Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chó Dẫn Đường - Đại Gia Và Nhân Quả

Trong ngày quyến luyến chia tay với Việt Nam – Mikhail Samarsky đã chính thức ra mắt quyển sách thứ 3 được yêu thích nhất ở Nga xuất bản tại Việt Nam. Bạn đọc Việt Nam đã rất thân quen với chú chó dễ thương Trison, chú chó dẫn đường cho người khiếm thị thông qua bộ sách “Cầu Vồng Trong Đêm” của nhà văn nhỏ tuổi được mệnh danh là thần đồng văn học đến từ nước Nga - Mikhail Samarsky. Câu chuyện lần này không xoay quanh cách chú chó và người khiếm thị, mà xoay quanh việc chú chó Trison suýt bị…giết chết! Câu chuyện cực kỳ hấp dẫn và lôi cuốn ngay từ những dòng đầu bởi chú chó Trison nhỏ bé và vì tác giả vô cùng thông minh đã viết nên những câu thoại cho Trison cực kỳ hấp dẫn, lôi cuốn và cả vui nhộn. Mikhail Samarsky với văn phong quen thuộc: trong trẻo, hồn nhiên, tươi sáng, nhưng cũng không kém phần chững chạc trong tư duy logic và bay bổng trong tư duy hình tượng. Nếu Cầu vồng trong đêm là kết quả của sự xử lý tinh tế nguồn tư liệu thực tế dồi dào mà Mikhail Samarsky đã dày công sưu tập cộng với các chi tiết hư cấu được đưa vào khá nhuần nhuyễn thì ở Chó dẫn đường cho đại gia, ngoài những yếu tố trên, trí tưởng tượng phong phú của tác giả đã góp phần quyết định làm nên thành công cho tác phẩm. Những tình tiết ly kỳ, những chi tiết hấp dẫn đắt giá không thể có được trong bất cứ tư liệu thực tế nào, chỉ có thể là sản phẩm của năng lực tưởng tượng phi thường mà thôi. Tưởng tượng đấy, hư cấu đấy, nhưng rất sinh động, rất đời, rất thực. Và quan trọng nhất – rất nhân ái, nhân văn, nhân bản. Một con chó bị lừa đưa ra khỏi Trường đào tạo chó dẫn đường ư? Bình thường! Nhưng mục đích cú lừa này là gì? Để lấy buồng gan của nó cấy ghép cho con chó cưng của một đại gia. Khác thường! Đại gia nọ vô cùng độc đoán, hung dữ, nhưng bà vợ của ông ta là người nhân hậu, đã tìm cách cứu thoát con chó vô tội, dù biết rằng mình có thể sẽ phải đối đầu với ông chồng “bạo chúa”. Đó là chuyện bình thường. Nhưng phương cách cứu chó của bà ấy mới thực sự khác thường . Khi “âm mưu lừa dối” bị bại lộ, trong cơn tức giận, đại gia “bạo chúa” nọ đã ra lệnh bắn chết con chó. Chuyện không bình thường, vì con chó chẳng có tội lỗi gì trong “âm mưu” này cả. Nhưng người thực thi mệnh lệnh đã tìm cách qua mặt ông chủ để cứu sống con chó. Âu cũng chuyện bình thường, vì đó là “mệnh lệnh” của lương tâm. Nhưng bước ngoặt khác thường lớn nhất là khi vị đại gia nọ gặp tai nạn, bị mù, chính con chó mà ông ta từng ra lệnh giết chết lại trở thành chó dẫn đường cho ông, trở thành một người bạn bốn chân trung thành và thân thiết nhất của ông. Lời sám hối của vị đại gia ở cuối sách cho thấy lòng nhân luôn tiềm ẩn trong mỗi con người, dù có khi họ độc ác, tàn nhẫn đến đâu đi nữa. Chính vì vậy, Chó dẫn đường, đại gia và nhân quả được độc giả và giới phê bình văn học Nga đánh giá cao. Chó dẫn đường, đại gia và nhân quả không chỉ là một cuốn truyện hành động đầy gay cấn, hấp dẫn, với những pha thoát hiểm ngoạn mục trong đường tơ kẽ tóc mà còn là một câu chuyện tình người, một lời cảnh tỉnh đối với những ai đã lỡ đánh mất lòng nhân chớ nên nhắm mắt chạy theo đồng tiền và niềm vui vật chất mà quên mất rằng sống trên đời cần