Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Bán Hàng Vĩ Đại Nhất Thế Giới - Og Mandino

Cho đến nay, “Người bán hàng vĩ đại nhất Thế giới” được dịch ra 18 thứ tiếng, đã bán ra hơn 9 triệu cuốn và trở thành cuốn sách bán chạy nhất Thế giới. Không ai có thể ngăn cản bạn làm gì, trở thành người như thế nào nếu điều đó là chính đáng, có lợi cho bạn, gia đình và xã hội. Mọi cái đều có thể nếu bạn dám ước mơ và dám hành động để biển giấc mơ đó thành hiện thực. Tuy nhiên ước mơ là một chuyện, cái khó là ở chỗ làm sao để hành động biến ước mơ thành hiện thực.  Cuốn sách này được gói gọn trong mười cuốn da dê giúp bạn trở thành một Người bán hàng vĩ đại nhất thế giới, tuy nhiên nó không chỉ dạy bạn cách “bán hàng”, mà nó còn là một cuốn sách dạy bạn làm người, giúp bạn trở thành người “vĩ đại nhất” trong lĩnh vực mà mình đã chọn. Nội dung cuốn sách này được đúc rút từ những kinh nghiệm xương máu mà nhờ đó nó đã biến các ước mơ của cổ nhân thành hiện thực. Chứ không phải do một cá nhân nào đó tưởng tượng ra trong khi lại chưa được thực nghiệm kiểm chứng cả. Mỗi người đều có quyền tự do lựa chọn con đường để thực hiện giấc mơ của mình tuỳ thuận với nhận thức riêng của họ. “Quyển sách này” là một trong những con đường có thể giúp bạn đạt được ước mơ của mình. HỌC + LÀM = GIÀU Con Đường Thành Công    Ngay cả lời nói của Thượng đế cũng cần phải bán được cho con người để họ có thể lắng nghe Tất cả chúng ta, ai cũng đều đang rao bán một thứ gì đó trong mọi lúc của cuộc sống. Là một tu sĩ, chúng ta đang rao bán niềm tin của chúng ta về thương đế. Là một nhà giáo, chúng ta đang rao bán kiến thức của mình về khoa học. Là một nhà chính trị, chúng ta đang rao bán chính kiến của mình về một xã hội. Và là một con người chúng ta đang rao bán tình yêu của chúng ta đối với mọi người quanh ta. Một ý nghĩ có vẻ quá thực dụng nhưng lại là một thực tế mà chúng ta thường vẫn luôn tránh né, một cách vô thức, chẳng muốn nhìn nhận. Nếu chúng ta chấp nhận bán hàng là một hành động phục vụ, chúng ta sẽ nhận ra những hàm ý thực sự cao đẹp và đáng trọng của hai từ này. Nếu chúng ta thực tâm hiểu ra và tôn trọng hai từ này, ai trong chúng cũng có thể trở thành một người bán hàng vĩ đại nhất thế giới này. “The Greatest Salesman in the World” là một cuốn sách tuyệt vời đã từng được con người viết ra. Cuốn “Người Bán hàng Vĩ đại Nhất Thế giới” này là một cuốn sách mà những thông điệp ẩn mật đáng trân trọng của nó thường bị bỏ quên bởi chính cái tên của cuốn sách. Chúng ta cần phải hiểu hai chữ bán hàng được nói ở đây có nghĩa rộng hơn nhiều chứ không chỉ là công việc bán hàng bình thường như mọi người ngầm hiểu. Og Mandino là một tác già sách ‘self help’ (tự thân cải tiến) nổi tiếng chứ không phải một tác giả sách marketing. Chính vì lý do này mà chúng ta cần phải hiểu đây không thể là một cuốn sách về một ý thức hay những phương pháp bán hàng một cách đơn thuần. Theo ý của tác giả Og Mandino thì đây là một cuốn sách mượn công việc bán hàng để nói đến một phong cách sống phục vụ sẽ đưa ta đạt đến những thành công to lớn trong cuộc sống và nếu có, thì quan trọng hơn nữa là –cảm nhận niềm hạnh phúc của việc “được sống” một cách độc lập và tự do trong giới hạn của TÌNH YÊU. *** Và rồi thật nhanh chóng, một đoàn xe được bảo vệ nghiêm ngặt rời khỏi Damascus mang theo các giấy chứng nhận chủ quyền và vàng đến cho những ai đang quản lý các cửa hàng của thương quốc Hafid. Từ Obed ở Joppa đến Reuel ở Petra, từng người quản lý một đều nhận được lời giã biệt và tặng vật của Hafid trong sự im lặng đến mức sững sờ. Cuối cùng, khi đến cửa hàng ở Autipatris, nhiệm vụ được giao của Eramus đã hoàn tất. Thương quốc mạnh mẽ và rộng lớn nhất một thời đã không còn tồn tại nữa. Trái tim nặng trĩu, Eramus báo về cho ông chủ của mình biết là các kho hàng nay đã hoàn toàn trống rỗng và các cửa hàng một thời là niềm tự hào của Hafid nay đã không còn nữa. Người đưa tin trở lại với yêu cầu