Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuyến Hỏa Xa Ngầm

Tuyến hỏa xa ngầm – một bí ẩn lớn trên đất Mỹ vào thời kỳ mà chế độ nô lệ hiện tồn, không chỉ bí ẩn với nhà cầm quyền, giới chủ nô, những tay trùm săn nô lệ mà ngay với chính người nô lệ. Không ai biết rốt cục có bao nhiêu ga, bao nhiêu trưởng ga, những chuyến tàu hoạt động thế nào v.v. cho đến lúc đặt chân lên một toa hành khách. Có thể ví tuyến hỏa xa ngầm như một dấu chấm hỏi khắc rất sâu trong giai đoạn rối ren đó của Hợp chúng quốc – quốc gia bị phân tách làm hai cực: các bang tự do và các bang có chế độ nô lệ. Cũng bởi lý do trên, không ai thống kê được chính xác mà chỉ ước đoán rằng từng có rất nhiều nô lệ đào thoát từ miền nam khắc nghiệt đến những vùng đất tự do nhờ tuyến hoả xa ngầm, như Cora – nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết, một nữ nô lệ tại đồn điền trồng bông ở Georgia. Dù là nhân vật chính, Cora xuất hiện lần đầu tiên không phải trong câu chuyện của chính cô mà trong câu chuyện của bà, của mẹ, Ajarry: người bà bị bắt cóc khỏi quê nhà châu Phi sang Mỹ; Mabel: người mẹ trở thành “huyền thoại” khi được cho là bỏ trốn thành công. Cora tồn tại không như một thân phận đơn lẻ, thân phận cô hoà vào biển-người-đen phải hiến thứ “dầu” đặc biệt cho ngành công nghiệp bông sợi, cho hệ thống xiềng xích mới: mồ hôi và máu. “Truyền thống” của gia đình Cora, hay của biết bao gia đình người Phi khác, là lao động quần quật, đổ máu trên những đồng bông bạt ngàn, chưa kể bị lạm dụng, bị làm nhục, câu chuyện thường ngày đến độ sẽ thật khó dung thứ nếu họ khóc than hay trở nên phẫn nộ. Thứ “truyền thống” đó trở thành duy nhất và tuyệt đối với những nô lệ như Ajarry: chịu phận ở đồn điền, bằng lòng “an cư” bên mảnh vườn vỏn vẹn ba thước vuông tại đó; nhưng cũng bị thách thức quyết liệt bởi chính những nô lệ như Mabel: nhất mực chạy trốn bất chấp hình phạt, bất chấp việc bỏ lại miếng đất “mẹ truyền con nối”, thậm chí bỏ lại đứa con gái bé thơ. Tới lượt mình, Cora cũng hun đúc một kế hoạch riêng, dẫu nó không ngừng làm cô buốt nhói khi chỉ càng chứng minh cho sự thật: cô là con gái của mẹ cô! Hành trình xuyên qua 5 bang: Georgia-Nam Carolina-Bắc Carolina-Tennessee -Indiana, và còn tiếp tục không hồi kết dưới đường hầm “ma” mà Royal tiết lộ cho Cora hay, quả là cuộc rượt đuổi gay go giữa chế độ nô lệ, với một đại diện cốt cán, đầy tham vọng là Ridgeway, và kẻ tử thù của nó – Cora. Ta có thể hình dung một cuộc chiến nảy lửa của cả hai, vì lẽ sinh tồn chẳng những đặt ở thể xác mà còn nằm trong tinh thần. Xích xiềng không chỉ đòi cô mà đòi cả những bạn bè nô lệ của cô, cả những người có lương tri dám bao bọc, giúp đỡ cô, trả giá – chỉ bằng cách ấy, xích xiềng mới chặt. Song Cora luôn là một đối thủ đáng gờm, cô chưa từng thôi chống trả, dù tuyệt vọng và yếu thế, bởi nếu không làm vậy bao giờ người nô lệ mới được tự do. Trong cuốn tiểu thuyết, có một câu nói trở đi trở lại: “Hãy nhìn ra ngoài trong khi tàu đưa các bạn đi, các bạn sẽ thấy khuôn mặt thật của nước Mỹ”. Dường như quốc gia đó vẫn luôn tồn tại trên nền tảng mâu thuẫn, nghịch lý: những con người đến đây vì tự do lại tước đi tự do của người khác. Colson Whitehead đã vẽ khuôn mặt nước Mỹ bằng màu sắc đối lập: đen rồi trắng, trắng rồi đen, luôn luân chuyển, luôn đảo chiều – có những bàn tay da đen sẵn sàng đàn áp các anh chị em của mình không thua gì những bàn tay da trắng, và lại có những bàn tay da trắng sẵn sàng chìa ra cứu giúp những nô lệ khốn cùng. Bằng cây bút giàu cảm xúc nhưng không bị định kiến ảnh hưởng, có lúc còn khá hóm hỉnh trước nghịch cảnh, Colson Whitehead rất chân thành đưa độc giả tới với hình ảnh nước Mỹ trong quá khứ, nhưng đó là điều khó dứt bỏ khỏi hiện tại này. *** “Hãy nhìn ra ngoài trong khi tàu đưa các bạn đi, các bạn sẽ thấy khuôn mặt thật của nước Mỹ”. Đó là lời nhắn gửi những hành khách - những nô lệ da đen trốn thoát khỏi các đồn điền - trước khi lên một chuyến tàu bí mật của tuyến hỏa xa ngầm, một công trình có thật trong lịch sử Mỹ thời chiếm hữu nô lệ còn tồn tại. Không ai xây khi nào, có những ga nào, ai tham gia con đường bí mật đó. Những câu hỏi về tuyến hỏa xa ngầm đó cũng không được giải đáp trong tác phẩm cùng tên được trao giải Pulitzer danh giá vào năm 2017. Vậy nhưng, sức hấp dẫn của “Tuyến hỏa xa ngầm” là ở chỗ chỉ từ câu chuyện của một cá nhân - cô bé Cora - mà đưa người đọc tìm về và hiểu được nhiều khía cạnh của nước Mỹ thời chiếm hữu nô lệ, cũng như con đường bí mật đưa những người nô lệ da màu đến tự do. “Tuyến hỏa xa ngầm” được giải Pulitzer nhờ hòa trộn tài tình chủ nghĩa hiện thực và phúng dụ, cũng như kết hợp được sự tàn bạo của chế độ sở hữu nô lệ và bi kịch trong sự đào thoát của những người nô lệ. Và đúng là như vậy. Quyển sách mô tả chân thực sự tàn khốc của những ngày tháng đọa đày, chịu kiếp nô lệ của Cora và những giờ phút lên kế hoạch chạy trốn, chờ đến giờ G để rồi tiếp tục hồi hộp khi đã chạy đủ xa, những lần lần trốn, trong rừng sâu, hay tầng áp mái, hay lên những chuyến tàu trên tuyến hỏa xa ngầm mà không biết ga dừng lại sẽ là đâu. Tất cả khiến người đọc có thể sốc vì sự tàn bạo của chế độ nô lệ và hồi hộp thay cho nhân vật chính Cora. “Tuyến hỏa xa ngầm” là một bài học lịch sử hay cho những thế hệ sau này, mà có lẽ chưa tìm hiểu hay hiểu tường tận về giai đoạn rối ren được chọn làm bối cảnh chính của câu chuyện: nước Mỹ bị phân tách làm hai cực: Các bang tự do và các bang có chế độ nô lệ. 3 thế hệ nhà Cora cũng