa hè đợi bà ta trả tiền. Nàng thấy bà ta nghiêng người, chúi mũi vào đồng hồ tính tiền rồi rút ví ra và lấy ra một đồng tiền trao cho anh tài xế sau khi đã kiểm tra cẩn thận bên trong. Anh này nhìn đồng hồ tiền và bảo mình không đủ tiền thối. Bà ta đáp giọng chua lét rằng mình không thể để cho anh ta phần còn lại được. - Các người giống nhau cả, bà ta vừa nói vừa nhìn anh tài xế bằng ánh mắt lờ đờ và chăm chú. Mấy chú bao giờ cũng bảo không có tiền để tiện nhét túi những gì không phải của mình. Anh tài xế vội lộn tung các túi của mình và chìa ra trong lòng bàn tay mấy xu anh ta vừa nhặt nhạnh được. Bà ta không tin. - Không thể được. Nếu chú là người lương thiện thì chú phải hiểu rằng tôi không hề muốn cho chú hai lia tiền boa chứ! Bà ta lắc đầu. Mắt bà ta ánh lên niềm xác tín không gì lay chuyển nổi, đồng thời với niềm hi vọng là có thể đi tới chỗ thà không có tiền còn hơn chịu điều bất công là phải trả thừa tiền. Bây giờ Andréa hết kiên nhẫn nên can thiệp. Nàng lục túi xách lấy ra món tiền nhỏ ghi trên đồng hồ bước đến và dằn mạnh món tiền vào tay người tài xế. - Đây là số tiền bà này phải trả anh, nàng bảo. Còn bây giờ đẩy nhanh lên nào, đến đường Gracques. Và không buồn chú ý đến thái độ sững sờ giận dữ của bà ta, nàng leo lên xe và kéo cửa đánh sầm một tiếng. - Đường Gracques? Xong ngay! Anh tài xế nhanh nhẹn nói. Chiếc tắc xi bắt đầu chạy. Người đàn bà như hoàn hồn lại. Bà ta giơ tay. - Dừng lại, bà ta hét lên như tuân theo một ý nghĩ chợt nảy ra. Dừng lại, bằng không tôi ghi số xe đấy! Người đàn ông đáp lại mệnh lệnh này bằng cách đưa mấy ngón tay chạm vào mũi. Trong thời gian xe chạy, Andréa không nghĩ ngợi gì đến Marie-Louise, Stefano cũng không, càng không nghĩ đến chuyện gì sắp xảy ra, nhưng lại nghĩ đến bà già keo kiệt đã không giải quyết nổi hai lia tiẹn boa. Nàng ngạc nhiên về thái độ của chính mình, về cử chỉ đẹp đầy phù phiếm và mỉa mai sau bao biến cố mà nàng đã trải qua. Bởi lẽ, đương nhiên là nàng đã thực hiện một cử chỉ đẹp khi trả tiền tắc xi cho người đàn bà vận đồ dạ hội kia. Còn chuyện giết Marie-Louise thì sao? Đó cũng là một cử chỉ đẹp, cũng giá trị như cử chỉ vừa rồi. Rặt những cử chỉ đẹp! Dường như đó là những ý nghĩ buồn bã nhất mà nàng có được. Còn buồn hơn những ý nghĩ đã đẩy nàng tới chỗ giết Marie-Louise. Mặt khác cơn cuồng nộ của nàng rồi cũng dịu đi. Nàng chỉ cần gợi lên cái quá khứ gần đây nhất để vững tin rằng mình không chỉ thực hiện một cử chỉ đẹp mà còn cả một công trình chính nghĩa. Khi mở túi xách lấy tiền trả, nàng trông thấy khẩu súng của mình. Rồi ngước mắt lên cửa sổ phòng mình, nàng thấy bóng Pietro lay động một cách háo hức sau mấy thanh cửa lá sách rồi biến mất. Tất cả lòng thù hận cùng tình cảm vỡ mộng chợt tan biến, nhường chỗ cho lòng thương xót đối với chính mình. Đó không phải là lòng thương hại có giá trị an ủi, vỗ về. Đó là một lòng thương hại lạnh lùng, như ánh trăng soi rọi trên khung cảnh hoang tàn vì ngập lụt. Nàng nhìn lại trọn cuộc đời mình, và cả số phận đã dẫn dắt nàng đến hiện tại tai ương này, nhưng nàng lại không thoát khỏi điều ghi nhận vô bổ đó. Toàn bộ sự việc cùng một lúc vừa công bằng lại vừa bất công. Đầu cúi thấp, cổ họng khô ran, mắt ráo hoảnh, nàng băng qua khu vườn. Nàng chỉ ngẩng đầu lên khi trông thấy cửa nhà mình. Pietro đã ở ngưỡng cửa chào nàng với một cử chỉ hài lòng và ngay lúc nàng đến phòng ngoài, chàng đã âu yếm choàng tay qua người. - Thế nào? Chuyện đó diễn biến ra sao? Hết sức xúc động, chàng xiết chặt trong đôi tay, nhìn nàng không chán mắt với nụ cười thỏa mãn và kiêu hãnh... Nét mặt xanh nhợt, Andréa hơi né đầu ra sau. - Mọi chuyện tốt đẹp, nàng vừa nói vừa chăm chú nhìn chàng thanh niên. Nhưng còn chờ gì nữa? Hãy về phòng em đi! Hơi bối rối vì vẻ xanh xao và giọng nói đó, Pietro buông nàng ra và theo chân nàng về phòng. Đến nơi, Andréa bước tới tủ và đối diện tấm gương nghiêng, nàng chậm rãi cởi mũ. Pietro ngồi vào ghế bành gần cửa sổ, nhìn nàng đang sửa soạn lại mớ tóc, ngắm mình trong gương với một vẻ chăm chú đầy tư lự và đưa tay sờ lên khóe miệng: cuối cùng nàng quay lại và chậm rãi đến ngồi trên giường. - Em mệt, nàng bảo, em không muốn nói gì cả. Em đi nằm đây, anh hãy đến bên em và nói tất cả những gì anh muốn nói. Nàng giả bộ ngáp và nằm ngửa ra, một cánh tay kê đầu, mắt nhìn lên trần nhà. Càng lúc càng ngạc nhiên Pietro đến ngồi bên nàng. Mời các bạn đón đọc Những Tham Vọng Sụp Đổ của tác giả Alberto Moravia & Huỳnh Phan Anh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Dấu Vết Của Mẹ - Marta Dzido