của Hafid. Eramus nhanh chóng trở về và gặp lại chủ nhân của mình bên hồ nước trong lâu đài. Khi gặp lại, Hafid quan sát nét mặt của người quản lý già: “Mọi việc đã xong?” “Vâng thưa ông, đã xong.” “Đừng đau khổ, ông bạn. Hãy theo tôi.” Chỉ có tiếng bước chân của họ dội lên trong căn phòng rộng lớn, trống rỗng khi Hafid dẫn Eramus dọc theo lối đi bằng cẩm thạch xanh dẫn ra phía sau. Đôi khi bước chân của Hafid chậm lại khi đi ngang qua những bình hoa trống rỗng, cô đơn trên các chân đế bằng gỗ cam cao nghệu và ông mỉm cười khi nhìn thấy những tia nắng đang làm cho màu của thuỷ tinh chuyển từ trắng thành tím nhạt. Rồi 2 người bạn già bắt đầu leo lên những bực thang dẫn đến một căn phòng nằm ngay bên dưới mái vòm của lâu đài. Erasmus nhận thấy những người canh gác vẫn thường hiện diện ở đây trong bao năm qua nay không còn nữa. Hai người lên đến tầng giữa, họ tạm ngừng để lấy lại hơi thở đã mất vì những bậc thang quá dài, rồi lại tiếp tục leo lên tầng hai trong im lặng. Đến trước một khung cửa, Hafid lấy ra một cái chìa khoá nhỏ vẫn đeo nơi lưng quần và mở cánh cửa bằng gỗ sồi nặng trịch ra. Ông nghiêng người đẩy cánh cửa mở ra một cách khó khăn và bước vào. Erasmus chần chừ cho đến khi ông chủ của mình yêu cầu ông bước vào, Erasmus thận trọng bước vào trong căn phòng mà từ hơn 30 năm qua chưa từng một ai được cho phép bước vào. Ánh sáng mờ nhạt len vào từ những khe hở chung quanh mái vòm ở bên trên, Erasmus nắm chặt lấy tay chủ nhân của mình cho đến khi đôi mắt dần quen đi với ánh sáng tù mù trong căn phòng bí mật đó. Với một nụ cười mơ hồ, Hafid nhìn người bạn trung thành của mình đang chậm chạp nhìn quanh căn phòng trống rỗng. Chỉ có một cái rương nhỏ thấp thoáng phản chiếu ánh sáng nằm ở một góc phòng. “Bạn cảm thấy thấy thất vọng ư, Erasmus?.” “Tôi không biết nói gì, thưa ông.” “Ông không thất vọng vì mọi thứ ở đây ư, ông bạn già. Chắc chắn là những gì chứa chất trong căn phòng này là một trong những bí mật đối với mọi người đã từng làm việc với tôi. Ông không thắc mắc hay quan tâm gì đến những gì được cất giấu ở đây dưới sự canh gác cẩn mật bao lâu nay sao?” ... Mời các bạn đón đọc Người Bán Hàng Vĩ Đại Nhất Thế Giới của tác giả Og Mandino.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nơi Trái Tim Hội Ngộ - WM. Paul Young
LỜI GIỚI THIỆU Liệu bạn có thể tin được chăng nếu một người quả quyết rằng mình đã sống trọn một kỳ cuối tuần với Chúa, trong một căn chòi? Thậm chí là chính căn chòi định mệnh ấy . Tôi biết Mack đã hơn hai mươi năm, kể từ ngày hai chúng tôi cùng đến phụ một người láng giềng gom cỏ ngoài đồng. Kể từ ấy, anh ta và tôi đã chia ngọt sẻ bùi, nói theo kiểu bọn trẻ ngày nay, đi chơi chung, cùng uống cà phê - hay là uống chai-tea nóng hổi pha với đậu nành. Những cuộc chuyện trò của chúng tôi đầy lý thú, lúc nào cũng rộn tiếng cười và thỉnh thoảng ứa cả nước mắt. Thật tình mà nói, càng lớn chúng tôi lại càng khăng khít. Tên đầy đủ của anh là Mackenzie Allen Phillips dù hầu như ai cũng gọi anh là Allen. Họ nhà anh, tất cả đàn ông con trai đều mang tên giống nhau nhưng thường được gọi theo tên lót, chắc là để tránh cách gọi phô trương kiểu Đệ nhất, Đệ nhị và Đệ tam hay là Cha và Con. Cách này cũng rất hiệu quả để nhận diện những tay tiếp thị từ xa, nhất là những cú phôn đường đột mà cứ ra vẻ thân thiết. Vậy là anh ấy và ông nội, bố, và bây giờ là thằng con trai cả đều mang tên Mackenzie nhưng thường được gọi bằng tên lót. Chỉ có Nan, vợ anh, và mấy người bạn thân gọi anh là Mack. Mack sinh trưởng trong vùng Midwest, một cậu trai con nhà nông trong một gia đình Ái Nhĩ Lan - Hoa Kỳ vốn quen làm lụng và khắt khe. Mặc dù bề ngoài thì mộ đạo, ông bố roi sắt của anh ta, một bậc trưởng lão trong giáo xứ, lại là một kẻ nát rượu, nhất là khi trời không mưa, hoặc mưa sớm quá, hoặc là bất cứ khi nào. Mack chẳng bao giờ nói nhiều về bố, nhưng mỗi khi nhắc đến thì gương mặt anh vô cảm như nước triều đang rút ra khơi, chỉ còn lại ánh mắt u tối và nguội lạnh. Từ những câu chuyện ít ỏi Mack kể lại, tôi biết bố anh không phải là loại nốc rượu rồi vô tư lự ngủ khì mà là một gã bợm nhậu xấu nết đánh chửi vợ con rồi lại xin Chúa xá tội. Biến cố xảy đến khi cậu Mackenzie mười ba tuổi miễn cưỡng bày tỏ tâm tình với một vị trưởng lão trong một dịp khôi phục đức tin cho giới trẻ. Trong một khoảnh khắc, day dứt với cảm giác tội lỗi, Mack đã bật khóc thú nhận rằng nhiều lần cậu đã chẳng làm gì để giúp mẹ khi ông bố say xỉn đánh mẹ đến ngất đi. Điều Mack không ngờ là lời xưng tội ấy thật hiệu nghiệm và đến tai cả bố mình, và khi cậu về đến nhà thì bố đang chờ sẵn ngoài hiên còn mẹ và các em gái thì rõ ràng đã đi vắng. Về sau cậu mới biết rằng mọi người đã đến nhà cô May để bố rảnh tay dạy cho thằng con phản loạn một bài học về sự tôn kính. Gần suốt hai ngày sau đó, bị trói vào cây sồi sau nhà, cậu bị quật bằng thắt lưng xen lẫn trong những câu kinh mỗi khi ông bố tỉnh cơn say và nốc xong ngụm rượu. Hai tuần sau, khi hồi phục và nhúc nhắc đi được, cậu bỏ nhà đi thẳng. Nhưng trước khi đi, cậu cho thuốc độc vào tất cả chai rượu tìm thấy trong nông trại. Rồi cậu ra cạnh nhà ngoài đào lên một chiếc hộp thiếc nhỏ chứa kho tàng nhân gian của cậu: một tấm ảnh gia đình với gương mặt mọi người đang nheo mắt vì ánh nắng mặt trời (bố cậu đứng khuất sang một bên), một tờ chương trình bóng chày giải Luke Easter 1950, một chai nhỏ đựng chút Ma Griffe (thứ nước hoa duy nhất của mẹ cậu), một cuộn chỉ và vài cây kim, một chiếc mô hình máy bay F-86 của Không lực Hoa Kỳ đúc bằng bạc, và toàn bộ tiền dành dụm của cậu - 15.13 đôla. Cậu lẻn vào nhà và luồn một mảnh giấy dưới gối của mẹ trong khi bố cậu đang ngáy sau một trận đánh chén. Giấy chỉ ghi: “Một ngày kia, con hy vọng mẹ có thể tha thứ cho con.” Cậu thề sẽ không bao giờ nhìn lại, và cậu đã không làm thế - chẳng được bao lâu. Mười ba thì còn quá nhỏ để gọi là hoàn toàn trưởng thành, nhưng Mack chẳng có mấy lựa chọn và đã thích nghi một cách thật nhanh chóng. Cậu chẳng nói nhiều về những năm tháng sau đó. Hầu hết quãng thời gian ấy trôi qua ở nước ngoài, cậu đi làm lụng khắp thế giới, gửi tiền về cho ông bà để nhờ chuyển lại cho mẹ cậu. Ở một nước xa xôi, tôi nghĩ thậm chí cậu đã cầm súng trong một cuộc xung đột dữ dội; cậu đã từng căm ghét chiến tranh một cách ghê gớm từ khi tôi biết cậu. Sau mọi chuyện, rốt cục ngoài hai mươi tuổi cậu bước chân vào một trường dòng tại Úc. Học xong thần học và triết học, cậu quay về Hoa Kỳ, làm lành với mẹ và các em gái, rồi chuyển đến Oregon nơi cậu gặp và cưới Nannette A. Samuelson. Trong một thế giới của những người chỉ nói, Mack là một người suy nghĩ và hành động. Anh chàng chẳng nói nhiều trừ phi bạn hỏi thẳng anh, mà hầu hết mọi người đều đã biết là không nên. Khi anh ta mở miệng, bạn sẽ nghĩ anh ta là một loại người trên trời rơi xuống bởi các ý tưởng và trải nghiệm hoàn toàn theo cách khác thường. Vấn đề là, anh thường mang lại cảm giác bất thường trong một thế giới mà hầu hết mọi người chỉ thích nghe những gì họ thường nghe, tức là chẳng có gì đáng bận tâm. Những người quen biết nói chung đều không ghét anh, miễn sao anh giữ các ý tưởng cho riêng mình. Và khi anh nói, không phải là họ không thích anh nữa - mà họ sẽ không cảm thấy thoải mái trong thâm tâm. Mack có lần bảo tôi rằng lúc trẻ anh thường bộc lộ ý nghĩ thoải mái hơn, nhưng anh thú nhận rằng hầu hết các cuộc nói chuyện như thế là một cơ chế sinh tồn để che đậy tổn thương của mình; rốt cục anh thường gieo nỗi đau cho mọi người xung quanh. Anh nói cách của anh thường vạch ra lỗi lầm và làm bẽ mặt người khác trong khi chính mình thì tôn tạo cảm giác giả tạo của uy quyền và ngự trị. Thật không dễ ưa. Khi viết những dòng này, tôi tái hiện một chàng Mack mà tôi biết - thật bình dị, và dĩ nhiên không phải là một người đặc biệt, ngoại trừ đối với những ai thật sự biết anh. Anh sắp bước sang tuổi năm mươi sáu, và anh là một người khá