là 3 giai đoạn trong lịch sử chiếm hữu nô lệ ở Mỹ và tất cả những ngục tù đối với người Phi châu: bị bắt cóc, mang đến Mỹ, sinh ra các thế hệ nối tiếp trong xiềng xích, cả cuộc đời không biết gì ngoài làm việc tại các đồn điền, cho nên ngày cũng như đêm luôn mơ đến tự do. “Khi chết người da đen trở thành con người, chỉ khi đó họ mới ngang bằng với người da trắng”. “Ngày hôm trước một đứa trẻ da đen còn hạnh phúc, thế nhưng ngày hôm sau ánh sáng đã biến mất khỏi cuộc sống của nó; giữa khoảng thời gian đó nó được giới thiệu với một thực tế mới - cảnh nô lệ”. Cora, sinh ra đã là nô lệ và có một cuộc đời đầy những chuỗi bất hạnh, nhưng không phải vì tính cách hay cách hành xử của cô, mà là vì “da cô màu đen và đây là cách thế giới đối xử với người da đen”. Cora biết rằng đời mình có thể kết thúc hoặc giống bà của em - người bị bắt cóc khỏi quê nhà châu Phi sang Mỹ và mãi mãi là nô lệ, hay mẹ em - một nô lệ trở thành “huyền thoại” khi được cho là bỏ trốn thành công. Cora tin mình cũng có thể được như mẹ; em đã chạy trốn, nhưng những cuộc chạy trốn liên hồi và cuộc đời không thể nào yên ả được lâu. Như những chuyến tàu có lúc ngoặt vào những lối quanh co rải rác trên hành trình, cuộc đời Cora là liên tiếp những khúc cua như thế, từ địa ngục trốn chạy được đến bình yên, rồi lại phải chạy tiếp vì nơi đó không hẳn như mình nghĩ và mong muốn. Dẫu được tuyến hỏa xa ngầm hỗ trợ, Cora và những người nô lệ có quá nhiều thứ để phải tránh: nhà cầm quyền, giới chủ nô, những tay trùm săn nô lệ, và cả những người từng là nô lệ đã được tự do, sợ cái tự do quý giá của mình vì người da đen nô lệ mà lại mất đi 1 lần nữa, đành phải phản lại chính anh em của mình. Tuyến hỏa xa ngầm nhiều lần nhắc lại thông điệp ‘bộ mặt của nước Mỹ’, và đó là một đất nước hóa ra đầy những điều tương phản. Tuyên ngôn độc lập được ký khi chế độ chiếm hữu nô lệ vẫn còn; trong xã hội có những người da trắng ủng hộ bãi nô đánh đổi an nguy của gia đình và bản thân để tham gia cứu giúp người da đen, nhưng cũng lại có người da đen sẵn sàng đàn áp các anh chị em của mình. *** Mâu thuẫn trong tuyên ngôn của Hoa Kỳ “Mọi người sinh ra đều bình đẳng, họ được tạo hoá ban cho một số quyền tất yếu bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc“, đó là một trong những nội dung được đưa ra trong bản tuyên ngôn độc lập của Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ. Ấy thế, chính trong đất nước  mà “mọi người sinh ra đều bình đẳng” ấy lại không có chỗ cho những người da đen. Họ không được xem là con người, chỉ có sự bình đẳng dành cho người da trắng. Để phản ánh về nỗi thống khổ của những người da màu và tội ác man rợ của những người “thượng đẳng” da trắng, nhiều tác phẩm thơ văn đã được viết lên, trong đó có Tuyến Hỏa Xa Ngầm. Với ngòi bút tinh tế, lôi cuốn, mạnh mẽ của mình, Colson Whitehead đã cho người đọc cảm nhận được tội ác của những người da trắng dưới chế độ chủ nô tàn ác. Colson Whitehead như một ngọn lửa thổi bùng lên sự căm phẫn đối với phân biệt chủng tộc tàn ác hà khắc của đất nước Mỹ. Những người da đen không được xem là con người họ là súc vật, là giống loài hạ đẳng, họ được Thượng đế  tạo ra để trở thành những công cụ biết nói của người da trắng. Tội ác và nỗi thống khổ Cuốn sách là những con chữ biết nói, Tuyến Hỏa Xa Ngầm đã nói lên cuộc sống của người da đen và tội ác man rợ của bọn chủ nô một cách rất chân thực, “những người đàn ông bị treo cổ trên cây”, “Những thân thể còn sống và  đã chết bị nướng trên giàn thiêu”. Chúng sẵn sàng hãm hiếp bất cứ người phụ nữ da đen nào, chúng chặt lìa tay,chân. Chúng thẳng tay sát hại mà không một chút do dự. Tuyến Hỏa Xa Ngầmkhông chỉ nói về hành trình trốn thoát mà nó còn bức tranh về thời kỳ nô lệ tàn ác. Đại diện cho chính quyền, chế độ chiếm hữu nô lệ, nạn phân  biệt chủng tộc trong câu chuyện là  tên địa chủ Terrance. Dưới góc nhìn của Colson Whitehead, Terrance hiện lên như một con quái vật với đôi mắt cú vọ, ánh mắt hắn như muốn ăn tươi nuốt sống những tên nô lệ, hắn hành hạ, đưa ra những hình phạt tàn nhẫn đối với những nô lệ bỏ trốn. Sự đấu tranh Qua ngòi bút tinh tế của Colson Whitehead đã vẽ lên như những nỗi đau khó tả của người da đen. Tác giả đã phải thốt lên rằng “Khi chết người da đen trở thành con người, chỉ khi đó họ mới ngang bằng với người da trắng”, “Ngày hôm trước một đứa trẻ da đen còn hạnh phúc, thế nhưng ngày hôm sau ánh sáng đã biến mất khỏi cuộc sống của nó; giữa khoảng thời gian đó nó được giới thiệu với một thực tế mới – cảnh nô lệ”, vốn dĩ từ khi sinh ra họ đã không nhận được sự công bằng, họ phải sống dưới sự đàn áp của người da trắng. Chính vì lẽ đó, ngọn lửa đấu tranh luôn luôn nhen nhóm trong tâm trí họ. Họ mạo hiểm bất chấp tính mạng chạy trốn để tìm cho mình sự tự do dù biết sẽ bị thiêu sống, bị đánh đập nhừ tử nếu bị bắt. Cora cũng vậy, gia đình cô là một gia đình nô lệ và có truyền thống trốn chạy, mẹ cô đã trở thành huyền thoại khi đã trốn thoát thành công.  