Kịch bản không có gì đặc biệt. Hai cô cậu học trò cuối cấp và cái thai không mong muốn, cuộc trốn chạy của chàng trai vô trách nhiệm. Cô gái cố gắng sống bình thường, quên đi cậu bạn và chạy trốn sự cô đơn… Nhưng Dấu vết của mẹ là một cuốn tiểu thuyết đặc biệt, với một sự già dặn đặc biệt, nhất là khi tác giả viết nó lúc chưa tròn hai mươi. Với dấu vết của mẹ, Marta Dzido đã bước vào hàng ngũ những nhà văn trẻ quan trọng nhất của Ba Lan. *** Năm 1956. Một mùa hè ngột ngạt. Hai người phụ nữ ngồi chờ trước phòng khám phụ sản. Một người rất trẻ, gần như một cô bé, vì ai cũng chỉ đoán cô mười tám tuổi là cùng mặc dầu cô đã hai mươi sáu tuổi - có hẹn đến phá thai. Cô có hai con nhỏ, một ông chồng lao phổi, không việc làm, không kế sinh nhai. Người phụ nữ thứ hai - già hơn, ăn mặc chỉn chu và lịch sự - bị vô sinh, tuy nhiên bà ta vẫn đến bác sĩ với hy vọng được giúp đỡ. Họ bắt đầu nói chuyện. Cô gái chờ làm thủ thuật nói rằng cô ta không thể có đứa con thứ ba, cô không biết phải xoay sở thế nào, rằng chồng cô sắp chết, rằng cô đã kiệt sức và rằng… Người không thể có con nói: - Em cứ để đẻ đi, chị sẽ nhận cháu bé, chị sẽ nuôi dạy nó, yêu thương nó… - Không, không thể như thế được - cô gái muốn bỏ cái thai nói. - Chị sẽ trả tiền cho em - người thứ hai nài nỉ. - Không mà, chị... - Nhưng chị sẽ trả thật mà. Nhiều… - và chị ta rút từ ví ra một tệp tiền. - Đây, em cầm đi, em cứ cầm rồi suy nghĩ, được không? - Xin chị để cho tôi yên - cô gái chờ làm thủ thuật nói. Cô ta đứng dậy rồi chạy khỏi bệnh viện. Sáu tháng sau cô ta sinh một bé gái. Hai mươi bốn năm sau bé gái ấy sinh một bé gái khác.   Năm 2000. Cô gái út trong số ba chị em gái đã lớn. Mặc dù đã hai mươi tuổi nhưng trông cô như một đứa trẻ con và không một ai có thể nghĩ rằng cô lại là mẹ của một bé gái mấy tháng tuổi. Lại một mùa hè ngột ngạt, và cô gái ngồi trong bệnh viện, chờ vào khoa phụ sản. Bây giờ để phá thai phải trả hai ngàn zloty. Ngồi cạnh cô là một phụ nữ ăn mặc chỉn chu và lịch sự, nhưng họ không chuyện trò gì. Cô gái đã hẹn với bác sĩ, người sẽ làm cái việc phá thai. Từ hai ngàn, anh ta giảm xuống tám trăm, có lẽ anh ta thấy thương cho cô. Cô ta đến chỗ bác sĩ với cái thai năm tuần tuổi và một đứa bé ba tháng tuổi trên tay, cô nói là bác sĩ của bệnh viện bảo cho con bú sữa mẹ đều đặn là biện pháp tránh thai tốt nhất. Rằng hoóc môn của thuốc tránh thai sẽ vào sữa và có hại cho đứa trẻ, còn đặt vòng thì lại quá sớm. Cô ta tin, vì bác sĩ cơ mà, nhất định phải biết thế nào là tốt nhất chứ. Và giờ đây cô đang mang thai, cái thai mà chỉ một tiếng nữa thôi sẽ không còn nữa. Khi mọi việc đã xong xuôi, cô gái như trút được gánh nặng, nhưng lại thấy xấu hổ vì không biết sẽ phải kể về chuyện này như thế nào và với ai. Cô không biết cái việc cô vừa làm xong được gọi là gì. Cô im lặng rất lâu, cho tới khi không giữ nổi nữa cô bèn viết sách. Về phá, nạo, vét, về phương pháp hút chân không, về sẩy thai, về tiết dịch và máu. Cô viết cuốn sách mà chỗ này chỗ kia còn khập khiễng, non nớt, lộn xộn, ngây thơ, một số câu bộc lộ vẻ ngoài kiêu căng của một nữ sinh trung học. Cô viết xong và lại thấy nhẹ nhõm. Cô mang cuốn sách đến nhà xuất bản, nhưng giám đốc nhà xuất bản, chị Beata S. nói với cô rằng không thể để thế được, rằng nếu đã viết cuốn sách về nạo phá thai thì cần phải có quan điểm rõ ràng, ủng hộ hay phản đối, và phải nói được điều đó một cách sáng sủa, dễ hiểu. Làm sao để độc giả không phải băn khoăn. Và nói chung là cần phải đầu tư thêm thời gian công sức. Nhưng cô gái đã không còn muốn nữa, cô cứ để cuốn sách nguyên xi như vậy, và mấy năm sau cô viết một cuốn sách khác. Lần này thì cuốn truyện thành công. Viết về thất nghiệp, về dân thủ đô hợm hĩnh ngạo mạn và về những cuộc hôn nhân thất bại. Cô gái xuất hiện trên báo chí và truyền hình, ở đấy cô không biết phải nói gì, mà họ thì hỏi đủ thứ - về nữ quyền, về giáo hoàng và về thế hệ gì gì đấy. Cô cười tươi, rụt rè nói: “vâng, vâng” hoặc là “không, không”. Không được một câu dài hơn. Cuối cùng người xuất bản, ông Piotr M. thuộc công ty đưa ra dự kiến: - Hay là chúng ta in cái cuốn về phá thai ấy? Nhưng cô gái do dự. Vì đã sáu năm rồi và có lẽ bây giờ tốt hơn nên viết cuốn mới chứ đừng có lôi mấy cái chuyện cũ rích ấy ra, không được đâu, mà cô cũng không muốn mất công vào đó nữa… Cuối cùng cô trả lời: - Nhưng đấy đâu có phải là văn chương hay ho gì… - Không sao - tiếng của người xuất bản trong ống nghe - nó chân thực và nói về một vấn đề quan trọng… - Nhưng em sợ - cô gái nói vào ống nghe - là mọi người sẽ hỏi đây có phải là viết về em không và có đúng là em phá thai không? - Đừng sợ, em có con cơ mà, đó là minh chứng tốt nhất cho việc em không phá thai… - Piotr M. nói. ... Mời các bạn đón đọc Dấu Vết Của Mẹ của tác giả Marta Dzido.
Cô Gái Đằng Sau Chiếc Mặt Na - Neilani Alejandrino
Một câu chuyện tình cảm động và lãng mạn như hàng ngàn câu chuyện tình khác. Jade Một bộ tóc giả màu đen, một cặp kính gọng đen choán gần hết khuôn mặt cùng bộ quần áo lỗi thời, tất cả mọi người đều cho rằng cô là một cô gái lập dị, xấu xí hoặc một cô gái đến từ thời cổ đại. Cô đã quen với việc trở thành trò cười cho những người xung quanh Thế nhưng đâu mới là con người thật sự của Jade Collins? Tại sao cô lại che giấu vẻ đẹp thực sự của mình? Điều gì sẽ xảy ra khi sếp của cô, ngài Eros Petrakis nhận ra con người thật của cô? Liệu cô có thể cảm hóa được con người lạnh lùng và tàn độc ấy? Eros Một người đàn ông hoàn hảo, đẹp trai, quyền lực, tài giỏi, giàu có cùng một cơ thể quyến rũ khiến mọi phụ nữ đều phải cúi rạp dưới chân anh. Tuy nhiên, bất chấp tất cả những thứ hào nhoáng bên ngoài đó, anh là một người vô cùng tàn nhẫn, ngang ngược, lạnh lùng và vô cảm. Anh là cơn ác mộng tồi tệ nhất đối với những ai dám đối đầu với anh. Mọi người nghĩ rằng anh chính là một tên ác quỷ. Anh không bao giờ cười, không bao giờ nói "làm ơn" cũng không bao giờ nói hai từ xin lỗi. Tất cả nhân viên đều kính sợ anh. Anh có thể sa thải họ bất cứ lúc nào chỉ với một cái búng tay. Điều gì đã khiến anh để ý tới Jade? Anh sẽ phản ứng như thế nào khi phát hiện ra con người thật sự của cô đằng sau vẻ bề ngoài lập dị ấy? *** Vẻ đẹp của một người phụ nữ không nằm ở thứ trang phục mà cô ấy khoác trên người, thân hình hay cái cách mà cô ấy làm dáng. Vẻ đẹp của người phụ nữ nằm trong đôi mắt bởi đó chính là cánh cửa dẫn tới trái tim của cô, nơi tình yêu ngự trị. Vẻ đẹp thực sự của một người phụ nữ phản ánh tâm hồn của cô ấy. Đó là sự quan tâm mà cô cho đi, là những đam mê mà cô theo đuổi. Vẻ đẹp của người phụ nữ sẽ lớn dần theo năm tháng. — Audrey Hepburn Jade “Chào buổi sáng bà Chang. Tối qua bà ngủ ngon chứ?” Tôi vui vẻ gửi lời chào tới sếp của tôi, bà Grace Chang, một quý bà 65 tuổi. Tôi rất lo lắng bởi bà thường hay bị đau đầu và không thể ngủ ngon vào buổi tối. Bà Chang là chủ của một quán Café nhỏ ở Manhattan, New York nơi mà tôi sinh sống. Tôi là một thu ngân. Tôi làm việc từ 8 giờ sáng cho tới 8 giờ tối từ thứ 2 cho tới thứ 6. Cửa hàng không có đủ nhân viên vì vậy tôi phải làm rất nhiều việc. Tôi vừa là phục vụ, vừa pha café và đôi khi tôi còn phải lau dọn cửa hang sau khi tan việc. Tôi không thể phàn nàn về những điều đó vì bà Chang trả lương cho tôi khá hậu hĩnh. Thật sự thì cũng không đến mức quá hậu hĩnh nhưng ít nhất cũng đủ cho tôi và gia đình được ăn uống đầy đủ tươm tất và thanh toán các loại hóa đơn. “Chào Jade, tôi ngủ rất ngon, cảm ơn cháu. Mấy viên thuốc giảm đau mà tôi uống tối qua cuối cùng cũng đã phát huy tác dụng”. Bà cười với tôi đầy trìu mến. “Thật tuyêt, bác sĩ của bà đã nói sao?” tôi vừa hỏi vừa nhét cái túi da đã sờn màu cùng cái áo khoác len cũ vào trong ngăn tủ. Sau đó chỉnh lại mái tóc giả của mình và tháo cặp kính to quá khổ so với khuôn mặt xuống để lau chùi. “Chỉ là chứng đau nửa đầu thôi. Không có gì nghiêm trọng” Tôi mừng là cuối cùng bà cũng chịu nghe lời tôi. Tôi đã nói với bà nhiều lần về việc chăm sóc sức khỏa nhưng bà không chịu nghe. Bà có một nỗi ám ảnh đối với bệnh viện, trạm y tế và bác sĩ. Hẳn là bà đã phải trải qua một điều gì đó vô cùng đau buồn khi con nhỏ. “tối qua, vợ của George đã sinh” “Thật sao? Cháu thấy mừng cho họ. Sau 5 năm, cuối cùng họ cũng đã có con. Là một cô bé phải không bà?” Tôi cảm thấy vô cùng mừng cho George, anh chàng pha chế café của quán. “Đúng vậy. Thêm vào nữa thì hôm anh ta cũng không thể đi làm được, cháu có thể lấp chỗ trống của anh ta được không?” Ôi trời, điều đó đồng nghĩa với việc tôi sẽ phải đảm nhận hai công việc một lúc. “Dạ vâng, được ạ. Cháu có thể xoay sở được”. Tôi cười và vuốt lại mất nếp nhăn trên bộ váy hoa màu nâu mà tôi đang mặc. Thật ra thì đây là chiếc váy yêu thích của tôi, tôi mặc nó rất thường xuyên. Nó là của bà tôi. Đúng ra thì hầu hết quần áo trong tủ của tôi đều là của bà. Đã gần đến giờ của hàng mở cửa, tôi phân vân tự hỏi không biết tại sao những nhân viên khác, Suzanne và Kurt vẫn chưa đến. Suzanne là phục vụ, công việc của cô là nhận order và bưng bê thức ăn. Kurt là nhân viên lau bàn ghế, sàn nhà và nhà vệ sinh. Gần đây, tôi phát hiện ra rằng Suzanne và Kurt đang yêu nhau. Tôi đã bắt gặp họ trong nhà vệ sinh. Họ quên không khóa cửa. “Dừng lại, đừng nói với bà Chang về điều này hoặc tôi sẽ bẻ gẫy xương cô” Kurt đe dọa tôi. Hắn ta thậm chí còn vặn tay tôi ra sau lưng. Tôi phát khóc vì bị đau “Tôi sẽ không nói với ai, tôi hứa. Làm ơn hãy thả tôi ra”. Tôi cầu xin. Cuối cùng thì hắn ta cũng buông tay tôi ra. “Tốt. Hay nhớ kĩ điều đó” Cặp mắt hắn nhìn tôi chằm chằm đầy tức giận. Tôi xoa bóp cánh tay mình, nó đỏ ứng và nhức nhối. “Rồi, giờ thì ra ngoài đi đồ xấu xí. Cô sẽ không muốn tiếp tục ở trong này đâu.” Suzanne cười lớn và đẩy tôi ra ngoài. Đúng vậy, họ thường xuyên bắt nạt, chế nhạo tôi còn tôi thì đã quen với điều đó. Tôi làm như không nghe thấy những từ ngữ khinh miệt từ họ. Tôi không muốn gây sự với họ. Tôi rất cần công việc này, cả gia đình tôi đều trông chờ vào tôi. Thêm vào nữa thì bà Chang là một người chủ rất tốt. “Jade, tôi ở trong nhà bếp. Nếu cháu cần gì thì hãy gọi tôi nhé” “Vâng, thưa bà” Tôi mặc chiếc tạp dề màu đen và chuẩn bị sẵn sàng để tiếp đón vị khách đầu tiên. Tôi đi vào trong phía quầy phục vụ, bật máy thu ngân và máy pha cafe. Tôi đã học được cách pha café từ George, anh nhân viên pha chế. Trong gần một năm làm việc trong quán café, anh ta đã dạy tôi tạo hình nghệ thuật trên tách café và cách để pha chế một cốc Espresso hảo hạng. Tôi đã chăm chỉ học hết những điều mà anh ta chỉ bảo về cafe, toàn tâm toàn ý thu nhận kiến thức. Khi tôi đang lau chùi quầy phục vụ thì vị khách đầu tiên vào quán. Hai người đàn ông trong bộ vest đen và kính đen bước vào. Họ làm tôi nhớ đến bộ phim “Men in black”. ... Mời các bạn đón đọc Cô Gái Đằng Sau Chiếc Mặt Na - Neilani Alejandrino.