bình thường, hơi nặng cân, hói, thấp và da trắng giống như hầu hết những người đàn ông vùng này. Ắt là bạn sẽ chẳng nhận ra anh trong một đám đông hay cảm thấy khó chịu ngồi bên cạnh trong khi anh chợp mắt trên tàu MAX (tàu điện trung chuyển) trong hành trình mỗi tuần một lần vào thành phố dự cuộc họp về bán hàng. Anh làm việc chủ yếu từ văn phòng nhỏ tại nhà ở Wildcat Road. Anh bán các món đồ kỹ thuật cao và những dụng cụ mà tôi không định tìm hiểu: các thiết bị để làm cho mọi thứ diễn ra nhanh hơn, như thể cuộc sống này chưa đủ nhanh. Bạn không thể nhận ra Mack thông minh như thế nào trừ phi bạn tình cờ nghe lỏm cuộc đối thoại giữa anh với một chuyên gia. Tôi đã từng rơi vào tình huống đó, và chợt như nghe thấy ngôn ngữ không phải là tiếng Anh nữa, rồi tôi thấy mình phải vất vả để nắm bắt các ý niệm tuôn trào như thác. Anh có thể nói chuyện một cách minh triết về hầu hết mọi điều, và cho dù bạn cảm thấy anh có sức thuyết phục mạnh mẽ, anh vẫn có một phong thái dịu dàng để giúp bạn giữ quan điểm của mình. Các chủ đề anh ưa thích đều thuộc về Thiên Chúa và Đấng Tạo hóa và nguồn cội niềm tin của con người. Mắt anh sáng lên, nụ cười bừng nơi khóe môi, trong khoảnh khắc, như một đứa trẻ, nét mệt mỏi tan biến và anh trở nên không còn tuổi tác và vô tư lự. Nhưng trong lúc ấy, Mack không phải quá sùng đạo. Dường như anh có một mối quan hệ yêu/ghét với Tôn giáo, và thậm chí với cả Chúa mà anh hồ nghi rằng đang suy niệm ở nơi xa xôi và cách biệt. Thỉnh thoảng những lời châm chọc đầy mỉa mai lại dè dặt buông ra từ miệng anh như những mũi phi tiêu sắc lẻm tẩm độc dược từ một giếng sâu trong tâm can. Mặc dù cả hai chúng tôi đôi khi xuất hiện vào ngày chủ nhật tại chính ngôi giáo đường phúc âm (mà chúng tôi thích gọi là Hội Ngũ tuần Độc lập thứ 55 của Thánh John Baptist), bạn có thể thấy rằng anh ấy không thật thoải mái nơi đó. Mack đã kết hôn với Nan hơn ba mươi ba năm mà gần trọn thời gian là những năm tháng hạnh phúc. Anh nói người vợ đã cứu chuộc đời mình và đã trả một cái giá đắt để làm việc đó. Vì một lý do nào đó, nằm ngoài sự hiểu biết, giờ đây dường như cô ấy yêu anh hơn bao giờ hết, mặc dù tôi có cảm giác anh đã làm cô ấy tổn thương dữ dội trong những năm tháng đầu. Tôi cho rằng vì hầu hết những tổn thương của chúng ta đến từ các mối quan hệ nên sự hàn gắn cũng xuất phát chính từ đó, và tôi biết rằng sự khoan dung chẳng có nghĩa gì đối với những ai nhìn sự việc qua bề ngoài. Dù gì thì Mack đã có một cuộc hôn nhân xứng đôi. Nan chính là trát vữa để kết dính những viên gạch gia đình. Trong khi Mack vật lộn trong một thế giới đầy màu xám, thế giới của chị chủ yếu là trắng và đen. Chị tư duy theo lẽ thường một cách tự nhiên đến độ chẳng cảm nhận được cái năng khiếu lý tính ấy. Công cuộc chăm lo một gia đình khiến chị từ bỏ giấc mơ trở thành bác sĩ, nhưng trong vai trò y tá, chị tỏ ra vượt trội và được mọi người đánh giá cao trong công việc mà chính chị đã lựa chọn, là chăm sóc các bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối. Trong khi quan hệ của Mack với Thiên Chúa thiên về chiều rộng, quan hệ của Nan lại có chiều sâu. Cặp vợ chồng xứng hợp một cách khác thường này có năm đứa con khôi ngô. Mack ưa nói rằng chúng đều cuỗm lấy nét đẹp từ anh “...vì Nan vẫn còn giữ được nét đẹp riêng cho cô ấy.” Hai trong ba cậu con trai đã ra riêng: Jon, vừa mới cưới, làm mãi vụ cho một công ty địa phương, còn Tyler, mới tốt nghiệp đại học, đang làm việc tại trường để theo đuổi luận án thạc sĩ. Josh và một trong hai đứa con gái, Katherine (Kate), vẫn còn ở nhà và theo học tại đại học cộng đồng địa phương. Rồi đến một đứa con muộn màng, Melissa - hay Missy, như cách chúng tôi thích gọi cô bé. Cô bé... mà thôi, rồi bạn sẽ biết về chúng rõ hơn qua những trang sách này. Những năm vừa qua đã trở nên, tôi nên nói như thế nào nhỉ, hết sức đặc biệt. Mack đã thay đổi; anh ấy giờ đây thậm chí còn khác hơn và đặc biệt hơn trước đây nữa. Suốt bao nhiêu