Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đất Vỡ Hoang - Mikhail Aleksandrovich Sholokhov

Mikhail Aleksandrovich Sholokhov là một nhà văn Liên Xô nổi tiếng và là người được trao Giải Nobel Văn học năm 1965. Mikhail Sholokhov được biết tới nhiều nhất qua bộ tiểu thuyết sử thi Sông Đông êm đềm, tác phẩm được Jorge Amado cho rằng có thể sánh với Chiến tranh và hòa bình của Lev Tolstoy. Ngoài ra Sholokhov còn có nhiều sáng tác về những người Cozak vùng Sông Đông và về cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại. Năm 1925, Sholokhov bắt tay vào viết tập đầu tiên của một bộ tiểu thuyết đồ sộ khác, bộ Đất vỡ hoang (Podnyataya Tselina) phản ánh phong trào tập thể hóa nông nghiệp ở nông thôn Nga. Bộ tiểu thuyết đã phải mất gần 30 năm mới hoàn thành đủ hai tập khi bản thảo của tác giả bị thiêu hủy trong thời gian Chiến tranh giữ nước vĩ đại. Đất vỡ hoang đã được trao Giải thưởng Lênin, giải thưởng cao nhất dành cho lĩnh vực Văn học - Nghệ thuật của Liên Xô. *** Vào đầu những năm 30 của thế kỷ trước, giữa lúc đông đảo bạn đọc của M.Sholokhov đang hồi hộp theo dõi số phận của bộ tiểu thuyết "Sông Đông êm đềm", giữa lúc tác giả đang dồn sức viết tập 3 của tác phẩm đồ sộ này để đáp lại lòng hâm mộ của bạn đọc, thì ở quê hương của nhà văn cũng như trên toàn nông thôn Liên Xô diễn ra phong trào tập thể hoá nông nghiệp. Tâm hồn nhạy cảm và tính Đảng của người nghệ sỹ lớn đã thôi thúc nhà văn phải đến ngay với những sự kiện của phong trào cách mạng to lớn ấy. Bản thảo tập 3 của "Sông Đông êm đềm" đành phải tạm để lại một bên, tác giả lao vào đề tài mới với bộ tiểu thuyết ''Đât vỡ hoang''. Ngày nay đọc hai tập "Đất vỡ hoang" liền một mạch, độc giả thấy mình tiếp xúc với một chỉnh thể hoàn hảo; nếu không được giới thiệu tiếp xúc thì khó mà biết tập 1 và tập 2 ra đời cách nhau hơn 20 năm. Bản thảo dở dang của tập 2 đã bị huỷ hoại trong chiến tranh, tác giả phải viết lại hoàn toàn; đầu năm 1954 những chương đầu của tập 2 mới ra mắt bạn đọc; năm 1960 tác phẩm mới in xong trọn bộ. Nếu như ở tập 1 dồn dập sự kiện bề bộn sôi động của những ngày đầu thành lập nông trang, nổi bật lên những biến đổi xã hội, những sự kiện chính trị; thì sang tập 2 dòng tự sự chậm lại, đi sâu vào những câu chuyện tâm tình, đi sâu vào sự khám phá những ngóc ngách của lòng người; những vấn đề xã hội hiện ra qua những lời tâm sự; âm hưởng trữ tình nổi bật lên. Cũng như ở "Sông Đông êm đềm", người đọc gặp lại ở "Đất vỡ hoang" ngòi bút hiện thực nghiêm ngặt không khoan nhượng của Sholokhov. Từ những trang sách hiện lên sự thực phong phú đa dạng, đầy mâu thuẫn, rất phức tạp, những sự thật đôi lúc tàn nhẫn, thậm chí tàn khốc, trong sự trần trụi không che giấu, không chút xuê xoa. Sẽ là một thiếu sót lớn nếu không nói đến nghệ thuật trào phúng dí dỏm có những lúc rất táo bạo độc đáo của Sholokhov. Thật là bất ngờ khi người đọc bắt gặp hai tính cách trái ngược nhau là Nagunốp và Suka kề vai sát cánh thành đôi bạn tri âm cùng lắng nghe "dàn nhạc gà trống" giữa đêm khuya. Cũng phải thật cao tay mới có thể dàn dựng nên cả một quá khứ với bao nhiêu nỗi đời cơ cực đắng cay đằng sau những lời lẽ bông phèng ba hoa khoác lác đến chết cười của ông lão Suka. Cái trào phúng dí dỏm, cũng như cái trữ tình thiết tha sâu lắng hay cái hiện thực nghiêm ngặt của Sholokhov bao giờ cũng thấm đượm một tính triết lý thâm thuý, có sức lay động đến tận những chốn sâu thẳm của tâm hồn, buộc người ta phải suy nghĩ băn khoăn cùng với tác giả. Nhờ vậy mà "Đất vỡ hoang" tuy phản ánh một khoảnh khắc của lịch sử ở một thôn nhỏ vùng sông Đông mà đã vượt qua được thử thách của thời gian và sự sàng lọc của lịch sử để trở thành tài sản tinh thần chung của nền văn học thế giới. Đavưđốp, Nagunốp, Radơmiốtnốp, Maiđanhicốp, Varia, Suka và cả Luska nữa, cùng với bao nhiêu nhân vật khác của Sholokhov sẽ còn đi mãi giữa cuộc đời với bao nhiêu bạn đọc trên thế giới.  *** Cuối tháng Giêng, gặp buổi đầu trời trở ấm, các vườn hoa anh đào toả hương thơm ngát. Vào buổi trưa, đây đó là những quãng khuất gió, nếu như trời nắng, vỏ cây anh đào bốc lên một mùi thoang thoảng, rầu rầu, hoà với hơi ẩm nhạt nhẽo của tuyết tan, với hương vị đậm đà, cổ xưa xông lên từ dưới dải đất vừa mới ló ra khỏi lớp tuyết, và tầng lá mục. Hương vị dịu ngọt của muôn hoa cứ quyện lấy vườn tược cho đến lúc bóng đêm xanh lam buông xuống, cho đến lúc vành trăng lưỡi liềm xanh phớt ló ra qua những cành cây trụi lá, cho đến lúc những chú thỏ rừng ăn no béo mỡ nhảy nhót vứt lại trên mặt tuyết những đốm vết chân mịn màng. Thế rồi gió đưa về từ các ngọn đồi thảo nguyên mùi dịu dịu của cây ngải cứu héo khô vì băng giá; hương vị và âm thanh của ban ngày chìm lắng đi và bóng đêm, như một con sói cái lông xám, từ đằng Đông lặng lẽ đổ về, lướt qua những bụi ích mẫu, những đám cỏ dại, những thửa ruộng rạ héo hon, những cánh đồng ải mùa thu nhấp nhô như sóng lượn, để lại đằng sau nó trên thảo nguyên lê thê bóng hoàng hôn chạng vạng. ° ° ° Một tối tháng Giêng năm 1930, trên con đường hẻm rìa thảo nguyên, có một người cưỡi ngựa đi vào ấp Grêmiatsi Lốc. Tới gần ngòi, người ấy dừng con ngựa đã mệt nhoài hai bên sườn sương đóng bết từng mảng, và nhảy xuống. Vầng trăng hạ tuần đã treo lơ lửng bên trên bóng đen ngòm của các vườn cây chạy dọc hai bên con đường hẹp, bên trên những rặng cây dương um tùm như những hòn đảo. Con đường hẻm tối và lặng ngắt. Đâu đó, bên kia con ngòi, một tiếng chó sủa rống lên, một ánh lửa le lói. Người cưỡi ngựa nghếch mũi hít một hơi cái không khí lạnh giá, thong thả tháo một bên găng tay, châm thuốc hút, rồi thít căng đai ngựa lại, lùa mấy ngón tay xuống dưới đệm yên; và, sau khi đã sờ thấy cái lưng nóng hổi và nhễ nhại mồ hôi của con ngựa, y lanh lẹn tung người cao lớn của mình lên yên. Y cưỡi ngựa đi ngang qua con ngòi không bị đóng băng ngay cả mùa đông. Con ngựa, khua móng sào sạo trên lớp sỏi phủ đầy lòng sông, muốn uống nước lắm, nhưng chủ nó thúc, và nó thót bụng nhảy phốc lên bờ sông dốc thoải. Nghe có tiếng nói và tiếng cót két của càng xe trượt tuyết đang đi ngược tới, người cưỡi ngựa dừng cương. Con ngựa dỏng tai nghe ngóng, ngoái cổ lại. Cái đai ngực bạc và chiếc vành yên cao cao viền bạc theo kiểu kô- dắc bắt gặp một ánh trăng bỗng sáng lên trong bóng tối đường làng một tia trắng loé. Người cưỡi ngựa vắt dây cương trên vành yên, vội vã kéo cái mũ kô- dắc lông lạc đà cho tới lúc ấy vẫn thả trễ xuống bên vai, đội lên đầu sụp xuống mặt rồi thúc ngựa rảo nước kiệu. Qua khỏi chiếc xe trượt tuyết, y lại đi bước một như ban nãy, nhưng vẫn không hạ mũ xuống. Vào tới trong ấp, y hỏi một bà đang đi ngược lại: - Này, bác ơi, nhà ông Iakốp Ôxtơrốpnốp ở đâu, hả bác? - Iakốp Lukits ấy hả? - Phải, phải. - Đấy, nhà ông ta ở sau cây dương kia kìa, lợp ngói đấy, ông trông thấy không? - Thấy, cảm ơn bác. Tới trước ngôi nhà rộng lợp ngói, y nhảy xuống, dắt ngựa qua cổng hàng rào và lấy cán roi gõ nhẹ vào cửa sổ. - Ông chủ ơi! Iakốp Lukits, ra cho tôi hỏi tý. Chủ nhà bước ra thềm, đầu trần, áo vét- tông vắt vai, nhìn chằm chằm khách lạ rồi bước xuống bậc tam cấp, vừa mỉm cười trong bộ râu điểm bạc, vừa nói: - Ma đưa quỷ dẫn ông bà nào đến nhà tôi thế nhỉ? - Không đoán ra à, Iakốp Lukits? Cho ngủ nhờ nào. Để con ngựa vào đâu cho ấm tí nhỉ? - Không, anh đồng chí ạ, tôi không nhớ ra anh là ai. Chẳng hay có phải anh ở trên huyện không? Hay bên nông hội? Tôi hơi nhận ra rồi đấy…Tiếng anh nói nghe quen quen… Khách nhếch đôi mép nhẵn thín, mỉm cười, lật mũ trùm ra: - Pôlốptxép. Có nhớ không? Iakốp Lukits bỗng nhớn nhác nhìn quanh, tái mặt đi, thều thào: - Quan lớn! Ngài ở đâu tới thế vậy?...Bẩm ngài đại uý!..Ngựa để đấy con dắt…nhà có chuồng…Chà, thấm thoắt thế mà đã bao nhiêu năm rồi… - Ấy, ấy, khe khẽ chứ! Ừ, lâu lắm rồi đấy… Có chăn đắp ngựa không? Nhà có ai lạ không? Khách trao dây cương cho chủ. Con ngựa uể oải tuân theo những động tác của bàn tay lạ, đầu ngẩng cao, cổ vươn dài, và mệt nhọc lê đôi cẳng sau bước vào chuồng. Nó gõ móng lộp cộp vào sàn gỗ và, đánh hơi thấy cái mùi quen thuộc của một con ngựa khác, nó khịt nhặng xị lên. Bàn tay lạ đặt lên cái tảng của nó, những ngón tay thành thạo cẩn thận tháo cái hàm thiếc