Bão
Trong Bão, có một hòn đảo, biển và gió, cơ thể những người đàn bà, một đứa trẻ cô đơn không bố, một người đàn ông bị quá khứ gặm nhấm và cơn bão rửa sạch tất cả. Trong Bão, còn có cả Phi châu, Paris và một đứa trẻ lạc lối khác đi tìm danh tính của mình. Hai câu chuyện đầy chất thơ ấy được thổi đến bằng cơn bão của thế giới của tâm hồn. Trong Bão, những số phận kì lạ gặp đầy trắc trở của Le Clezio vẫn tìm thấy phép màu, tim thấy điều níu giữ họ lại với cuộc sống, bởi "kí ức không quan trọng,không hậu quả, duy có hiện tại mới là đáng kể". Trong Bão, độc giả vẫn tìm thấy chất thơ lãng mạn từ những câu văn giản dị nhưng đầy sức nặng của tác giả từng được nhận giải Nobel Văn chương 2008. Cuốn sách kể chuyện bằng cách đưa ra các hình ảnh, những gợi mở, niềm hy vọng ở phép màu và những điều hão huyển, và phải nhìn nó qua một tấm màn thi vị hóa. Từ đầu tới cuối, tính nhạc trong từng câu chữ giữ chân người đọc. *** Bão là tập truyện mới nhất của Le Clézio - nhà văn đoạt giải Nobel năm 2008. Tác phẩm được xuất bản tại Pháp năm 2014, vừa phát hành ở Việt Nam. Có thể ví hai truyện vừa Bão và Người đàn bà không danh tính trong cuốn sách như một file nén. Với dung lượng trang sách, số con chữ không lớn nhưng nén trong đó những câu chuyện đầy sức nặng và nhiều tầng cảm xúc, triết lý. Và bởi thế, mỗi độc giả có "mã giải nén" của riêng mình. Là hai câu chuyện độc lập song bằng những chủ đề chung, tác giả đã tạo cho nó một mạch ngầm kết nối: từ cô gái June sống ở một hòn đảo hẻo lánh của Nhật Bản đến Rachel của một vùng đất thuộc địa cũ của châu Phi, từ vùng trời nước hoang sơ đến những thành thị ngột ngạt, và từ một bé gái không cha đến một thiếu nữ không mẹ đi tìm nguồn cội của mình.  Câu chuyện của Bão đưa người đọc đến những vùng đất xa xôi, những xã hội như nằm bên kia nền văn minh, nơi con người đắm mình vào thiên nhiên hoang dã, sống trong nó và chết trong nó. Ở đó, những con người còn rất trẻ đang bước qua lằn ranh mỏng manh giữa ấu thơ và trưởng thành, tâm hồn còn trong sáng vô ngần, nhạy cảm vô ngần, hồ như căng mình ra trước mọi sóng gió cuộc đời, không có khả năng tự bảo vệ khỏi những nỗi đau. Thậm chí họ dấn mình vào nỗi đau: đi tìm nguồn cội, đi tìm danh tính. Trên hết, những cô gái luôn vươn mình tới một thứ tình yêu nguyên sơ, thánh thiện, bất chấp sự già cỗi của những thứ ranh giới, khoảng cách thường tình. Đó là thứ tình yêu từ cội nguồn sự sống có trong mỗi con người mà cô bé June cảm nhận được. Tình yêu ấy đôi khi làm thương tổn chính các cô gái. Bởi nó mạnh mẽ như bão, hủy diệt như bão, và cũng tái sinh sau bão. Hai cô gái trẻ của Bão mang trong mình một tâm hồn có thể bật lên, tự tái tạo, tự giải thoát mình khỏi nỗi đau và nỗi tuyệt vọng. Cũng nhờ sức sống tươi mới tiềm tàng ấy, Kyo - người đàn ông toan đến hòn đảo hoang vắng để kết thúc cuộc đời - được giải thoát khỏi "nhà tù" của quá khứ, khỏi sự ám ảnh của ký ức và những vết thương. Bão đã rửa sạch tất cả - "ký ức không quan trọng, không hậu quả, duy có hiện tại mới là đáng kể". Bão tiếp tục những chủ đề ưa thích của Le Clézio: những thế giới, vùng đất, con người bị bỏ quên, dường như sống bên lề thế giới và nền văn minh. Ông luôn dành một sự ưu ái, trìu mến cho người trẻ và phụ nữ. Có thể thấy trong câu chuyện của ông, họ là những đối tượng dễ dàng bị thế giới nuốt chửng hay làm tổn thương. Nhưng đó cũng chính là những tâm hồn tiềm tàng khả năng tái sinh mạnh mẽ, khơi dậy niềm thiết tha sống ở những con người khác. Bên cạnh đó, chủ đề đi tìm danh tính dường như chưa bao giờ là câu chuyện cũ trong sáng tác của Clézio, nhất là khi con người đang ngày càng đánh mất mình giữa sắt thép, bê tông, phương tiện hiện đại và những thành phố xa hoa, đồ sộ. Những câu chuyện không có những tình huống gay cấn, tình tiết hấp dẫn hay chi tiết mùi mẫn của Clézio dường như thách thức sự kiên nhẫn của độc giả. Thay vào đó, ông theo sát và xoáy sâu vào những biến động tâm lý bất ngờ của nhân vật: June (Bão) đã mạnh mẽ và quyết liệt ra sao trong niềm tin của riêng mình; Rachel (Người đàn bà không danh tính) đã để mình trôi dạt, lạc lối thế nào trong nỗi cô đơn của mình, trong những ngóc ngách thành phố. Mỗi câu chuyện đều mang đến một niềm xúc động sâu xa bằng lối văn phong giản dị, trong trẻo mà đa thanh. Những câu ngắn đầy chất thơ, chất nhạc. Và những mệnh đề, câu chữ, hình ảnh trở đi trở lại như một giai điệu ám ảnh. Song, giống như hành trình tự nhiên của một cơn bão, cấu tứ câu chuyện của Clézio nương theo đó đi về phía chân trời hừng sáng sau cơn biến động của đất trời. Ở phía đó, có sự đổi thay, sự tái sinh và có niềm tin không bao giờ lụi tắt. Đó cũng là chất thơ lãng mạn chảy len lách giữa khoảng trắng của những con chữ - là chất thơ của thiên nhiên vĩnh hằng và của từng khoảnh khắc sống. Clézio được ví như một "nhà văn đi bộ" với lối bút pháp "lãng du". Mỗi câu chuyện ông kể giống như cất lên một bản du ca u buồn, sâu lắng nhưng đẹp đẽ dành cho những nơi ông từng đi qua, những con người từng gặp gỡ. Đó còn là những lời an ủi dịu dàng, thiết tha dành cho bao tâm hồn cô độc và lạc lõng. *** Đêm buông trên đảo. Đêm lấp đầy những chỗ trũng, len lỏi giữa ruộng đồng, một đợt thủy triều bóng tối dần bao phủ vạn vật. Cũng vào thời khắc đó, đảo vắng bóng người. Sáng nào du khách cũng tới trên chuyến phà lúc tám giờ, họ làm đông đúc những không gian trống, họ lấp đầy những bãi biển, họ trôi như một thứ nước bẩn dọc theo cả những con lộ lớn lẫn những nẻo đường đất. Rồi khi đêm tới, họ lại rời khỏi những vũng vịnh, họ lùi ra xa, họ mất tăm. Những con tàu mang họ đi. Và đêm tới. Tôi tới đảo lần đầu cách đây đã ba mươi năm. Thời gian đã biến đổi mọi thứ. Tôi chỉ loáng thoáng nhận ra những nơi chốn, những ngọn đồi, những bãi biển, và dáng hình của miệng núi lửa sạt lở phía Đông. Tôi quay lại vì lẽ gì nhỉ? Phải chăng không còn nơi nào khác cho một nhà văn đang kiếm tìm lối viết? Một chốn nương náu khác, xa sự ồn ào của thế gian, đỡ om sòm hơn, đỡ ngạo ngược hơn, một chốn khác để ngồi vào bàn làm việc và gõ lên