năm tháng, tôi biết anh ấy là một tâm hồn khá dịu dàng và tử tế, nhưng từ lúc nằm bệnh viện cách đây ba năm, anh đã trở nên... thậm chí còn tử tế hơn nữa. Anh đã trở thành một trong những người hiếm hoi thật sự hoàn toàn thoải mái một cách chân tình. Và tôi cảm thấy thoải mái bên cạnh anh ấy, khác với bất cứ ai. Khi chia tay, dường như tôi vừa có được một cuộc nói chuyện tuyệt nhất trong đời, cho dù tôi thường là người nói hầu hết. Và ơn Chúa, Mack không chỉ phóng khoáng mà còn rất sâu sắc. Nhưng cú sốc ấy đã khiến anh phải trả giá đắt. Những ngày này rất khác với khoảng chừng bảy năm trước, khi nỗi đau xâm chiếm đời anh và anh gần như không nói chuyện nữa. Vào khoảng thời gian ấy và trong gần hai năm chúng tôi không qua lại, như thể có một sự thỏa thuận ngấm ngầm nào đó. Tôi chỉ gặp Mack thi thoảng tại hiệu tạp phẩm địa phương hoặc thậm chí còn hiếm hơn nữa tại nhà thờ, và mặc dù thường ôm choàng lấy nhau một cách lịch sự, chúng tôi chẳng nói gì mấy chuyện quan trọng. Thậm chí anh ấy còn khó khăn khi nhìn vào mắt tôi; có lẽ anh ấy không muốn khơi mào một cuộc trò chuyện có thể làm tróc vảy vết thương trong tim mình. Nhưng tất cả mọi chuyện đã thay đổi sau biến cố ác ôn với... Nhưng tôi lại buột miệng rồi, không kiềm chế được. Rồi đến lúc chúng ta sẽ biết chuyện. Tôi chỉ muốn nói mấy năm qua dường như cuộc sống đã trở lại với Mack và cất đi gánh nặng của nỗi đau . Chuyện xảy ra cách đây ba năm đã hoàn toàn thay đổi nhịp điệu cuộc sống của anh và đó là một khúc ca mà tôi muốn tấu lên cho các bạn cùng nghe. Mặc dù giao tiếp ngôn từ khá tốt, Mack lại không thoải mái với kỹ năng viết lách của mình - một việc mà anh biết rằng tôi rất đam mê. Cho nên anh đã đề nghị tôi chắp bút cho câu chuyện này - câu chuyện của anh ấy, “vì bọn trẻ và vì Nan.” Anh muốn câu chuyện giúp anh giải bày với vợ con không chỉ tình thương yêu sâu lắng của mình mà cả những gì đã diễn ra trong thế giới nội tâm của mình. Bạn biết thế giới ấy: nơi chỉ có riêng mình bạn - và có lẽ Chúa nữa, nếu bạn tin có Ngài. Dĩ nhiên, Chúa vẫn có thể hiện diện ở nơi ấy cho dù bạn không tin người. Người là như thế đó. Không phải vô cớ mà người được xưng tụng là Đấng Can thiệp. Những gì các bạn sắp đọc là những gì Mack và tôi đã vất vả hàng tháng trời để viết ra. Có một chút, à... không, có nhiều điều kỳ lạ. Cho dù có những phần thật sự có thật hay không, tôi không phải là người phán xét. Cũng phải nói rằng, mặc dù có những điều không thể chứng minh được một cách khoa học, thì nó vẫn đúng đấy thôi. Thật lòng tôi phải nói rằng khi tham gia vào câu chuyện này, tôi đã bị tác động sâu thẳm bên trong vào những ngóc ngách mà chính tôi chưa bao giờ biết đến sự tồn tại của nó; tôi phải thú thực rằng tôi vô cùng muốn mọi chuyện Mack kể với tôi là sự thật. Hầu hết các ngày tôi ở bên cạnh Mack, nhưng có những ngày - khi thế giới hữu hình của xi măng và máy tính trông như là thế giới thật - thì tôi tách biệt và cảm thấy hồ nghi. Một vài lời cuối: Mack muốn bạn biết rằng nếu bạn tình cờ đọc câu chuyện này và ghét nó thì, anh nói: “Xin lỗi... câu chuyện chủ yếu được viết ra không dành cho bạn.” Mà nghĩ lại, biết đâu đấy. Những gì bạn sắp đọc là ký ức rõ rệt nhất mà Mack có thể nhớ về những gì đã xảy ra. Đây là câu chuyện của anh ấy, không phải của tôi, cho nên những khi xuất hiện, tôi sẽ nhắc đến chính mình bằng ngôi thứ ba - từ góc nhìn của Mack. Ký ức có những lúc là một kẻ đồng hành quỷ quyệt, nhất là với một tai ương, và bất chấp những nỗ lực chung của chúng tôi để đạt được sự chính xác, tôi sẽ không quá ngạc nhiên nếu trong các trang sách có những sự kiện sai sót hoặc ký ức lầm lạc. Đó không phải là sự cố ý. Tôi có thể cam đoan với bạn các cuộc trò chuyện và biến cố được ghi lại trung thực tối đa theo những gì Mack nhớ được, cho nên ta hãy rộng lượng với anh ấy. Rồi bạn sẽ thấy, đó không phải là những điều dễ bộc bạch. Mời các bạn đón đọc Nơi Trái Tim Hội Ngộc của tác giả WM. Paul Young.
