Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hoa Hồng Trắng

Bộ truyện tình báo của Nguyễn Sơn Tùng - Nhà xuất bản Lao Động phát hành năm 1987, 4 tập gồm: Hoa hồng trắng Miền đất lạ Viên đạn ngược chiều Một mình trên đất khách. *** Mặt trời như trút lửa xuống ruộng đồng, cây cối im lìm, không một làn gió thoảng qua, mặt đường nóng bỏng, vắng bóng người lai vãng, sau vài khóm tre xơ xác tiêu điều, ẩn hiện những mái nhà tranh bạc phếch. Trên con đường đất từ Kiến-an về Đồ-sơn có hai chiếc xe gíp nhà binh đang mở hết tốc độ lao vun vút, cuốn lại sau một lớp bụi mờ. Hai chiếc xe chạy đến ngã ba thì dừng lại. Từ chiếc xe đi trước nhảy xuống ba tên lính đeo súng “mát”, mặt mũi đỏ gay, mồ hôi nhễ nhại, một trong ba tên quay lại chiếc xe sau hỏi: - Ngài đồn trưởng cho chúng tôi giải khát chứ ạ? Từ chiếc xe sau bốn tên nhảy xuống, bọn chúng cũng ướt đẫm mồ hôi, một tên đeo lon trung úy có bộ mặt lưỡi cày dài ngoẵng, cái sống mũi gồ, cặp mắt xếch và đôi lông mày rậm, hắn khoát tay ra lệnh: - Vào hàng cô Mơ! - Rồi khệnh khạng tì tay phải vào chuôi khẩu “côn bát” đeo lủng lẳng bên sườn, hắn ngất ngưởng đi vào quán, theo sau là những tên lính tùy tùng. Trong quán có mấy bà đi buôn, gồng gánh thúng mủng, đang lấy nón ra sức quạt, khi thấy bọn chúng vào vội vàng nem nép dồn vào một góc. Còn cô chủ quán trạc hăm bốn, hăm nhăm tuổi, vấn tóc trần, mặc áo phin nõn bó chặt bộ ngực phồng căng, đang vội vã lấy khăn lau sạch chiếc bàn đã được phủ lên trên tấm vải ni-lông hoa, ỏn ẻn nói: - Bẩm ngài đồn trưởng, ngài muốn gì ạ? - Kem sô-đa! Hôm nay có đá không cô em? - Tên đồn trưởng hỏi sau khi đã ra lệnh cho bọn lính được phép ngồi xuống bàn. - Dạ thưa ngài, khó mua lắm ạ! Thằng em em nó đi Hải-phòng, suốt từ sớm tới giờ chưa lấy được về, các ngài xơi sô-đa tạm vậy, có cả bia và nước chanh chai ạ! - Nóng thế này mà không có đá, chán thật! - Một tên hạ sĩ đứng dậy vừa xốc lại chiếc quần soóc ka ki vừa nói - Cô Mơ này, nếu lần sau cô thấy chiếc xe của quan đồn đi qua thì thế nào cô cũng phải chạy cho bằng được đá nhé! Lúc về, quan đồn bao giờ cũng xuống giải khát ở hàng cô, cô không thấy đó là vinh dự à? - Dạ em biết. Nhưng quả thật dạo này nóng quá mà đá thì rất hiếm, tranh nhau mãi, không mua được, quan đồn có cách nào giúp em mua đá được không? Nếu được thì em cám ơn quan đồn vô cùng ạ! - Mua đá hộ cô à? - Tên đồn trưởng hỏi rồi phá lên cười, cả bọn thấy hắn cười cũng cười theo. Tên đồn trưởng hỏi tiếp: - Nếu mua đá hộ cô thì cô em có tính tiền giải khát cho tôi không? - Dạ, em ủng hộ ạ! - A! Được rồi, thế thì viết cho cô một cái giấy nhé, nói là mua đá phục vụ quân đội quốc gia. Mỗi ngày một cây đủ chưa? - Dạ, được hơn thì càng tốt ạ! - Cô chủ quán mừng rỡ tiến đến phía sau tên đồn trưởng, ghé sát mớ tóc đã bôi nước hoa qua vai hắn trong khi hắn đang hí hoáy viết vào tờ giấy đóng dấu sẵn. - Đây, cho cô em, vừa ý chưa? Cô hàng nhận giấy, liếc mắt đưa tình và cất giọng ỏn ẻn: - Em xin cảm ơn! Bỗng tên đồn trưởng túm lấy tay cô kéo sát lại gần rồi nghiêm sắc mặt: - Cấm cô không được chỉ đường cho Việt Minh đấy! - Dạ. - Thấy người lạ mặt lảng vảng đến hàng thì phải theo dõi. - Vâng ạ! - Nếu thấy người nào nghi ngờ là du kích thì phải lập tức báo ngay cho lý trưởng để đồn kịp thời cho lính xuống bắt! - Dạ. - Nếu gặp khó khăn thì cô chịu khó lên đồn gặp tôi, tôi sẽ giúp đỡ. - Cám ơn quan lớn ạ! Tên đồn trưởng định kéo sát cô chủ quán gần mình nữa nhưng thấy bọn lính đang nhìn, hắn tảng lờ, vờ hỏi: - Những điều tôi dặn cô nghe rõ chứ? - Dạ, em nghe rõ cả. - Được, thôi ta đi - Hắn ra lệnh cho cả bọn và khệnh khạng bước lên xe, quên trả tiền hơn chục chai nước ngọt. Xe nổ máy, bọn chúng giơ tay chào cô chủ quán, một tên nói tiếng Tây giả cầy. - Ô-rơ-voa, ma-đờ-ma-den! Hai chiếc xe cùng rú ga phóng vun vút trên đường về Đồ-sơn, nhả lại đám bụi mù mịt tỏa vào các quán hàng ở ngã ba, khiến mọi người phải giơ tay lên bịt mũi. Bọn chúng đi được chừng mười phút thì những người ở ngã ba bỗng nghe thấy tiếng nổ. Một đám khói và bụi bốc cao lên ở phía Đồ-sơn. Một số người từ các quán hàng đổ xô ra nhìn và reo lên: - Mìn, bọn chúng vấp phải mìn rồi! Tiếp theo là tiếng súng máy nổ loạn xạ một hồi lâu rồi tiếng động cơ ầm ì xa xa. Từ trên đồn, tên thiếu úy đồn phó sau khi nghe thấy tiếng nổ lớn rất gần, hốt hoảng quay điện thoại gọi ra trạm tiền tiêu hỏi tên hạ si thường trực thì được biết có mìn nổ trên đường quốc lộ. Hắn thất sắc, nghĩ đến khả năng đồn trưởng bị phục kích, hắn vội vàng ra lệnh báo động. Gần một trăm tên, súng ống đầy đủ nhốn nháo tập trung dưới sân đồn. Tên đồn phó hạ lệnh cho một trung đội lên hai chiếc xe cam nhông, mở máy đi tiếp cứu. Nhưng vừa ra khỏi đồn thì thấy chiếc xe đồn trưởng về tới nơi, bọn chúng đều dừng lại và đoán rằng đã có chuyện chẳng lành. Tên đồn trưởng mặt tái mét từ trên xe bước xuống, theo sau là hai tên cận vệ quần áo tả tơi đầy bụi cùng tên tài xế vừa chết hụt. - Ông cho ngay quân xuống cây số mười lăm kéo chiếc xe bị mìn cùng xác ba binh sĩ về, đồng thời càn kỹ khu vực quanh cây số mười lăm - Đồn trưởng hạ lệnh cho đồn phó, tên này đang đứng nghiêm trước mặt hắn. - Bắt cho bằng hết những đứa làm ruộng xung quanh đem về đồn! - Xin tuân lệnh! Đồn phó rập gót giày, giơ tay chào và nhảy vội lên xe phóng thẳng. Tên đồn trưởng thất thểu bước ngay về buồng riêng, mở quạt máy và cứ để nguyên quần áo bẩn như vậy nằm sóng soài trên giường, mắt trợn tròn vừa sợ hãi vừa giận dữ. Từ ngày được bổ nhiệm về thay thế tên quan ba Phéc-đi-man đến nay đã gần ba tháng. Cái đất đáng nguyền rủa này lại chính là nơi các quan khách thường lui tới nghỉ mát trong những dịp hè. Tên tỉnh trưởng