Tuy vậy, nhưng hành trình đi tìm tự do ấy chưa bao giờ là yên bình đối với cora. Hành trình trốn thoát của cô trên chuyến tàu ấy có biết bao khúc cua, ngã rẽ, khiến chúng ta phải lặng thinh hồi hộp theo dõi. Với cách kể chuyện lôi cuốn tác giả không ít lần khiến ta  mỉm cười vì hạnh phúc rồi nụ cười đó lại vụt tắt đi trên môi khi sóng gió lại đến với cora. Những cảm xúc… Dẫu có những Tuyến Hỏa Xa Ngầm hay những người bãi nô giúp đỡ nhưng những nô lệ như cora và Caesar vẫn sẽ rơi vào tay của những tên “Terrance”,của những kẻ truy lùng nô lệ bỏ trốn. Dẫu họ có lên được con thuyền “tự do” thì con thuyền đó vẫn sẽ bị thủng và rồi họ lại lênh đênh giữa chế độ chiếm hữu nô lệ hà khắc của đất nước Mỹ. Cuộc đời của những người da đen là những chuỗi ngày đen tối nổi trôi, đau khổ. Không thể rời mắt khỏi câu chuyện, con tim cứ nhói lên từng hồi đó chính là cảm xúc của tôi khi  theo dõi câu chuyện, đây có lẽ là câu chuyện gây ấn tượng sâu sắc với tôi và nhiều người khác. Trong cuốn tiểu thuyết, có một câu nói trở đi trở lại: “Hãy nhìn ra ngoài trong khi tàu đưa các bạn đi, các bạn sẽ thấy khuôn mặt thật của nước Mỹ”. Phải chăng đó là sự mâu thuẫn đến nghịch lý: những con người đến đây vì tự do lại tước đi tự do của người khác.  Tuyến Hỏa Xa Ngầm được xây dựng rất nhiều nhân vật, cả một tuyến nhân vật dày đặc. Điều này có thể khiến bạn đọc khó nắm bắt, theo mạch của câu chuyện nếu chỉ đọc một lần. Mặc dù vậy, nhưng những câu chuyện về người da màu khi được miêu tả qua  những góc nhìn khác nhau của nhiều nhân vật thì được trở nên rõ ràng, sắc nét hơn. Điều này cũng là một điểm đặc biệt, dẫn dắt người đọc nhìn nhận tới nhiều khía cạnh, nhiều cảm xúc hơn để dễ dàng hiểu được tác phẩm trọn vẹn. Tuy nhiên đây vừa là điểm trừ, cũng vừa là điểm cộng. Xuyên suốt câu chuyện, có lẽ hình ảnh in sâu nhất trong tâm trí bạn đọc chính là những chuyến ga tàu, trưởng ga và cả những hành khách. Ở đó có những phương tiện chuyên chở giúp đỡ những người da màu trốn chạy đến những vùng đất tự do, chạy xa khỏi ách nô lệ. Chính vì thế Tuyến Hỏa Xa Ngầm là một hình ảnh hết sức nhân văn, mang tính biểu tượng lớn. Với cách kể chuyện hấp dẫn, cuốn hút của Colson Whitehead, ” Tuyến hỏa xa ngầm” đã ghi được dấu ấn đậm nét sâu sắc về lịch sử đẫm máu đối với người da đen, đồng thời cuốn sách cũng lên án chế độ chiếm hữu nô lệ và phân biệt chủng tộc man rợ. *** Review sách Tuyến Hoả Xa Ngầm   Binh Boog đã review       25 tháng 5, 2019 #Review #Tuyến_hoả_xa_ngầm Ai sinh ra cũng có quyền bình đẳng. Ấy thế mà họ sinh ra mang da màu thôi mà cớ sao lại trở thành nô lệ? Cora, cô gái thế hệ thứ 3 sinh ra làm nô lệ. Từ đời bà cô đã bị những người da trắng bắt cóc từ lục địa đen Châu Phi đem sang các cánh đồng ở Mỹ để làm nô lệ. Tới mẹ cô và cô cũng được sinh ra và lớn lên để làm nô lệ. Người da trắng tự cho mình cái quyền chiếm đất, đuổi người da đỏ da đỏ khỏi mảnh đất của họ để mở rộng những đồn điền, bắt những người da đen về làm nô lệ. Không thể tin nổi là những người da đen bị bắt làm nô lệ không khác gì loài vật. Họ bị bắt cóc từ quê hương của mình, bị bán như một món hàng. Bị đóng dấu sắt nung lên người không khác gì con bò, con lợn. Hàng ngày họ lao động cực nhọc trên các cánh đồng bông, cánh đồng mía, trong các đồn điền. Họ bị roi quất, đánh đập, treo cổ, cưỡng bức, giết chết bất cứ lúc nào. Cuộc sống của họ là một nỗi ám ảnh cho dù được tự do thì nó vẫn là nỗi sợ hãi trong giấc mơ hàng ngày. Mặc dù biết bỏ trốn nếu bị bắt lại bởi chủ nô, bọn tuần tra hay những kẻ săn nô lệ (mà những kẻ săn nô lệ là nỗi sợ hãi của nô lệ bỏ trốn bởi bọn chúng có thể tóm lại bất cứ nô lệ nào bỏ trốn dù họ có đi tới tận đâu. Chúng quyết tâm bắt lại bằng được những nô lệ bỏ trốn để kiếm khoản tiền thưởng và để cho nô lệ biết rằng họ không thể trốn thoát khỏi chủ nô, để dập tắt ý định bỏ trốn của họ. Mà nô lệ bỏ trốn bị bắt lại thì bị tra tấn khủng khiếp, chỉ còn con đường chết. Nhưng Cora vẫn quyết định bỏ trốn. Cora đã bỏ trốn khỏi chủ nô của mình. Trải qua hành trình tìm đến với tự do, được sự giúp đỡ của những người lái tàu trên tuyến hoả xa ngầm mà trên chuyến hoả xa đó họ nói với Cora rằng: “Hãy nhìn ra ngoài trong khi tàu đưa các bạn đi, các bạn sẽ thấy khuôn mặt thật của nước Mỹ”. Quả thật, không chỉ là những bi kịch của thân phận nô lệ mà Tuyến hoả xa ngầm còn là mâu thuẫn trong chính nước Mỹ. Có những người da trắng đã đứng lên đấu tranh cho phong trào giải phóng nô lệ. Họ kết hôn, sinh con với người da màu. Và chính họ đã làm nên những đường hầm bí mật, những tuyến hoả xa bí mật để giúp đỡ những người nô lệ bỏ trốn tới vùng đất mà họ được tự do. Mặc dù họ bị chính những người da trắng vì lợi ích của họ không muốn giải phóng nô lệ chèn ép hoặc bị giết nhưng chính họ đã khơi dậy ý chí đấu tranh đòi quyền tự do cho chính mình của người da màu. Con đường đấu tranh đòi tự do, chống phân biệt chủng tộc còn nhiều gian nan, hy sinh, cần nhiều thời gian để thay đổi nhưng những Tuyến hoả xa ngầm không biết điểm cuối ở đâu đã góp phần vào phong trào đó. Có lẽ vì chính mâu thuẫn về giải phóng nô lệ mà nước Mỹ đã xảy ra cuộc nội chiến. Tác phẩm Tuyến hoả xa ngầm được hai giải thưởng sách quan trọng tại Mỹ là giải sách quốc gia năm 2016 và giải Pulitzer năm 2017. Nhìn hình tác giả ở bìa sách cũng nghệ sĩ lắm: tóc dài tết lọn nhỏ kiểu người Châu Phi họ hay tết ý. Ngắn gọn lại là quyển này hay. Không phải tự dưng mà nó lại được 2 giải thưởng sách quan trọng đâu.   Mời các bạn đón đọc Tuyến Hỏa Xa Ngầm của tác giả Colson Whitehead & Nguyễn Bích Lan (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cô Gái Trong Cabin Số 10