Nơi Em Quay Về Có Tôi Đứng Đợi - Ichikawa Takuji
Nơi Em Quay Về Có Tôi Đứng Đợi Cuộc đời vốn là những chuỗi hội ngộ và chia ly. Hội ngộ là để chia ly. Chia ly là để có ngày hội ngộ. Satoshi và Yuko, vốn là hai người bạn đồng môn thời trung học, đang sống trong những ngày vợ chồng son hạnh phúc thì tai họa bất ngờ ập đến: Yuko có thể sẽ ra đi mãi mãi. Đối diện sự thật đau buồn ấy, Satoshi và Yuko đã chăm sóc nhau, trở thành chỗ dựa cho nhau, chia sẻ với nhau từng cơn đau, từng niềm vui nhỏ bé, trân trọng từng giây phút ở bên nhau. Vẫn giọng văn nhẹ nhàng pha chút hài hước, như thể một cậu bé mới lớn đang thủ thỉ kể chuyện, Tchikawa Takuji một lần nữa khắc họa bức tranh tình yêu và chia ly bằng gam mầu sáng trong. Mỗi tác phẩm của ông là một lần thanh lọc tâm hồn người đọc. Chỉ cần có tình yêu thì sự chia ly cũng không còn đáng sợ. *** Sinh năm 1962 tại Tokyo. Sau khi tốt nghiệp khoa kinh tế trường Đại học Dokkyo, Nhật Bản, ông vào làm tại một công ty xuất bản nhưng chỉ được 3 tháng thì xin nghỉ việc và đi du lịch vòng quanh nước Nhật bằng xe máy. Sau đó ông làm tại một văn phòng nhỏ chuyên về thuế suốt 14 năm trước khi nghỉ hẳn để chuyên tâm vào công việc viết lách.   Từ năm 1997, ông bắt đầu giới thiệu những tác phẩm của mình lên mạng internet. Nơi em quay về có tôi đứng đợi là tiểu thuyết đầu tiên của ông bước ra khỏi mạng internet để xuất bản thành sách vào năm 2002. Tác phẩm sau đó cũng được dựng thành phim truyền hình. *** Ký ức ban sơ nhất, chính là màu trắng sáng đẹp đẽ của áo lót nhìn thấy qua lần áo sơ mi của em.   Muốn kể từ lần gặp gỡ đầu tiên, cho dù thế nào, cũng phải bắt đầu từ đây.   Tuổi mười lăm, bóc đi hết thảy vỏ bọc bên ngoài, em đơn giản mà tự nhiên, là một cô bé bẽn lẽn hướng nội.     Sau lễ Khai giảng, các học sinh mới đều tụ tập trong lớp học, để cho tiện, giáo viên sắp xếp chỗ ngồi theo thứ tự phát âm của tên học sinh, không phân biệt nam nữ, sau Igarashi là Inoue, vì vậy lẽ tất nhiên là tôi được xếp ngồi phía sau em, trước mắt chính là tấm lưng mảnh mai của em.   Tôi chẳng rõ vì tiết trời ấm áp hay vì nguyên do gì, lúc đó em không mặc áo khoác hay gi lê, mà chỉ mặc độc một chiếc sơ mi trắng.   Cặp mắt tôi bị hút chặt vào cái cổ nhỏ nhắn của em, những đường cong thanh mảnh trên cơ thể em tựa như một đứa bé vẫn chưa bước vào tuổi dậy thì.   Em mặc một chiếc áo ngực nhỏ che bầu ngực lại, khiến tôi cảm thấy có gì đó không hài hòa.   Ấn tượng của tôi với thứ đó giống kiểu nhỏ một giọt mực đỏ xuống nền toan trắng. (Nhưng trên thực tế, cái tôi nhìn thấy xuyên qua lớp áo sơ mi màu xanh nhạt ấy là màu trắng của chiếc áo ngực.)   Hai đặc điểm trái ngược của em khi mười lăm tuổi ấy khiến tôi bối rối, có lẽ đây chính là cơ duyên đầu tiên khiến hai người đến với nhau.     Về sau, tôi kể chuyện này cho Yuko nghe, em nhìn tôi với nụ cười khó hiểu.   “Thực ra, hồi em mười lăm tuổi, vốn chẳng cần thiết phải mặc áo ngực, nhưng mà, ăn mặc quá khác biệt với những bạn gái khác thì lại ngại, vả lại ở tuổi ấy người ta ai chẳng muốn làm những chuyện vượt quá sức mình chứ.”   Em tiếp lời:   “Có điều, nếu hồi đó anh Inoue nói chuyện này với em, em sẽ cảm thấy nội tâm mình bị người khác nhìn thấu, có khi hôm sau chẳng dám đi học nữa.” ... Mời các bạn đón đọc Nơi Em Quay Về Có Tôi Đứng Đợi của tác giả Ichikawa Takuji.
Những Cô Nàng Gucci - Jasmine Oliver
Năm học đầu tiên của bộ ba xinh đẹp tại trương thời Trang sắp kết thúc. Marina - cô tiểu thư duyên dáng của một gia đình nền nếp đã chọn cho mình ngành thiết kế giày. Sinead - cô con gái của một bà mẹ nổi tiếng trong làng thời trang cũng quyết định theo ngành thiết kế quần áo. Còn Frankie - cô em bốc đồng của bộ ba lại đi theo chuyên ngành nữ trang. Nhưng họ đang phải đối diện với nhiều chuyện phiền phức, áp lực học hành, bố mẹ ngoại tình, bạn trai lừa gạt, người yêu hiểu lầm... Họ chỉ mới 18 tuổi. Họ sẽ phải làm gì để vượt qua những rắc rối "người lớn" ấy? *** Bộ sách ​Câu Chuyện Thời Trang gồm có: Câu Chuyện Thời Trang Tập 1: Những cô nàng Gucci Câu Chuyện Thời