Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phi Trường

Tên sách: Phi trường Nguyên tác: Airport Tác giả: Arthur Hailey NXB: Doubleday & Company, IncGarden City, New York 1968 Người dịch: DgHien Có tham khảo quyển Phi Trường của Thái Hà (Dịch từ Tiếng Nga) NXB Lao Động 1986. Từ những thông tin rời rạc, những người có trách nhiệm tại Phi trường quốc tế Lincoln đã khám phá ra một âm mưu đánh bom máy bay để trục lợi tiền bảo hiểm, và tìm cách ngăn chặn nó. Bên cạnh đó, quyển sách cũng trình bày nhiều hoạt động của những bộ phận khác nhau trong một phi trường, những hoạt động mà những hành khách bình thường không bao giờ thấy được. Và những suy nghĩ, hành động của những con người có liên quan trong một bộ phận xã hội. Arthur Hailey đã có nhiều sách xuất bản tại Việt Nam, mỗi quyển đều có liên quan đến một ngành nghề trong xã hội, một số đã có ebook. Tuy nhiên, theo đánh giá của tôi, Phi Trường là quyển hay nhất, hấp dẫn nhất, đến nay vẫn chưa có ebook, ngoài quyển Phi trường (PDF) do bạn Nga Hoang đưa lên mới đây. Quyển Phi Trường của Thái Hà (dịch từ Tiếng Nga) NXB Lao Động 1986 có một số thiếu sót: (1) phiên âm tên riêng, không còn nhận ra được tên nguyên gốc, không còn phù hợp thời đại; (2) bản Tiếng Nga dịch phóng túng, tùy tiện thêm vào những cái tên không có trong nguyên bản; và quan trọng (3) dịch sai một số chi tiết kỹ thuật, hoặc không hiểu rõ bộ phận kỹ thuật nên để nguyên tên Tiếng Anh không dịch. Do đó tôi đã mạnh dạn dịch mới từ nguyên tác Tiếng Anh, quyển Phi Trường của Arthur Hailey. *** Thông qua câu chuyện hồi hộp về quá trình nghi ngờ, điều tra phát hiện, và tìm cách ngăn chặn một vụ âm mưu cho nổ một chuyến máy bay hành khách quốc tế đông người ngay trên không. Arthur Hailey muốn cung cấp cho bạn đọc những hiểu biết tương đối tường tận và lý thú về hoạt động của một sân bay dân dụng vào loại lớn và hiện đại nhất nước Mỹ, sân bay quốc tế Lincoln, với lưu lượng máy bay lên xuống trung bình 30 giây một chiếc. Qua đó, tác giả muốn nói đến những vấn đề xã hội đang đặt ra hiện nay cho nước Mỹ: đó là những mâu thuẫn và bất công không thể tránh khỏi trong cuộc chạy đua theo tiến bộ khoa học kỹ thuật không phải vì hạnh phúc con người, mà trước hết vì lợi nhuận, đẩy con người đi đến chỗ có những hành động mù quáng điên rồ, tìm lối thoát trước cảnh ngộ bế tắc bằng cách tự giết mình và giết oan nhiều người vô tội khác. *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... *** T háng giêng, lúc sáu giờ ba mươi chiều một ngày thứ sáu, Phi trường quốc tế Lincoln, tiểu bang Illinois, vẫn đang hoạt động, dù rất khó khăn. Cũng như toàn bộ miền trung nước Mỹ, phi trường đang rối tung bởi một cơn bão tuyết lớn chưa từng thấy trong vòng sáu năm nay. Cơn bão đã kéo dài ba ngày. Bây giờ, như những mụn mủ trên một thân thể xiêu vẹo, yếu ớt, những chỗ yếu nhất đang vỡ ra đều đều. Một xe tiếp phẩm của hãng United Airlines mang theo hai trăm phần ăn, bị mất tích và bị kẹt tuyết đâu đó trong phạm vi sân bay. Việc tìm kiếm chiếc xe tải hoặc người tài xế của nó đã thất bại trong bão tuyết và bóng tối. Chuyến bay 111 của hãng United, chuyến bay thẳng đến Los Angeles mà chiếc xe tiếp phẩm phải phục vụ, đã chậm lịch bay nhiều giờ. Sự hỗn loạn do chiếc xe tiếp phẩm bị mất tích sẽ làm cho nó chậm hơn nữa. Những trường hợp chậm tương tự vì những lý do khác nhau đã làm ảnh hưởng đến ít nhất một trăm chuyến bay của hai mươi hãng hàng không khác nhau đang sử dụng Phi trường quốc tế Lincoln. Trong phạm vi sân bay, đường băng 3-0 không sử dụng được, do bị chặn bởi chiếc máy bay Boeing 707 của hãng Aéreo-Mexican, những bánh xe của nó kẹt sâu trong lớp bùn tuyết, gần mép đường băng. Hai giờ tận lực để kéo chiếc máy bay khổng lồ đi đều thất bại. Bây giờ, sau khi sử dụng hết khả năng của mình, hãng Aéreo-Mexican phải cầu cứu hãng TWA. Vì đường băng 3-0 bị chặn nên đài kiểm soát không lưu (KSKL) phải áp dụng chế độ kiểm soát trên không hết sức chặt chẽ và hạn chế việc tiếp nhận máy bay từ những trung tâm lân cận như Minneapolis, Cleveland, Kansas City, Indianapolis và Denver. Mặc dù vậy, vẫn có hai mươi máy bay đang lượn tròn trên trời xin hạ cánh, một số gần cạn nhiên liệu. Còn trên mặt đất thì có gấp đôi số máy bay như thế sẵn sàng cất cánh. Nhưng chừng nào tình hình trên không chưa bớt căng thẳng, đài KSKL chưa cho phép bất cứ máy bay nào cất cánh. Kết quả là các cửa ra máy bay, đường lăn, khu sân đỗ nhồi đầy máy bay đang nằm chờ, nhiều chiếc đang nổ máy sẵn. Trong kho của tất cả các hãng hàng không đều đầy ứ hàng hóa, những hàng hóa cần vận chuyển gấp nhưng giờ bị cơn bão ngăn trở. Các nhân viên giám sát hàng hóa lo lắng nhìn những đống hàng mau hỏng - những hoa hồng trồng trong nhà kính từ Wyoming đi New England; một tấn phó mát Pennsylvania chở đi Anchorage, Alaska; đậu ướp lạnh chở đi Iceland; những con tôm hùm sống từ miền đông chở đi châu Âu trên chuyến bay qua b ắc cực. Những con tôm hùm này phải xuất hiện trong thực đơn ngày mai của các khách sạn, nhà hàng ở Edinburgh và Paris, nơi chúng được gọi là “hải sản tươi sống của địa phương” và đám khách du lịch Mỹ cả tin sẽ tranh nhau ăn chúng. Dù có bão hay không, các hợp đồng đã ghi rằng những thứ hàng mau hỏng này phải được vận chuyển đến nơi vẫn còn tươi và phải nhanh chóng. Điều làm các nhân viên hàng hóa của hãng American Airlines đặc biệt lo ngại là lô hàng mấy nghìn con gà tây mới ra khỏi lồng ấp cách đây vài giờ. Lịch chuyên chở món hàng này đã được sắp xếp chính xác từ nhiều tuần lễ trước đây - giống như mệnh lệnh khai hỏa một trận chiến - trước khi những quả trứng gà tây được đưa vào lồng ấp. Chậm nhất những con gà sống này phải được chở tới bờ biển phía tây trong vòng bốn mươi tám giờ đồng hồ sau khi nở, là