quan tâm giúp đỡ cộng đồng, giúp đỡ những số phận đáng thương, bất hạnh. Gieo nhân nào ắt gặt quả ấy. *** Lời khen tặng dành cho tác phẩm “Chó dẫn đường, đại gia và nhân quả”:  “Chó dẫn đường, đại gia và nhân quả là một tuyệt tác. Tác giả Mikhail Samarsky là một con người đặc biệt. Tài năng văn chương và ý thức thiện nguyện phục vụ cộng đồng người khiếm thị của Mikhail rất đáng khâm phục. Tác phẩm của Mikhail không chỉ thuyết phục tuyệt đối giới phê bình văn học mà còn đánh động được con tim người đọc. Đó chính là phần thưởng lớn nhất cho người sáng tác.” - Nghệ sĩ nhân dân Philipp Kirkorov “Một quyển sách tuyệt vời! Một món quà vô giá cho những ai biết thương yêu, quý mến những “người bạn bốn chân” của loài người. Tác phẩm ngập tràn nhiệt huyết và lòng yêu thương. Mikhail Samarsky – một tâm hồn nhân bản, một tài năng đang phát triển, thăng hoa.” Nhà văn công huân A. Y. Skazhinsky,P. Chủ tịch hội nhà văn LB Nga, Ủy viên Hội nhà báo LB Nga. “Một tác phẩm giàu kịch tính và đầy chất nhân văn. Tác giả ở tuổi vị thành niên mà viết được như vậy quả là rất đáng khen, rất đáng trân trọng.” - Hội viên Hội nhà văn Nga, Ủy viên Hội nhà báo quốc tế, Nhà văn Vadim Kozlov “Đọc cuốn sách Chó dẫn đường, đại gia và nhân quả thật hứng thú. Ta cười đó, rồi có khi khóc đó. Thật nhiều cung bậc cảm xúc. Nhưng điều dễ nhận thấy nhất trong tác phẩm là tấm lòng nhân ái của tác giả nhỏ tuổi Mikhail Samarsky dành cho chó dẫn đường, dành cho người khiếm thị và dành cho tất cả mọi người.” -Nghệ sĩ công huân Tachiana Makarova “Là người khiếm thị, tôi thưởng thức tác phẩm Chó dẫn đường, đại gia và nhân quả qua sách nói. Đó là cuốn sách hay nhất mà tôi từng được nghe (và từng được đọc bằng mắt trước đây, khi tôi chưa bị mù). Xin cảm ơn tác giả Mikhail Samarsky. -Một độc giả khiếm thị   ***   Ngay cả trong những cơn ác mộng kinh hoàng nhất tôi cũng chưa bao giờ nằm mơ thấy những điều đáng sợ đến như vậy. Giả dụ bây giờ tôi thách các bạn đoán xem lúc này tôi đang nằm ở đâu, chắc chẳng ai đoán ra. Ôi, tôi chủ quan quá, có lẽ cũng sẽ có người đoán đúng, rằng tôi đang nằm trên bàn mổ - quả thực, loài chó thỉnh thoảng cũng mắc phải những căn bệnh mà muốn điều trị dứt điểm, đôi khi cũng cần đến sự can thiệp bằng phẫu thuật. Nhưng nếu các bạn nghĩ rằng tôi mắc phải căn bệnh hiểm nghèo nào đó thì quả là lầm to. Tôi khỏe như bò mộng. Hay như lời một bài hát nào đó, tôi “khỏe bằng hai con bò cộng lại”. Không phải tự tôi thích nằm ườn ra trên bàn mổ. Thực ra, gọi là “nằm ườn” thì chẳng mấy chính xác, vì tôi bị trói chặt đến nỗi muốn vẫy tai còn khó chứ nói chi đến chuyện cử động bốn chân và cả thân mình. Tôi rầu nẫu ruột khi viết về chuyện này, thật đấy, rất buồn và rất đáng sợ: có ai đó đang cần đến buồng gan của tôi. Ôi, ngày trước tôi từng ước ao được hưởng cảnh hưu trí an nhàn sau khi thực hiện xong bổn phận của một con chó dẫn đường, nào có bao giờ nghĩ rằng đời mình sẽ phải kết thúc một cách đớn đau và… vô bổ dưới lưỡi dao mổ của một viên bác sĩ thú y nào đó. Ôi, tức thật, tức thật! Tức muốn chết đi được! Giá chi các bạn biết được rằng trong căn phòng mổ chật hẹp này nồng nặc những thứ mùi vô cùng khó chịu – nào mùi ê-te, mùi thuốc khử trùng, mùi từ những thiết bị y tế quái quỷ gì đó… Những