Kiến-an đã chỉ thị cho hắn phải kiện toàn màng lưới bảo vệ khu vực nghỉ mát bất khả xâm phạm này, vì vậy hắn đã được bổ sung thêm một đại đội bảo an do thiếu úy Toàn chỉ huy. Hôm nay, hắn lên tỉnh để chuẩn bị tiếp nhận và trên đường về bị vấp mìn của du kích. Chiếc xe đi đầu bị nổ tung, thiệt mạng ba tên lính cận vệ. Còn hắn ngồi xe sau nên thoát chết. Hắn nhớ lại những ngày vẫy vùng chỉ huy bọn phỉ ở vùng biên giới Móng-cái. Đến khi quân Pháp trở lại chiếm đóng, hắn đã đem hơn chục tàn quân, những hảo hán trên mặt biển, đến gặp tên quan năm Sác-lơ Đo xin đầu thú. Cảm động về sự nhiệt thành của hắn, Sác-lơ Đo đã tiếp nhận và đề nghị với bộ chỉ huy phong cho hắn chức trung úy và cất nhắc lên làm đồn trưởng Móng-cái một thời gian. Vì hắn là người địa phương, lại xuất thân là một tên giặc biển nên nhân dân Móng-cái đều căm ghét hắn vô cùng. Hễ nghe nói đến Tằng Sáng, đồn trưởng Móng-cái, thì từ đứa trẻ lên ba đến các cụ già đều phải khiếp vía kinh hoàng. Tằng Sáng khét tiếng tàn ác, uống máu người không tanh, do đó càng được bọn chỉ huy Pháp tin dùng. Tằng Sáng ra sức lập công với quan thầy, hễ cứ sau mỗi trận càn, nếu bắt được người nào bị nghi là du kích, hắn chặt đầu mổ bụng không thương tiếc. Có người hỏi hắn tại sao lại thích hành hình theo kiểu thời trung cổ như vậy, hắn trả lời: “Cho đỡ tốn đạn. Vả lại có thế bọn Việt Minh mới sợ”. Tằng Sáng được chuyển về Đồ-sơn, đồng bào khu vực Đồ-sơn lại phải chịu đựng nhiều thảm họa. Hôm nay du kích Đồ-sơn định bắt hắn trả nợ máu nhưng lại giết hụt. Hắn chưa đến ngày tận số. Hắn đang suy nghĩ để tìm cách báo thù du kích, hắn nôn nóng chờ mong tin tức của bọn đi càn. Liệu có bắt được tên Việt Minh nào không? Khi đã mệt, hắn gọi lính hầu lấy nước rửa mặt rồi bước ra phòng làm việc, ngồi thừ mặt trông chờ. Bỗng chuông điện thoại réo vang, hắn vội cầm lấy ống nghe. Từ trạm gác tiền tiêu báo tin là đội quân đi càn đã trở về. Tằng Sáng bước vội ra cửa đồn. Bọn lính do tên đồn phó chỉ huy đang kéo về rầm rập. Tên thiếu úy báo cáo với hắn: - Báo cáo đồn trưởng, chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ. Tằng Sáng sốt ruột hỏi: - Có bắt được tên Việt Minh nào không? - Dạ, bắt được bốn tên đang bắt cua dưới đồng. - Dẫn bọn chúng lại đây. Tằng Sáng hậm hực, không hài lòng khi nhìn thấy ba người đàn bà cùng một em bé trạc mười ba tuổi, quần áo đều rách rưới và mặt mũi lem luốc. Họ lẩy bẩy co dúm lại, mặt mày xanh xám vì quá sợ hãi. Tằng Sáng hất hàm ra lệnh cộc lốc: “Bắn!” Lần đầu tiên, những nạn nhân đáng thương được hưởng ân huệ của hắn là không bị chặt đầu, mổ bụng, moi gan, như mọi khi. Mặt trời đã khuất sau dãy núi, một dải mây đen dài ôm lấy chân trời, một loạt súng nổ vang… Tằng Sáng không chút động tâm. Hắn bước vội vào phòng làm việc, hạ lệnh cho tên thư ký đánh máy một bản báo cáo như sau để gửi lên cấp trên: Kính gửi: Quan tỉnh trưởng Kiến-an. Tôi là Tằng Sáng, trung úy phụ trách khu vực Đồ-sơn xin trân trọng báo cáo với ngài Tỉnh trưởng một việc như sau: Hồi 15 giờ 30, chúng tôi từ trên tỉnh về đến cây số 15 thì bị Việt Minh phục kích. Chiếc xe đi đầu chở ba binh sĩ bị trúng mìn thiệt hại. Chúng tôi lập tức xuống xe chiến đấu. Sau ba mươi phút nổ súng ác liệt, bọn chúng đã phải rút lui, binh sĩ của chúng tôi tiếp tục càn quét và đã bắt sống được bốn tên Việt Minh, đem về đồn tra hỏi, bọn chúng đều ương bướng không chịu khai. Thừa lệnh quan Tỉnh trưởng, chúng tôi đã xử tử hình bọn chúng. Chiến lợi phẩm thu được gồm một số lựu đạn và một quả mìn chưa nổ, chúng tôi sẽ gửi lên tỉnh sau. Vậy đề nghị quan Tỉnh trưởng ghi vào sổ thành tích chiến đấu của anh em binh sĩ Đồ-sơn. Kính chào quý ngài. Đồ-sơn, ngày X tháng X năm X Đồn trưởng kí tên TẰNG SÁNG Hắn bắt tên thư ký đọc lại cho hắn nghe bản báo cáo trên rồi gật gù với những thành tích giật gân ấy, chắc hẳn phen này cấp trên sẽ gắn thêm cho hắn một chiếc mề đay trong chiến công thật vẻ vang này. Mời các bạn đón đọc Hoa Hồng Trắng của tác giả Nguyễn Sơn Tùng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Xác Không Đầu
Cơ thể bị chia cắt của một người đàn ông được tìm thấy Trong Kênh Saint-Martin. Gần với hiện trường, Maigret gặp chủ nhân ngầm của một quán cà phê, Aline Calas, và tự hỏi liệu cơ thể trong con kênh có phải là của chồng cô không. Như thường lệ, bản năng của Maigret là chính xác. Buộc phải điều tra thêm nhưng với thời gian trên tay khi anh đã giải quyết xong vụ án, Maigret bắt đầu đào sâu vào quá khứ của tất cả những ai quan tâm. Không giống như hầu hết các hư cấu thám tử, nơi tìm kiếm giải pháp là trọng tâm của câu chuyện, cuốn tiểu thuyết này khám phá các động cơ khác nhau có thể dẫn đến phạm tội. Đây là lý do tự thù hận đằng sau những hành động theo đó bạn có thể làm tổn thương và làm tổn thương những người thân thiết nhất với bạn. Simenon, thông qua Maigret, tuyệt vọng cố gắng để tìm ra ý nghĩa thực sự và tham vọng, tin rằng sự hiểu biết có thể dẫn đến sự tha thứ và tha thứ sẽ làm giảm ổ đĩa để phạm tội. *** Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. Cho đến nay, chưa có nhà xuất bản nào tại Pháp in toàn bộ tác phẩm của Georges Simenon. Mới đây, các tiểu thuyết của ông được Nhà xuất bản Ommious in thành 25 tập Tất cả Simenon nhưng chưa đầy đủ. Còn ở Việt Nam mới chỉ có khoảng chục cuốn thuộc thể loại trinh thám hình sự của Georges Simenon. Không học cao, không đọc nhiều, không quan hệ rộng và cũng chẳng mấy khi đi đâu xa, thế nhưng Georges Simenon lại lập kỷ lục về số sách bán được và làm giàu nhờ những tác phẩm được chuyển thể điện ảnh. Bị một số người xem thường suốt thời gian dài, nhà văn viết nhiều và viết nhanh này lại được những đồng nghiệp