nhạt tanh, giải phóng cho đôi lợi ê ẩm của nó. Và con ngựa với một vẻ biết ơn sà vào đống cỏ khô. - Con đã nói đai cho nó rồi, cứ để đóng yên như thế một lát, nó lại sức, ta sẽ tháo. - Chủ nhà vừa nói vừa chăm chút đắp lên lưng ngựa tấm chăn lạnh ngắt. Và sờ nắn bộ đồ thắng ngựa, thấy đai bụng bị kéo căng, dây treo bàn đạp trùng thõng hẳn xuống, lão tự xác định được ngay rằng ông khách đã từ xa đến và trong ngày hôm ấy đã phi một đoạn đường chẳng ngắn. - Nhà có thóc không, Iakốp Lukits? - Có tí ti. Ta cho nó uống nước đã, rồi cho ăn thóc. Nào mời ngài vào nhà, bây giờ xưng hô với ngài thế nào đây, thật cũng chẳng biết nữa… Gọi như trước thì không còn quen mồm, và cũng bất tiện… - Chủ nhà lúng túng mỉm cười trong bóng tối, dù biết rằng khách cũng chẳng trông thấy mình cười. - Cứ tên cúng cơm mà gọi. Còn nhớ không? - Khách miệng hỏi chân bước đi trước ra khỏi chuồng ngựa. - Quên sao được ạ! Dọt bọn Đức mãi với nhau mà, lại cả cái cuộc nội chiến này nữa…Tôi vẫn thường nhớ đến ông đấy Alếchxanđrơ Anhiximôvits ạ. Từ cái buổi chia tay nhau ở Nôvôrôxixcơ ấy, tôi chẳng được tăm hơi gì của ông. Tôi cứ ngỡ ông vượt biển sang Thổ Nhĩ Kỳ với anh em kô- dắc rồi. Họ bước vào gian bếp có đốt lò ấm ran. Khách bỏ mũ trùm và cả chiếc mũ lông trắng đội trong ra, để lộ cái sọ chắc nịch, có góc có bướu, phủ một lớp tóc thưa bềnh bệch. Từ dưới cái trán hói đổ thẳng xuống như trán chó sói, đôi mắt đảo nhìn gian phòng. Và tươi cười nheo nheo đôi mắt màu xanh nhạt lấp lánh giận dữ trong hai ổ mắt sâu, y nghiêng đầu chào hai người đàn bà ngồi trên tấm ghế dài là mụ chủ nhà và nàng con dâu. - Chào bà con mạnh khoẻ! - Lạy Chúa, - mụ chủ nhà dè dặt đáp, đưa mắt nhìn chồng, chờ đợi, như muốn hỏi: "Ông dẫn ai về nhà thế vậy, và tiếp đãi người ta thế nào bây giờ cho phải?". Sau khi mời khách lên nhà trên ngồi vào bàn, lão chủ buông gọn một câu ra lệnh cho vợ: - Dọn gì ăn đi. Ngồi ăn xúp bắp cải thịt lợn, có mặt hai người đàn bà, khách chỉ nói chuyện thời tiết, chuyện bạn bè đồng đội. Cái hàm dưới bành bạnh của khách nom như đẽo bằng đá tảng, cử động một cách khó nhọc; khách nhai chầm chậm, uể oải, như một con bò mộng kiệt sức nằm trên ổ. Ăn xong, khách đứng dậy, ra trước tượng thánh đặt giữa những bông hoa giấy bám đầy bụi, cầu kinh, rồi phủi xong những vụn bánh mì bám trên tấm áo khoác cũ kỹ bó sát vai, nói: - Iakốp Lukits, xin đa tạ về tấm lòng thành! Bây giờ ta nói chuyện. Mụ chủ và cô con dâu líu tíu dọn bàn; và vâng theo đôi lông mày rướn lên ra hiệu của lão chủ, họ lảng xuống bếp. ... Mời các bạn đón đọc Đất Vỡ Hoang của tác giả Mikhail Aleksandrovich Sholokhov.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Con Mèo Tự Dưng Biết Nói - Claude Roy
Bí mật của mọi bí mật, đó chính là tất cả các con mèo đều biết nói. Có những loài mèo biết nói ngay từ khi mới sinh ra. Và tất nhiên, có những con mèo chậm nói hơn... vào thời điểm này của cuộc đời, chúng chẳng còn gì là không biết cả, kể cả lời nói. Đúng vậy đấy, loài mèo biết nói. Nhưng chúng chỉ quá khôn ngoan và quá kín đáo không để chúng ta nhìn thấy. Quá thận trọng và quá khiêm nhường không để chúng ta biết. Loài mèo nói - mỗi khi chúng ta không có ở đó. (Con mèo tự dưng biết nói) *** Claude Roy sinh ra tại Paris ngày 28 tháng 8 năm 1915. Thuở nhỏ, ông sống tại Jarnac, rồi sau đó chuyển tới Paris và bắt đầu học luật. Trong chiến tranh, ông tham gia vào tổ chức Kháng chiến và đã gặp gỡ nhiều đại văn hào Pháp như Louis Aragon, Elsa Triolet, André Gide và Jean Giraudoux. Sau cách mạng, ông là một trong những trí thức nổi tiếng nhất tại Pháp Là một nhà thơ, một tiểu thuyết gia, và một người ưa chu du khám phá, ông không cho rằng một nhà văn phải nói với trẻ em giống như là với những kẻ chậm hiểu và nói với người lớn như là họ đã mãi mãi hết tuổi thơ. Các tác phẩm dành cho người lớn của ông, và bộ tác phẩm dành cho độc giả từ 4-104 tuổi: Ngôi nhà biết bay, Chú mèo dễ thương, Con mèo tự dưng biết nói… Năm 1985, Viện hàn lâm Goncourt đã trao giải nhất Goncourt Thơ cho ông, và đến năm 1995, ông đã nhận giải Guillaume Apollinaire cho sự nghiệp