máy những dòng chữ, đối diện với bức tường chăng? Tôi đã muốn thăm lại hòn đảo này, nơi tận cùng thế giới này, nơi không lịch sử, không ký ức này, một mỏm đá bị dập vùi bởi sóng gió đại dương, rã rời vì du khách. Ba mươi năm, tuổi đời của một con bò. Tôi từng đến vì gió, vì biển, vì lũ ngựa bán hoang dã lang thang kéo theo dây buộc, vì lũ bò cái ban đêm giữa những nẻo đường, tiếng rống thê thiết của chúng nghe như tiếng tù và báo sương mù, vì những tiếng sủa ăng ẳng của lũ chó bị xích. Cách đây ba mươi năm trên đảo không có khách sạn, chỉ có các phòng ngủ cho thuê theo tuần gần đê chắn sóng, và những lán gỗ bán đồ ăn bên bờ biển. Chúng tôi đã thuê một ngôi nhà gỗ nhỏ trên đồi, không tiện nghi, ẩm ướt và lạnh giá, nhưng vậy là lý tưởng rồi. Mary Song hơn tôi một giáp, mái tóc tuyệt đẹp đen nhánh gần như ngả biếc, đôi mắt màu lá thu, nàng hát những tình khúc buồn trong một khách sạn dành cho du khách giàu có tại Bangkok. Cớ gì nàng lại muốn cùng tôi tới hòn đảo hoang vu này? Tôi chắc đây không phải ý tưởng của mình, chính nàng đã bàn đến chuyện này trước. Hoặc nàng đã nghe ai đó nhắc đến một đảo đá hoang sơ, mỗi khi có bão là hết đường tới. “Em cần tĩnh lặng.” Hoặc giả đó là ý của tôi, chính tôi đã nghĩ tới sự tĩnh lặng. Để viết, để lại bắt đầu viết sau nhiều năm uổng phí. Sự tĩnh lặng, khoảng cách. Sự tĩnh lặng, trong gió và biển. Những đêm lạnh, những đám sao. Giờ thì toàn bộ chuyện này chỉ còn là một kỷ niệm. Ký ức không quan trọng, không hậu quả. Duy có hiện tại là đáng kể. Tôi đã học được điều ấy qua những kinh nghiệm xương máu của mình. Gió là bạn tôi. Gió thổi không ngừng trên các mỏm đá, gió đến từ chân trời phía Đông rồi vấp phải bức vách gãy vỡ của núi lửa, ập xuống những ngọn đồi rồi luồn lách giữa những bức tường nham thạch thấp, lướt trên cát san hô và vỏ sò vỏ ốc vỡ. Ban đêm, trong phòng khách sạn nơi tôi ở (Happy Day*, làm cách nào cái tên này tới được tận đây, một cái tên không trọn vẹn trên chiếc thùng gỗ mắc cạn), gió lùa qua khe cửa sổ và cửa ra vào, xuyên qua căn phòng trống nơi chiếc giường sắt han gỉ cũng y hệt một mảnh tàu đắm. Không có lý do nào khác cho chuyến biệt xứ của tôi, cho nỗi cô đơn của tôi, duy có sắc xám của trời và biển, và tiếng gọi ám ảnh của những người đàn bà mò bào ngư, tiếng kêu của họ, tiếng huýt của họ, một dạng ngôn ngữ cổ, xa lạ, ngôn ngữ của những động vật biển đã từng lui tới thế giới rất lâu trước con người... Aouah, iya, ahi, ahi!... Những thiếu nữ làng chài đã ở đó khi Mary dẫn tôi đi thăm đảo. Bấy giờ mọi chuyện khác hẳn. Những thiếu nữ mò ốc tuổi chừng đôi mươi, họ lặn không trang phục, thắt lưng buộc đá, đeo những mặt nạ dưỡng khí lấy từ xác lính Nhật. Các cô không có bao tay cũng chẳng có giày. Giờ đây họ đã già đi, họ mặc bộ đồ lặn liền thân bằng cao su đen, họ đeo bao tay dệt bằng sợi hóa học, đi giày nhựa màu sắc sặc sỡ. Kết thúc ngày làm việc, họ bước đi dọc con đường ven biển, đẩy xe nôi chở những thứ thu hoạch được. Đôi khi họ có xe máy điện, xe ba bánh chạy xăng. Họ có dao inox giắt ở thắt lưng. Họ cởi bộ đồ lặn giữa những mỏm đá, gần một túp lều gạch nén xây riêng cho họ, họ giội rửa ở vòi nước lộ thiên rồi trở về nhà bước thấp bước cao, tiều tụy vì chứng thấp khớp. Gió đã cuốn theo những năm tháng của họ, những năm tháng của tôi cũng vậy. Bầu trời xám xịt, màu của hối hận. Biển động, nổi sóng lừng, biển xô vào đá ngầm, vào những chỏm nham thạch, biển quay cuồng và vỗ bập bềnh trong những vũng lớn, nơi lối vào những vịnh hẹp. Không có những phụ nữ ngày ngày mò hải sản này, biển có lẽ sẽ thù địch, khó gần. Mỗi sáng tôi lắng nghe tiếng kêu của những người đàn bà của biển, âm thanh rè rè từ hơi thở của họ khi họ ngoi đầu khỏi mặt nước, ahouiii, iya,tôi hình dung khoảng thời gian đã qua, tôi hình dung ra Mary, đã mất tích, tôi nghĩ đến giọng hát tình ca của nàng, đến tuổi thanh xuân của nàng, đến thời trai trẻ của tôi. Chiến tranh đã xóa đi tất cả, chiến tranh đã phá tan tất cả. Thời đó tôi thấy chiến tranh đẹp, tôi muốn viết về nó, trải nghiệm nó và rồi viết về nó. Chiến tranh là một cô gái đẹp với thân hình trong mộng, mái tóc dài đen nhánh, đôi mắt sáng, giọng nói mê hoặc, rồi nàng biến thành mụ già tóc tai bù xù và nanh nọc, thành ác phụ báo oán, bất nhân, tàn nhẫn. Đây là những hình ảnh trở lại trong tâm trí tôi, chúng dâng lên từ nơi sâu thẳm nhất. Những thân thể trật trẹo, những cái đầu bị cắt rời, rải khắp các đường phố bẩn thỉu, những vũng xăng, những vũng máu. Một vị hắc trong miệng, một thứ mồ hôi nặng mùi. Trong một căn nhà không cửa sổ, chỉ có một bóng đèn điện không chao duy nhất, bốn gã đàn ông giữ chặt một người đàn bà. Hai gã ngồi lên chân cô, một gã đã trói hai cổ tay cô bằng một dây đai, gã thứ tư mải miết với một vụ cưỡng hiếp bất tận. Không có tiếng động, như trong những cơn mơ. Ngoại trừ tiếng thở khàn khàn, tiếng thở của kẻ cưỡng hiếp, và một hơi thở khác, nhanh, dữ dội, của người phụ nữ, nghẹt lại vì sợ, có lẽ thoạt đầu cô đã kêu bởi dấu vết một cú đánh vẫn còn lưu trên môi dưới của cô, nó đã rách toạc, và máu chảy tạo thành một vết loang hình sao trên cằm. Hơi thở của kẻ cưỡng hiếp dần gấp gáp, một dạng thở khò khè sâu, nghẹt lại, một âm thanh trầm và giật cục của máy móc, một âm thanh gấp gáp và dường như sẽ không bao giờ ngưng. Mary là lâu sau đó, Mary uống rượu nhiều quá mức, và biển đã mang nàng đi. “Em có thể làm điều đó,” nàng đã nói khi chúng tôi băng qua eo biển ngăn cách đảo với đất liền. Nàng đi vào lòng biển lúc hoàng hôn. Thủy triều đã làm láng mượt những con sóng, những vòng tròn chậm rãi tiến lên, màu rượu vang. Những người đã nhìn thấy nàng đi vào lòng biển đều nói rằng nàng điềm tĩnh, rằng nàng mỉm cười. Nàng đã mặc đồ bơi, một bộ liền màu lam không tay, rồi nàng luồn lách giữa những mỏm đá đen, nàng bắt đầu bơi cho đến khi những con sóng, hoặc ánh mặt trời lặn che khuất nàng khỏi tầm mắt những người chứng kiến. Tôi đã không biết gì, không thấy gì, không dự đoán gì. Trong phòng ngủ ở căn lều của chúng tôi, quần áo của nàng được gấp và xếp sắp như