danh tiếng như André Gide, Henry Miller hết mực kính trọng. Làm thế nào một người rời trường học từ lúc 15 tuổi và thừa nhận mình chưa bao giờ đọc những tác phẩm văn học cổ điển lại trở thành nhà văn viết tiếng Pháp có nhiều người đọc nhất và có tác phẩm được dịch nhiều nhất trên thế giới? Văn phong của Georges Simenon không có gì đặc biệt, không hoa mỹ và không có những hình ảnh ấn tượng. Vốn từ vựng của ông cũng rất hạn chế. Tiểu thuyết của ông không có nhiều yếu tố lịch sử hay triết học. Mọi nhân vật trong truyện đều thuộc tầng lớp trung lưu, có cuộc sống bình lặng, những thị dân tiểu tư sản, chung thủy với vợ, ít ngao du, không tham vọng, không chính kiến rõ rệt. Thế mà không khí trong tiểu thuyết của ông khiến người đọc phải nhớ mãi. Trong 60 năm cầm bút, Georges Simenon trải qua nhiều trào lưu văn nghệ; chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa Marx và Tiểu thuyết mới, nhưng không trào lưu nào ảnh hưởng nơi ông. Để hiểu được phần nào bí quyết thành công của Georges Simenon, có lẽ cần trở lại thời thơ ấu của ông. Gia đình sống quanh quẩn trong thành phố quê hương, chẳng mấy khi đi đâu xa. Để thay đổi số phận, năm 16 tuổi, Georges Simenon đến Paris. Vì sinh kế, chàng thanh niên trẻ làm đủ mọi công việc liên quan đến viết lách. Con người rất ít khi đọc sách ấy lại có một năng khiếu đặc biệt: Có thể cùng lúc là thư ký, nhà báo, nhà văn, và viết rất nhanh. Khi một nhà xuất bản yêu cầu một cuốn tiểu thuyết, câu hỏi đầu tiên của Georges Simenon luôn là: “Ông muốn có sách vào thứ sáu này hay tuần tới?” Ông viết nhiều và nhanh đến nỗi khi chưa đến 25 tuổi đã có rất nhiều bút danh. Tất cả các tác giả từng viết tiểu sử Georges Simenon đều nhận định: Để viết cuốn tiểu thuyết “Maigret” (tên vị thanh tra, nhân vật chính trong tiểu thuyết của Simenon), nhà văn chỉ cần 6 ngày và chỉ mất 9 ngày cho những tác phẩm khác mà ông gọi là “tiểu thuyết hắc” (romans durs). Cách viết nhanh như vậy giúp ông đạt được những thành công đầu tiên. Pietr le Letton (1931) là cuốn truyện mở đầu loạt truyện Maigret. Trong vòng hai năm, ông viết hơn 20 tiểu thuyết, đem lại lợi nhuận lớn lao cho nhà xuất bản Fayard. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng, Maigret et monsieur Charles (Maigret và ông Charles) được xuất bản năm 1972. Những cuộc phiêu lưu của thanh tra Maigret trải dài trên 75 tiểu thuyết (với khoảng chừng 10 năm), mà nhân vật chính không già đi, trán không gợn một nếp nhăn. Từ tác phẩm đầu tiên cho đến tác phẩm cuối cùng, thanh tra Maigret vẫn ở tuổi 50. Các nhà nghiên cứu nhận thấy tên Georges Simenon được ký trên hơn 200 cuốn tiểu thuyết và ông cũng viết ngần ấy tiểu thuyết với những bút danh khác (40 bút danh) và gần 1.000 truyện ngắn. Les fiançailles de monsieur Hire (Lễ Đính Hôn Của Ông Hire) và Le Chien Jaune (Con Chó Vàng) là những tác phẩm củng cố danh tiếng của ông. Những trí thức ở Paris không muốn nhắc đến “kẻ xa lạ” trốn tránh kinh đô Ánh sáng và xem thường những nghi thức của xã hội thượng lưu. Nhiều người phê phán Georges Simenon không có văn phong. Ngoại trừ nhà văn Pháp André Gide và nhà văn Mỹ Henry Miller, Georges Simenon không giao tiếp với ai nên bị giới văn học cho “ra rìa”. Ông cũng giữ thái độ mập mờ, không cộng tác với ai, cũng chẳng phản kháng ai. Khi nước Pháp thoát khỏi sự chiếm đóng của phát xít Đức, cũng như nhiều nhà văn khác, Georges Simenon bị buộc nhiều tội, trong đó hai tội chính: Ký hợp đồng với một nhà sản xuất phim người Đức để chuyển thể 9 cuốn tiểu thuyết của ông và Christian Simenon, em trai ông, ủng hộ phong trào chống chế độ đại nghị ở Bỉ, bị kết án tử hình vắng mặt. Năm 1945, Georges Simenon rời châu Âu sang Mỹ, lưu lại đây 10 năm. Nhưng ở nơi sống mới, “nỗi ám ảnh viết lách” không hề dịu đi. Trái lại, trí tưởng tượng của ông càng thêm phong phú nhờ những chuyến phiêu lưu khám phá kinh đô điện ảnh Hollywood. Lúc này ở châu Âu, những lời lên án ông hợp tác với phát xít Đức đã nhạt đi. Georges Simenon sang Thụy Sĩ, sống trong một dinh thự mênh mông ở Epalinges, cách Lausanne 10km. Ông đã là một ngôi sao. Người tra tranh nhau đăng tiểu thuyết của ông trên các báo và chuyển thể thành phim. Từ La nuit du carrefour (1932) đến Monsieur Hire (1989), tổng cộng 56 tiểu thuyết chuyển thể. Thêm một kỷ lục nữa: Georges Simenon trở nên giàu có nhờ số sách bán được và những bộ phim. Thoạt đầu, danh tiếng làm ông thích thú, nhưng rồi ông thấy chán ngán: “Tôi bán bản quyền và chẳng quan tâm nữa. Thậm chí tôi còn không đi xem phim”. Ở Epalinges, cuộc sống của ông rất bình lặng. Ông ít giao tiếp, dành toàn bộ thời gian để viết, đi dạo hai lần mỗi ngày, mỗi tháng gửi một bản thảo cho nhà xuất bản. Cuộc sống cứ thế trôi đi cho đến năm 1972, ông hầu như ngưng viết. Trước khi qua đời năm 1989, ông cho xuất bản 20 tác phẩm tự truyện. Sách của Georges Simenon được dịch sang 50 thứ tiếng. Trong bảng xếp hạng các sách được dịch nhiều nhất trên thế giới, sách của Georges Simenon và Agatha Christie chỉ xếp sau Kinh Thánh và các tác phẩm của Karl Marx. Cùng với việc viết lách, phụ nữ là mối quan tâm lớn của đời ông. Có nhiều lời đồn đoán về “năng lực tình ái” phi thường của Georges Simenon. Ông từng khoe đã yêu 10.000 phụ nữ. Denyse, người vợ thứ hai, cho biết lúc tuổi xế bóng, Georges Simenon vẫn chăn gối 3 lần mỗi ngày. Bà bếp tiết lộ đã dan díu với ông chủ Georges Simenon trong một thời gian dài, và trong lúc đi dạo, cha đẻ của Maigret lại tìm quên trong vòng tay của một cô gái làng chơi. Sinh hoạt tình dục sôi nổi ấy lại không để lại một dấu vết nào trong tác phẩm của Georges Simenon. Bà Maigret là một phụ nữ tiểu tư sản, mờ nhạt và lệ thuộc, luôn