sáng tác của mình. Claude Roy mất ngày 13 tháng 12 năm 1997. *** Chàng mèo Gaspard Mac Kitycat, bạn chí cốt của Thomas, một hôm bỗng tự dưng biết nói. Chuyện đến tự nhiên như không. Gaspard mang dòng máu Scotland thừa hưởng từ bố, một danh miêu tiếng nổi như cồn trong loài Mèo Xanh của Anh, còn ở Pháp thì được gọi là mèo sác-trơ, thế nhưng màu lông lại xám xịt chứ không như cái tên. Tristram Mac Kittycat, tức công tước thứ mười ba của dòng họ Garth (một dòng họ lâu đời xứ Ê-cốt), ngay từ cái nhìn đầu tiên đã phải lòng một nàng mèo Pháp màu xám cũng dòng sác-trơ quyến rũ bậc nhất thiên hạ tên là Mouflette de Vaneau, nam tước Flon. (Nàng là hậu duệ của ngài Flonflon lừng danh đã tham gia chuyến tàu chở quân trang phục vụ Đại Quân. Vị tướng mèo này được Napoléon Đệ nhất đích thân phong tước nam tước trên chiến trường Austerlitz. Vinh dự này tưởng thưởng việc ngài đã có công giúp thống chế Murat diệt trừ lũ chuột đã dám to gan ra răng nghiến ngấu cả toa yến mạch của quân đội.) Cuộc hôn nhân mỹ mãn của công tước Tristram xứ Scotland và nữ nam tước Flon lần lượt cho ra đời bốn nhóc mèo nhà nòi. Gaspard Mac Kitycat, kẻ được định sẵn sau này sẽ kế tục cương vị Công tước thứ mười bốn dòng họ Garth, là anh cả. Người thân gọi cậu là Gaspard. Gaspard là một chú mèo can trường có bộ lông màu xám sac-trơ đặc trưng. Những kẻ ngù ngờ vẫn hay bảo: “Đó là một con mèo xám lông chuột”, dù rằng thật thiếu văn hóa mới đi so sánh một chú mèo với một con chuột. Gaspard mê tít trò vờn nhay-rí rách-nhấm nháp đám cỏ mọc cuối vườn. Một buổi sớm giống như bao buổi khác, Gaspard ngồi ăn sáng với Thomas. Khi Thomas đi học, Gaspard còn tiễn cậu chủ nhỏ ra tận cửa và đúng thủ tục tạm biệt hàng ngày, chú nói “Tạm biệt!” bằng một tiếng meo khe khẽ và một tiếng gừ gừ mãnh liệt. Gaspard nổi tiếng trong giới mèo là được trời phú một chất giọng mê ly. Tuy nhiên, có vẻ ý kiến của loài người về vấn đề này lại không được thống nhất cho lắm. Thomas quả quyết rằng Gaspard có một điệu meo meo tuyệt vời, và một âm meo hay lịm người. Nhưng bố của Thomas, lúc nào đang đọc báo mà nghe tiếng Gaspard nhặng lên đòi ăn tối là y như rằng khăng khăng: “Con mèo này có tiếng kêu y như tiếng cửa xát.” Nhưng dù gì, Thomas cũng luôn bảo vệ Gaspard đến cùng mỗi khi có ai nói xấu mèo cưng của cậu. Ngay từ hồi còn bé, Thomas đã luôn đối xử tốt với Gaspard. Cậu không bao giờ kéo đuôi, giật râu hay vuốt ngược lông Gaspard. Cậu cho Gaspard ăn, nói chuyện với Gaspard bằng giọng tôn trọng và trìu mến. Tóm lại, cậu đối xử với chú mèo của mình chẳng khác gì một con người, mà lại còn như người bạn thân nhất. Vậy là, sáng hôm đó, sau khi Thomas ra khỏi nhà, Gaspard lang thang trong vườn và lại bắt đầu chơi trò vờn nhay-nhấm nhẳng-nhí nhách với đám cỏ. Có một loại cỏ cậu chàng chưa bao giờ nhìn thấy nhưng trông lại có vẻ đúng loại khoái khẩu. Gaspard xông vào vờn, nhai, nhí nhách, nhấm nháp và cuối cùng nuốt chửng lấy nó. Vừa nuốt qua khỏi cổ họng, Gaspard đột nhiên thấy như có một dòng điện kỳ lạ chạy rần rật từ vòm miệng xuống dạ dày. Một giây sau, một con bướm bay vèo qua râu chú ta và Gaspard, khi nhảy lên bắt bướm, nghe thấy một giọng nói nhỏ giống hệt tiếng một cây vĩ cầm đồ chơi. Cái giọng đó thì thầm: “Bướm kia, tao mà bắt được mày, tao chén thịt không tha!” “Ai đang nói thế nhỉ?” Gaspard nhìn quanh quất, tự hỏi. Chú chẳng thấy bóng ai, nhưng lại nghe thấy giọng khe khẽ nói tướng lên suy nghĩ thầm kín của chú: “Ai đang nói thế nhỉ?” “Chẳng có ai đang nói cả, vì làm gì có ai”, Gaspard tự nhủ. Và cùng lúc đó, chú vẫn lại nghe thấy cái tiếng nói bé tí, hao hao tiếng cây vĩ cầm đồ chơi. Nó lại nhại: “Chẳng có ai đang nói cả, vì làm gì có ai.” “Chả đúng thế còn gì. Gaspard tự nhủ. Chẳng ai nói gì bởi vì làm gì có ai ngoài mình, và bởi vì mình thuộc họ nhà mèo, là mèo thì làm sao nói được chứ. Ấy thế mà mình lại nghe thấy ai đó nói: “Chẳng có ai nói cả, vì làm gì có ai.” Thế thì phải có một ai đó. Vì theo lẽ thường mà nói, không có người làm sao có tiếng.” ... Mời các bạn đón đọc Con Mèo Tự Dưng Biết Nói của tác giả Claude Roy.
