Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngữ Pháp Tiếng Việt (NXB Khoa Học Xã Hội 1983)

Hiện nay, cùng với một cuốn từ điển Tiếng Việt, một cuốn ngữ pháp Tiếng Việt là cần thiết đối với người Việt Nam đã phát huy tốt tác dụng của Tiếng Việt vào đời sống xã hội, vào sự nghiệp phát triễn văn hóa và kinh tế xã hội chủ nghĩa. 

Hiện nay, cùng với một cuốn từ điển Tiếng Việt, một cuốn ngữ pháp Tiếng Việt là cần thiết đối với người Việt Nam đã phát huy tốt tác dụng của Tiếng Việt vào đời sống xã hội, vào sự nghiệp phát triễn văn hóa và kinh tế xã hội chủ nghĩa. 

Cuốn Ngữ pháp tiếng Việt này là một cuốn ngữ pháp phổ thông, có thể được phổ cập rộng rãi, nhằm giúp người dùng sách chủ yếu là người Việt Nam, nâng cao khả năng sử dụng tiếng Việt trong thực tiễn nói và viết. 

Cuốn Ngữ pháp tiếng Việt này là một cuốn ngữ pháp phổ thông, có thể được phổ cập rộng rãi, nhằm giúp người dùng sách chủ yếu là người Việt Nam, nâng cao khả năng sử dụng tiếng Việt trong thực tiễn nói và viết. 

Ngữ pháp tiếng Việt còn nhằm giúp nâng cao hiểu biết và quý trọng, yêu mến đối với Tiếng Việt. Nói, viết cho đúng, cho hay, khổng chỉ đơn thuần là một thứ kỹ thuật sắp xếp. Đó còn là một khả năng sáng tạo dựa trên ý thức và tình cảm sâu sắc đối với bản sắc của di sản tinh thần vô cùng quý báu. 

Ngữ pháp tiếng Việt còn nhằm giúp nâng cao hiểu biết và quý trọng, yêu mến đối với Tiếng Việt. Nói, viết cho đúng, cho hay, khổng chỉ đơn thuần là một thứ kỹ thuật sắp xếp. Đó còn là một khả năng sáng tạo dựa trên ý thức và tình cảm sâu sắc đối với bản sắc của di sản tinh thần vô cùng quý báu. 

Vấn đề phương pháp biên soạn đã được thảo luận, cân nhắc, và những người biên soạn Ngữ pháp tiếng Việt chủ trương miêu tả và giải thích khách quan, chứ không minh họa, bảo vệ một xu hướng nào trong các xu hướng hiện nay về ngữ pháp học.

Vấn đề phương pháp biên soạn đã được thảo luận, cân nhắc, và những người biên soạn Ngữ pháp tiếng Việt chủ trương miêu tả và giải thích khách quan, chứ không minh họa, bảo vệ một xu hướng nào trong các xu hướng hiện nay về ngữ pháp học.

Nhằm đạt được các yêu cầu nói trên, cuốn ngữ pháp này cố gắng trình bày có hệ thống những yếu tố và những quy tắc cơ bản để cấu tạo những lời được coi là đúng với cách nói của người Việt Nam. Các ví dụ được dẫn chủ yếu từ tác phẩm văn học đời nay và cả đời trước. Cũng như mọi tiếng nói, tiếng Việt biến chuyển trong lịch sử. Mấy chục năm qua, do những tác động văn hóa - xã hội, tiếng Việt phát triển rất mạnh, rất nhanh, và đã có những biến đổi đáng được ghi nhận. Nhưng, tiếng Việt trong Truyện Kiều, trong Quốc âm thi tập, cũng như trong tục ngữ, ca dao, luôn luôn gần gũi với tiếng Việt hiện đại, luôn luôn thân thiết với người Việt Nam ngày nay.

Nhằm đạt được các yêu cầu nói trên, cuốn ngữ pháp này cố gắng trình bày có hệ thống những yếu tố và những quy tắc cơ bản để cấu tạo những lời được coi là đúng với cách nói của người Việt Nam. Các ví dụ được dẫn chủ yếu từ tác phẩm văn học đời nay và cả đời trước. Cũng như mọi tiếng nói, tiếng Việt biến chuyển trong lịch sử. Mấy chục năm qua, do những tác động văn hóa - xã hội, tiếng Việt phát triển rất mạnh, rất nhanh, và đã có những biến đổi đáng được ghi nhận. Nhưng, tiếng Việt trong Truyện Kiều, trong Quốc âm thi tập, cũng như trong tục ngữ, ca dao, luôn luôn gần gũi với tiếng Việt hiện đại, luôn luôn thân thiết với người Việt Nam ngày nay.