Trang Tập 2: Những thiên thần Armani Câu Chuyện Thời Trang Tập 3: Những công chúa Prada *** Mình làm được mà! Marina nhủ thầm. Làm được, làm ngon lành! Đàn ông nuy, báo động! Frankie hít vào thở ra thật sâu. Eo ơi, đàn ông nuy! Nam người mẫu bằng xương bằng thịt bước vào giữa phòng vẽ và cởi áo choàng ra. Có gì ghê gớm đâu? Sinead nghĩ, lấy từ trong hộp ra một mẩu than chì ngắn. Người mẫu gầy nhom ấy ngồi xuống ghế. Da lão màu pho-mát, tóc nâu nhạt tết lại thành những bím dài. “Thể hình của ông Billy đây có độ nét rất cao, cho nên các em hãy tận dụng điều đó,” thầy dạy vẽ khuyên. “Các em đang dùng giấy A1, và tôi muốn các em vẽ kín hết khổ giấy.” Phùù! Frankie thở ra. Trời, cái môn hình họa này cứ như đấm vào mặt người ta ấy. Chẳng lẽ ở đây chỉ có mỗi mình cô là thấy nó gớm sao? Cô liếc sang cô gái ngồi bên trái mình có mái tóc vàng để dài. Marina nuốt nước bọt đánh ực một cái và cố nén cảm giác buồn nôn. Cô cầm mẩu than chì nhỏ lên và vân vê trong những ngón tay búp măng - những móng tay sơn màu đỏ chót tương phản với màu chì đen. Lão người mẫu ưỡn tấm thân ra phía trước. “Ừ, tốt lắm,” thầy Jack Irvine, giáo viên dạy vẽ gật gù khi Sinead dùng cạnh của mẩu than chì để đánh bóng những vùng tối. “Đừng có ngượng,” thầy bảo những sinh viên khác. “Tôi biết đây là lần đầu tiên với hầu hết các em, nhưng các em đâu còn là học sinh phổ thông nữa. Đây là trường Thời trang Trung tâm và các em đã là sinh viên rồi, vì vậy hãy tỏ ra người lớn và tập trung vào kỹ thuật vẽ đi.” Thôi thì đành chịu vậy, Frankie chớp mắt và cố ép mình bắt tay vào vẽ. “Gớm chết đi được!” Marina rên rỉ. Sau thử thách cam go trong phòng hình họa, cô với Frankie và Sinead lủi ngay ra quán cà phê. “Cái lão người mẫu đó nghĩ gì không biết? Lão ta phải sáu mươi là ít!” “Ừ, phải trả cả núi tiền may ra em mới làm việc đó,” Frankie đồng tình. “Ai lại trần như nhộng trước bàn dân thiên hạ chỉ với hai mươi bảng... không đáng để nhục như thế!” “Công việc thôi mà,” Sinead chỉ ra. “Còn hơn là đi sắp hàng lên kệ siêu thị.” “Còn lâu!” Frankie và Marina phản đối. Cá nhân mà nói, các cô thà đi xếp những lon đậu nướng chồng lên nhau còn hơn là đi làm người mẫu nuy . “Với lại, hãy nghe đây các cô gái ngoan hiền! Đám bà mẹ của bọn mình sẽ nghĩ gì?” Marina khuấy tách cà phê đen và nháy mắt với Sinead, trước khi ngó quanh căn phòng. Có hai kẻ “tị nạn” nữa cũng từ lớp hình họa tấp vào đây, cộng với hai anh chàng mà cô mang máng là đã gặp ở đâu đó rồi. Tại Tuần lễ Tân Sinh viên chăng? Hay phục vụ ở quầy bar Sinh viên? Không, Marina chả nhớ là ở đâu. Cô bỏ cuộc và nghía lại diện mạo mình trong tấm gương treo đằng sau quầy. “Hai chị có thấy lão ngủ gật trong khi ngồi làm mẫu không?” Frankie nhe răng cười, giọng nói tưởng như bị nuốt chửng trong tiếng rít rú của chiếc máy pha cà phê. Sinead và Marina cười ồ. “Không, không phải vậy! Ý em là lão đã được trả tiền để khò một giấc ngon lành.” “Thảo nào mà lão cứ cựa quậy mãi,” Marina phàn nàn. “Tao đã phải xóa ngực lão đi để vẽ lại từ đầu.” Cô cười khúc khích. Hai anh chàng bên kia gian phòng nhìn ba cô chằm chằm và thì thầm gì đấy. Frankie ngả người ra sau, hai tay ôm cái bụng phẳng lì của mình, “Giời ạ, cười đến đau cả bụng!” “Chứ hai đứa mày chưa từng thấy đàn ông nuy à?” Sinead làu bàu. “Ờ, tất nhiên!” Marina phát cáu. Frankie im lặng. Sau đó cô đổi đề tài, bảo với Sinead, “Bức vẽ của chị hết ý đấy.” “Này, đừng có nhìn nhé, nhưng bọn mình đã gặp hai thằng cha kia ở đâu rồi ấy nhỉ?” Marina hỏi, thì thào mà cốt để người khác nghe thấy. Sinead và Frankie quay qua, trố mắt nhìn. “ Đã bảo là đừng có nhìn mà!” Marina gắt. Anh chàng mặc jacket da đứng dậy và đi về phía ba cô. Ớ, không phải. Anh ta đang tới quầy để lấy thêm cà phê. Tên kia, trông quyến rũ hơn, đang đọc tạp chí âm nhạc. “Hai tên đó ở ngôi nhà đối diện quảng trường với bọn mình chứ đâu,” Frankie bảo Marina, tỉnh rụi. “Tên mặc jacket hay cưỡi chiếc mô-tô màu bạc. Em thấy hắn đậu xe ngoài cửa hoài.” ... Mời các bạn đón đọc Những Cô Nàng Gucci của tác giả Jasmine Oliver.