ngưỡng mộ chồng. Điểm này cũng là một bí ẩn của Georges Simenon. Ông kết hôn lần đầu tiên năm 19 tuổi với Tigy, có một con trai tên Marc. Marc kết hôn với nữ diễn viên nổi tiếng Mylène Demongeot, Georges Simenon cũng có quan hệ tình ái với ngôi sao nhạc kịch Joséphine Baker và suýt ly hôn với Tigy. Năm 1945, Georges Simenon gặp Denyse Ouimet, thoạt đầu là thư ký của ông, rồi trở thành người tình, người vợ, Georges Simenon và Denyse có 3 con: John, Mary và Pierre. *** Khi trời vừa rạng sáng thì Jules Naud, người anh cả của hai anh em nhà Naud, xuất hiện trên sà lan, trước hết là cái đầu, tiếp đó đến đôi vai và sau cùng là tấm thân cao lều nghều của anh. Đưa tay lên vuốt mớ tóc màu sợi lanh chưa kịp chải, anh nhìn âu thuyền có bến cảng Jemmages ở bên trái và bến cảng Valmy bên phải. Anh vừa cuốn một điếu thuốc lá và châm hút trong buổi sáng còn se lạnh thì ngọn đèn của một quán rượu ở phố Recollets bật sáng. Mặt tiền của quán rượu có màu vàng khè. Popaul, chủ quán, mặc áo không cổ, tóc chưa chải, đang đứng ngoài vỉa hè để tháo những cánh cửa lùa. Jules đi trên tấm ván bắc làm cầu lên bờ và cuốn điếu thuốc thứ hai trong khi đó thì Robert, người em, cũng cao lớn như anh, đã thức giấc và lên trên boong tàu. Anh ta thấy Jules đang tì tay lên quầy hàng đợi chủ quán rót thêm rượu vào tách cà phê của anh.  Robert đang đợi đến lượt mình. Cùng với những cử chỉ như Jules, anh ta cũng cuốn một điếu thuốc lá. Khi người anh cả rời khỏi quán hàng thì người em cũng đã lên khỏi sà lan. Hai người gặp nhau ở giữa đường. - Ta cho nổ máy đây - Jules bảo người em trai. Có những ngày hai người không nói với nhau quá một chục câu theo kiểu ấy. Con tàu của họ mang tên Hai anh em. Họ đã lấy hai chị em sinh đôi của một gia đình sống trên bờ sông. Robert cũng tì tay lên quầy hàng của ông Popaul béo lùn và đợi chủ quán rót rượu. - Hôm nay đẹp trời - Popaul gợi chuyện. Qua cửa sổ, Robert thấy trời đã chuyển sang màu hồng. Những ống khói trên các nóc nhà bắt đầu hoạt động, sương giá đọng trên các mái nhà lợp bằng đá bảng hoặc bằng ngói bắt đầu tan. Người ta nghe thấy tiếng nổ của đầu máy đi-ê-zen. Phía sau sà lan phụt ra những luồng khói đen. Robert đặt tiền lên quầy hàng, cầm lấy chiếc mũ cát-két và đi khỏi quán rượu. Người phụ trách âu thuyền trong bộ đồng phục đã xuất hiện chuẩn bị cho việc mở cửa âu. Người ta nghe thấy những bước chân ở cảng Valmy nhưng không nhìn thấy người. Tiếng trẻ con bi bô trong những khoang tàu, nơi các bà mẹ đang chuẩn bị cà phê. Jules đang cúi xuống nhìn mặt nước ở cuối sà lan. Người em thấy như có chuyện gì không ổn. Sà lan chở đá xây dựng từ Beauvais về. Chuyến này đá chở nhiều hơn thường lệ một vài tấn. Đêm qua sà lan từ bên La Vilette để đi vào kênh đào Saint-Martin. Thông thường thì tháng Ba kênh đào có nhiều nước. Năm nay ít mưa nên bùn trong các con kênh sục lên khi sà lan đi qua. Những cánh cửa âu thuyền được kéo lên. Jules ngồi bên vòng quay của bánh lái. Người em lên bờ tháo neo. Chân vịt bắt đầu quay tít, những bọt nước có bùn nổi lên. Tì người vào cây sào, Jules đẩy sà lan tránh xa bờ kênh. Bỗng nhiên chân vịt khựng lại, tiếng máy nổ rú lên và Robert thấy Jules đang cúi xuống máy. Cả hai đều không hiểu đã có chuyện gì xảy ra. Chân vịt không sát xuống đáy sông. Chắc chắn đã có vật gì mắc vào nó. Có thể là rác đã bị cuốn lên. Cầm một cây sào, Jules đến cuối sà lan và khuấy nước ở đấy lên. Chân vịt vẫn không nhúc nhích. Trong khi Jules đi tìm một chiếc móc bằng sắt thì Laurence từ khoang sà lan nhô đầu lên. - Có chuyện gì vậy? - Không biết. Cái móc bắt đầu làm việc. Vài phút sau đó thì Charles Dambois, người phụ trách âu thuyền, bước tới. Ông ta không hỏi han gì mà chỉ lặng lẽ nhồi thuốc vào tẩu để hút. Trên bờ kênh, người ta thấy nhiều y tá và hộ lý vội vã tới phố Cộng Hoà để làm việc tại bệnh viện Saint-Louis. - Anh đã thấy vật đó chưa? - Đã thấy. - Một sợi dây cáp ư? - Không biết. Jules đã móc được vật ấy lên và chân vịt lại tiếp tục quay. Chiếc móc sắt được nhấc lên khỏi mặt nước và mắc vào đấy là một gói giấy báo buộc kỹ. Giấy báo ngâm nước đã mủn ra. Đấy là một cánh tay người, từ bả vai đến bàn tay, thịt đã xám lại như con cá chết. *** Depoil, hạ sĩ cảnh sát của khu phố Ba, đã hết phiên trực đêm ở bến cảng Jemmages, đang chuẩn bị ra về thì gặp Jules chạy tới. - Tôi ở âu thuyền Recollets cùng với chiếc sà lan Hai anh em. Chân vịt đã không quay được khi chúng tôi cho sà lan chạy và chúng tôi đã gỡ từ đó ra một cánh tay người. Depoil đã làm việc ở quận Mười mười lăm năm, có phản ứng nhanh nhạy của người cảnh sát nên anh nắm ngay sự việc. - Tay của đàn ông ư? - Depoil hỏi với vẻ hoài nghi. - Phải. Cánh tay đầy lông màu hung và... Thường thì người ta vớt được xác chết ở kênh đào Saint-Martin từ chân vịt của tàu thuyền. Hầu hết là xác nguyên vẹn, đại đa số là xác đàn ông, ví dụ như xác của một ông già lang thang quá chén hoặc xác của một thanh niên bị địch thủ cho một nhát dao rồi đẩy xuống dòng kênh. Xác chết bị chặt ra từng khúc cũng không phải là không có, một năm trung bình một hai vụ, mà hầu hết là phụ nữ. Depoil có thể kể ra từng vụ một. Chín phần mười họ đều là gái bán dâm, đi lượn lờ trên bờ kênh vào ban đêm. "Tội ác do những kẻ loạn dâm gây ra" - Báo cáo của anh thường kết luận như vậy. Cảnh sát biết rõ những kẻ năng lui tới chốn này, họ có cả một danh sách những kẻ đáng nghi ngờ. Chỉ cần một vài ngày là đủ để tóm cổ được tác giả của vụ án cướp của giết người hoặc tấn công địch thủ bằng vũ khí. - Anh đã mang nó lên bờ rồi chứ? - Depoil hỏi. - Cánh tay người ư? - Anh để nó ở đâu? Mời các bạn đón đọc Xác Không Đầu của tác giả Georges Simenon & Trần Bình (dịch).