thể nàng đi du lịch, thế thôi. Những chai rượu gạo rỗng không, những bao thuốc lá bóc dở. Một túi xách đựng vài vật dụng thân thuộc, lược và bàn chải tóc, nhíp, gương, phấn, son môi, khăn mùi soa, chìa khóa, ít tiền Mỹ và tiền Nhật, mọi thứ như thể hai tiếng nữa nàng sẽ quay lại. Viên cảnh sát duy nhất trên đảo này - một người đàn ông trẻ tuổi, tóc húi cua, trông như một thiếu niên - đã kiểm kê. Nhưng anh ta đã để lại cho tôi mọi thứ, như thể tôi là một người họ hàng, một người bạn. Tôi là người được yêu cầu tùy tâm xử lý những di vật, nếu họ tìm thấy, hỏa thiêu chúng, quăng chúng xuống biển. Nhưng không bao giờ có gì khác ngoài những đồ dùng không quan trọng kia. Bà chủ nhà trọ đã chọn trong đám quần áo, bà ta giữ lại đôi giày màu lam xinh xắn, chiếc mũ rơm, đôi tất dài, cặp kính râm, chiếc túi xách. Tôi đã mang các giấy tờ ra sân đốt. Những chiếc chìa khóa, những đồ vật riêng tư, tôi đã quăng chúng xuống biển, từ boong con tàu đưa tôi trở lại đất liền. Một ánh vàng rực lấp lánh giữa hai làn nước, tôi nghĩ một chú cá phàm ăn, một chú cá tráp hồng, một chú cá đối đã nuốt chửng chúng. Thi thể chưa bao giờ được tìm thấy. Mary, với làn da mềm mại, óng vàng sắc hổ phách, đôi chân chắc lẳn của vũ nữ, của vận động viên bơi lội, mái tóc đen dài. “Nhưng vì lý do gì?” viên cảnh sát đã hỏi. Đó là tất cả những gì anh ta đã nói. Như thể một ngày nào đó tôi có thể có câu trả lời. Như thể tôi có chìa khóa giải mã ẩn ngữ. Giờ đây khi bão nổi, khi gió thổi liên hồi từ chân trời phía Đông, Mary trở lại. Không phải tôi gặp ảo giác, cũng không phải chớm điên (nhưng tay bác sĩ của nhà tù, khi thảo báo cáo, hắn đã viết lên đầu hồ sơ của tôi chữ Y nguy hại), ngược lại là khác, mọi giác quan của tôi thành sắc bén, cảnh giác, nhạy cảm đến cực độ để thu nhận thứ mà biển và gió mang lại. Chẳng có gì rõ rệt, tuy nhiên đó là một cảm giác sống chứ không phải chết, nó tỏa vầng hào quang quanh da tôi, điều này đánh thức ký ức về những trò yêu đương của chúng tôi, của Mary và tôi, những mơn trớn dài từ dưới lên trên, trong bóng tối phòng ngủ, hơi thở, vị đôi môi, những nụ hôn sâu khiến tôi rùng mình, cho đến tận con sóng tình chậm rãi, cơ thể hai chúng tôi hòa quyện, bụng áp bụng, toàn bộ những chuyện này tôi đã bị cấm đoán từ lâu, là tôi tự cấm đoán, bởi tôi đang ở chốn ngục tù cho phần đời còn lại. Trong bão tôi nghe thấy giọng nàng, tôi cảm thấy trái tim nàng, tôi cảm thấy hơi thở nàng. Gió rít qua các khe của vách kính lớn, lùa vào qua phía mặt hẹp han gỉ, xuyên qua căn phòng và khiến cánh cửa đập đập. Bấy giờ trên đảo mọi thứ ngưng lại. Những con phà không băng qua lạch nữa, những chiếc xe máy và ô tô ngừng vũ điệu của chúng, ngày giống như đêm, âm u, có những tia chớp không kèm tiếng sấm xuyên qua. Mary đã ra đi vào một buổi chiều tĩnh mịch, trong mặt biển phẳng lặng như một tấm gương. Nàng trở về trong cơn bão, từng mảnh nhỏ li ti bị biển thẳm tống xuất. Ban đầu, tôi không muốn tin vào điều đó. Tôi từng ghê sợ, từng ép chặt thái dương giữa hai bàn tay để dập tắt những hình ảnh này. Giờ đây tôi nhớ đến một người chết đuối. Không phải một phụ nữ mà là một đứa trẻ lên bảy, một tối nọ thằng bé mất tích, Mary và tôi đã cùng dân làng tìm bé nhiều giờ trong đêm. Chúng tôi men dọc bờ biển, tay cầm đèn pin, chúng tôi gọi bé nhưng không biết tên nó, Mary hét gọi: “Này cưng ơi!” Nàng thảng thốt, nước mắt giàn giụa trên má. Bấy giờ có chính cơn gió này, những đợt sóng này, thứ mùi đáng nguyền rủa này của vực biển sâu thẳm. Rạng sáng có tin báo đã tìm thấy xác thằng bé. Trên một bãi cát lẫn sỏi giữa các mỏm đá, chúng tôi lại gần, nhờ một tiếng thở than giống như tiếng gió dẫn đường, nhưng đó là mẹ thằng bé. Chị ngồi trên cát đen, thằng bé đặt trong lòng. Thằng bé trần truồng, áo quần biển đã lột sạch, trừ chiếc áo phông bẩn tạo thành một chuỗi vòng xoắn vặn quanh thân trên. Gương mặt bé trắng bệch, nhưng điều tôi tức khắc nhìn thấy, đó là lũ cua và cá đã bắt đầu rỉa xác bé, gặm chớp mũi và cu của bé. Mary không muốn lại gần, nàng run lên vì sợ và vì lạnh, và tôi đã ôm nàng sát gần mình, chúng tôi ở lại trong phòng, nằm quấn lấy nhau trên giường, không vuốt ve nhau, chỉ miệng kề miệng thở. Giờ đây hình ảnh ấy ám ảnh tôi, thân thể người đàn bà ấy nằm dang chữ thập trong khi tụi lính hành sự, và dưới khuôn miệng bầm giập máu đã khô thành hình ngôi sao đen. Và đôi mắt cô đang nhìn tôi, trong khi tôi lùi lại gần cửa, đôi mắt cô nhìn thấy xuyên qua tôi, nhìn thấy cái chết. Tôi chưa bao giờ nói gì với Mary, vậy mà chính vì cảnh tượng tàn bạo ấy nàng đã ngụp xuống biển để không bao giờ trở lại. Biển rửa cái chết, biển gặm nhấm, phá hủy và không trả lại gì, hoặc trả một cái xác trẻ em đã bị róc rỉa. Thoạt đầu, tôi đã nghĩ rằng cả mình cũng trở lại hòn đảo này để chết. Tìm lại được dấu vết của Mary, đi vào lòng biển một tối rồi biến mất. Giờ đây trong cơn bão, nàng tới phòng tôi. Đó là một giấc mơ tỉnh thức. Tôi bị mùi thân thể nàng quyện với mùi biển thẳm đánh thức. Một mùi hương nồng và hắc, chua, gắt, u uất, xộc lên. Tôi ngửi thấy mùi rêu tảo trong tóc nàng. Tôi cảm thấy làn da nàng hết sức mịn màng, nhẵn mượt nhờ sóng bào mòn, lóng lánh ánh xà cừ vì muối. Thân hình nàng bồng bềnh trong ánh sáng lờ mờ buổi hoàng hôn, luồn vào trong chăn, và bộ phận sinh dục cương cứng của tôi đi vào nàng, tới rùng mình, quấn siết tôi trong niềm mê đắm lạnh băng của nàng, thân nàng trườn sát thân tôi, môi nàng kề trên dương vật tôi, tôi hoàn toàn quyện vào nàng, nàng quyện vào tôi, cho tới cơn cực khoái. Mary, chết từ ba mươi năm nay, chưa bao giờ tìm thấy xác. Mary trở về từ đáy đại dương, đang nói vào tai tôi bằng chất giọng hơi khàn, trở về để hát cho tôi nghe những ca khúc bị lãng quên, những ca khúc về những ngôi sao trời, mà nàng đã hát tôi nghe ở quán bar khách sạn Phương Đông, lần đầu tôi gặp nàng. Không hẳn là quán bar dành cho lính tráng, và nàng không hẳn là ca sĩ quán bar. Khi nhìn thấy nàng tôi đã không hình dung ra nàng là ai, con một lính Mỹ được một gia đình nhà quê vùng Arkansas nhận nuôi, sinh