“Agatha Christie gặp Cô gái trên tà Đáng sợ và bất an, đây là một cuốn sách khiến bạn phải hồi hộp” - Fabulous Magazine   Laura “Lo” Blacklock, từng là một nhà báo trẻ tuổi đầy tham vọng, nhưng giờ đã ngoài ba mươi, đầu óc phần nào rệu rã bởi thói nát rượu, mắc kẹt trong một công việc tầm thường tại một tạp chí du lịch. Cô may mắn được đi trên Aurora, một chiếc du thuyền hạng siêu sang, và cô những tưởng đấy sẽ là một cơ hội có một không hai giúp cô đổi đời và thăng tiến sự nghiệp nhờ việc được gặp gỡ những người có địa vị chót vót trong xã hội. Nhưng rốt cục thứ cô nhìn thấy lại là một phụ nữ bị ném xuống biển trong đêm tối. Và tất cả mọi người trên thuyền đều khẳng định rằng cô hoang tưởng, bởi người phụ nữ đó không hề tồn tại. Độc giả trinh thám sẽ nhận ra lối viết trinh thám của Ruth Ware chịu ảnh hưởng rất lớn từ Agatha Christie: những không gian kín chật chội và cô lập, nhân vật nữ bị cuốn vào một vụ án mạng bí ẩn, những tình tiết mô tả tâm lý hoảng loạn và sợ hãi một cách xuất sắc. Cô gái trong cabin số 10 chính là một tác phẩm nhuần nhuyễn đủ sức khơi dậy và khéo léo duy trì nỗi hồi hộp của người đọc qua hàng trăm trang sách. TÁC GIẢ: Ruth Ware (1977) bắt đầu sự nghiệp văn chương khá muộn. Trước khi trở thành nhà văn toàn thời gian, cô đã từng làm các công việc bồi bàn, bán sách và quảng cáo. Bắt đầu bằng các tác phẩm dành cho thiếu niên, nhưng cô chỉ thực sự thành công khi chuyển sang thể loại trinh thám ly kỳ, giật gân. Những tác phẩm trinh thám của Ruth Ware như Rừng sâu tăm tối và Cô gái trong cabin số 10 nhanh chóng trở thành Bestseller và nhận được sự yêu mến của độc giả. *** Ruth Ware/ Anh Thư dịch Sau 3 ngày nghiền ngẫm thì mình cũng lên được bờ cùng với Laura “Lo” Blacklock, nhân vật chính của chúng ta. Mình sẽ tập trung vào điểm mạnh và điểm yếu của cuốn sách và sẽ không spoil để tránh là các bạn mất hứng +Điểm mạnh: Trong cuốn sách này, Ruth Ware đưa người đọc ra ngoài biển khơi trên một chiếc du thuyền hạng sang, có thể nói đây là trinh thám trong phòng kín khi xuyên suốt từ đầu câu chuyện nhân vật chính luôn luôn ở trong tình trạng 1 mình trong 1 căn phòng nhỏ hẹp với tâm lý bất ổn đến đáng sợ,và 1 vụ án mạng đầy uẩn khúc và khó khăn hơn khi không một ai tin lời cô nói. Tình tiết xây dựng chặt chẽ, tâm lý nội tâm được miêu tả khá rõ nên đôi chỗ mình phải đặt bản thân mình vào đó mới cảm nhận được dù đôi chỗ hơi dài dòng. Các nhân vật xuất hiện hợp lý, và mỗi lần xuất hiện đều liên quan chặt chẽ đến mạch truyện Nhân vật chính được xây dựng tốt, trong hoàn cảnh nguy hiểm nhưng luôn luôn đặt niềm tin vào bản thân, quyết đoán và mạnh mẽ đến giây phút cuối cùng +Điểm trừ: Như đã nói ở trên thì càng về cuối thì lời kể bị dài dòng, tác giả lạm dụng miêu tả cảm xúc quá đến mức cảm thấy hơi oải khi đọc tiếp Có 1 2 chỗ sai chính tả :< (có lẽ là lỗi đánh máy) Mình mong chờ 1 sự bùng nổ về cuối nhưng có chút gì đó hơi hụt hẫng, plot twist tạm ổn chứ ko đến nỗi xuất sắc P/s: Sau hôm nay, chắc chắn 1 điều mình sẽ bước sang Rừng Sâu Tăm Tối khi đã đọc các reviews từ goodread của tác phẩm. Còn về Cô Gái Trong Cabin Số 10, rất thích hợp cho fan trinh thám, đặc biệt là các bạn theo ngành tâm lý học, và với thời tiết nóng nực và tình hình dịch căng thẳng như hiện nay thì cuốn sách này sẽ là sự lựa chọn hoàn hảo nha các bạn Sr vì mình ko giỏi chụp choẹt lắm Hoang *** Trong giấc mơ, cô gái ấy đang bồng bềnh sâu, sâu mãi bên dưới những con sóng ầm ầm và tiếng rít của đám mòng biển, trong làn nước lạnh giá không ánh mặt trời của Bắc Hải. Tôi mơ thấy đôi mắt biết cười trắng dã và húp lên vì nước muối, thấy làn da trắng nhợt nhăn nheo, quần áo bị đá lởm chởm làm cho rách nát và đang tan dần thành từng mảnh vụn. Chỉ có mái tóc đen dài là còn lại, bồng bềnh trong nước như lá tảo biển đen, mắc vào vỏ trai vỏ sò và lưới đánh cá, bị sóng cuốn lên bờ biển thành nùi tựa dây thừng xác xơ; nằm rũ rượi ở nơi đó, tiếng ầm ầm của sóng xô bờ dội vào bãi sỏi lấp kín tai tôi. Tôi tỉnh dậy khiếp đảm ghê gớm. Mất một lúc tôi mới nhớ ra mình đang ở đâu, và phải một lúc lâu hơn mới nhận ra tiếng ầm ầm trong tai không phải là từ giấc mơ, mà là của hiện thực. Căn phòng tối om, với cùng một thứ sương mù ẩm ướt tôi cảm thấy trong mơ, và khi ngồi dậy, tôi nhận ra một luồng gió mát thổi lên má. Nghe như tiếng động phát ra từ phòng tắm. Tôi trèo xuống giường, hơi run rẩy. Cánh cửa đóng, nhưng khi bước tới chỗ nó, tôi nghe thấy tiếng rền vang lớn hơn, cùng tiếng tim tôi dập mạnh dần. Dồn hết can đảm vào hai bàn tay, tôi đẩy mở cánh cửa. Tiếng vòi sen lấp đầy căn phòng nhỏ khi tôi lần sờ tìm công tắc. Ánh sáng tràn khắp nhà tắm - và đó là lúc tôi nhìn thấy nó. Được viết ngang tấm gương phủ kín hơi nước, với những con chữ cao đến mười hai phân, là dòng chữ “ĐỪNG XÍA VÀO”. *** Lần đầu tiên tôi mơ hồ nhận ra có gì đó không ổn là khi tỉnh dậy trong bóng tối và nhận ra con mèo đang vỗ nhẹ vào mặt mình. Chắc là tôi đã quên đóng cửa nhà bếp tối qua. Thôi thì cũng đáng cái tội say xỉn về nhà. “Ra chỗ khác đi,” tôi rên rẩm. Delilah kêu meo meo và dụi đầu phản đối. Tôi cố vùi mặt vào gối nhưng nó cứ cạ vào tai tôi, thế là cuối cùng tôi trở mình và nhẫn tâm đẩy nó ra khỏi giường. Nó rơi thịch xuống sàn với một tiếng “méo” đầy bực bội, còn tôi thì kéo chăn lông vịt quá đầu. Nhưng ngay cả khi trùm kín chăn tôi vẫn có thể nghe thấy nó cào vào chân cửa khiến cửa kêu lạch cạch. Cửa đóng. Tôi ngồi dậy, tim đột nhiên đập thình thịch, còn Delilah nhảy lên giường với một tiếng ư ử hân hoan. Tôi siết nó vào ngực, không cho nó ngọ nguậy nữa, rồi lắng tai nghe. Hẳn là tôi đã quên đóng cửa nhà bếp, mà cũng có thể tôi chỉ đẩy cửa thôi chứ chưa đóng hẳn vào. Nhưng cửa phòng ngủ của tôi lại mở hướng ra ngoài - căn hộ của tôi thiết kế quái gở vậy đấy. Con mèo không thể tự đóng cửa khi ở trong phòng. Chắc chắn một ai đóđã đóng cửa. Tôi