Con Gái Người Giữ Ký Ức - Kim Edwards
Mọi sự khởi đầu trong một đêm bão tuyết, hai đứa trẻ sinh đôi chào đời trong chính đôi tay của người cha, bác sĩ chuyên khoa xương David Henry. Cô bé mắc hội chứng Down. Trong giây phút choáng váng và bồng bềnh, David đã quyết định gửi con gái vào nhà cứu tế, và ý tá Caroline Gill là người được giao trách nhiệm đó. Bước ngoặc của số phận bắt đầu, khi Caroline tự đưa ra quyết định của riêng mình, và nỗi ám ảnh từ đó đeo báo David Henry. Anh làm bạn với máy ảnh như một sự giải thoát, để lưu giữ một phần ký ức, nhưng rồi quá khứ tựa đoàn tàu vùn vụt chạy qua anh không thể níu lại, không biết rằng ở một nơi nào đó, con gái anh, đang như cái mầm cây gắng gỏi vươn lên giữa cuộc đời khó khăn... Con Gái Người Giữ Ký Ức đã làm được điều kỳ diệu với một bi kịch gia đình được viết một cách cuốn hút, cảm động và tràn đầy thấu suốt đối với tâm lý con người. Tác phẩm là một hiện tượng xuất bản Mỹ với 31 tuần đứng trong danh sách bán chạy nhất của tờ The New York Times. "Kim Edwards đã tạo ra một câu chuyện về sự hối tiếc và cách chuộc tội của những con người bị ám ảnh bởi quá khứ. Được chạm khắc bằng những ngôn ngữ say đắm lòng người khiến bạn đọc phải đọc lại từng những đoạn văn, chỉ để không ngừng bị cuốn hút... đơn giản chỉ là một cuốn sách tuyệt đẹp" *** TUYẾT BẮT ĐẦU RƠI VÀI GIỜ TRƯỚC KHI NÀNG TRỞ DẠ. LÚC ĐẦU chỉ một vài bông trên bầu trời xám xịt ảm đạm buổi chiều muộn, rồi những cơn lốc và gió xoáy vần vũ quanh bờ hàng hiên rộng trước nhà họ. Anh đứng cạnh nàng bên cửa sổ, ngắm nhìn những cơn sóng tuyết cồn lên mạnh mẽ, rồi xoáy tròn và trôi xuống mặt đất. Đèn đã sáng lên ở mọi nhà xung quanh, còn những cành cây trơ trụi thì chuyển sang màu trắng. Sau bữa tối anh nhóm một đống lửa, xông ra ngoài trời để lấy củi – anh đã chất đống trước ga ra từ mùa thu năm trước. Bầu không khí sáng sủa lạnh toát phả lên mặt anh, tuyết trên lối vào đã ngập tới nửa bắp chân. Anh gom những thanh gỗ, rũ sạch những chỏm tuyết trắng muốt mềm xốp phủ trên chúng rồi bê vào nhà. Thanh mồi trên chiếc ghi lò sắt bắt lửa ngay lập tức, anh ngồi một lát trước lò sưởi, chân bắt tréo, cho thêm củi và ngắm nghía những ngọn lửa bùng lên, lưỡi lửa xanh biếc đầy mê hoặc. Ở bên ngoài, tuyết vẫn rơi lặng lẽ trong bóng đêm, sáng và dày như những hạt tĩnh điện trong luồng sáng đổ xuống từ những cột đèn đường. Khi anh đứng lên nhìn ra ngoài cửa sổ, chiếc xe của họ đã biến thành một ngọn đồi trắng toát xôm xốp đứng bên lề đường. Cả những dấu chân của anh trên lối vào cũng đã bị lấp đầy và biến mất. Anh phủi bụi tro trên tay và ngồi xuống chiếc sofa cạnh vợ, chân nàng kê lên mấy chiếc gối, đôi mắt cá sưng phù bắt tréo nhau, cuốn Bác sĩ Spock đặt ngay ngắn trên bụng. Mải mê đọc, nàng vô thức liếm ngón trỏ mỗi lần giở sang trang. Bàn tay nàng mảnh mai, những ngón tay ngắn và cứng cáp, nàng khẽ cắn môi dưới một cách chăm chú khi đọc. Ngắm nhìn nàng, anh thấy lòng mình tràn ngập yêu thương và kinh ngạc: rằng nàng là vợ anh, rằng con của họ, chỉ trong vòng ba tuần nữa, sẽ sớm ra đời. Đây sẽ là đứa con đầu lòng của họ. Họ mới chỉ kết hôn được một năm. Nàng nhìn lên, mỉm cười, khi anh quấn tấm chăn quanh chân nàng. “Anh biết không, em vẫn thắc mắc không biết hồi đó ra sao,” nàng nói. “Ý em là trước khi mình được sinh ra ấy. Ta chẳng nhớ nổi tí gì, chán thật.” Nàng cởi nút áo choàng và kéo chiếc áo len mặc bên trong lên, làm lộ ra cái bụng tròn và rắn như quả dưa. Nàng đưa bàn tay xoa lên bề mặt bụng mềm mại, ánh lửa nhảy múa trên làn da, hắt ánh vàng hơi nhuốm đỏ lên mái tóc nàng. “Anh có nghĩ là giống như sống trong một cái đèn lồng lớn không? Trong sách nói là ánh sáng thấm qua cả da em cơ, rằng đứa trẻ đã có thể nhìn được rồi đấy.” “Anh không biết,” anh nói. Nàng cười vang. “Sao lại không?” nàng hỏi. “Anh là bác sĩ cơ mà.” ... Mời các bạn đón đọc Con Gái Người Giữ Ký Ức của tác giả Kim Edwards.
Cá Cược Với Tình Yêu - Jennifer Crusie
Minerva Dobbs biết rằng chuyện sống hạnh phúc bên nhau mãi mãi chỉ là chuyện cổ tích, đặc biệt là với một người đàn ông mời cô đi ăn tối chỉ để thắng một vụ cá cược như Calvin Morrisey. Calvin Morrisey thừa biết việc chịu trách nhiệm là bất khả thi, đặc biệt là với một người phụ nữ gàn dở như Min Dobbs. Khi hai người nói lời chào tạm biệt vào cuối bữa tối, họ cũng nhanh chóng chia tay và đồng ý sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa. Nhưng Định mệnh lại có những kế hoạch khác và không lâu sau Min và Cal đã gặp lại nhau. Họ sẽ phải đối phó với những người bạn thích xen vào chuyện người khác, một anh bạn trai cũ ưa ghen tuông, bánh vòng Krispy Kreme, một nhà tâm lý học dai như đỉa, thuyết hỗn mang, một cô dâu phát rồ, món gà sốt nấm, một chú mèo tinh khôn quái đản, những quả cầu tuyết, hai bà mẹ cực kỳ kinh khủng, những đôi giày tuyệt đẹp và những lời bày tỏ còn táo bạo hơn những gì ai trong hai người từng mơ đến. Bao gồm cả canh bạc lớn hơn hết thảy - tình yêu thực sự. *** Jennifer Crusie (sinh năm 1949) là bút danh của nhà văn Jennifer Smith, một tác giả dòng tiểu thuyết lãng mạn bán chạy và dành nhiều giải thưởng. Bà đã viết được hơn 15 cuốn tiểu thuyết, đã được xuất bản ở hơn 20 nước trên thế giới.  