Xin Cho Tôi Gọi Cô Là Em Yêu
Tình cờ, Kerry McGrath - phụ tá uỷ viên công tố, phát hiện ra bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ Smith chỉnh hình khuôn mặt cho hai bệnh nhân của ông thành khuôn mặt của cùng một người phụ nữ đã bị ám sát hơn 10 năm trước. Hồ nghi, Kerry mở lại hồ sơ cũ, nàng đã bị sự ngăn cản từ người chồng cũ, từ sếp của nàng, và kể cả vị thượng nghị sĩ mà nàng rất kính trọng. Chẳng bao lâu sau, tính mạng của chính nàng cùng cô con gái nhỏ cũng bị đe doạ nếu nàng vẫn muốn khám phá sự thật.... *** Mary Higgins, sinh năm 1927 ở Mỹ, đã làm nhiều công việc khác nhau trước khi đến được với nghề viết văn. Cha mất sớm, hoàn cảnh khó khăn nên ngay khi học xong trung học, Mary phải lo giúp gia đình bằng cách nhanh chóng tìm một công việc. Bà đã làm thư ký rồi làm tiếp viên hàng không trước khi lập gia đình với Warren Clark. Lấy chồng một thời gian sau, Mary mới có thể theo đuổi sự nghiệp văn chương bằng nghề viết báo. Cuộc sống tưởng chừng đang yên ổn thì người chồng đột ngột qua đời trong một cơn đau tim, để lại một mình Mary với năm đứa con nhỏ. Người phụ nữ này không hề nhụt chí mà còn nỗ lực làm việc hơn bao giờ hết. Bà lao vào viết sách và lấy tên là Mary Higgins Clark. Tác phẩm đầu tiên, Tiểu sử George Washington, ra đời khi bà đã 40 tuổi, không đem lại mấy thành công. Mary quyết định chuyển sang thể loại truyện trinh thám. Cuốn tiểu thuyết Where are the children (Con của chúng ta đâu) xuất bản năm 1975, lập tức trở thành sách best-seller. Sau thành công của tác phẩm này, Mary bắt đầu gặt hái những thắng lợi lớn. Những phụ nữ giàu có, quyến rũ, những tội ác bí hiểm và bầu không khí căng thẳng đáng sợ là những đặc điểm nổi bật khiến cho câu chuyện luôn tạo được một hấp lực mạnh mẽ. Một số độc giả sau khi đọc truyện của bà đã phát biểu: “Cảm ơn Mary đã khiến tôi nhiều lần toát mồ hôi trong những đêm thức trắng đọc truyện của bà. Một khi đã bước vào thế giới đó thì bạn không thể rời xa được, chừng nào bạn chưa đọc xong. A Cry in the night (Tiếng thét trong đêm), The cradle will fall (Lộ diện), No place like home (Không đâu bằng ở nhà mình) đều là những tiểu thuyết tuyệt vời”. Một độc giả khác nhận xét: “Điều mà tôi thích ở nhà văn này là bà biết cách tạo ra những tình tiết lôi cuốn gây cảm giác hồi hộp. Thêm vào đó là phong cách viết dễ đọc nên những câu chuyện của bà hết sức gần gũi với đời thường”. Một con người không mệt mỏi Ba mươi năm viết truyện với 40 tiểu thuyết, trong đó nhiều tác phẩm đã được dựng phim, Mary Higgins Clark đã tạo cho mình một sự nghiệp đáng tự hào với nhiều giải thưởng và vinh quang. Bà đã nhận được nhiều giải của các cơ quan văn hóa, lịch sử xã hội, giáo dục Mỹ, Pháp, Ireland; đã từng làm Chủ tịch Hội các nhà văn trinh thám Mỹ năm 1987; Chủ trì Hội nghị Tội ác quốc tế tại New York năm 1988 và vinh dự đón nhận tước hiệu Hiệp sĩ Văn học và Nghệ thuật của Pháp vào năm 2000. Nhưng giải thưởng có ý nghĩa hơn cả có lẽ vẫn là sự mến mộ mà độc giả dành cho bà. Hầu hết các tác phẩm của Mary đều trở thành sách best-seller. Đối với nhiều người, truyện trinh thám chỉ được đọc để giết thời gian tại các bến xe nên đa phần được in khổ nhỏ bỏ túi, nhưng tại Mỹ, trên 50 triệu cuốn sách khổ lớn của bà đã được bán ra. Còn tại Pháp, con số này trên 20 triệu. Ở VN, độc giả có thể dễ dàng tìm được các tác phẩm của bà tại bất kỳ nhà sách nào trên toàn quốc. Những cuốn sách Chiếc nhẫn oan gia, Xác chết ngoài biển khơi, Rình rập, Lộ diện, Tiếng thét trong đêm đều đã trở nên quen thuộc đối với những người thích thể loại trinh thám. Năm 1999, một cuộc thăm dò đã đưa Mary Higgins Clark lên vị trí thứ hai thế giới trong số các nhà văn được nhiều độc giả trên 18 tuổi ưa thích. Một tâm hồn trẻ trung, hiện đại Đã 77 tuổi nhưng Mary vẫn không ngừng tạo ra những món ăn tinh thần hợp khẩu vị bạn đọc trẻ và chúng vẫn luôn mới mẻ, cuốn hút. Cuốn tiểu thuyết mới đây nhất Two little girls in blue, 2006 (Hai cô bé trong đại dương) đã chứng tỏ điều đó. Câu chuyện kể về gia đình Frawley, trong buổi tối sinh nhật của hai con gái sinh đôi 3 tuổi là Kelly và Kathy, ông bà Frawley đã bị cảnh sát hỏi thăm, chị giữ trẻ bị ngất đi, còn hai cô bé mất tích. Sau khi giao 8 triệu USD tiền chuộc theo yêu cầu của bọn bắt cóc, ông bà Flawley chỉ nhận lại được Kelly trong một chiếc xe hơi bỏ không. Còn số phận Kathy thế nào? Mọi người dường như tuyệt vọng, nhưng Kelly bằng linh cảm vẫn biết người chị song sinh của mình còn sống. Tình huống gay cấn trong câu chuyện khiến người đọc bị cuốn vào số phận các nhân vật cho đến trang cuối cùng. Năm 2007, Mary sẽ cho ra đời tác phẩm mới mang tên Santa Cruise mà bà viết chung với con gái mình là Carol Higgins Clark. Với sự nghiệp thành công và con cái thành đạt, Mary tự nhận mình là người hạnh phúc. Hiện nay, bà đang sống cùng với người chồng thứ hai, John Coheeney, tại Manhattan, New York. Bất chấp tuổi tác, những ý tưởng trong bà vẫn rất dồi dào và bà vẫn tiếp tục viết những câu chuyện ly kỳ, bí hiểm, khiến người đọc