ngồi bất động, áp cơ thể ấm áp hổn hển của Delilah vào ngực mình và cố lắng tai nghe. Không có gì hết. Và rồi, với một cảm giác nhẹ nhõm, tôi nhận ra - hẳn là nó đã trốn dưới gầm giường rồi tôi đóng cửa phòng và vô tình nhốt nó lại khi về nhà. Dù không nhớ là mình đã đóng cửa, nhưng hẳn tôi đã vô thức làm vậy sau khi vào phòng. Phải thú thật là những gì xảy ra từ lúc ở ga Tube đều khá mờ nhạt trong ký ức tôi. Cơn đau đầu mon men xuất hiện trên đường về nhà, và giờ khi cơn hoảng loạn lui dần, tôi lại cảm thấy cơn đau ấy dâng lên dần dưới gáy. Tôi thực sự cần bỏ thói nhậu nhẹt giữa tuần thôi. Hồi đôi mươi thì chuyện đó chẳng vấn đề gì, nhưng giờ những cơn váng vất không còn chóng dứt như trước nữa. Delilah bắt đầu uốn éo bứt rứt, nghiến móng lên cẳng tay tôi, và tôi thả nó ra khi với tay lấy váy ngủ mặc lên người. Rồi tôi bế con mèo lên và sẵn sàng lẳng nó ra bếp. Khi tôi mở cửa phòng ngủ, có một người đàn ông đang đứng đó. Hỏi hắn ta trông thế nào cũng chẳng để làm gì, bởi tin tôi đi, tôi đã nói đi nói lại chuyện đó chừng hai mươi lăm lần với cảnh sát rồi. “Thậm chí quanh cổ tay hắn không hở ra tí da nào à?” - họ tra hỏi. Không, không, không và không. Hắn ta mặc áo nỉ có mũ, một cái khăn rằn quấn quanh mũi và miệng, phần còn lại đều chìm trong bóng tối. Ngoại trừ đôi tay. Hắn đeo găng tay cao su. Chính điều này khiến tôi sợ phát khiếp. Đôi găng đó nói, tao biết mình đang làm gì. Chúng nói, tao đã chuẩn bị trước khi đến đây. Chúng nói, có thể tao cần nhiều thứ hơn là tiền của mày. Chúng tôi đứng đó chừng một giây dài lê thê, mặt đối mặt, đôi mắt lóe sáng của hắn dán chặt vào mắt tôi. Hàng nghìn ý nghĩ rần rật trong tâm trí tôi: Điện thoại của tôi ở chỗ quái nào rồi? Tại sao tối qua tôi lại uống nhiều vậy? Nếu tỉnh táo thì hẳn tôi đã nghe tiếng hắn đột nhập. Ôi Chúa ơi, ước gì Judah ở đây. Và trên hết - đôi găng tay đó. Ôi Chúa ơi, đôi găng tay đó. Chúng trông thật chuyên nghiệp. Thật lạnh lùng. Tôi không nói. Tôi không nhúc nhích. Tôi chỉ đứng đó, chiếc váy ngủ rũ xuống và người run bần bật. Delilah vặn mình thoát khỏi đôi tay mềm oặt của tôi và chạy vọt qua hành lang để vào bếp. Làm ơn, tôi nghĩ. Làm ơn đừng hại tôi. Lạy Chúa, điện thoại của tôi đâu rồi? Rồi tôi thấy thứ gì đó trên tay gã đàn ông. Cái túi xách của tôi - cái túi xách Burberry mới của tôi, mặc dù giờ thì quan trọng gì nhãn hiệu nữa. Tôi chỉ còn nghĩ được một thứ duy nhất về cái túi xách đó. Điện thoại của tôi đang ở bên trong. Đôi mắt hắn nhíu lại theo một lối khiến tôi nghĩ có thể nào hắn đang cười bên dưới lớp khản quấn, và tôi cảm thấy máu trong người rút hết khỏi đầu và những ngón tay rồi dồn cả về trung tâm thân thể, sẵn sàng cho những gì sắp xảy đến, dù là chiến đấu hay bỏ chạy. Hắn ta tiến lên một bước. “Đừng...” tôi nói. Tôi muốn lời đó nghe như một mệnh lệnh, nhưng nó vang lên như một lời van xin, giọng tôi nhỏ, lí nhí và run rẩy thảm hại vì sợ hãi, “Đ...” Tôi còn chẳng nói hết được từ ấy. Hắn sập cánh cửa phòng ngủ đánh sầm, khiến nó đập vào má tôi. Suốt một lúc lâu tôi đứng đờ ra đấy, tay ôm mặt, hoảng loạn và đau đớn đến không nói lên lời. Những ngón tay lạnh buốt, nhưng có gì đó ấm và hơi ướt trên mặt tôi, và mất một lúc tôi mới nhận ra đấy là máu: đường gờ trên cửa đã cắt vào má tôi. Tôi muốn quay trở lại giường, vùi đầu dưới gối rồi khóc thật lâu. Nhưng một giọng nhỏ ngớ ngẩn trong đầu tôi cứ nói, Hắn vẫn ở ngoài đó. Nếu hắn quay lại thì sao? Nếu hắn quay lại tìm mày thì sao? Có tiếng động từ hành lang bên ngoài, có gì đó rơi xuống, và tôi cảm thấy một cơn sợ hãi đáng lẽ phải khiến tôi kích động nhưng thay vào đó lại làm tôi tê liệt. Đừng quay lại. Đừng quay lại. Tôi nhận ra mình đang nín thở, thế là tôi bắt mình thở ra một hơi dài và rùng mình, rồi tôi chầm chậm giơ tay về phía nắm cửa. Một tiếng động nữa vang lên ngoài hành lang - tiếng kính vỡ - khiến tôi xông tới chộp lấy nắm cửa rồi gồng mình, những ngón chân trần nhấn mạnh xuống sàn nhà cũ lỗ chỗ khe hở, sẵn sàng giữ chặt cửa càng lâu càng tốt. Tôi cúi xuống, khom mình, đầu gối chạm ngực, cố bịt những tiếng thổn thức bằng váy ngủ, lắng tai nghe tiếng hắn lục soát căn hộ, đồng thời cầu Chúa là Delilah đã chạy ra vườn, xa khỏi tầm với của hiểm nguy. Cuối cùng, sau một lúc lâu thật lâu, tôi nghe thấy tiếng cửa trước mở ra và đóng lại. Tôi ngồi đó, gục vào đầu gối khóc, không thể tin nổi hắn đã thực sự bỏ đi. Rằng hắn sẽ không quay lại để hại tôi. Đôi tay tôi tê dại và cứng đờ đau đớn, nhưng vẫn không dám bỏ tay nắm cửa ra. Tôi lại mường tượng thấy hai cánh tay lực lưỡng đeo găng tay cao su trắng. Tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Hẳn là tôi sẽ ngồi đó hết đêm mà không dám nhúc nhích. Nhưng tôi nghe tiếng Delilah ở bên ngoài, kêu meo meo và cào vào mặt bên kia cánh cửa. “Delilah,” tôi kêu lên, giọng khàn khàn. Giọng nói run rẩy đến mức tôi cũng không nhận ra nữa. “Ôi, Delilah.” Qua cánh cửa, tôi nghe thấy nó rên rừ rừ, cái tiếng khò khè cò cử quen thuộc, và như thể một bùa phép yểm lên tôi đã bị phá bỏ. Tôi để những ngón tay bị chuột rút cứng đờ buông nắm cửa ra, đau đớn nắm duỗi chúng cho hết cơn co rút, rồi đứng dậy, cố gắng giữ vững đôi chân đang run lên bần bật, rồi vặn tay nắm. Nó xoay. Mà thực ra nó xoay quá dễ dàng, nhẹ tênh trong tay tôi, và then cửa không nhúc nhích lấy một phân. Hắn ta đã tháo khóa từ phía bên kia. Mẹ kiếp. Mẹ kiếp, mẹ kiếp, mẹ kiếp. Tôi bị nhốt rồi. Mời các bạn đón đọc Cô Gái Trong Cabin Số 10 của tác giả Ruth Ware & Anh Thư (dịch).