Bà đã tốt nghiệp ở trường Trung học Wapakoneta và có bằng cử nhân ngành Mỹ thuật tại trường Đại học Liên bang Bowling Green ở Bowling Green, bang Ohio. Bà có hai bằng Thạc sĩ. Bằng đầu tiên thuộc về chuyên ngành Professional Writing and Women's Literature ở Đại học Liên bang Wright, Crusie đã viết luận văn về vai trò người phụ nữ trong tác phẩm văn học kỳ bí. Bằng thạc sĩ thứ hai của bà thuộc nghành Mỹ thuật trong Tiểu thuyết của Đại học Liên bang Ohio.  Vào mùa hè năm 1991, bà bắt đầu nghiên cứu cho luận văn về ảnh hưởng giới tính đối với việc tường thuật, nghiên cứu sự khác nhau của việc kể chuyện giữa phụ nữ và đàn ông. Là một phần trong quá trình nghiên cứu, bà đã dự tính đọc một trăm cuốn tiểu thuyết lãng mạn dành cho phụ nữ và một trăm cuốn tiểu thuyết phiêu lưu dành cho đàn ông. Các tiểu thuyết lãng mạn hóa ra khá nữ quyền và quá hấp dẫn, khiến bà không bao giờ đụng đến tiểu thuyết phiêu lưu dành cho đàn ông. Thay vào đó, bà quyết định viết tiểu thuyết, bỏ việc và dành toàn bộ thời gian để viết cũng như hoàn tất học vị tiến sĩ. Đây là một trong những bước biến chuyển vô cùng mạo hiểm vì bà đã không bán được cuốn sách đầu tiên của mình mãi cho đến tháng Tám năm 1992.  Mặc dầu NXB Silhouette đã từ chối cuốn tiểu thuyết tiếp theo của Crusie, NXB Harlequin đã chấp nhận nó và xuất bản vào năm 1993 với tên gọi Săn chồng thuộc dòng sách Quyến rũ của họ. Thêm năm cuốn nữa của bà được Harlequins xuất bản, gồm Getting Rid of Bradley - đã giành được giải RWA dành cho Tiểu thuyết ngắn hiện đại hay nhất, Strange Bedpersons, What the Lady Wants, Charlie All Night, and Anyone But You.  Các tác phẩm tiểu thuyết của bà tiếp tục khám phá các cuộc hành trình của những người phụ nữ, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến các mối quan hệ, tình bạn, cộng đồng, và sự sáng tạo. Bà là một phụ nữ may mắn, và bà biết điều đó. *** Ngày xửa ngày xưa, Minerva Dobbs nghĩ thầm khi đứng giữa một quầy bar ồn ĩ dành cho thanh niên thành thị, thế giới đầy rẫy những người đàn ông tốt. Cô nhìn khuôn mặt đẹp trai của người đàn ông mà cô định đưa tới dự đám cưới của gái mình và nghĩ, Những ngày đó đã qua rồi. “Đối với anh thì mối quan hệ này chẳng ra gì hết,” David nói. Mình có thể chọc cái que khuấy rượu này xuyên qua tim anh ta, Min nghĩ. Cô sẽ không làm thế, tất nhiên rồi. Cái que chỉ làm bằng nhựa và còn lâu mới đủ nhọn. Bên cạnh đó, người ta không làm những việc như vậy tại Bắc Ohio. Một khẩu súng cưa nòng, thế mới đúng điệu. “Và cả hai ta đều biết tại sao,” David tiếp tục. Chắc anh ta còn không biết là mình đang cáu kỉnh; anh ta hẳn luôn nghĩ mình thật bình tĩnh và đúng mực. Ít nhất thì mình cũng biết là mình đang giận dữ, Min nghĩ. Cô để cơn giận dữ bao quanh mình, và nó khiến cả người cô nóng lên, nhiều hơn tất cả những gì David từng làm được. Ở bên kia phòng, một ai đó ở quầy bar hình bánh xe roulette rung chuông. Một điểm nữa chống lại David: Anh ta đang đá cô tại một quán rượu theo chủ đề. The Long Shot(1) . Chỉ nội cái tên thôi hẳn đã phải cảnh báo cô trước. “Anh rất tiếc, Min,” David nói, rõ ràng là không có vẻ như thế. Min khoanh tay lại trên chiếc áo vest kẻ ca-rô xám để cô không thể đánh anh ta. “Có phải vì em không về nhà với anh tối nay không? Hôm nay là thứ Tư. Ngày mai em phải làm việc. Ngày mai anh phải làm việc. Em đã trả tiền đồ uống của em rồi.” “Không phải vậy.” David tỏ ra vẻ thật cao ngạo và bị tổn thương theo kiểu mà duy nhất chỉ có những kẻ cao lớn, ngu muội và tự cao tự đại mới bày ra được. “Em không có bất kỳ cố gắng nào để khiến cho mối quan hệ của chúng ta tốt đẹp thêm, tức là…” Tức là chúng ta đã hẹn hò được hai tháng và tôi vẫn chưa ngủ với anh. Min không nghe anh ta nói nữa, và nhìn quanh đám đông đang nói lao xao. Nếu mình có một loại thuốc độc không thể bị phát giác thì bây giờ mình có thể bỏ vào đồ uống của anh ta và những người mặc vest kia sẽ không một ai chú ý hết. “… và anh cũng nghĩ rằng, nếu chúng ta có bất kỳ một tương lai nào, thì em cũng nên góp sức,” David nói. Ồ, Tôi đã không đấy, Min nghĩ, cũng có nghĩa là David đã đúng một điểm. Tuy vậy, thiếu tình dục không thể là lời bào chữa cho việc đá cô ba tuần trước khi cô phải mặc một chiếc áo phù dâu khiến cô trông giống như một nàng chăn cừu béo ị, điên rồ. “Tất nhiên chúng ta có