luôn phải trông ngóng, mong đợi những điều bất ngờ bà mang tới. Với 200 triệu cuốn sách bán ra trên thị trường, bà là một trong những nhà văn có số lượng độc giả nhiều nhất hiện nay. Với một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, bà đã chứng tỏ vị trí số một thế giới trong thể loại truyện trinh thám. Các tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:   1. Where Are The Children? (1975) có 3 bản dịch + Ngôi nhà cạm bẫy + Rình rập + Truy tìm nhân chứng 2. A Stranger Is Watching (1977) / Cáo sa mạc 3. The cradle will fall (1980) / Lộ diện 4. A Cry in the Night (1982) / Tiếng hét trong đêm khuya 5. All around the town (1992) có 3 bản dịch + Một quá khứ kinh hoàng + Thành phố buồn + Vĩnh biệt thơ ngây 6. Remember Me (1994) có 2 bản dịch + Bí ẩn trong tòa nhà cổ + Xác chết ngoài biển khơi 7. Let Me Call You Sweetheart (1995) / Xin cho tôi gọi cô là em yêu 8. The Lottery Winner (1996) / Chuộc chồng 9. Pretend You Don't See Her (1997) có 2 bản dịch + Trang nhật ký đẫm máu + Nhân chứng bị săn đuổi 10. You belong to me (1998) / Chiếc nhẫn oan gia 11. Where Are You Now? (2008) / Giờ này anh ở đâu? ***       Xin đừng phủ lên trên ngôi mộ này Những đóa hồng mà nàng hết sức yêu quí; Tại sao làm cho nàng ngất ngây bằng hoa hồng Mà nàng không thể thấy hoặc ngửi được? Edna St Vincent Millay, Epitaph.       Ông đã làm mọi cách để cố gắng gạt Suzanne ra khỏi tâm trí. Một đôi khi, ông tìm lại được sự yên tĩnh trong vài giờ hoặc thậm chí ngủ suốt đêm. Đó là cách duy nhất giúp ông tiếp tục sống, làm công việc hàng ngày. Phải chăng ông vẫn còn yêu cô hay chỉ ghét cô? Ông không bao giờ có thể chắc chắn. Cô đẹp, với đôi mắt sáng long lanh có cái nhìn chế giễu, với mái tóc sẫm bồng bềnh như mây, với đôi môi có thể mỉm cười một cách hết sức mời mọc hoặc mím lại một cách hết sức dễ dàng giống hệt một đứa bé đang bị cấm ăn kẹo. Trong tâm trí ông, cô vẫn luôn luôn hiện diện, như lúc cô đã nhìn ông vào phút giây cuối cùng của đời cô, trêu chọc ông và quay lưng về phía ông. Và giờ đây, gần mười một năm sau, Kerry McGrath sẽ không để cho Suzanne yên nghỉ. Những câu hỏi, rồi lại thêm những câu hỏi! Không thể chấp nhận được. Cần phải ngăn chặn cô ta. “Hãy để cho người chết chôn vùi người”. Đó là một ngạn ngữ cổ, ông nghĩ, và nó vẫn còn đúng. Phải ngăn chặn cô ta, bằng mọi giá.        Thứ Tư, ngày 11 tháng 11 Mời các bạn đón đọc Xin Cho Tôi Gọi Cô Là Em Yêu của tác giả Mary Higgins Clark & Nguyễn Nhất Nam (dịch).
Tiếng Thét Trong Đêm
Jenni - một phụ nữ ly dị đang nuôi con với muôn vàn khó khăn. Cuộc gặp định mệnh với Erich Krueger - một họa sĩ thiên tài ở miền Midwest trong một cuộc triển lãm tranh ở New York đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời của nàng. Sau một cuộc tình chớp nhoáng, Jenni và hai con chuyển từ New York đầy náo nhiệt về miền nông thôn ở Minnesota u tịch, yên tĩnh để kết hôn với Erich. Erich - một chàng trai hòa hoa, phong nhã, giàu có tưởng như là một kết thúc hoàn hảo cho cuộc đời đầy sóng gió của Jenni. Nhưng ngay trong ngày đêm động phòng Erich đã yêu cầu nàng mặc bộ đồ của mẹ chàng và Jenni phát hiện ra nàng quá giống mẹ Erich. Tính cách bị ám ảnh bởi sự ngăn nắp của chàng đã làm cho nàng cảm thấy quá ngột ngạt và những chuỗi ngày bất ổn bắt đầu từ đây. Liên tiếp những biến cố xảy ra với cái chết của Kevin - người chồng trước của Jenni gần nông trang của gia đình Erich, và đứa con đã đẩy nàng vào sự khủng hoảng nhưng sự việc không kết thúc tại đây. Và Jenni phải làm thế nào để giải thoát khỏi sự nguy hiểm đang rình rập và đồng thời bảo tồn mạng sống của mình và các con... *** Mary Higgins, sinh năm 1927 ở Mỹ, đã làm nhiều công việc khác nhau trước khi đến được với nghề viết văn. Cha mất sớm, hoàn cảnh khó khăn nên ngay khi học xong trung học, Mary phải lo giúp gia đình bằng cách nhanh chóng tìm một công việc. Bà đã làm thư ký rồi làm tiếp viên hàng không trước khi lập gia đình với Warren Clark. Lấy chồng một thời gian sau, Mary mới có thể theo đuổi sự nghiệp văn chương bằng nghề viết báo. Cuộc sống tưởng chừng đang yên ổn thì người chồng đột ngột qua đời trong một cơn đau tim, để lại một mình Mary với năm đứa con nhỏ. Người phụ nữ này không hề nhụt chí mà còn nỗ lực làm việc hơn bao giờ hết. Bà lao vào viết sách và lấy tên là Mary Higgins Clark. Tác phẩm đầu tiên, Tiểu sử George Washington, ra đời khi bà đã 40 tuổi, không đem lại mấy thành công. Mary quyết định chuyển sang thể loại truyện trinh thám. Cuốn tiểu thuyết Where are the children (Con của chúng ta đâu) xuất bản năm 1975, lập tức trở thành sách best-seller. Sau thành công của tác phẩm này, Mary bắt đầu gặt hái những thắng lợi lớn. Những phụ nữ giàu có, quyến rũ, những tội ác bí hiểm và bầu không khí căng thẳng đáng sợ là những đặc điểm nổi bật khiến cho câu chuyện luôn tạo được một hấp lực mạnh mẽ. Một số độc giả sau khi đọc truyện của bà đã phát biểu: “Cảm ơn Mary đã khiến tôi nhiều lần toát mồ hôi trong những đêm thức trắng đọc truyện của bà. Một khi đã bước vào thế giới