thời hạn để những sinh vật tí hon này có thể sống sót mà không cần ăn uống. Thông thường, việc vận chuyển như vậy có tỉ lệ sống sót gần một trăm phần trăm. Còn nếu cho chúng ăn uống trong khi vận chuyển thì chúng và cả chiếc máy bay sẽ bốc mùi nặng đến nhiều ngày sau chưa hết. Bây giờ lịch vận chuyển chúng đã bị chậm mất nhiều giờ. Vì thế một chuyến bay chở hàng được điều động thay cho một chuyến bay hành khách, xem ra những chú gà tây mềm yếu này được ưu tiên hơn mọi thứ, kể cả những hành khách VIP. Trong nhà ga hàng không chính, sự hỗn loạn đã tăng cao. Các phòng chờ chật kín hàng nghìn hành khách của các chuyến bay bị hoãn hay bị hủy. Hàng đống hành lý khắp nơi. Cả căn phòng khổng lồ trông giống như sự lộn xộn kết hợp giữa một trận đấu bóng đá kiểu Mỹ với cửa hàng Macy's trước lễ Giáng sinh. Cao trên mái nhà ga, câu slogan thiếu khiêm tốn PHI TRƯỜNG QUỐC TẾ LINCOLN - NGÃ TƯ HÀNG KHÔNG THẾ GIỚI, hoàn toàn bị tuyết che lấp. Thật đáng kinh ngạc là mọi thứ vẫn tiếp tục hoạt động, Mel Bakersfeld nghĩ. Mel, Tổng giám đốc phi trường - dáng gầy, khắc kỷ - đang đứng cạnh phòng chỉ huy chống tuyết, cao trên tháp KSKL, nhìn chăm chú vào màn đêm. Bình thường từ văn phòng kính này, toàn bộ khu liên hợp phi trường - các đường băng, đường lăn, nhà ga, giao thông dưới đất và trên không - trông giống như những mô hình bé xíu, ngay cả vào ban đêm hình dạng và chuyển động của chúng có thể nhìn thấy rõ ràng dưới ánh đèn. Chỉ có một nơi nhìn được như vậy cao hơn - Đài KSKL chiếm hai tầng trên cùng. Nhưng đêm nay chỉ nhìn thấy thấp thoáng vài ánh đèn gần nhất sau tấm màn tuyết dày đặc đang bị gió cuốn. Mel nghĩ rằng mùa đông này sẽ còn được thảo luận tại Hội nghị các nhà khí tượng trong nhiều năm tới. Trận bão tuyết này xuất hiện cách đây năm ngày tại vùng núi khuất gió ở Colorado. Lúc mới xuất hiện nó chỉ là một vùng áp thấp không to hơn một quả đồi, và đa số các nhà dự báo thời tiết, để lập bản đồ khí tượng cho các chuyến bay, không ghi nhận ra nó, hay bỏ qua nó. Và như bất mãn, cơn áp thấp đó gia tăng sức mạnh giống như một căn bệnh ác tính khổng lồ, vẫn đang phát triển, lúc đầu hướng về phía đông nam, sau đó phía bắc. Nó vượt qua Kansas và Oklahoma, sau đó tạm dừng tại Arkansas, thu thập thêm sức mạnh.  Ngày hôm sau, mạnh lên và hung hãn, nó ào ào đổ vào thung lũng Mississippi.  Cuối cùng, cơn bão trút xuống Illinois, gần như làm tê liệt cả tiểu bang với gió mạnh, nhiệt độ đóng băng, và một lượng tuyết dày mười inch trong 24 giờ. Tại sân bay, lớp tuyết dày mười inch lúc đầu rơi nhẹ, liên tục. Nhưng bây giờ lớp tuyết cũ được tiếp nối bởi nhiều tuyết hơn, gió cuốn chúng thành từng đống, cùng một lúc các đống tuyết mới lại chồng lên các đống tuyết cũ.  đ ội dọn tuyết đã gần như kiệt sức. Trong vòng vài giờ qua một số người đã được lệnh về nhà, mặc dù trong trường hợp khẩn cấp như thế này sân bay có cung cấp cho họ nơi tạm nghỉ. Tại phòng chỉ huy chống tuyết ở gần Mel, Danny Farrow - lúc bình thường là trợ lý của Tổng giám đốc phi trường, nay phụ trách phòng chỉ huy chống tuyết - đang gọi Trung tâm chống tuyết qua radio. “Chúng tôi đang mất cả các bãi đậu xe rồi. Tôi cần thêm sáu xe dọn tuyết nữa và một đội banjo tại ngã ba bảy bốn”. Danny đang ngồi tại phòng chỉ huy chống tuyết, thực sự không phải là một căn phòng đúng nghĩa, nhưng là một chỗ rộng cỡ ba gian nhà.  Trước mặt Danny và hai người giúp việc của ông ở hai bên là một loạt điện thoại, máy telex và máy radio. Xung quanh họ là các bản đồ, sơ đồ, và các tờ phiếu ghi lại tình trạng và vị trí của tất cả các xe dọn tuyết, cũng như các nhân viên và các giám sát. Có một phiếu riêng biệt cho các đội banjo - đội lưu động với dụng cụ dọn tuyết cá nhân. Phòng chỉ huy chống tuyết chỉ hoạt động đúng mục đích của mình trong một mùa này. Tại các thời điểm khác trong năm, căn phòng này chỉ còn sự vắng vẻ và yên tĩnh. Cái đầu hói của Danny bóng nhẫy những giọt mồ hôi khi ông ghi chú những ký hiệu trên bản đồ khổ lớn của sân bay.  Ông lặp đi lặp lại thông điệp của mình cho Trung tâm chống tuyết, nghe giọng ông giống như một lời van xin cho cá nhân, mà có lẽ đúng như thế thật. Ở trên cao này là phòng chỉ huy. Và người chỉ huy phòng này phải hiểu rõ toàn bộ sân bay, biết rõ từng yêu cầu và triển khai các thiết bị đến bất cứ nơi nào cần thiết nhất.  Một vấn để - và chắc chắn là nguyên nhân làm cho Danny toát mồ hôi - là những người dưới kia, những người đang chiến đấu để sân bay tiếp tục hoạt động, ít khi chia sẻ quan điểm giống nhau về những nơi nào ưu tiên hơn. “Chắc chắn, chắc chắn rồi.  Thêm sáu xe dọn tuyết nữa”.  Một giọng nói từ Trung tâm chống tuyết, từ đầu bên kia sân bay, gắt gỏng trong loa. “Để chúng tôi hỏi Ông già Noel đã. Hình như ông ta đang ở quanh đây thôi”.  Im lặng một chút, rồi sôi nổi hơn, “Còn có chỉ dẫn ngu ngốc nào nữa không?” Liếc nhìn Danny, Mel lắc đầu.  Ông nhận ra giọng nói trong loa là của một đội trưởng có lẽ đã làm việc liên tục kể từ khi bắt đầu có bão tuyết. Tâm trạng giận dữ trong hoàn cảnh như thế này cũng dễ hiểu.  Thông thường, sau một mùa đông khó khăn chiến đấu với tuyết, Trung tâm chống tuyết và Ban giám đốc sân bay sẽ tổ chức một buổi tối vui vẻ với nhau mà họ gọi là “đêm-hóa-dữ-làm-lành”.  n ăm nay chắc chắn sẽ cần một buổi tối như thế. Danny nói có lý, “Chúng tôi đã yêu cầu bốn xe dọn tuyết đi tìm chiếc xe tiếp phẩm của hãng United. Họ có lẽ đã xong việc rồi chứ”. “Họ có thể đã xong việc rồi - nếu chúng ta tìm được chiếc xe chết tiệt đó”. “Anh chưa tìm ra nó sao? Mấy người của anh đang làm gì vậy - Ăn tối với các quý bà chắc?” Danny vươn tay vặn nhỏ âm thanh như một cử chỉ đáp trả bực bội. “ n ghe này, những con chim trong cái chuồng nhếch nhác đó làm sao có ý tưởng nào về những gì xảy ra ngoài sân bay?  