Người Da Đen Của Piốt Đại Đế - Alexander Pushkin
A. X. Puskin bắt đầu viết tác phẩm Người Da Đen Của Piốt Đại Đế này ngày 31 tháng Bảy năm 1827, dự định sẽ dựng nên một tác phẩm lớn. Ông thực hiện công việc suốt những năm 1827 –1828, nhưng sau năm 1828 chúng ta không tìm thấy dấu hiệu gì chứng tỏ tác giả còn tiếp tục công việc đó nữa. Cơ sở cốt truyện Puskin lấy từ tiểu sử của một trong các ông tổ đằng mẹ của mình Abram Pêtơrôvích Ganiban (trong truyện là Ibraghim), dòng dõi ởAbixinia (nay là Êtiôpia), từ nhỏ đã ở với Piốt I, được Piốt nhận làm con nuôi và cử đi Pari để học thành kỹ sư quân sự. Người ta không biết rõ lai lịch chính xác của anh Ả Rập và các hoàn cảnh đẩy anh đến với Piốt I. Trong bản tiểu sử viết tay bằng tiếng Đức của Ganiban còn giữ trong lưu trữ gia đình, sự thực lịch sử không phải bao giờ cũng được giữ đúng và nhiều sự việc trong cuộc đời ông mang tính chất rõ ràng là truyền thuyết. Tuy nhiên nhiều điều trong cuộc đời của Ibraghim miêu tả trong truyện thực ra là do Puskin sáng tác ra (chẳng hạn câu chuyện tình duyên với bá tước phu nhân). Tác phẩm này không hoàn thành và mới được Puskin công bố một phần: trích đoạn chương bốn in trong tùng thư "Những bông hoa phượng bắc” năm 1829 và trích đoạn chương ba in trong “Báo văn học” vào năm 1930, số 13. Cả hai trích đoạn chung tên "Hai chương trích tiểu thuyết lịch sử” được đưa vào tập "Các truyện do Alếchxanđrơ Puskin xuất bản" (1834). Tất cả sáu chương tiểu thuyết mà Puskin đã viết xong hoàn toàn (trừ chương bảy, vừa mới bắt đầu), lần đầu tiên xuất hiện sau khi Puskin qua đời trong tạp chí “Người đương thời", (t. VI, 1837) dưới nhan đề “Người da đen của Piốt Đại đế” do ban biên tập đặt ra. Các đề từ Puskin chuẩn bị cho tiểu thuyết này còn chưa phân bố cho các chương (trừ đề từ cho chương VI), sau này các nhà biên tập đã áng chừng mà sắp xếp. 1 Đề từ cho toàn bộ tiểu thuyết, trích từ truyện dài bằng thơ "Ala" của nhà thơ Nga Nhikôlai Iadưkốp (1803-1846). – 8. 2 Đề từ cho chương I trích ở bài thơ bông đùa “Chuyến du lịch của N.N. đến Pari và Luân Đôn” (1803) của nhà thơ Nga Ivan Ivanôvích Đmitơriép (1760-1837). – 8 3 Ibraghim – Abram Pêtơrôvích Ganiban tằng tổ phụ về đằng mẹ của nhà thơ (1697/98 – 1781). Con trai một công tước xứ Abixinia, được đưa từ Cônxtantinôpôn về Pêterburg. Cônxtantinôpôn là nơi Ibraghim bị giữ làm con tin trong cuộc chiến tranh với quân Thổ. Nhận thấy chú bé có những khả năng xuất chúng, Piốt I đã đích thân dạy chú học tiếng Nga và toán học. Năm 1717 Ibraghim đi du học ở nước ngoài 5 năm. Trước khi Piốt I chết (1725) Ibraghim phục vụ trong trung đoàn Prêôbragienxki, phụ trách phòng đồ án và thiết kế của nhà vua, dạy cho thanh thiếu niên quý tộc học toán và kỹ thuật. *** Aleksandre Sergeyevich Pushkin (tiếng Nga: Алекса́ндр Серге́евич Пу́шкин; 1799 - 1837) là đại thi hào, nhà văn, nhà viết kịch nước Nga. Ông đã có những đóng góp to lớn trong việc phát triển ngôn ngữ văn học Nga hiện đại. Ông mất khi mới 37 tuổi nhưng đã để lại nhiều kiệt tác như "Evegny Onegin", "Người con gái viên đại úy", "Con đầm bích", "Boris Godunov"... Ông được coi là biểu tượng của dòng văn học lãng mạn va tả thực nước Nga thế kỷ 19. Alêchxandrơ Tvarđôpxki viết về ông như sau: " Qua đời vào giữa lúc sức sống và sức sáng tạo đang độ phát triển dồi dào nhất, Puskin, đối với học trò và những người kế tục sau ông – những bậc kiệt xuất của nền văn học Nga vĩ đại do ông đặt nền móng, kể cả chính Lép Tônxtôi, – đối với tất cả, dù họ có sống lâu hơn ông bao nhiêu năm tháng đi nữa, ông vẫn mãi mãi là người anh cả thông minh nhất...  Di sản của Puskin khó mà khảo cứu hết được – đó không phải là một đỉnh núi đơn độc, dù rất hùng vĩ, mà là cả một dãy núi oai nghiêm, với những đỉnh, những nhánh trùng trùng điệp điệp. " Mời các bạn đón đọc Người Da Đen Của Piốt Đại Đế của tác giả Alexander Pushkin.
Khi Vết Thương Nằm Xuống - Nguyễn Văn Học
Khi vết thương nằm xuống- nỗi cô đơn khủng khiếp Nỗi cô đơn ở thời nào cũng đáng sợ, như một thứ bệnh khủng khiếp nhất. Cuốn tiểu thuyết mới nhất của Nguyễn Văn Học đã đề cập đến nỗi cô đơn vô hạn của những con người phải chống chọi với số phận nghiệt ngã. Toàn bộ cuốn sách 264 trang tràn ngập nỗi cô đơn và cách con người gồng mình để thoát khỏi điều đó. Tiểu thuyết Khi vết thương nằm xuống   (NXB Văn Học) là tác phẩm viết về giới trẻ của nhà văn Nguyễn Văn Học. Khi vết thương nằm xuống với sức hấp dẫn, cuốn hút đặc biệt nhờ phần ngôn ngữ gọn, sắc lạnh. Thông qua cuộc đời nhiều khổ đau và khát vọng của nhân vật Kiêu, tác giả muốn đề cập tới thực trạng của nền giáo dục gia đình và xã hội đối với việc hình thành nhân cách con người. Trong một xã hội mà ý thức con người còn nhiều lạc hậu, thực dụng, nhiều kỳ thị, ít sự cảm thông… thì cái tốt xấu đan xen, dẫn tới nhiều bạo lực, hận thù, cạm bẫy, làm mất niềm tin ở thế hệ trẻ. Cậu bé Kiêu, con của một chiến sĩ công an hy sinh vì nhiệm vụ, đã từng có một gia đình hạnh phúc. Cậu bé từng có một tuổi thơ với những kỷ niệm về mối tình đầu, tình bạn, tình cảm gia đình thân thương lưu luyến. Sau khi người bố mất vì bọn tội phạm, oái oăm thay cậu lại lìa xa ước mơ, khát vọng học hành để sa ngã vào con đường trộm cắp. Kiêu may mắn được bà Hát, một họa sĩ, giảng viên đại học phúc hậu, yêu cái đẹp, khao khát tình yêu và hạnh phúc cứu vớt và thắp sáng ước mơ. Cậu được trở về với tình cảm gia đình đùm bọc, thương yêu, chia sẻ. Trong xã hội nhất thời bị xáo trộn bởi đồng tiền, chỉ cần một chút tình người cũng làm ta hạnh phúc. Khi gặp khó khăn có một bàn tay đưa ra đầy nhân ái cảm thông cũng làm ta rùng mình rơi lệ. Đó là bước ngoặt tốt đẹp sẽ thay đổi hoàn toàn cuộc đời Kiêu. Cuốn tiểu thuyết nhiều ngôn từ giằng xé Nguyễn Văn Học có những trang văn miêu tả dữ dội và trực diện về tâm lý con