đó thì bạn không thể rời xa được, chừng nào bạn chưa đọc xong. A Cry in the night (Tiếng thét trong đêm), The cradle will fall (Lộ diện), No place like home (Không đâu bằng ở nhà mình) đều là những tiểu thuyết tuyệt vời”. Một độc giả khác nhận xét: “Điều mà tôi thích ở nhà văn này là bà biết cách tạo ra những tình tiết lôi cuốn gây cảm giác hồi hộp. Thêm vào đó là phong cách viết dễ đọc nên những câu chuyện của bà hết sức gần gũi với đời thường”. Một con người không mệt mỏi Ba mươi năm viết truyện với 40 tiểu thuyết, trong đó nhiều tác phẩm đã được dựng phim, Mary Higgins Clark đã tạo cho mình một sự nghiệp đáng tự hào với nhiều giải thưởng và vinh quang. Bà đã nhận được nhiều giải của các cơ quan văn hóa, lịch sử xã hội, giáo dục Mỹ, Pháp, Ireland; đã từng làm Chủ tịch Hội các nhà văn trinh thám Mỹ năm 1987; Chủ trì Hội nghị Tội ác quốc tế tại New York năm 1988 và vinh dự đón nhận tước hiệu Hiệp sĩ Văn học và Nghệ thuật của Pháp vào năm 2000. Nhưng giải thưởng có ý nghĩa hơn cả có lẽ vẫn là sự mến mộ mà độc giả dành cho bà. Hầu hết các tác phẩm của Mary đều trở thành sách best-seller. Đối với nhiều người, truyện trinh thám chỉ được đọc để giết thời gian tại các bến xe nên đa phần được in khổ nhỏ bỏ túi, nhưng tại Mỹ, trên 50 triệu cuốn sách khổ lớn của bà đã được bán ra. Còn tại Pháp, con số này trên 20 triệu. Ở VN, độc giả có thể dễ dàng tìm được các tác phẩm của bà tại bất kỳ nhà sách nào trên toàn quốc. Những cuốn sách Chiếc nhẫn oan gia, Xác chết ngoài biển khơi, Rình rập, Lộ diện, Tiếng thét trong đêm đều đã trở nên quen thuộc đối với những người thích thể loại trinh thám. Năm 1999, một cuộc thăm dò đã đưa Mary Higgins Clark lên vị trí thứ hai thế giới trong số các nhà văn được nhiều độc giả trên 18 tuổi ưa thích. Một tâm hồn trẻ trung, hiện đại Đã 77 tuổi nhưng Mary vẫn không ngừng tạo ra những món ăn tinh thần hợp khẩu vị bạn đọc trẻ và chúng vẫn luôn mới mẻ, cuốn hút. Cuốn tiểu thuyết mới đây nhất Two little girls in blue, 2006 (Hai cô bé trong đại dương) đã chứng tỏ điều đó. Câu chuyện kể về gia đình Frawley, trong buổi tối sinh nhật của hai con gái sinh đôi 3 tuổi là Kelly và Kathy, ông bà Frawley đã bị cảnh sát hỏi thăm, chị giữ trẻ bị ngất đi, còn hai cô bé mất tích. Sau khi giao 8 triệu USD tiền chuộc theo yêu cầu của bọn bắt cóc, ông bà Flawley chỉ nhận lại được Kelly trong một chiếc xe hơi bỏ không. Còn số phận Kathy thế nào? Mọi người dường như tuyệt vọng, nhưng Kelly bằng linh cảm vẫn biết người chị song sinh của mình còn sống. Tình huống gay cấn trong câu chuyện khiến người đọc bị cuốn vào số phận các nhân vật cho đến trang cuối cùng. Năm 2007, Mary sẽ cho ra đời tác phẩm mới mang tên Santa Cruise mà bà viết chung với con gái mình là Carol Higgins Clark. Với sự nghiệp thành công và con cái thành đạt, Mary tự nhận mình là người hạnh phúc. Hiện nay, bà đang sống cùng với người chồng thứ hai, John Coheeney, tại Manhattan, New York. Bất chấp tuổi tác, những ý tưởng trong bà vẫn rất dồi dào và bà vẫn tiếp tục viết những câu chuyện ly kỳ, bí hiểm, khiến người đọc luôn phải trông ngóng, mong đợi những điều bất ngờ bà mang tới. Với 200 triệu cuốn sách bán ra trên thị trường, bà là một trong những nhà văn có số lượng độc giả nhiều nhất hiện nay. Với một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, bà đã chứng tỏ vị trí số một thế giới trong thể loại truyện trinh thám. Các tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:   1. Where Are The Children? (1975) có 3 bản dịch + Ngôi nhà cạm bẫy + Rình rập + Truy tìm nhân chứng 2. A Stranger Is Watching (1977) / Cáo sa mạc 3. The cradle will fall (1980) / Lộ diện 4. A Cry in the Night (1982) / Tiếng hét trong đêm khuya 5. All around the town (1992) có 3 bản dịch + Một quá khứ kinh hoàng + Thành phố buồn + Vĩnh biệt thơ ngây 6. Remember Me (1994) có 2 bản dịch + Bí ẩn trong tòa nhà cổ + Xác chết ngoài biển khơi 7. Let Me Call You Sweetheart (1995) / Xin cho tôi gọi cô là em yêu 8. The Lottery Winner (1996) / Chuộc chồng 9. Pretend You Don't See Her (1997) có 2 bản dịch + Trang nhật ký đẫm máu + Nhân chứng bị săn đuổi 10. You belong to me (1998) / Chiếc nhẫn oan gia 11. Where Are You Now? (2008) / Giờ này anh ở đâu? *** Lúc tờ mờ sáng, Jenni bắt đầu đi vào rừng để Jin tìm kiếm căn nhà gỗ. Suốt đêm qua, không hề chợp mắt, nàng nằm bất động, thao thức trên chiếc giường rộng, sang trọng, kiểu có tán che. Im vắng ngự trị trong ngôi nhà làm trĩu nặng tâm can nàng. Dẫu nhiều tuần lễ đã trôi qua mà đôi tai nàng vẫn rình nghe trong tuyệt vọng tiếng khóc đói sửa của đứa con nhỏ. Bầu vú căng sửa của nàng luôn chờ đợi cái miệng bé nhỏ háu ăn. Căn phòng sáng lên khi nàng bật ngọn đèn ngủ. Ánh đèn tỏa vào chiếc cốc pha lê chạm trổ trên tủ com mốt. Những bánh xà phòng nho nhỏ thơm mùi thông bày trong cốc hắt ánh sáng màu xanh vào chiếc hộp trang điểm bằng bạc. ***** Đối với nàng, có hệ trọng gì đâu. Dẫu phải chết rét đi nữa thì nàng cũng phải kiếm cho ra căn nhà gỗ đó. Nó ở đâu đó thôi, trong khu rùng thông