Có lẽ anh nên nhìn ra ngoài cửa sổ một lát chứ.  Bất kỳ ai có thể ở Bắc cực chết tiệt đêm nay mới biết khác biệt như thế nào”. “Cố thổi vào tay đấy, Ernie”, Danny nói. “ Nó có thể làm tay anh ấm áp và im miệng”. Mel Bakersfeld hiểu hầu hết các trao đổi này, ông biết rằng những gì đã nói về tình hình bên ngoài nhà ga là sự thật. Một giờ trước đây, Mel đã lái qua sân bay.  Ông đã sử dụng đường công vụ, mặc dù ông biết rõ sân bay như lòng bàn tay, nhưng tối nay ông đã rất khó khăn khi tìm đường và nhiều lần gần như bị lạc đường. Mel đã đến kiểm tra Trung tâm chống tuyết nơi đang hoạt động khẩn trương. Nếu t òa tháp nơi đặt phòng chỉ huy chống tuyết là sở chỉ huy, thì Trung tâm chống tuyết là một doanh trại ở chiến tuyến. Từ đây, các đội công nhân mệt mỏi và các đội trưởng đến và đi, những người đẫm mồ hôi và lạnh cóng thay phiên nhau, các công nhân thường xuyên được bổ sung thêm những công nhân tạm thời - thợ mộc, thợ điện, thợ ống nước, nhân viên, cảnh sát. Các công nhân tạm thời được lấy từ công nhân và nhân viên làm nhiệm vụ thường xuyên trong sân bay và được trả lương gấp rưỡi cho đến khi kết thúc tình hình khẩn cấp vì tuyết. Nhưng họ biết công việc phải làm, vì trong mùa hè và mùa thu họ đã diễn tập dọn tuyết nhiều lần vào những ngày cuối tuần, như những người lính, trên đường băng và các đường lăn. Những người đứng bên ngoài đôi khi tức cười khi xem các nhóm công nhân cào tuyết, máy ủi, máy thổi tuyết gầm rú, vào một ngày nắng nóng. Nhưng nếu có ai ngạc nhiên trước mức độ chuẩn bị công phu như thế, Mel Bakersfeld sẽ nhắc nhở họ rằng việc dọn tuyết khỏi khu vực hoạt động của sân bay tương đương bằng bảy trăm dặm đường cao tốc. Cũng giống như phòng chỉ huy chống tuyết trên tháp KSKL, Trung tâm chống tuyết chỉ hoạt động theo chức năng của nó vào mùa đông.  Đó là một gian phòng lớn, tối tăm ở bên trên một nhà để xe tải của sân bay, khi sử dụng, được lãnh đạo bởi một người điều vận phụ trách công tác vận chuyển trong sân bay. Căn cứ từ giọng nói trong radio hiện nay, Mel đoán rằng người ta đã thay người điều vận khác, có lẽ người kia đã về ngủ trong “Phòng Xanh”, như mọi người trong sân bay gọi đùa phòng nghỉ của công nhân. Tiếng người đội trưởng của Trung tâm chống tuyết vang lên lần nữa trong radio: “ Chúng tôi cũng đang lo về chiếc xe đó, Danny. Thằng con hoang khốn khổ đó chắc chết cóng ngoài đó rồi.  Mặc dù nếu hắn ta có tháo vát chút nào đi nữa, hắn ta không phải chết đói”. Chiếc xe tiếp phẩm của UAL đã rời nhà bếp của hãng hàng không để đến nhà ga chính cách đây gần hai giờ.  Hành trình của nó chạy theo đường vành đai, thông thường chỉ mất mười lăm phút. Nhưng chiếc xe tiếp phẩm đã không đến nơi, và rõ ràng lái xe đã lạc đường và bị kẹt tuyết trong khu hoang vu nào đó của sân bay. Hãng United đã gửi đi một đội tìm kiếm, mà chưa có kết quả. Bây giờ những người quản lý sân bay phải đích thân lo việc này. Mel hỏi: “Rốt cuộc chuyến bay United cất cánh rồi sao? Bay mà không có thực phẩm à?” Danny Farrow trả lời mà không cần nhìn lên. ”Tôi nghe thấy cơ trưởng nhường cho hành khách quyết định. Ông ta nói với họ rằng phải mất thêm một giờ nữa mới có một chiếc xe tiếp phẩm khác, rằng họ đã có phim và rượu trên máy bay, và mặt trời vẫn chiếu sáng tại California. Mọi người đã biểu quyết để rời khỏi địa ngục này. Nếu là tôi, tôi cũng sẽ làm như vậy”. Mel gật đầu, chống lại sự cám dỗ để tiếp nhận và đích thân tìm kiếm chiếc xe tải mất tích và người lái xe. Hành động là một liệu pháp.  Cái lạnh và sự ẩm ướt nhiều ngày, đã làm nhói đau vết thương cũ thời chiến tranh của Mel một lần nữa - ký ức chiến tranh Triều Tiên không bao giờ rời ông - và ông có thể cảm thấy nó ngay bây giờ. Ông chuyển, nghiêng, tì trọng lượng của mình sang chân lành.  Nhưng chỉ được một lát. Hầu như cùng một lúc, ở vị trí mới, cơn đau trở lại. Ông vui mừng, một lúc sau đó, rằng ông đã không can thiệp.  Danny hầu như đã làm đúng - tăng cường tìm kiếm chiếc xe, kéo các xe dọn tuyết và công nhân từ khu vực nhà ga, chuyển ra các đường vành đai. Trong thời gian này, các bãi đỗ xe sẽ phải để lại, và sau đó sẽ có rất nhiều lời phàn nàn về điều đó.  Nhưng người lái xe mất tích phải được cứu giúp ưu tiên. Giữa các cuộc gọi, Danny cảnh báo Mel, “Ông phải tự chống chọi với nhiều khiếu nại hơn nữa đấy. Việc tìm kiếm này phải chặn đường vành đai. Chúng tôi phải giữ lại tất cả xe tiếp phẩm khác cho đến khi chúng ta tìm thấy anh chàng kia”. Mời các bạn đón đọc Phi Trường của tác giả Arthur Hailey.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chạng Vạng
Trọn bộ tiểu thuyết Chạng vạng (Twilight) gồm bốn tập của nhà văn Mỹ Stephenie Meyer, xoay quanh cuộc sống của Isabella "Bella" Swan, một thiếu nữ vừa chuyển tới Forks, Washington, và rẽ ngoặt cuộc đời khi sa vào tình yêu với Edward Cullen- một ma cà rồng. Bộ truyện Chạng vạng-Twilight được kể theo ngôi thứ nhất, điểm nhìn của Bella ngoại trừ trong Eclipse có một phần kể theo lời Jacob Black Chạng vạng-Twilight là bộ tiểu thuyết thịnh hành trong giới trẻ, đã bán hơn 40 triệu bản trên toàn thế giới được dịch ra hơn 37 ngôn ngữ toàn cầu. Bốn cuốn Chạng vạng là những sách bán chạy nhất năm 2008 trong danh sách Best-seller của USA Today. Chạng vạng-Twilight gồm 4 tập: Tập 1: Chạng Vạng-Twilight Tập 2: Trăng Non-New Moon Tập 3: Nhật Thực-Eclipse Tập 4: Hừng Đông-Breaking Dawn *** Chắc hẳn nếu ai đã là fan của thể loại tiểu thuyết như Harry Potter thì chắc đã đọc Chạng vạng, bởi vì nó là tác phẩm đã đoạt lấy vị trí đầu tiên của Harry Potter 7 trên bảng xếp hạng best – seller của New York Times trong suốt 28 tuần. Theo tôi nghĩ, cuốn sách này hay nhất trong bộ Twilight. Ở tác phẩm, tác giả đã sử dụng ý tưởng mới lạ để viết nên một bộ tiểu thuyết