ra từ một vụ cưỡng hiếp, bị bỏ rơi và trở về để chiến thắng kẻ thù truyền kiếp của mình, để hoàn thành một cuộc báo oán, hay đơn giản chỉ do sự lại giống vốn hay xua loài người đi theo vết cũ cội nguồn một cách tất yếu. Nhưng tôi, tôi đâu phải một tên lính, nàng hiểu vậy, và chắc hẳn đó là lý do nàng chọn tôi, cái gã mặc đồ lao động và mái tóc húi cua, bám theo đám lính trong những cuộc hành quân, tay cầm máy ảnh để tường thuật mọi cuộc chiến tranh. Tôi còn nhớ lần đầu chúng tôi trò chuyện, sau lượt trình diễn của nàng, vào lúc đêm muộn, hoặc sáng sớm, trên khoảnh sân hiên nhô ra trên dòng Menam Chao Phraya, nàng đã cúi xuống để nhìn thứ gì đó trên mặt đất, một con bướm đêm màu đen đang đập cánh hấp hối, và qua phần cổ khoét của chiếc váy đỏ nàng mặc, tôi đã nhìn thấy bầu ngực nàng buông lơi, hết sức mịn màng, khêu gợi. Nàng không biết gì về tôi và tôi cũng không biết gì về nàng. Bấy giờ tôi đã mang vết thương nham nhở của tội ác, tôi cứ ngỡ chuyện đó sẽ qua đi. Tôi từng quên đi quá khứ, việc xử vụ khiếu kiện bốn tên lính đã cưỡng hiếp một phụ nữ ở Huế. Cái gã giữ tay cô gái quặt ra sau đã thụi vào môi cô để bắt cô im miệng, còn gã kia xâm nhập cô chẳng ngại ngần, thậm chí không cởi quần, và tôi nhìn, không nói gì, không làm gì hoặc gần như thế, chỉ chớm cương cứng, nhưng nhìn và làm thinh, đó là hành động. Có lẽ tôi sẽ đánh đổi bất cứ thứ gì để khi ấy đã ở nơi nào khác, để không từng chứng kiến. Trước tòa, tôi đã không tự biện hộ. Thiếu phụ có mặt tại đó, ngồi hàng ghế đầu. Tôi đã liếc trộm và không nhận ra cô. Cô có vẻ trẻ hơn, gần như một đứa trẻ. Cô ngồi trên ghế băng, bất động, gương mặt được ống đèn nê ông của phòng xử án chiếu sáng. Khuôn miệng nhỏ, mím chặt, da mặt kéo căng ra vì búi tóc đen. Ai đó đã đọc lời chứng của cô bằng tiếng Anh, còn cô vẫn không nhúc nhích. Bốn gã nhà binh ngồi trên một ghế băng khác, cách cô vài mét, và chúng cũng không nhúc nhích. Chúng không nhìn ai, chỉ nhìn bức tường đối diện, cái bục nơi thẩm phán ngồi. Chúng thì ngược lại, tôi thấy chúng già hơn, đã phị ra vì mỡ, với nước da nhợt nhạt của những kẻ tù phạm. Tôi chưa từng kể chuyện này với Mary. Khi tôi gặp nàng tại khách sạn Phương Đông ấy, nàng hỏi tôi đã làm gì lúc rời quân ngũ. Tôi trả lời: “Không làm gì hết... Anh đi đây đi đó, vậy thôi.” Nàng không căn vặn, vả chăng tôi có lẽ chẳng bao giờ đủ can đảm để nói với nàng sự thật: “Anh đã bị kết án tù vì đã chứng kiến một tội ác, và đã không làm gì để ngăn cản tội ác đó.” Tôi muốn sống cùng Mary, đi đây đi đó cùng nàng, nghe nàng hát, san sẻ tấm thân nàng và cuộc đời nàng. Nếu tôi kể với nàng toàn bộ chuyện kia, hẳn là nàng sẽ xua đuổi tôi. Tôi đã sống cùng nàng một năm, cho tới khi đến hòn đảo này. Rồi một ngày nọ nàng đã quyết định đi vào lòng biển. Tôi chưa bao giờ hiểu được. Chúng tôi ẩn mình. Không ai quen biết chúng tôi, không ai có thể kể cho nàng nghe. Có lẽ nàng điên, chỉ vậy thôi, có lẽ chẳng có lời giải thích nào cho hành động của nàng. Nàng đã tự để sóng cuốn đi. Nàng vốn là tay bơi giỏi khác thường. Ngày còn ở Mỹ, năm mười sáu tuổi, nàng được chọn đi dự Olympic Melbourne. Nàng mang họ Farrell, Mary Song Farrell. Song bởi nàng được bố mẹ nuôi nhận về dưới cái tên này. Mẹ đẻ nàng tên là Song cũng nên. Hoặc giả bà ấy hay hát*, tôi không biết nữa. Có lẽ chính tôi về sau này đã suy diễn ra toàn bộ câu chuyện đó. Tôi không suy diễn cho những người khác, họ không khiến tôi bận tâm. Tôi không phải kiểu người kể chuyện đời mình trong những quán bar. Tôi không quen những người gốc Arkansas này, những người nhà Farrell này. Những chủ trang trại. Mary học cách chăm sóc gia súc, cách sửa xe máy, cách lái máy kéo tại nhà họ. Rồi một ngày nọ, năm mười tám tuổi, nàng bay đi để tới nơi khác sống, để hát. Đó là thiên hướng của nàng. Nàng đã có một cuộc sống khác, nàng chưa bao giờ trở lại trang trại. Khi nàng mất tích trên biển, tôi đã cố gắng liên lạc với bố mẹ nàng, tôi đã viết vài lá thư gửi đến quận, để biết địa chỉ của họ. Tuyệt không thấy hồi âm. Khi tôi quen Mary, nàng gần bốn mươi, nhưng có vẻ trẻ hơn tuổi nhiều. Bấy giờ tôi hai mươi tám. Tôi vừa mãn hạn tù. Bão truyền sang tôi cơn thịnh nộ. Tôi cần những tiếng ó biển của bão, những ống bễ lò rèn của bão. Chính vì bão mà tôi quay trở lại hòn đảo này. Bấy giờ, mọi thứ khép kín, mọi người mất hút trong nhà của họ, họ đóng cửa chớp và chặn cửa ra vào, họ thu lu trong vỏ ốc, trong lớp mai của mình. Họ cũng đã biến mất, những du khách mặt bự phấn, những kiểu tạo dáng, những điệu bộ, những trò õng ẹo của họ. Những cô gái mặc quần soóc cực ngắn đạp xe, những cậu trai cưỡi mô tô địa hình, những cặp kính Polaroid, những ba lô, máy ảnh, họ đã quay về thành phố, về những tòa chung cư, về xứ sở không bao giờ có bão của họ. Người dân đảo này đã tự chôn mình. Họ chơi bài, họ ngồi bệt trong những căn hầm với cửa kính mờ hơi nước mà uống bia. Ánh điện chập chờn, chẳng mấy chốc sẽ cắt điện trên diện rộng. Tủ cấp đông của các cửa hàng sẽ rỉ thứ nước vàng như nước tiểu, những con cá ướp muối sẽ chảy nước và long mắt, những thanh sô cô la đông lạnh sẽ mềm nhũn trong bao bì. Chính vì bão mà tôi quay trở lại. Tôi lại cảm thấy mình đang trong thời chiến, trong rủi may, theo cuộc bỏ chạy tán loạn của các đoàn quân, nghe những chiếc loa thét lác những mệnh lệnh khó hiểu. Tôi ngược dòng thời gian, dựng lại đời mình. Tôi những muốn quay trở lại ngưỡng cửa ngôi nhà ở Huế, nhìn, và cái nhìn của tôi sẽ ngưng thời gian lại, sẽ gieo mơ hồ lẫn lộn, sẽ giải thoát người đàn bà khỏi những kẻ hành hạ cô. Nhưng trong những điều tôi biết sẽ không có điều gì nhạt nhòa đi. Hòn đảo là sự đoan chắc về nỗi vô phương cứu chuộc. Bằng chứng của sự bất lực. Hòn đảo là ụ nổi cuối cùng, bến đỗ cuối cùng trước hư không. Chính vì điều này mà tôi trở lại. Không phải để tìm lại quá khứ, không phải để đánh hơi tìm lối như một con chó. Mà để chắc chắn rằng mình sẽ không nhận ra điều gì. Để bão xóa đi tất cả, vĩnh viễn, bởi biển là chân lý duy nhất. Mời các bạn đón đọc Bão của tác giả J. M. G. Le Clézio.