Những Thiên Thần Armani - Jasmine Oliver
Năm học đầu tiên của bộ ba xinh đẹp tại trương thời Trang sắp kết thúc. Marina - cô tiểu thư duyên dáng của một gia đình nền nếp đã chọn cho mình ngành thiết kế giày. Sinead - cô con gái của một bà mẹ nổi tiếng trong làng thời trang cũng quyết định theo ngành thiết kế quần áo. Còn Frankie - cô em bốc đồng của bộ ba lại đi theo chuyên ngành nữ trang. Nhưng họ đang phải đối diện với nhiều chuyện phiền phức, áp lực học hành, bố mẹ ngoại tình, bạn trai lừa gạt, người yêu hiểu lầm... Họ chỉ mới 18 tuổi. Họ sẽ phải làm gì để vượt qua những rắc rối "người lớn" ấy? *** Sinead – cô gái có mái tóc vàng cắt ngắn, sở hữu một thân hình tuyệt mỹ và một vẻ đẹp quyến rũ. Marina – cô gái bốc lửa, gọi cảm, được mệnh danh là Marilyn Monroe của trường đại học Thời trang Trung tâm. Frankie – cô gái có cặp chân dài với tư chất của môt người mẫu sáng giá ẩn sau một tính cách trong sáng và nhút nhát. … Cả ba đều là sinh viên năm nhất của trường Thời trang Trung tâm và cùng sống trong một ngôi nhà tại quảng trường Walgrave. Frankie, Marina và Sinead vừa kết thúc học kỳ đầu tiên tại trường đại học Thời trang. Phía trước họ là một mùa Giáng sinh đầy hứa hẹn… *** Bộ sách ​Câu Chuyện Thời Trang gồm có: Câu Chuyện Thời Trang Tập 1: Những cô nàng Gucci Câu Chuyện Thời Trang Tập 2: Những thiên thần Armani Câu Chuyện Thời Trang Tập 3: Những công chúa Prada *** “Frankie McLerran, kính bảo hộ của em đâu?” “Ối!” Frankie giật nảy người và làm rơi một giọt bạc vào cái đĩa thủy tinh đựng mấy hạt đá quý nhỏ li ti. “Phải luôn đeo kính bảo hộ trong xưởng chứ,” cô Claudia Brown quát lên với cái giọng “thượng sĩ” đáng sợ. Frankie vội cạo giọt bạc bị dính vào đĩa rồi bỏ vào cái nồi nấu kim loại nhỏ xíu, đánh lửa, đeo cặp kính vào và lại bắt đầu lần nữa. “Mẫu in hình con báo lỗi thời từ năm ngoái rồi,” thầy Tristian Fox phẩy nhẹ tay khi nói với Marina. “Nghĩ đến mấy đôi xăng-đan quai da đi, hay là kết hợp giữa vải bố với da rắn cũng được. Thử thứ gì đó mạo hiểm đi chứ.” Marina đang nghiên cứu mẫu thiết kế giày của mình - mẫu xăng-đan có in hình con báo với gót giày màu bạc cao cỡ bảy phân và đế khá nhẹ. Đã trở thành nguyên tắc bất di bất dịch, thầy Tristan không bao giờ khen bất kỳ một người nào. “Mẫu in hình con báo lỗi thời từ năm ngoái rồi!” Marina nhại lại bằng giọng the thé sau lưng ông thầy. “Tôi nghe thấy rồi đấy nhé!” thầy Tristan cảnh cáo, chân vẫn bước đi mà không thèm quay đầu lại. “Ối trời!” dù sao thì Marina cũng thừa nhận rằng thầy Tristan luôn biết rõ mình đang nói gì. Xét cho cùng, thầy ấy đang thiết kế cho hãng Charles Jourdan. Thầy ấy là Thầy Giày Nước Anh [1] cơ mà! Marina dẹp mấy cái đế giày in hình con báo của mình đi, và thay vào đó là một ý tưởng mới với da thuộc. Những tên cướp biển! Sinead nghĩ. Đó sẽ là chủ đề của mình ! Không phải những tên cướp biển trong truyện Peter Pan , mà là những tên cướp biển mặc những chiếc sơ mi được may bằng chất vải nhẹ nhất, trong suốt, thắt lưng da rộng bản trễ xuống thật gợi cảm, quần lửng trắng và bốt da nâu vàng. Sơ mi sẽ cột trễ xuống đằng trước để lộ ra thật nhiều da thịt, và có lẽ sẽ bỏ luôn cả quần đi, thay vào đó chỉ là những cặp chân dài rám nắng trong đôi bốt cao đến nửa bắp chân... À, và phải có cả những chiếc mũ ba sừng rộng vành màu trắng nữa chứ. Sinead đang thực hiện mẫu thiết kế mùa hè của mình trong phòng cắt may trên tầng cao nhất, xung quanh là những mớ vải sọc, vải zíc-zắc, hạt cườm, nút áo với huy hiệu. Chẳng có ma nào, chỉ có mỗi một bản nhạc đang phát ra từ cái máy CD cũ mèm, cho tới khi Marina đột ngột nhảy vào thiên đường của cô, “Sinead, ngó ra ngoài cửa sổ đi. Tuyết đang rơi kìa!” “Tuyết đang rơi!” Sinead và Marina vội ào xuống tầng hầm của trường để kéo Frankie ra khỏi xưởng nữ trang. “Chờ đã... đang lúc dầu sôi lửa bỏng thế này... không bỏ dở được đâu!” “Nhưng mà tuyết đang rơi!” Marina cố nài nỉ. “Tuyết hẳn hoi ấy. Bông tuyết to... to thế này này !” Xung quanh, các máy chế tạo nữ trang đang kêu o o , giũa, mài, đập... Frankie gỡ kính bảo hộ ra và nhìn lên, “Cô Claudia đâu rồi?” “Đang nghỉ giải lao. Tụi tao mới thấy cô ấy tới quầy cà phê dành cho giáo viên,” Sinead nói. “Đi nào , Frankie, trước khi tuyết ngừng rơi.” “Này, hai chị có thấy là hai chị đang làm em mất tập trung không hả?” Frankie thở dài bực bội. “Xin lỗi. Nhưng mà bọn tao có thấy tấm bảng đề ‘Thiên tài đang làm việc’ nào đâu,” Marina kéo sợi dây thun trên cái kính bảo hộ của Frankie, rồi buông nó bật trở lại. “Oái!” Frankie kêu lên. “OK, ok, hai người thắng rồi!” “Nhìn kìa,” Sinead ấp hai bàn tay lạnh cóng quanh tách cà phê rót từ cái máy đặt ngay sảnh lớn. Ai nấy bước vào đều được phủ một lớp tuyết trắng, rũ rũ cho bông tuyết rơi khỏi tóc, phủi phủi lớp áo khoác ngoài và giậm giậm chân. “Tuyết kiểu này thì ngoài kia cũng phải dày đến hơn năm phân chứ chẳng chơi.” ... Mời các bạn đón đọc Những Thiên Thần Armani của tác giả Jasmine Oliver.