lãng mạng: tình cảm giữa người thường: Isabella Marie Swan- một cô gái đặc biệt sống nội tâm, khép kín và Edward Cullen -một ma cà rồng đẹp trai và có năng lực hiếm có. Vì thế, cùng với những chi tiết nghẹt thở bất ngờ, cuốn sách cho bạn đọc những giây phút hồi hộp, phấn khích, khiến chúng ta khó có thể rời mắt. Đồng thời, nó mở ra cho chúng ta một thế giới huyền bí và đầy lãng mạn. Tuy nhiên, theo tôi nghĩ, cuốn sách này không tốt ở cách dùng từ và biểu đạt. Dường như tác giả cố gắng viết thật dài, ngôn từ thật phức tạp hay sao ấy mà từ ngữ lặp đi lặp lại rất nhiều. Ví dụ như đoạn miêu tả về khuôn mặt của Edward. Có rất ít đoạn miêu tả về ngoại hình Bella, khiến ta không thể hình dung cô ấy như thế nào nếu không xem thông qua phim. Khi đọc đoạn viết về tình cảm của 2 người, ta thấy nó khá .... nhàm!!! Có lẽ là cuốn sách đã được PR quá mạnh chứ thực ra cuốn sách không thật sự hấp dẫn đến vậy. Cuốn sách chỉ tốt ở mặt nội dung, còn về mặt trình bày, ngôn từ chưa thực sự hợp lý. Nguyễn Hùng *** Có 3 điều mà tôi hoàn toàn quả quyết. Thứ nhất, "Twillight" ít nhất không dừng lại ở 3 cuốn! Thứ hai, có một phần ở trong tôi - và tôi không hiểu tại sao phần đó lại mạnh mẽ đến thế - đang thèm khát tập II "New Moon" cuồng nhiệt. Và thứ ba, tôi đã... lỡ mê "Twillight" mất rồi! Một câu chuyện tình có thể diễn ra lôi cuốn và hồi hộp đến thế sao? Nàng là ai - một cô gái 17 tuổi tầm thường và vụng về, chẳng có gì nổi bật hơn việc vừa chuyển đến từ Phoenix và sở hữu một mùi hương thảo mộc "chết người"! Còn chàng - một supermodel chính hiệu với vẻ ngoài đẹp như thiên sứ, sở hữu tất cả những gì mà mọi chàng trai cùng lứa đều mong muốn: tiền bạc, tốc độ, sức mạnh, tri thức và một gia đình gồm toàn những con người cũng hoàn hảo như chàng. Tuy nhiên, có một bí mật mà chàng chẳng muốn chia sẻ với ai ngoại trừ cô bé ngốc nghếch Bella, một bí mật mà chàng ước sao có thể đánh đổi tất cả để chôn vùi nó đi và có được tình yêu của nàng: chàng là ma-cà-rồng! Còn điều gì đau khổ hơn việc yêu một người mà chẳng thể ở bên cạnh người ấy, phải nén lòng mình lại để thảy cho người ấy những thái độ lạnh lùng cùng một ánh nhìn xa lạ... Edward đấy! Chàng trai có tình yêu mãnh liệt nhưng cũng rất cao thượng ấy đấy! Yêu ngay từ ánh mắt đầu tiên mà hai người nhìn nhau, Edward đau khổ khi phát hiện ra rằng, mùi hương trên người Bella quả thật rất hấp dẫn. Hấp dẫn đến mức chàng nghi ngờ rằng khả năng tự kiềm chế mà chàng luôn tự hào chín mươi năm nay có khả năng bị lung lay! Và chàng đã làm mọi cách để lánh xa nàng. Nhưng, giữa những cung bậc tình cảm trái chiều luôn đấu tranh giằng xé nội tâm, chàng bỗng phát hiện ra rằng cuộc đời chàng chẳng thể thiếu được Bella! Và chàng chẳng ngờ tình yêu của mình dành cho Bella cũng được nàng đáp lại hơn cả nồng nhiệt đến thế! Có lúc chàng đã không dừng được và bật thốt lên rằng: "Anh không đủ mạnh mẽ để rời xa em, vì vậy, anh mong em hãy rời xa anh... dù điều đó có khiến cho em đau lòng thế nào." và nàng đã khẳng khái đáp lại: "Anh chính là cuộc đời em. Anh chính là điều duy nhất khiến tim em tan nát nếu để mất..." Một cô gái bất chấp tất cả, kể cả việc đặt sinh mạng mình và những người thân bên cạnh vào vòng nguy hiểm, chỉ để chứng mình một điều: "Em yêu anh hơn tất cả mọi thứ trên thế giới này gộp lại..." liệu có đủ để so sánh với một chàng trai đêm đêm đến canh giấc cho người mình yêu, hát ru nàng ngủ và đưa nàng đi từ hết những bất ngờ này đến thú vị khác? Chàng nồng nàn, lãng mạn - nàng mang chút thơ ngây, thánh thiện của mối tình đầu, và Stephenie Meyer với ngòi bút "trêu ngươi" của mình đã tạo nên một sự kết hợp tuyệt vời dành cho cặp đôi đầy trái ngang ấy! Đọc "Chạng Vạng" còn khiến chúng ta liên tưởng đến "Darren Shan", về một thế giới ma-cà-rồng đầy khiếp sợ và mê hoặc. Tuy nhiên, cảm giác khi đọc 2 bộ truyện này không giống nhau chút nào. Không thể so sánh xem bộ truyện nào trội hơn mà ở đây mình chỉ có thể nêu ý kiến chủ quan như sau: nếu như "Darren Shan" cuốn chúng ta vào một thế giới ma-cà-rồng đầy bất trắc với những bí mật động trời, những pha hành động liên tục toát mồ hôi hột thì với "Chạng Vạng" , độc giả dễ bị hút hồn vào một thế giới u tối, nơi chỉ có sự lãng mạn và nguy hiểm trộn lẫn...Nhịp truyện của Chạng Vạng chậm hơn một chút so với Darren, nhưng ở những thời điểm mấu chốt, cao trào của cả hai không hề thua kém nhau. Tất nhiên đây cũng là điều dễ hiểu khi đem so sánh một cuốn truyện dày hơn 600 trang với một cuốn truyện chỉ khoảng 200 trang! Đó là sự dàn trải giữa tình tiết và nội dung một cách hợp lý để dễ dàng dẫn dắt người đọc vào các tập truyện tiếp theo, đem lại cảm giác tò mò và thích thú cho độc giả khi tự tay họ vén lên bức màn bí mật đằng sau thế giới bóng đêm. Cả Meyer và Darren đều đã làm rất tốt công việc này và với hai phong cách hoàn toàn khác biệt, họ phần nào đã mang đến cho độc giả những góc nhìn giống và khác nhau về ma-cà-rồng. Khi câu chuyện đi dần đến hồi kết, ắt hẳn không ít người trong chúng ta cảm thấy hơi nuối tiếc. Tiếc cho một cuộc tình đẹp vẫn còn bỏ ngỏ, tiếc cho số phận của những con người đang khao khát tìm về bản ngã của chính mình. Gia đình Cullen - còn điều gì bí ẩn đằng sau số phận của mỗi con người ấy? Hay Jacob, một người bạn của Bella, sẽ làm những gì khi cậu ta chắc chắn là một tuyến nhân vật quan trọng? Rất nhiều câu hỏi được đặt ra trong đầu mình ngay khi trang sách khép lại. Edward và Bella sẽ viết tiếp câu chuyện tình yêu kỳ diệu của họ như thế nào? Chẳng ai là không muốn biết, nhất là khi đã "lỡ" đọc phần I rồi. Hãy cùng dõi theo con đường đầy chông gai của đôi bạn trẻ để cùng hy vọng vào một tình yêu bất diệt các bạn nhé! Nhật Quang Mời các bạn đón đọc Chạng Vạng của tác giả Stephenie Meyer.