tương lai, David,” cô cố gắng dằn cơn giận lại. “Chúng ta có nhiều kế hoạch. Ba tuần nữa Diana sẽ cưới. Anh được mời tới dự đám cưới. Tới bữa tối tổng duyệt. Tới bữa tiệc độc thân. Anh sắp sửa bỏ lỡ những vũ công thoát y đấy, David.” “Đó là tất cả những gì em nghĩ về anh sao?” Giọng của David cao vút lên. “Anh chỉ là một bạn hẹn tới đám cưới của em gái em à?” “Tất nhiên là không,” Min nói, “Cũng như em chắc chắn rằng đối với anh, em có ý nghĩa nhiều hơn là một người để ngủ cùng.” David há miệng ra và rồi lại khép vào. “Ừm, tất nhiên. Anh không muốn em nghĩ rằng chuyện này phản ánh con người em. Em thông minh, em thành công, em chín chắn…” Min lắng nghe, biết rằng Em xinh đẹp, em mảnh mai sẽ không đến. Giá mà anh ta bị đau tim nhỉ. Chỉ bốn phần trăm những cơn đau tim ở đàn ông xảy ra trước tuổi bốn mươi, nhưng nó có thể xảy ra. Và nếu anh ta chết, kể cả mẹ cô cũng không thể trông đợi cô đưa anh ta đến đám cưới được. “… và em sẽ là một người mẹ tuyệt vời,” David kết thúc. “Cảm ơn,” Min nói, “Thật vô cùng không lãng mạn.” “Anh đã nghĩ chúng ta sẽ đi đến một kết cục tốt đẹp, Min à,” David nói. “Phải rồi,” Min nhìn quanh quầy bar lòe loẹt. “Đến những nơi như thế này đây.” David thở dài và nắm tay cô. “Anh chúc em những điều tốt lành nhất, Min. Giữ liên lạc nhé.” Min rụt tay lại, “Anh không cảm thấy tay trái đau(2) tí nào à?” “Không,” David cau mày với cô. “Đáng tiếc,” Min nói, và đi về chỗ các bạn của cô, đang theo dõi họ từ đầu phòng bên kia. “Hắn ta nhìn còn tức tối hơn bình thường,” Liza nói, trông cô thậm chí còn cao và hấp dẫn hơn thường ngày khi cô đứng dựa vào chiếc máy hát tự động, mái tóc rực lửa dưới ánh đèn. David hẳn sẽ không đối xử với Liza nhẫn tâm như thế. Anh ta chắc hẳn sẽ sợ hãi, cô ấy có thể sẽ chặt tay chặt chân anh ta ra. Phải giống Liza hơn, Min nghĩ và bắt đầu gạt các thẻ bài hát trong hộp. “Cậu có buồn vì hắn không?” Bonnie nói từ phía bên kia của Min, mái đầu vàng của cô ngẩng lên trong lo lắng. David hẳn cũng sẽ không bỏ rơi Bonnie. Không ai có thể xấu tính với Bonnie bé nhỏ, ngọt ngào. ... Mời các bạn đón đọc Cá Cược Với Tình Yêu của tác giả Jennifer Crusie.
Baby Thượng Hải - Vệ Tuệ
Vệ Tuệ đã dùng một trích dẫn như thế để nói về Coco, nhân vật chính của Baby Thượng Hải. Bởi với người phụ nữ này, tuổi trẻ là phải cuồng loạn, phải lăn xả hết mức, không màng mọi chuẩn mực đạo đức. Được viết theo kiểu bán tự truyện, dễ dàng thấy được chân dung của tác giả qua hình ảnh nhân vật chính, nhưng sâu hơn đó chính là chân dung của giới trẻ thành phố ở thời buổi giao thoa văn hóa. Thượng Hải trong tác phẩm đã chứa đựng tất cả những xa hoa và rực rỡ nhất của nó. Những ánh đèn rực rỡ, những tòa nhà cao chót vót, bầu trời cao xanh không khí âm ẩm, đại lộ về đêm lung linh thẳng tấp. Con người trong thế giới đó năng động và hiện đại, nung nấu khát khao giàu sang và muốn nếm trải hết mọi mùi vị của đời. Thượng Hải xa xỉ và cô đơn. Những người trẻ rơi vào hoan lạc cám dỗ, cháy sáng rồi lụi tàn. Họ luôn luôn cảm thấy trống trải và dường như không bao giờ thấy thỏa mãn. Vệ Tuệ viết về tình dục như một bản năng và như một khát khao thuần khiết chi phối cuộc sống của giới trẻ thành thị. Tiếp cận với văn hóa phương Tây, rượu và thuốc phiện, họ cần những xúc tác mạnh để đốt cháy năng lượng của tuổi thanh xuân, để những cuộc vui hoan lạc luôn thấm mùi tình ái. Đặc biệt, Vệ Tuệ cho rằng yếu tố sex là một gia vị thiết yếu của tình yêu nam nữ, vì chỉ yêu bằng lời nói và tâm hồn không bao giờ thỏa mãn trọn vẹn. Phải yêu bằng thân thể, bằng xác thịt, hòa quyện tất cả vào đối phương mới đạt đến cảnh giới cao nhất. Không bóng bẩy, không nói giảm nói tránh, Vệ Tuệ dùng những lời lẽ đơn giản, mộc mạc mà xoáy thẳng vào sự thật trần trụi, về cuộc sống mà hào nhoáng và cô đơn luôn song hành, tình dục và tình yêu là những khái niệm rối rắm và phức tạp. Với Baby Thượng Hải, chúng ta có thể thấy được một Thượng Hải với tất cả dữ dội ngấm ngầm đang tuôn chảy bên trong, cả mặt tối và mặt sáng của giới trẻ dám nghĩ dám làm. Đó là một giấc mơ thanh xuân của tuổi trẻ, tươi đẹp nhưng lại tàn khốc. *** Gặp được tình yêu của tôi Doora nói: “Sinh lấy vài nhóc” Mẹ và Baci nói: “Hãy tìm cho mình một hội từ thiện, giúp đỡ người nghèo và người tàn tật, hoặc bỏ thời gian để hoàn thiện môi trường sinh thái” Đúng vậy, có cả một thế giới mênh mông sự nghiệp cao quý Có cảnh đẹp đang đợi bạn tới khám phá Nhưng giờ đây, ta chỉ thực sự muốn Tìm một người yêu thuộc về ta. Jonny Mitchell “Bài ca tặng Shalon” Tên tôi là Nghê Khả, nhưng bạn bè đều gọi là Coco (y hệt thần tượng thứ hai của tôi là Coco.Chanel - một phụ nữ Pháp nổi tiếng sống thọ tới chín mươi tuổi. Thần tượng thứ nhất tất nhiên vẫn là Henry Miller). Mỗi sáng vừa thức dậy, tôi