-------

-------

Ngữ Pháp Tiếng Việt

Ngữ Pháp Tiếng Việt

NXB Khoa Học Xã Hội 1983

NXB Khoa Học Xã Hội 1983

Nhiều Tác Giả

Nhiều Tác Giả

142 Trang

142 Trang

File PDF-SCAN

File PDF-SCAN

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Một Truyện Báo Thù Ghê Gớm - Nguyễn Thế Lữ (1929) - NXB Tân Dân PDF
Thế Lữ (10 tháng 6 năm 1907 – 3 tháng 6 năm 1989), tên khai sinh Nguyễn Đình Lễ (sau đó đổi thành Nguyễn Thứ Lễ) là một nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch người Việt Nam. Thế Lữ nổi danh trên văn đàn vào những năm 1930, với những tác phẩm Thơ mới, đặc biệt là bài Nhớ rừng, cùng những tác phẩm văn xuôi, tiêu biểu là tập truyện Vàng và máu (1934). Trở thành thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn kể từ khi mới thành lập (1934), ông hầu hết hoạt động sáng tác văn chương trong thời gian là thành viên của nhóm, đồng thời cũng đảm nhận vai trò là một nhà báo, nhà phê bình, biên tập viên mẫn cán của các tờ báo Phong hóa và Ngày nay. Từ năm 1937, hoạt động của Thế Lữ chủ yếu chuyển hướng sang biểu diễn kịch nói, trở thành diễn viên, đạo diễn, nhà viết kịch, trưởng các ban kịch Tinh Hoa, Thế Lữ, Anh Vũ, hoạt động cho đến sau Cách mạng tháng Tám. Ông tham gia kháng chiến chống Pháp, làm kịch kháng chiến trong những năm Chiến tranh Đông Dương. Sau Hiệp định Genève, ông tiếp tục hoạt động sân khấu, trở thành Chủ tịch đầu tiên của Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam (1957 – 1977). Ông được coi là một người tiên phong, không chỉ trong phong trào Thơ mới, trong lĩnh vực văn chương trinh thám, kinh dị, đường rừng, mà còn là người có đóng góp rất lớn trong việc chuyên nghiệp hóa nghệ thuật biểu diễn kịch nói ở Việt Nam. Thế Lữ đã được Nhà nước Việt Nam trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân năm 1984 và Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt II năm 2000.Một Truyện Báo Thù Ghê GớmNXB Tân Dân 1929Nguyễn Thế Lữ40 TrangFile PDF-SCAN
Nã Phá Luân PDF Lê Quốc Hữu thuật
Nã Phá LuânNXB Trịnh Văn BíchLê Quốc Hữu thuật64 TrangFile PDF-SCAN
Mưu Mô Dân Nghiện PDF (NXB Minh Tuân 1951) - Hải Lân
Từ khi có thuốc phiện tới nay và từ khi có sở Thương chinh để bài trừ thuốc phiện lậu, dân làng nghiện và nhân viên nhà đoan đã cùng nhau bao phen chạm trán. Đôi bên đều hằng cùng nhau luôn luôn đấu trí : một bên cố hết sức để khám phá ra thuốc phiện lậu, một bên dùng trăm mưu nghìn ké để ấn dấu thuốc phiện đi. Cuộc đấu trí nhiều khi rất gay go và thành những câu giai thoại người ta thuật cho nhau nghe. Đã có những cuộc nhân viên sở Thương - Chinh -đuổi bắt dân nghiện như đuổi cướp, và đã có những cuộc quan viên làng nghiện đánh lừa nhân viên sở Thương -Chinh một cách rất tài tình.Mưu Mô Dân NghiệnNXB Minh Tuân 1951Hải Lân52 TrangFile PDF-SCAN
Nghị Lực (NXB Hàn Thuyên 1942) - Phạm Ngọc Khuê PDF
Chúng ta thường hay cho là hoàn-cảnh gây nên mọi nỗi đau-khổ. Và luôn luôn, chúng ta lo thu-xếp cho chúng ta một địa-vị thực là thuận-tiện, thực là êm ái, thực là vừa lòng. Chúng ta sợ đói rét, sợ lầm-than, sợ bệnh tật, sợ tang-tóc, sợ thất-bại, sợ cô-độc, sợ những sự thử-thách đột-ngột sảy đến... Cuộc đời chúng ta là một chuỗi ngày chờ đợi, tâm-hồn chúng ta là một bản đờn hãi-hùng loạn nhịp.Nghị LựcNXB Hàn Thuyên 1942Phạm Ngọc Khuê212 TrangFile PDF-SCAN