Khao
Khao được coi là tiểu thuyết trào phúng, xuất bản lần đầu năm 1946. Bìa này của NXB Văn học năm 1988. Bản ebook dưới đây lấy nguồn từ Tổng tập văn học Việt Nam tập 33. *** Thơ của Xuân Sách về Bùi Huy Phồn trong "Chân dung nhà văn" Phất rồi ông mới ăn khao Thơ ngang chạy dọc bán rao một thời Ông đồ phấn ông đồ vôi Bao giờ xé xác để tôi ăn mừng (in nghiêng: tên tác phẩm của ông) Một giai thoại về Bùi Huy Phồn Bùi Huy Phồn phải bỏ làng... Chuyện vào làng văn phải bỏ... làng là có thật. Người ấy chính là nhà văn Bùi Huy Phồn, quê ở Vân Đình, huyện Ứng Hoà (Hà Tây cũ). Nhà văn Bùi Huy Phồn từng dạy học, viết văn, làm báo, sáng tác thơ và qua các công tác: Uỷ viên Ban Vận động nghiệp đoàn những người viết báo Bắc Kỳ (trước cách mạng) ở Hà Nội, Uỷ viên Ban Chấp hành Đoàn Kháng chiến Bắc Bộ, Chủ bút báo Tây Việt Bắc (khu X), Giám đốc Nhà xuất bản Văn học 1962-1972... Năm 20 tuổi, ông cho xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay dã sử “Lá huyết thư”, rồi sau này liên tiếp xuất bản hơn 20 tập tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch cùng với 4 tập thơ trào phúng. Bùi Huy Phồn là một trong những nhà thơ trào phúng nổi tiếng với bút danh Đồ Phồn. Để bước được vào làng văn và có được một bề dày văn phẩm, thi phẩm như kể trên, thì những ngày đầu “chập chững” vào làng văn, Bùi Huy Phồn phải bỏ làng ra đi... Năm ấy, khi Bùi Huy Phồn mới 15, 16 tuổi, nhân dịp Tết Nguyên đán, thấy mẹ dặn chị gái đi chợ nhớ mua mấy tờ giấy hồng điều cánh sen mang sang nhà cụ đồ Hai trong làng nhờ viết cho dăm câu đối bằng chữ nho để dán ở trong nhà, ngoài cửa, ngoài ngõ mấy ngày Tết. Thấy có giấy hồng điều, Bùi Huy Phồn tự nghĩ ra đôi câu đối rồi viết bằng chữ quốc ngữ, đem dán vào hai cột cổng ngoài nhà thờ họ vào trước lúc giao thừa. Sáng mồng một Tết, Bùi Huy Phồn dậy thật sớm ra trước cổng nhà thờ họ để ngắm và thưởng thức tác phẩm trào phúng đầu tay của mình. Nhưng thật lạ, không rõ kẻ nào đã bóc đi? Trên cột chỉ còn lại những vết bóc nham nhở. Bùi Huy Phồn ức quá, cảm thấy mình như một người đi săn lần đầu vớ phải một viên đạn thối. Song nghĩ lại, ông thấy có khi thế lại may, bởi vì chỉ lát nữa thôi cụ tuần anh, tuần em, cụ thượng cùng “Tinh thê đẳng” (những người chức sắc trong làng, xã thời đó) mũ mãng cân đai đi đến nhà thờ đại tôn họ Bùi lễ tổ mà bắt gặp đôi câu đối “bạo thiên, nghịch địa” của ông, thì mẹ ông phải đi tạ tội “phạm thượng”. Con dại cái mang mà! Những vị chức sắc làng xã kia không nổi giận sao được khi đọc những câu đối mà Bùi Huy Phồn viết thế này: “Mồng một Tết người đội mũ cánh chuồn khoe mẽ Ba ngày xuân tớ trùm nơm mẹ đĩ ngâm thơ” Mặc dù chưa có vợ nhưng Bùi Huy Phồn vẫn “mượn tạm” cái nơm mẹ đĩ để đối với mũ cánh chuồn. Thật là hả hê quá, mũ cánh chuồn đối với cái váy đàn bà. Tưởng chuyện bị mất câu đối chìm trong im lặng. Nào ngờ, chắc để hết Tết, qua rằm tháng giêng? Đúng ngày 16 tháng giêng năm ấy, nhân ngày giỗ tổ họ Bùi, những người “tai to mặt lớn” trong làng, xã có mặt. Giờ là dịp để họ “sờ gáy’ tác giả câu đối kia. Cụ tuần anh nói với mẹ Bùi Huy Phồn: - Phải đưa thằng Phồn ra nhà thờ họ ngay. Phồn vừa bước đến cửa, cụ tuần anh quát: - Thằng kia, vào đây! Rồi cụ tuần anh quay sang nói với mọi người trong họ: - Hôm nọ, mồng một Tết, anh và các chú vận phẩm phục triều đình đi hành ngơi trong thôn, xóm, cho dân làng được ra bái yết lấy may. Thế mà thằng này (chỉ Phồn) nó dám làm câu đối nói láo! Bùi Huy Phồn lắp bắp định cãi thì cụ tuần anh đập tay xuống tráp, thét lớn: - Câm! Tao lại sai nó nọc cổ mày xuống trước từ đường, đánh cho tan xác bây giờ. Mày muốn làm bình dân thì mày ra Hà Nội. Mày muốn làm cộng sản thì mày sang Nga-la-tư. Chứ còn ở cái làng này thì phải có tôn ti trật tự! Thôi cút! (câu nói này, cũng như những nhân vật Tuần anh, Tuần em... đã được đưa vào trong tác phẩm Khao) Có ai ngờ câu quở mắng của cụ tuần anh kia đã trở thành những lời “tiên tri” ứng nghiệm với cuộc đời Bùi Huy Phồn. Quả thật, sau “vụ câu đối Tết”, Bùi Huy Phồn đã phải bỏ làng ra Hà Nội làm một người bình dân viết văn kiếm sống và sau này, ông được sang Liên Xô thật trong đoàn nhà văn Việt Nam và trở thành một người cộng sản viết văn. *** Lão buông dùi, buông đục. Lão híp cặp mắt. Lão nhe đôi hàm lợi trơ. Rồi xoa hai tay vào nhau, lão thở phào qua đôi hàm lợi ấy. Lão đã khớp xong đôi cá ở ván địa. Cả đôi cá ở ván thiên. Lão đã khớp gần xong tám cặp cá ở cỗ quan tài. Một cỗ quan tài cho lão. Lão khoái! Và nghĩ ngợi. Tất cả mọi người khi đến cái tuổi “gần đất xa trời”, thấy mình sắp được nằm dài thanh thản trong cỗ quan tài, ai mà không nghĩ ngợi? Lão nghĩ rằng: năm nay, lão vừa bẩy mươi hai. Lại có chín con, một miếng đất ở, ba gian nhà. Tổng cộng là bẩy mươi hai tuổi, chín con, một miếng đất, ba gian nhà. Ta có nên tính cả một mụ vợ gù và một con chó ghẻ? Chín con, nhưng theo thói thường, những đứa hiếu đạo đều là đứa yểu số, hoặc nghèo xác, nghèo xơ. Còn những đứa tổ độ mát mặt mát mày lại là đứa cư xử với lão chả ra gì ráo. Một miếng đất ở đã đem cầm lấy tiền nộp ma khô cho vợ cả