người và cái ác, bộc lộ những dự cảm chân thực về xã hội, cố gắng chạm sâu vào nỗi đau con người, đó đây lóe lên những phát hiện mới về tâm lý. Tác giả thể hiện nỗi buồn hoang hoải của con người, những vết thương tâm hồn bị khoét sâu cũng được đẩy đến tận cùng tâm can, tới đáy sâu nhất của tâm hồn mỗi người. Nhưng đằng sau những dòng văn thản nhiên ấy, vẫn ẩn chứa một tấm lòng nhân hậu và con mắt đau đáu của người viết dõi theo số phận con người, chia sẻ và đồng hành cùng họ. Dù cuộc sống được mô tả trong tiểu thuyết có khốc liệt đến mấy, thì những trang văn của Nguyễn Văn Học cũng rất chân thật, thấm đẫm tình yêu thương con người. Việc thiết yếu cần làm là chữa lành vết thương cho tâm hồn con người. Phải xoa dịu để những vết thương ấy “nằm xuống”, ngủ yên, cho con người dũng cảm đi lên với cuộc đời mới. Tác phẩm Khi vết thương nằm xuống đã mở ra niềm hy vọng: Dù cuộc đời gập ghềnh, gian khổ, nhưng luôn vẫn còn những con đường tốt lành cho mỗi người... Tiểu thuyết “khi vết thương nằm xuống” thêm nhiều hy vọng vào giữa cuộc đời còn nhiều giông tố. Nguyễn Văn Học: Tên vận vào đời Cuộc đời Nguyễn Văn Học trải qua nhiều khốn khó. Những trở ngại của đời thường là nguồn dinh dưỡng tốt nuôi tâm hồn người, nếu người có đời sống nội tâm và hướng thiện để cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị. Trân trọng giới thiệu! *** Năm năm trôi qua, biết bao nhiêu đám mây đen trắng đã trôi qua bầu trời. Những trận mưa gió đã trút xuống dân gian, không ai cầm bút mà ghi nó lại. Không ai có thời gian, tâm trạng nào làm điều đó, điều vô nghĩa, xoàng xĩnh, chẳng ra tiền. Một người viết là tôi đã cầm bút ghi lại tất cả những trận mưa to nhỏ mình gặp, chỉ để làm một nhật ký trong đời, chỉ để xem từ giai đoạn đó trở đi, cứ đánh dấu từ sau giấc mơ Kiêu chắc chắn mẹ mình chết, tôi chứng kiến bao nhiêu cơn mưa. Kiêu đã là một chiến sĩ, oai phong dũng cảm. Thời gian cho tôi là một gã đàn ông, thời gian cho tôi là chồng Hoằng. Chúng tôi tìm thấy điểm chung ở nhau, làm đám cưới. Tôi vẫn tự hào đó là một người bạn chân tình, một người vợ đảm đang, và nàng còn giống như một người mẹ của tôi nữa. Điều đó chẳng có gì phải xấu hổ, tôi tự hào vì điều đó, vì tình yêu của nàng đối với tôi, vì sự săn sóc của nàng đối với một người viết văn, chuyên vác cái "máy quay" nhãn quan của mình đi quan sát thiên hạ, những lát cắt cuộc sống để vẽ thành truyện ngắn hoặc tiểu thuyết. Tôi hạnh phúc vì tình yêu, vui vì tình yêu và tự hào vì tình yêu. Không có sự khiên cưỡng nào, không có chút rắc rối gì ở giữa tôi, Kiêu và Hoằng. Bởi vì tôi tin, Hoằng và Kiêu đã nghĩ đến những điều lớn lao hơn là ôn lại chuyện chẳng vui gì trong quá khứ. Chúng tôi nhìn đến ngày mai để sống. Ngần ấy thời gian đã trôi qua, ngần ấy thời gian không dập tắt được sự thèm khát của bà Hát, mẹ nuôi Kiêu. Những năm tháng đó, đã trôi đi như những đám mây trên trời và chỉ khắc lại trong lòng bà Hát sự thèm khát, thứ tình yêu nguyên thủy đối với cậu con trai. Đêm dài là kẻ thù của kẻ không được thỏa mãn, đêm dài liên tiếp kéo nhau đi mãi. Bà không muốn làm tổn thương con một lần nữa. Sự chịu đựng mỗi ngày dày thêm, mưng mủ, âm thầm thiêu đốt. Kiêu chưa yêu thêm được một người nào khác, ẩn ức sôi trào trong cậu. Cuộc sôi trào to lớn nhất đã đánh bại tất cả những kìm nén, rào cản, khiến cậu ngã nhào, không còn chống đỡ nổi một đòn. Cậu không cựa quậy, đầu hàng trước cơn sóng trào của bà Hát đổ bộ lên mình, hai con người lúc đó, không hiểu đã tìm đâu ra cảm xúc, để cùng lúc ầm ào giật lên, thét gào. Sau đó là một sự hụt hẫng, ân hận của Kiêu. Cậu thấy mình đã sai, hoàn toàn, luôn miệng rủa “Tôi là kẻ khốn nạn”, rồi đấm thùm thụp vào ngực. ... Mời các bạn đón đọc Khi Vết Thương Nằm Xuống của tác giả Nguyễn Văn Học.
Đêm Hồng Hoang - René Barjavel
Khi đoàn thám hiểm Pháp ở Nam cực thông báo về dấu tích của một nền văn minh 900,000 năm, các nhà khoa học trên khắp thế giới họp nhau lại cùng khám phá và hướng dẫn đoàn. Toàn bộ hành tinh nhìn qua truyền hình vệ tinh toàn cầu, hiện ra thật đẹp đẽ, rồi các nhà thám hiểm phát hiện ra một căn phòng có một người đàn ông và phụ nữ đang trong tình trạng thực vật. Người phụ nữ Éléa tỉnh giấc và thông qua chiếc máy phiên dịch cô kể về thế giới của mình, về mình và về Païkan chồng cô, và rằng chiến tranh đã hủy hoại nền văn minh của họ như thế nào. Cô cũng cho hay mình và đồng sự đang trong tình trạng thực vật có nguồn kiến thức vô cùng tiên tiến (không phải Païkan, mà là khoa học gia Coban cô không ưa chút nào), nguồn kiến thức đem đến năng lượng và thức phẩm cho toàn nhân loại không phải trả tiền mua. Tuy nhiên, các siêu cường quốc chưa sẵn sàng công bố bí mật của Éléa, tác phẩm cho thấy 900,000 năm và ngày tận thế sau đó, nhân loại vẫn chưa trưởng thành và đang sắp sửa phạm phải sai lầm một lần nữa. *** Tới thời điểm này thì "Đêm hồng hoang" vẫn là cuốn sách hay nhất tôi đọc năm 2019. Một tác phẩm mang tính thời đại không chỉ hấp dẫn tuyệt đối mà còn mang đến bao cảm xúc, khiến trái tim tôi rung động sâu sắc. Câu chuyện kể về một đoàn thám hiểm đã khai quật được hai con người đóng băng từ 900.000 năm trước. Bằng mọi biện pháp khoa học họ đã làm sống dậy người phụ nữ cổ đại, để nghe cô kể về một nền văn minh xa xưa đã sụp đổ thế nào. Tác phẩm mang giả tưởng về thời quá khứ song lại dự cảm về tương lai, cảnh báo loài người trước họa diệt vong do chính mình gây nên. Bởi chiến tranh, bởi lòng tham, sự ngu dốt và ích kỷ. Tác giả đã phê phán, đã lên án những điều đó một cách mạnh mẽ, ông mở ra cho chúng ta cái nhìn sống động, dữ dội, tràn đầy đau xót để chúng ta hiểu được và trân trọng cuộc sống mình đang có. Câu chuyện viễn tưởng còn đan xen chút lãng mạn, một tình yêu thật đẹp, đi qua tận cùng thế giới và vượt qua thời gian đằng đẵng. Đi