Ánh Sáng Cầu Vồng - Fern Michaels
Cầu vồng chỉ gặp sau mưa, mà không phải sau cơn mưa nào cũng có cầu vồng. Có lẽ chính bởi điều này mà hầu hết mọi người đều muốn được nhìn thấy cầu vồng. Cầu vồng đẹp bởi những màu sắc mà nó mang lại. Nhìn cầu vồng ta có cảm giác thanh thản, nhẹ nhàng, muốn hướng đến cái thiện, bởi vậy cầu vồng là biểu tượng của hy vọng và ngày mai. Cuốn “Ánh sáng cầu vồng” của nữ nhà văn Fern Michaels diễn ra xung quanh cuộc sống của các nhân vật: Annie Clark và Jane Abbott - hai cô sinh viên mới tốt nghiệp - đang tràn đầy những hy vọng và nhiệt huyết cùng nhau chuẩn bị thực hiện những ước mơ mà hai cô gái hằng ấp ủ từ lâu. Elmo Richarson - ông chủ hiệu tạp hóa tốt bụng, nhân hậu và vui tính Chuyện xảy ra vào ngày cuối cùng khi hai cô gái chuẩn bị rời Boston để chuyển tới nơi ở mới để thực hiện những hoài bão lớn lao của cuộc đời mình… Và vụ cướp ngân hàng Boston chính là nguyên nhân gây nên những rắc rối cho hai cô gái. Trong quá trình bị truy đuổi ráo riết, số tiền tên trộm lấy được lại tình cờ được ném vào xe của Annie... và câu chuyện bắt đầu từ đó... Những xung đột tâm lý, lòng tham, sự ích kỷ, lương tâm con người, sự ăn năn luôn dằng xé trong Annie khiến cô mệt mỏi. Annie sẽ xử trí ra sao? Ánh sáng cầu vồng trong truyện là gì? Hãy cùng đón đọc tác phẩm này để thấy được giá trị của hình ảnh cầu vồng trong truyện là gì. *** Annie Clark mở cửa bước vào tiệm bán dược phẩm theo kiểu cũ. Cô thích tiếng chuông kêu leng keng treo nơi cái đinh đóng ở góc cửa. Bỗng cô phân vân, có nên ăn cắp cái chùm chuông nhỏ ấy không. Không, tốt hơn là nên ghi nhớ âm thanh này vào ký ức. Cô yêu mến cái cửa hàng nhỏ này biết bao. Khi đi vào tiệm, cô thường hít mùi không khí trong tiệm vào phổi. Mùi vị thường giống nhau: phấn Max Factor, nước hoa Chantilly, và mùi cà phê mới pha thơm ngát muốn rỏ dãi ở cái quầy nằm kẹt giữa những kệ hàng trưng bày các thuốc trị bệnh về bàn chân của bác sĩ School và sinh tố bào chế từ cây cỏ thiên nhiên. Cô đã làm việc ở đây 5 ngày một tuần suốt 6 năm qua. Cô biết từng mục hàng trên các kệ cũng như biết hết giá cả. Nhờ cuốn sách gia chánh của mẹ ông Elmo Richarson, mà cô biết cách làm món xà lách cá ngừ ngon nhất thế giới, để phục vụ cho sinh viên đại học Boston. Vào những hôm cô phục vụ cà phê quế và cá ngừ ăn với bánh sừng trâu, hàng người đứng đợi mua ở ngoài cửa tiệm dài cả dãy phố, cô sẽ nhớ nơi này. Khi Annie đi theo lối đi ở giữa tiệm, cô đưa mắt hãnh diện nhìn lên các kệ hàng. Ai sẽ thay chỗ cô nhỉ? Họ có thương ông Elmo và cửa tiệm như cô thương không? Cô đưa tay sửa lại hàng hộp đựng kem đánh răng Colgate cho ngay thẳng. - Annie! Cái gì khiến cô đến đây hôm nay thế? - Người chủ tiệm dược phẩm da nhăn nheo lên tiếng hỏi. Annie cười. - Tôi nghĩ, tôi muốn công việc của tiệm thuốc được ổn định. Ông đã tìm được người thay chỗ của tôi chưa? - Tôi tìm ra người rồi, nhưng anh ta không thể thay cô được, Annie à. - Người chủ tiệm thuốc nhấp nháy mắt. Ông ta nhìn lọ Aspirin trên tay cô và chắc lưỡi nói tiếp: - Sau ngày mai cô mới lấy những lọ thuốc ấy chứ, phải không? - Có lẽ tôi lấy nhiều hơn nữa. Vì tôi có bằng thạc sĩ không có nghĩa là tôi sẽ hết khó khăn. Tôi phải tìm việc làm và tiếp tục công việc kinh doanh kiếm sống. Thế nhưng, trong những ngày sắp tới, tôi sẽ bắt đầu việc kinh doanh riêng của tôi. Ông cứ đợi mà xem. Ông Elmo, tôi sẽ nhớ ông. Trong những năm vừa qua, ông rất tốt với tôi. - Tôi không hiểu tại sao cô ra đi vội vã như thế. Cô không nghĩ là cô có quyền nghỉ ở đây tối thiểu là một tuần à? Hoãn chuyến đi vài ngày có sao đâu? - Tuần sau là hết tiền thuê nhà rồi. Khi tôi đến Charleston và tìm ra chỗ ở, tôi sẽ nghỉ chơi vài hôm. Trời hôm nay đẹp đấy chứ, ông Elmo. - Lâu rồi tôi mới thấy có ngày đẹp như hôm nay. Dự báo thời tiết cho biết ngày mai cũng đẹp trời. Tôi sẽ đóng cửa tiệm để đến dự lễ tốt nghiệp của cô. - Elmo hăng hái nói. - Thật à? Ông sẽ đóng cửa tiệm! - Phải, ông chủ nhiệm khoa đã cho tôi một vé ngồi ngay hàng đầu. Annie bước tới sau quầy, ôm ghì ông già. - Tôi không biết nói sao. Anh tôi viết thư nói ảnh không đến được. Mẹ tôi không... nghĩa là... Ôi, Elmo, cám ơn ông. Chắc tôi sẽ tìm ra ông. - Sau buổi lễ tôi sẽ mời cô và Jane đi ăn. Đừng từ chối. Tôi còn tặng hai cô mỗi người một món quà mọn nữa. - Ông lại nhấp nháy mắt. Annie cười. - Ông đã hứa viết thư cho tôi, đừng quên nhé. Ô. Ô, cái gì thế? - Annie hỏi, quay người nhìn ra đường. Tiếng xe nổ máy. Bọn choai choai đua xe mô tô đấy mà. Annie bỏ tiền lẻ vào túi. - Hẹn mai gặp nhau, ông Elmo. - Cam đoan cô sẽ gặp tôi. Thôi bây giờ cô về đi. Đi chậm rãi và thưởng thức thời tiết đẹp. Hai hàng lệ ứa trên mi mắt của Annie. - Chào ông Elmo. ... Mời các bạn đón đọc Ánh Sáng Cầu Vồng của tác giả Fern Michaels.