lão đâu từ năm trước. Ba gian nhà chỉ chờ được tiếp một cơn gió mạnh, là nằm kềnh ra ngửa mặt lên cười với giời. Rút lại, ở lão, chỉ còn có chút tuổi bẩy mươi khả dĩ cho lão tự hào được với trong xóm ngoài làng. Thiên tước kia mà! Lão đã chẳng có phú quý - một con chó ghẻ, ba gian nhà -, nhưng ở đời này, ai không làm được nên phú quý? Lão cũng chẳng có công danh - phó mộc từ năm mười bốn, lão vẫn còn phó mộc đến lúc bẩy mươi, - nhưng ai không làm được nên công danh? Còn như nói đến thiên tước, nói đến sự sống nổi cái tuổi mà lão sống đến ngày hôm nay, dễ ai mà sống được? Đó là một triết lý lão lấy làm sung sướng mới khám phá ra, để hằng ngày hiểu thị cho cái đám thê nhi, sau tiếng rít điếu cày, hoặc cạn một cút con rượu lậu. Đó cũng là một thứ khí giới lão tính sẽ dùng đến để tự vệ ở chỗ đình chung điếm sở, chống với mấy ông Nhang, ông Cán, ngõ hầu hạ giá họ, mỗi khi họ cậy là Nhang, là Cán, hạ giá lão là một thằng… bạch đinh! Bạch đinh! Lão hết cười. Và buồn. Lão đứng lên - như mỗi khi buồn - lẻn vào gậm ban thờ, moi ra một cút rượu lậu, nhấp nháp xuông vài tợp làm vui. Được kích thích trong não cân, đột nhiên, lão tìm ra, lần này cũng như tất cả mọi lần, câu trả lời cho cái điều sỉ nhục trên kia: - A! Bạch đinh, âu nó cũng là cái… số. Phải; chính nó là cái “số”! Lão lại được dịp nhe lợi ra cười phào, sung sướng về sự khám phá mới mẻ này, như lúc vừa đây đã khám phá ra cái “thiên tước”. Chính nó là cái số. Cái số đã cho thiên hạ làm ông Nhang, ông Cán, cái số đã bắt lão mòn đời làm thằng dân trắng, lưng đen khố cao. Rồi lão nghèo, đói, rách, rét. Đó cũng là cái số cả mà thôi. Rồi Chánh Vận sai người đánh đập lão để đòi nợ, hay Lý Bá trói giải lão để ốp thuế năm xưa, chung quy cũng chỉ là cái số lão phải cam như thế. Ấy thế là lão đã vơi được hẳn những oán hận trong lòng! Như mỗi khi vui, lão lại tợp luôn vài tợp rượu cho nó thêm vui. Lão khà một cái khà thống khoái. Chỉ bực một nỗi mụ vợ gù của lão mãi chưa về chợ, thế nào chẳng mua cho lão đôi bìa đậu phụ với vài đồng mắm tôm! Sực nghĩ đến mụ vợ gù, lão không chỉ cười phào. Lão quệt tay lau miệng, liếm môi một cái, cười hẳn ra mấy tiếng “hức hức” liền. Đó mới cũng là cái “số” của giời xui! Nếu không, thì tự dưng sao mụ, chẳng rõ quê quán nơi đâu, lại thành ra con mụ ăn mày. Đã thế rồi, tự dưng sao mụ lại đến xin ngủ nhờ trong túp nhà của lão một đêm! Hai đêm! Rồi lại thêm nữa một đêm! Cho đến khi mụ thấy rằng mụ chẳng cần đi, và lão thấy rằng để mụ ở cũng chẳng thiệt gì cho lão. Mời các bạn đón đọc Khao của tác giả Đồ Phồn.
Sự Hy Sinh Của Thầy Trừ Tà
CẢNH BÁO: KHÔNG ĐƯỢC ĐỌC SAU KHI TRỜI TỐI "Một người nào đó sẽ phải đứng lên để chống lại bóng tối. Và con là người duy nhất có thể." Trong nhiều năm qua, Thầy Trừ Tà Gregory đã giữ cho Hạt an toàn khỏi ma quỷ. Giờ thời gian của ông đã kết thúc, nhưng ai sẽ là người tiếp quản chuyện đó? Hai mươi chín người học việc đã đến thử - một vài người không đạt tiêu chuẩn, một vài người đã bỏ trốn, một vài người đã chết. Chỉ còn lại duy nhất Thomas Ward. Cậu là niềm hy vọng cuối cùng; cậu bé học việc cuối cùng. Liệu Thomas có thành công? Liệu cậu có học được sự khác nhau giữa phù thủy loại lành và phù thủy loại độc? Liệu lời cảnh báo của Thầy Trừ Tà về những cô gái đi giày mũi nhọn có bao gồm cả Alice không? Và điều gì sẽ xảy ra nếu Thomas vô tình giải thoát Mẹ Malkin, phù thủy độc ác nhất ở Hạt…? Câu chuyện đáng sợ đầu tiên trong series Cậu Bé Học Việc và Thầy Trừ Tà. *** Joseph Delaney từng dạy truyền thông và phim ảnh ở một trường trung học tại Blackpool, Anh. Ông sống cùng gia đình ở Lancashire, giữa trung tâm lãnh thổ của ông kẹ. Sự Báo Thù Của Phù Thủy là cuốn tiểu thuyết đầu tay. Truyện được hãng Warner Bros. Pictures mua bản quyền và chuyển thể thành phim với tên Người con trai thứ bảy (The Seventh Son, đạo diễn: Sergei Bodrov). Phim sẽ được phát hành trong đầu năm 2013, có sự tham gia của nam diễn viên Ben Barnes (vai Thomas Ward), Julianne Moore (vai Mẹ Malkin), nam diễn viên Jeff Bridges (vai Thầy Trừ Tà Gregory)… Series Cậu Bé Học Việc và Thầy Trừ Tà do Chibooks xuất bản 2012-2013: Phần 1: Sự Báo Thù Của Phù Thủy (The Spook’s Apprentice) Phần 2: Lời nguyền của Quỷ độc (Spook's Curse) Phần 3: Đêm của Kẻ Đánh Cắp Hồn (The Spook’s Secrect) Phần 4: Đòn Tấn Công của Quỷ Vương (The Spook’s Battle) Phần 5: Cơn Thịnh Nộ của Huyết Nhân (The Spook’s Mistake) Phần 6: Sự Hi Sinh của Thầy Trừ Tà (The Spook’s Sacrifice) Phần 7: The Spook’s Nightmare Phần 8: The Spook’s Destiny Phần 9: The Spook’s I am Grimalkin Phần 10: The Spook’s Stories: Witches Phần 11: The Spook’s Bestiary *** "Phù thủy hả mẹ? Chúng ta liên minh với phù thủy sao?" Là chân học việc của Thầy Trừ Tà, nhiệm vụ hàng đầu của Tom là bảo vệ Hạt khỏi thế lực bóng tối. Nhưng giờ đây mẹ lại cần đến sự giúp sức của cậu tại quê nhà Hy Lạp của bà để nổi dậy chống lại một trong mấy vị Cổ Thần, mụ Ordeen gớm ghiếc. Mẹ đã triệu tập một nhóm hùng hậu để chiến đấu, nhưng trong số đó lại có cả các phù thủy đến từ Pendle. Liệu Tom có thể đi ngược lại tất cả những