qua những bi kịch của một thời đại, ám ảnh và buồn thương biết mấy. Đặc biệt là cao trào cuối cùng, không thể không khiến người đọc lặng đi. Tôi đánh giá cao tác phẩm có lẽ vì yêu thích chủ đề về nhân loại, tương lai Trái đất, tận thế, hậu tận thế, thích những yếu tố sáng tạo, giàu trí tưởng tượng... song "Đêm hồng hoang" thuyết phục tôi, đi vào lòng tôi và để lại ấn tượng khó phai đến thế còn bởi tính nhân văn và bao cung bậc xúc cảm. *** Chúng ta luôn xem xét lịch sử nhân loại theo cái cách mà chúng ta quan sát sự trưởng thành của một con người, xuất phát điểm từ một đứa bé không biết gì rồi thu thập kiến thức, phát triển, hoàn thiện hơn. Chúng ta luôn nghĩ lịch sử nhân loại cũng như thế, xuất phát từ thuở hỗn mang rồi từ từ phát triển đến sự văn minh hiện tại, thế nhưng có thể nào là ngược lại, có khi nào nhân loại từ thuở xa xưa đã phát triển vượt bậc hơn chúng ta hiện tại và vì một lý do gì đó mà nền văn minh ấy bị chôn vùi? Đó chính là giả thiết mà René Barjavel đặt ra cho cuốn tiểu thuyết “Đêm Hồng Hoang” của ông khi kể về cuộc phiêu lưu đến tận cùng nguồn gốc của con người. Các nhà thám hiểm Pháp phát hiện ra một nền văn minh hơn 900,000 năm bị chôn vùi dưới những lớp băng sâu thẳm của Nam Cực. Và điều này lập tức gây ra một sự chấn động, vì nó đi ngược lại hoàn toàn với sự hiểu biết của con người trước đó (hay là ta tưởng rằng mình đã biết). Trong cái kén thu hút sự chú ý của các nhà khoa học hàng đầu trên toàn thế giới người ta tìm thấy một người phụ nữ – Éléa – nàng là ai, nàng đã nằm ở đó bao lâu và liệu nàng có phải là chìa khóa để khám phá nền văn mình kỳ lạ dường ấy. Với những kỹ thuật tân tiến, người ta đã thành công trong việc đánh thức nàng thế nhưng nàng thuộc về một thế giới hoàn toàn khác với ngôn ngữ hoàn toàn khác, thậm chí người ta còn không tìm được cách đưa chất dinh dưỡng để nuôi sống nàng vì nàng không ăn uống như con người hiện đại. Các nhà ngôn ngữ tìm cách hiểu được ngôn ngữ của Éléa, để từ nàng mở ra cái thế giới kỳ bí mà chưa ai từng khám phá ra. Chi tiết các nhà phiên dịch phân tích tìm đủ mọi phương pháp để nói chuyện được với Éléa  làm gợi nhớ đến bộ phim “Arrival” của đạo diễn Denis Villeneuve  được phát hành vào năm 2016, quả thật ngôn ngữ và chữ viết chính là cầu nối duy nhất gắn kết được mọi người và thậm chí các nền văn minh khác nhau, ngôn ngữ là chìa khóa để dẫn đến sự thấu hiểu (và đi kèm với nó dĩ nhiên là sự hiểu lầm), nếu như trong “Arrival” là một nền văn mình ở ngoài trái đất thì trong “Đêm hồng hoang” là nền văn minh cổ xưa thế nhưng dường như có những bước phát triển vượt bậc bất ngờ. Điều gì khiến con người có sự cuốn hút với những nền văn minh khác một cách mạnh mẽ đến vậy, đó có phải là do sự khao khát kiến thức: “Chúng ta có chung một thứ to tát hơn những gì chúng ta khác biệt nhau: đó là nhu cầu được hiểu biết. Những người làm văn chương gọi đó là tình yêu khoa học, còn tôi, tôi gọi đó là sự hiếu kỳ. Khi tính hiếu kỳ được thôi thúc bởi trí tuệ thì đó là giá trị cao đẹp nhất của con người.” Người ta thở phào nhẹ nhõm khi máy phiên dịch của thể diễn đạt những lời Éléa thành ngôn ngữ hiện đại mà mọi người có thể hiểu được và chăm chú nghe cô kể lại câu chuyện của thời đại mình. Éléa dẫn dắt những con người hiện đại (và cả độc giả) về với thế giới kỳ lạ khi con người dường như đã phát triển về mặt cảm xúc và thể chất đến mức hoàn hảo, ngay từ khi sinh ra người ta đã hiểu rõ vị trí của mình trong xã hội và thậm chí cả bạn đời của mình đến mãi mãi về sau. Mỗi người được phân công một công việc cụ thể và họ hài lòng với những việc mình được giao. Cái thế giới tưởng chừng vững chắc, văn minh đến thế nhưng lại bị đe dọa bị sụp đổ bởi một điều, mà có lẽ cũng chẳng bất ngờ, đó chính là chiến tranh. Có lẽ bản chất nhân loại thực sự là tham lam, đố kị và hiếu chiến nên ở đâu có con người thì ở đó sẽ có chiến tranh, ngay từ thuở ban sơ khi con người mới vừa xuất hiện? Ngay từ những xã hội tưởng chừng được gắn kết mạnh mẽ nhất? Ngay từ những con người cứ ngỡ hiền lành, lương thiện nhất? Song song với câu chuyện của Éléa là cuộc tranh giành của các đế quốc để được sở hữu bí mật của nền văn minh kỳ lạ kia. Họ đã không từ các thủ đoạn để đạt được mục đích của mình, họ sẵn sàng chém giết nhau để có được vũ khí tối thượng từ nền văn minh cổ xưa. Trải qua giấc ngủ 900,000 năm, Éléa liệu có giật mình khi bản chất con người vẫn không thay đổi, nhân loại vẫn tìm cách hãm hại nhau để tranh giành quyền lực như thuở hồng hoang? René Barjavel có một câu chuyện hấp dẫn và gợi mở thế nhưng đáng tiếc lại được viết quá dài dòng và rối rắm. Những đoạn tình yêu đơn phương của nhà khoa học Pháp dành cho Éléa khá sến sẩm và rời rạc, có thể hoàn toàn cắt bỏ những đoạn độc thoại ấy ra khỏi cuốn sách mà không ảnh hưởng đến cốt truyện, thậm chí câu chuyện tình của Éléa và Paikan – chồng cô – cũng quá dư thừa, dù mục đích để thể hiện mối liên kết mạnh mẽ về thể xác và tinh thần của hai con người trong nền văn minh cổ xưa nhưng có nhiều đoạn không cần thiết. Cuộc xung đột giữa các sắc tộc trong cuốn sách chưa được đẩy lên đến cao trào với một kết thúc kịch tính và đơn giản so với cốt truyện khá rối rắm mà René Barjavel xây dựng, dường như ở đoạn cuối cùng ông trở nên bối rối vì chính những thứ mình bày biện ra và không biết phải dọn dẹp thế nào cho gọn ghẽ. “Đêm hồng hoang” là một cuốn sách phù hợp dành cho những bạn đọc hâm mộ thể loại khoa học giả tưởng với một cốt truyện gợi mở và đặt ra nhiều vấn đề khiến ta suy ngẫm. Còn với riêng tôi, cuốn sách vẫn chưa khiến tôi thật sự hài lòng bởi cái kết như thể đang xem một bộ phim hành động hạng hai thiếu kinh phí nên đành đắp vào bằng một kết thúc quá nhanh chóng và có phần ủy mị.   Mời các bạn đón đọc Đêm Hồng Hoang của tác giả René Barjavel.