đã tự hỏi phải làm chuyện gì thật ghê gớm khiến mọi người phải chú ý, rồi tưởng tượng sẽ có một ngày tôi được bắn vụt lên bầu trời thành phố như những chùm pháo hoa rực rỡ. Chúng hầu như đã trở thành một lý tưởng sống của tôi, một lý do đáng để tiếp tục tồn tại. Điều này có quan hệ tới Thượng Hải nơi tôi ở. Thượng Hải luôn phiêu lãng trong lớp sương mù xam xám và vô số lời đàm tiếu trĩu nặng, còn có cả cảm giác ưu việt được kế thừa từ thời kì thực dân. Cái cảm giác ưu việt đó luôn kích thích đứa con gái nhạy cảm và kiêu ngạo như tôi. Tôi vừa yêu vừa hận nó. Nhưng dù sao chăng nữa, tôi mới chỉ hai mươi lăm tuổi. Một năm trước, tôi vừa xuất bản một tuyển tập truyện ngắn tuy không kiếm mấy tiền, song mang lại danh tiếng (có cả độc giả nam giới gửi thư kèm theo những tấm hình gợi tình cho tôi). Ba tháng trước, tôi bỏ nghề phóng viên ở một tờ tạp chí. Và giờ đây, tôi mặc mini zuýp làm hầu bàn trong một tiệm cà phê có tên Lục Đế. Một chàng trai tuấn tú, dong dỏng luôn ghé qua tiệm. Mỗi lần anh ngồi nhâm nhi cà phê, đọc sách cũng mất tới nửa ngày. Tôi rất thích quan sát những nét biểu cảm nho nhỏ và từng hành động của anh. Dường như anh cũng biết tôi đang quan sát, nhưng không bao giờ hé răng. Mãi tới một hôm, anh chuyển tới một mảnh giấy, bên trên có dòng chữ “Anh yêu em”, kèm theo tên và địa chỉ. Tôi đã bị hớp hồn bởi vẻ đẹp mông lung khó nắm bắt của chàng trai tuổi Mão hơn tôi có một tuổi này. Cái đẹp đó bắt nguồn từ vẻ kiệt sức và nỗi khát khao được yêu của anh. Tuy xem ra hai chúng tôi thuộc hai típ người khác hẳn nhau, tim tôi vẫn đập rộn, người bừng bừng. Cả thế giới trong mắt tôi như một trái cây mọng nước, đang chờ đợi bị cắn ngập một miếng. Còn anh vẫn im lặng u sầu. Đối với anh, cuộc sống như thể miếng bánh kem tẩm độc, càng ăn càng trúng độc nặng thêm. Song sự khác biệt đó chỉ khiến cả hai càng hút vào nhau, y hệt cực Bắc và cực Nam của trái đất không thể chia lìa. Chúng tôi nhanh chóng rơi vào lưới tình. Quen nhau không lâu, anh kể cho tôi một bí mật thuộc nội bộ gia đình. Mẹ anh hiện sống cùng một người đàn ông bản xứ, mở một tiệm ăn Trung Hoa ở thị trấn nhỏ Catex, Tây Ban Nha. Nghe nói bán tôm cua và vằn thắn Trung Quốc ở đó kiếm được bộn tiền. Nhưng bố anh qua đời rất sớm, lại chết bất đắc kỳ tử trong chuyến sang thăm vợ chưa đầy một tháng. Trong giấy khám nghiệm tử thi ghi rõ “nhồi máu cơ tim”. Tro người chết được mang về nước bằng máy bay McDonnell Douglas. Anh còn nhớ hôm đó nắng vàng rực rỡ, bà nội thấp bé khóc lóc như mưa ở phi trường. “Bà nội luôn khẳng định đó là một vụ mưu sát. Bố anh chưa bao giờ mắc bệnh tim. Đó là do mẹ anh hại chết bố anh. Bà nội nói mẹ anh ở đó đã có người đàn ông khác và cùng hắn đồng mưu giết chồng”. Anh có tên Thiên Thiên, nhìn chằm chằm vào tôi bằng ánh mắt quái dị. “Em có tin không? Tới giờ, anh vẫn chưa làm rõ rút cục mọi chuyện ra sao. Có thể đó cũng là sự thật. Nhưng mỗi năm mẹ gửi cho anh rất nhiều tiền. Anh luôn phải dựa vào chúng để sống”. Anh lặng lẽ nhìn tôi. Câu chuyện li kì đó thoắt một cái úp chụp lên tôi. Tôi vốn là một đứa con gái luôn dễ bị xúc động bởi bi kịch và âm mưu. Hồi còn theo học tại khoa Văn trường Đại học Phúc Đán, tôi đã có quyết tâm trở thành một nhà văn chuyên viết tiểu thuyết khiến độc giả phải rung động. Trong đầu tôi luôn nhảy nhót các từ ngữ như âm mưu, tình dục, độc dược, điên rồ, ánh trăng... Tôi dịu dàng ngắm nghía khuôn mặt đẹp đẽ nhưng yếu ớt của anh, hiểu ra nỗi muộn phiền hiếm có trên người anh từ đâu tới. “Theo thời gian, cái bóng của chết chóc chỉ càng dày thêm. Cuộc sống hiện nay của anh và chuyện cũ vỡ nát kia vĩnh viễn chỉ cách nhau một lớp kính mỏng trong suốt”. Tôi nói ý đó với anh. Mắt anh chợt ướt đẫm, một tay nắm chặt tay kia. “Nhưng giờ đây anh đã tìm được em. Anh quyết định tin em, sống cùng em”, anh nói, “Đừng tò mò về anh, cũng đừng bao giờ lập tức rời bỏ anh”. Tôi dọn tới sống cùng Thiên Thiên ở trong một chung cư lớn ba phòng ngủ tại khu ngoại ô phía Tây thành phố. Anh sắp xếp đồ đạc rất đơn giản, dễ chịu, một cái ghế salông đặt sát tường mua từ Ikea về, lại có cả một cây đàn piano hiệu Straus. Phía trên cây đàn treo một tấm tranh tự họa, đầu anh trông như nhô từ dưới nước lên. Nói thật, tôi không thích khu dân xung quanh chung cư. Hầu như con đường nào cũng bẩn thỉu. Hai bên đường chen chúc những mái nhà thấp tì, xấu xí, biển quảng cáo hoen gỉ, đống rác bốc mùi hôi thối, và cái cột điện thoại công cộng mỗi lần mưa lại dột lênh láng như trong phim “Titanic”. Từ cửa sổ nhìn ra, tôi không tài nào bắt gặp nổi một cái cây xanh tươi, một bóng dáng đàn ông đẹp trai hoặc đàn bà tươi trẻ. Bầu trời sạch tinh, như thể không nhìn thấy tương lai. ... Mời các bạn đón đọc Baby Thượng Hải của tác giả Vệ Tuệ.