gì Thầy Trừ Tà đã dạy mà liên minh với kẻ thù hay không? Điều bí mật gì mẹ đang cố giấu cậu ấy? Và điều gì cần phải hy sinh trong trận chiến chống lại bóng tối? Câu chuyện đáng sợ thứ 6 trong series Cậu bé học việc và thầy trừ tà. *** Tôi bừng tỉnh với tâm trạng bồn chồn lo lắng có chuyện gì đó chăng lành. Ngoài trời, những tia sét đánh chằng chịt bên khung cửa, tiếp nối bằng những đợt sấm rền. Trước đây tôi từng ngủ qua những đêm giông bão ở Hạt, nên chắc chắn những thứ ấy không thể làm tôi thức giấc. Không đâu, tôi linh tính có một mối nguy nào đó đang chực chờ ngoài kia. Tôi nhảy phóc ra khỏi giường, đúng lúc chiếc gương ngay cạnhđầu giường tôi đột nhiên sáng hơn lên. Tôi thoáng thấy hình ảnh phản chiếu của ai đó lướt qua rồi nhanh chóng biến mất. Nhưng tôi đã kịp nhận ra khuôn mặt. Là Alice. Dù được đào tạo trong hai năm liền để trở thành phù thủy, Alice vẫn là bạn tôi. Cô bé đã bị Thầy trừ tà xua đuổi nên phải quay trở lại khu đồi Pendle. Tôi nhớ có ghê lắm nhưng vẫn ráng giữ lời hứa với Thầy mình mà tảng lờ mọi nỗ lực liên lạc của cô ấy. Nhưng lần này tôi không thể lờ đi được nữa. Cô ấy đã cố ghi lại lời nhắn trên gương, còn tôi không thể không đọc trước khi dòng chữ phai mất. Maenad là gì nhỉ? Tôi chưa từng nghe đến. Với lại làm sao mà một tên sát thủ bất kỳ nào có thể tiếp cận được tôi khi hắn phải băng qua khu vườn của Thầy trừ tà - nơi luôn được Ông Kẹ thần thánh của Thầy trông chừng? Nếu kẻ nào đó xâm phạm khu vườn, Ông Kẹ ấy sẽ gầm lên một tiếng đến cả cách đó hàng dặm vẫn còn nghe ra, và sẽ xé xác kẻ xâm phạm thành trăm mảnh. Còn nữa, làm sao Alice biết được mối nguy hiểm đó? Cô bé đang ở Pendle cách đây hàng dặm. Tuy vậy, tôi cũng sẽ không làm ngơ lời cảnh báo của cô ấy đâu. Thầy tôi, John Gregory, đã ra ngoài xử lý một hồn ma chuyên gây rắc rối, chỉ còn lại mỗi tôi trong ngôi nhà này. Mà tôi lại chẳng có gì tự vệ trong tay. Thanh trượng cùng túi đồ của tôi đang ở tuốt trong bếp, nên tôi phải đi lấy vậy. Đừng hoảng, tôi tự nhủ. Từ từ bình tĩnh nào. Tôi nhanh chóng mặc quần áo, xỏ chân vào đôi ủng. Tôi nhẹ nhàng mở cửa phòng ngủ và cẩn thận lẻn ra ngoài khu hành lang tối om om ngay lúc tiếng sấm rền vang một lần nữa. Tại đây tôi dừng lại nghe ngóng. Vạn vật im phăng phắc. Thấy chắc ăn rằng chưa có kẻ nào đột nhập vào được trong nhà, nên tôi tiếp tục rón rén đi xuống cầu thang. Tôi lướt qua khu tiền sảnh rồi hướng thẳng vào bếp. Tôi nhét sợi xích bạc vào túi quần, rồi vừa nắm lấy thanh trượng, tôi vừa mở cửa sau để bước ra ngoài. Ông Kẹ đâu nhỉ? Tại sao Ông Kẹ lại không bảo vệ ngôi nhà và khu vườn khỏi kẻ đột nhập? Mưa xối thẳng vào mặt tôi khi tôi đứng chờ, kỹ lưỡng dò mắt qua sân cỏ lẫn cây cối ngoài kia xem có cử động nào không. Mời các bạn đón đọc Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 6: Sự Hy Sinh Của Thầy Trừ Tà của tác giả Joseph Delaney.
Và Rồi Núi Vọng
Afghanistan trong Người đua diều (The Kite Runner) là một giấc mơ ấu thơ đẹp đẽ, sự đẹp đẽ được reo rắc, ươm mầm từ những hoài niệm, xót thương, ẩn ức. Cậu bé Amir đi xa Kabul đến vạn dặm vẫn khắc khoải về một góc phố, về một ngôi nhà, về một ấu thơ thấm đẫm nỗi niềm. Người đua diều ngay khi ra mắt đã trở thành hiện tượng xuất bản. Tác phẩm đầu tay của bác sĩ Khaled Hosseini trở thành “best seller” trong nháy mắt. Người Mỹ kinh ngạc và lặng đi trước một Afghanistan đau thương nhưng lấp lánh giấc mơ. Afghanistan trong Và rồi núi vọng (And the Mountains Echoed) là một giấc mơ thăm thẳm đau đớn. Ở đó, đói nghèo đặt dấu vết lên từng nhân vật, chiến tranh tàn phá từng số phận, sự đau khổ, trống rỗng hủy hoại từng cuộc đời. Những số phận mang hình hài Afghan Shadbagh (một địa danh ở Pakistan) không hiểu vì sao được đặt tên cho ngôi làng của Afghanistan - nơi Hosseini bắt đầu câu chuyện của mình. Người cha Saboor nghèo khổ, gia cảnh kiệt quệ sau cái chết của đứa con trai chưa đầy tuổi hồi mùa đông đã quyết định bán cô con gái Pari cho một gia đình giàu có ở Kabul. Hành trình kéo xe của Saboor từ Shadbagh đến Kabul như vô tận, lết theo đó là nỗi tuyệt vọng khôn cùng. Saboor không có sự lựa chọn. Nghèo đói đã trĩu nặng trên vai ông. Sự trong sáng, thơ ngây của 2 đứa con dày vò, hành hạ ông. Và cuộc chia ly ở Kabul đã xô đẩy cuộc đời mỗi người trong số họ theo những hướng khác nhau, Pari ở lại với gia đình giàu có trong cô đơn, trống rỗng. Ông bố Saboor, người anh trai Abdullah trở về Sadbagh trong nỗi đau đớn dày xéo họ suốt phần đời còn lại. Và rồi núi vọng là cuốn sách thứ 3 của bác sĩ Hosseini. Trước đó, anh đã từng viết Người đua diều và Ngàn mặt trời rực rỡ, đều để lại ấn tượng mạnh mẽ về đất nước Afghanistan. Cuốn Người đua diều được chuyển thể thành phim năm 2007. Và rồi núi vọng được kể theo thời gian phi tuyến tính. Mỗi chương là một dấu mốc thời gian. Mỗi dấu mốc thời gian là một cuộc đời. Từ cuộc chia tay Kabul, diễn biến câu chuyện vừa như có sự sắp đặt, vừa như chẳng hề có sự sắp đặt nào. Những nhân vật đến rồi đi. Nhiệm vụ của họ là kể câu chuyện của mình, sứ mệnh của họ là một nút thắt, một dấu chấm trên hành trình