đen, sồi và thích của xứ Na Uy này. Trong những đêm dài thao thức, nàng đã hoạch định một chương trình cho cuộc tìm kiếm. Theo nàng nghĩ, Erich không đi nhanh bằng nàng được, anh ta đi một bước thì nàng đã tiến xa ba bước rồi. Bước sải dài của nàng tự nhiên mang nàng đi nhanh hơn nàng tưởng. Như ngày kia, Erich đến căn nhà gỗ sực nhớ quên mang theo chìa khóa, chàng trở về để lấy, thì phải đi mất 40 phút. Theo anh ta, đoạn đường từ căn nhà gỗ đến bìa rừng phải đi khoảng 20 phút. Erich không bao giờ dẫn nàng đến đó. Chàng đã từng nói với nàng: ‘‘Jenni, em hãy hiểu cho anh, mọi nghệ sĩ đều cần có một thế giới riêng tư’’. Trước đây, nàng cũng không bao giờ tìm cách để đến nơi đó. Erich cũng đã tuyệt đối cấm mọi người trong nông trang vào rừng. Ngay cả Clyde, người quản lý nông trang từ ba mươi năm nay cũng xác nhận chưa hề biết căn nhà gỗ đó nằm ở đâu. Tuyết trắng xóa, từng mảng nặng nề, chất lớp, đã xóa tan đi dấu chân nàng. Nhưng trái lại nó cũng giúp nàng thực hiện cuộc tìm kiếm thấu đáo hơn bằng cách đi ski. Nàng cố thận trọng để tránh bị lạc hướng, với hằng hà bụi rậm nơi đây cùng với khả năng định hướng tồi tệ của nàng thì nguy cơ đi lòng vòng sẽ xảy ra ngay. Thận trọng, Jenny chủ định mang theo một cái la bàn, cái búa, đinh và ít mảnh vải nhỏ. Nàng dự tính sẽ đóng những mảnh vải này vào thân cây để đánh dấu. Suốt đêm qua, nàng suy nghĩ hẳn mình có nên đến gặp ông cảnh sát trưởng Gunderson. Hẳn nhiên ông ta sẽ nhìn nàng bằng ánh mắt dò hỏi, khinh khỉnh. Bộ áo liền quần đi ski móc ở tủ ngăn dưói nhà, cạnh nhà bếp. Nàng mặc nó vào trong khi chờ đợi nước cà-phê đun sôi. Ngay khi uống tách cà-phê đầu tiên, nàng đã hình dung rõ ràng hơn vị trí của căn nhà. Nàng sẽ mang theo bình thủy cà-phê. Jenni không có chìa khóa của căn nhà gỗ nhưng khi vào nàng có thể dùng búa để đập vỡ cửa kính. Toàn bộ ngói nhà rộng lớn cũ kỹ mà nàng đang sống nơi đây, thật bóng loáng từ trên xuống dưới. Hẳn đó là thành tích sáng chói do những nguyên tắc khắc nghiệt về tính sạch sẽ của Elsa, chị người làm, ngay cả khi chị ta không đến đã hai tuần nay. Trước khi ra về, chị ta luôn bóc một tờ lịch treo ở tường, trên chiếc điện thoại. Jenni còn nhớ đã từng nói với Erich về chị ta, "Elsa khônq thể kềm chế được việc lau chùi mọi thứ dẫu không thấy dơ và chị ta cứ lặp lại mãi như vậy trong suốt tuần". Bảy giờ, đến lượt nàng bóc tờ lịch của ngày Thứ hai 14 tháng 2, nàng vò nát tờ lịch cũ và chăm chú nhìn vào hàng chữ lớn ghi trên tờ lịch mới: Thứ bảy 15 tháng 2. Nàng rùng mình. Đã gần mười bốn tháng trôi qua kể từ ngày nàng gặp gỡ Erich tại gallery. Không thể thế được. Đó phải là một thế kỷ. Nàng đăm chiêu suy nghĩ. Mái tóc màu hạt dẻ sẫm màu của nàng trong thời gian nàng mang thai giờ đây đã trở thành gần như màu đen. Mái tóc lộ ra sự buồn bả và không còn sức sống khi nàng ém nó dưới chiếc nón trùm đầu bằng len. Chiếc gương đóng khung bằng vỏ sò đặt bên phía trái cánh cửa bếp thật không phù hợp với cảnh bề thế của căn bếp với khung trần trang trí bởi những cây đà to lớn bằng gỗ sồi. Nàng đến đứng trước gương, đôi mắt nàng giờ đã quầng thâm, không còn là màu xanh ngọc bích; sáng hôm nay chúng phản chiếu nét nhìn chăm chú và sững sờ. Đôi má nàng lõm sâu. Nàng đã sụt cân từ khi ở cữ. Khi nàng cài lại cúc áo, thì thấy gân xanh đập nhẹ nơi cổ mình, mới có hai mươi bảy tuổi mà nàng có cảm tưởng như gấp mười lần hơn; và nàng cảm thấy mình già như một bà lão trăm tuổi. Ước gì sự đờ đẫn này biến mất đi. Ước gì ngôi nhà này không còn thinh lặng như thế này nữa, một sự thinh lặng khủng khiếp. Nàng hướng mắt nhìn lò sưởi bằng gang nằm sát tường phía đông của căn bếp. Cái nôi chất đầy củi đã được đặt lại chỗ cũ cùng những vật dụng cần thiết cạnh đó. Nàng nhìn chăm chú chiếc nôi. Như một cú sốc thường xuyên hiện diện. Dần dà nàng cảm thấy quen thuộc với sự có mặt của nó trong căn bếp. Đoạn, nàng quay sang rót cà phê vào bình thủy, thu gom lại các vật cần dùng như la bàn, cái búa, những cái dinh, những mảnh vải và dồn tất cả vào trong một túi đeo lưng, với khăn quàng trùm mặt, chân mang giày ski, Jenni nhanh nhẹn luồn đôi tay vào bao găng tay to tướng bằng lông thú. Nàng tạ ơn Trời đã cho mình học tốt môn trượt tuyết trong năm qua. Nàng mở cửa bước ra. Gió dữ dội quất mạnh vào người nàng. Tiếng rống khàn đục của đàn bò trong chuồng làm nàng liên tưởng đến tiếng nức nở của nỗi tuyệt vọng sâu xa. Mặt trời rực rỡ trên tuyết trắng, vẻ đẹp sáng ngời của vị chúa tể xa xôi dường như bất lực với nỗi khắc nghiệt của băng giá. Giờ này, hẳn Clyde đang đi kiểm tra chuồng súc vật. Đội ngũ nông dân ăn lương công nhật hẳn đang bận rộn chất đầy rơm cho đàn bò Black Angus; vì là mùa đông nên chúng không thể ăn cỏ trên đồng và chúng thường ẩn náu nơi đây để có thức ăn. Phân nửa tá điền đang làm việc trên phần đất khai khẩn rộng lớn và không một người nào đến gần ngôi nhà này. Chỉ thấy những chiếc bóng nhỏ bé của họ lố nhố phía chân trời..   Mời các bạn đón đọc Tiếng Thét Trong Đêm của tác giả Mary Higgins Clark & Lê Thành (dịch).