cuộc đời đằng đẵng với chằng chịt các mối quan hệ kết nối. Theo nhiều cách, số phận đẩy chúng ta ra xa nhau, rồi kết nối lại bằng những biến cố, bằng những sợi dây vô hình. Những số phận Afghan trong Và rồi núi vọng bị xô đẩy, bị vùi dập, bị hủy hoại, bị chia cắt trong bối cảnh đất nước chiến tranh kéo dài. Cuộc chiến của Mỹ, sự can thiệp của người Nga, sự tàn bạo của Taliban đã chia cắt Afghanistan thành từng số phận nhỏ. Dưới ngòi bút của Hosseini, “ở Kabul, mỗi một dặm vuông có cả ngàn thảm kịch”. Ông lão Nabi bám trụ ở Kabul để chứng kiến cuộc sống thay đổi theo chiến sự. Pari bị xô đẩy đến Pháp với khoảng trống vô tận trong lòng. Abdullah bằng cách nào đó đã đến Mỹ với câu hỏi của cả cuộc đời: em gái đang ở đâu? Anh em Timur, Idris từ Mỹ trở về Afghanistan mang theo những mục đích riêng. Markos vòng quanh thế giới để tìm bản ngã. Gia đình Parwana trôi dạt theo cuộc di cư tị nạn ở Pakistan… Mỗi người trong số họ đều mang những bi kịch riêng, những gương mặt riêng của một người Afghan đặc trưng. Cùng quẫn và bế tắc. Day dứt và bất lực. Đau đớn và kiên cường. Nỗi đau của nhà văn giấu trong từng nhân vật Chất chứa đằng sau mỗi số phận là nỗi xót thương hoang hoải và trĩu nặng tâm tư của tác giả. Tưởng như, nỗi niềm dân tộc, nỗi niềm Afghanistan khiến tác giả đau đớn trong cả những giấc mơ. Khaled Hosseini sinh năm 1965 tại Kabul, Afghanistan. Anh và gia đình rời Kabul sang Paris năm 1976. Năm 1980, gia đình Hosseini được chính phủ Mỹ bảo hộ, họ sang California và định cư tại đó đến nay. Đằng sau một Pari tha hương bé nhỏ, là những con chữ len lỏi nói về sự mạnh mẽ. Đằng sau một Roshi bất hạnh là niềm kiêu hãnh âm thầm về sự kiên cường của dân tộc Afghan. Hay, đằng sau bác sỹ Idris là thấp thoáng những nỗi day dứt, dày vò của chính tác giả, khi tận mắt chứng kiến cả ngàn thảm kịch ở Kabul, Idris trở về Mỹ nhìn cuộc sống giàu sang, xa hoa thấy như lạc lõng, như nực cười, như vô vị. Khi nhìn những đứa trẻ bị bỏ đói, bị hãm hiếp, bị giết hại ở Afghan, cuộc sống nhung lụa ở California bỗng trở nên tội lỗi. Idris đã nghĩ đến việc xây dựng một rạp chiếu phim mini trong nhà, và thấy như muốn khóc khi số tiền đó có thể xây được một ngôi trường ở Afghan. Chỉ tiếc, Hosseini đã quá tham nhân vật, quá tham diễn giải về những số phận, đôi khi, anh để mình lan man, và trượt quá xa câu chuyện chính. Khi độc giả chờ đợi một sự quay về, chờ đợi một lần gặp gỡ, chờ đợi một kịch tính, Hosseini lại để mình lạc đi trong những mối quan hệ rối bời. Kể từ Người đua diều, Ngàn mặt trời rực rỡ đến Và rồi núi vọng, câu chuyện trở đi trở lại với Hosseini, là ở Kabul, cứ một dặm vuông có cả ngàn thảm kịch. Đọc Và rồi núi vọng để thấy, trong từng câu chữ, trong từng nỗi nhớ thương, trong từng hoài niệm, trong cả những nỗi đau đớn khôn nguôi là một giấc mơ Afghan thăm thẳm. *** Khaled Hosseini, là một tiểu thuyết gia và dược sĩ người Hoa Kỳ. Tên tuổi ông trở nên nổi tiếng nhờ hai cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình, Người đua diều (2003) và Ngàn mặt trời rực rỡ (2007) bán được 38 triệu bản trên toàn thế giới. Ngoài ra, Người đua diều đã được chuyển thể thành bộ phim cùng tên năm 2007. Năm 2003, Hosseini cho ra mắt cuốn tiểu thuyết đầu tay tên The Kite Runner (nghĩa là: Người đua diều). Cuốn sách là câu chuyện về cậu bé Amir vật lộn để có hàn gắn quan hệ với cha mình và vượt qua nỗi ám ảnh về một sự việc thời thơ ấu. Bối cảnh truyện đặt ở Afghanistan, từ lúc chính quyền Taliban rệu rã đến khi sụp đổ hoàn toàn, và khu vực vịnh San Francisco mà cụ thể là Fremont, California. Trong các chủ đề được nói tới, bao gồm căng thẳng sắc tộc giữa người Hazara và người Pashtun ở Afghanistan, và những trải nghiệm di cư của hai cha con Amir đến Mỹ. Theo thông tin của Nielsen Bookscan, Người đua diều xếp thứ ba trong số những cuốn sách bán chạy nhất tại Mỹ năm 2005. Phiên bản sách nói của cuốn sách được đọc bởi chính tác giả. Tháng 12 năm 2007, bộ phim cùng tên dựa trên cuốn tiểu thuyết được công chiếu. Hosseini có một vai nhỏ khúc gần cuối phim - một người lạ đứng ngoài nhìn Amir mua con diều để sau đó thả với Sohrab. Năm 2008, cuốn sách được chuyển ngữ tiếng Việt và được tái bản năm 2013 xuất bản bởi Nhã Nam và nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Tiểu thuyết thứ hai của ông A Thousand Spendid Suns (tạm dịch: Ngàn mặt trời rực rỡ) được phát hành vào năm 2007, cũng lấy bối cảnh tại Afghanistan. Truyện theo dõi sự giao thoa giữa hai số phận của hai người phụ nữ cách nhau một thế hệ, Mariam và Laila. Thời gian trong tiểu thuyết từ lúc Afghanistan chịu sự chiếm đóng của Xô Viết, đến những năm dưới ách Taliban và hậu Taliban. Nhà sản xuất Scott Rudin và hãng Columbia Pictures đã mua quyền chuyển thể cuốn sách thành phim. Năm 2010, tiểu thuyết được dịch sang tiếng Việt và xuất bản bởi Nhã Nam và nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Các tác phẩm được dịch, xuất bản tại Việt Nam: Người Đua Diều Ngàn Mặt Trời Rực Rỡ Và Rồi Núi Vọng ... Mời các bạn đón đọc Và Rồi Núi Vọng của tác giả Khaled Hosseini.