mùi ấy có thể giết chết tôi trước khi ông bác sĩ thú y kịp rạch mũi dao tử thần vào cái hông của tôi. Tôi nằm đó, trên bàn mổ, và cuộc đời tôi diễu qua trước mắt như một cuốn phim chiếu chậm. Qua những cuốn sách trước đây của tôi, hẳn các bạn biết, tôi đã hút chết biết bao lần. Bọn trộm chó đã nhét tôi vào cốp xe hơi rồi sau đó giam trong một nhà kho tối tăm, ẩm thấp. Một đám trẻ bắn tôi bằng ná cao su, may mà không vỡ đầu, lòi mắt. Rồi đám trẻ bụi đời suýt xả thịt tôi làm món nướng xiên que. Thậm chí tôi còn bị săn lùng bằng súng đạn ria. Mỗi lần như vậy, tôi đều may mắn thoát chết. Chứng tỏ, số tôi hên. Nhưng chỉ hên được đến thế thôi, còn bây giờ là… chấm hết. Ông bác sĩ thú y bảo rằng chỉ khoảng 15 – 20 phút nữa là ông ấy sẽ bắt tay thực hiện công việc. Hừm, “công việc”! “Giết chóc” thì có chứ “công việc” cái nỗi gì! Chỉ được cái khéo đánh tráo khái niệm! Thử nghĩ xem, có thể gọi là “công việc” được hay không khi mà người ta mổ bụng, moi gan một con chó khỏe mạnh bình thường, có khả năng lao động? Có thể điên lên được với những thứ gọi là “công việc” như vậy. Nhưng thôi, biết làm sao bây giờ? Thôi thì còn chút ít thời gian, nếu các bạn muốn, tôi xin tranh thủ kể các bạn nghe chuyện gì đã xảy ra và tại sao tôi lại bị trói cả bốn chân quẳng lên cái bàn mổ chết tiệt này. Lần gần đây nhất tôi phục vụ ông Vladimir Petrovich, nhân viên cứu hộ thuộc Bộ các tình trạng khẩn cấp. Ông bị mù cả hai mắt trong một lần tham gia cứu nạn. Nhưng rồi sau đó ít lâu, các đồng nghiệp của ông quyên tiền đưa ông sang Đức làm phẫu thuật mắt và kết quả là một con mắt đã phục hồi thị lực. Tôi được trả về trường đào tạo chó dẫn đường. Sau đó, tôi lại được giao cho một chàng thanh niên mù. Ở trong nhà chàng trai này, tôi cảm thấy không thích thú gì cả, thậm chí còn linh cảm sẽ xảy ra chuyện gì đó không ổn. Khi tham gia huấn luyện cùng với tôi ở trường, anh ta được gọi tên là Vichia, vậy mà khi vừa về nhà, anh ta lại có tên là Koschia. Tôi nghe anh ta gọi điện thoại cho ai đó, nói: “Tao đây, Koschia đây, đến ngay đi, có hàng rồi”. Sau đó anh ta tháo cặp kính đen ra, ném vào xó nhà, ngồi phịch xuống ghế bành, cáu kỉnh lẩm bẩm: - Đóng kịch bấy nhiêu đó đủ rồi. Chán quá đi thôi. Tôi nhìn anh ta và hiểu ngay rằng đó là người sáng mắt chứ chẳng phải mù lòa gì cả. Vài phút sau, anh ta quay lại, nhìn tôi trừng trừng rồi quát: - Nhìn cái gì thế? Người ta sắp đến bắt mày đi đấy. Chuyện gì thế này? Hóa ra anh ta dùng chữ “hàng” để gọi tôi. Ối cha cha!!! Từ đáy con tim, tôi cảm nhận rằng chuyện này lành ít dữ nhiều. Người ta sắp đến bắt tôi đưa đi đâu? Có nghĩa, họ đâu có cần đến chó dẫn đường? Anh chàng Vichia-Koschia này đích thực là người sáng mắt. Nhưng từ sâu thẳm lòng mình, tôi vẫn nuôi chút hi vọng là người ta sẽ đưa tôi đến với một người mù nào đó. Tôi cũng thoáng nghĩ, hay là người ta sẽ đưa tôi ra nước ngoài? Nhưng trường tôi là trường quốc gia, chỉ đào tạo chó dẫn đường cho công dân Nga mà thôi. Tuy nhiên, khi những nhân vật mới xuất hiện trong căn hộ, mọi niềm hi vọng của tôi đều tan biến hết. Giá như các bạn được nhìn thấy những bộ mặt dữ dằn ấy. Đúng là những bộ mặt thú dữ. Nắm đấm của chúng còn to hơn cả cái đầu chó của tôi. Một gã đặt tôi nằm ngửa trên lưng và đưa tay sờ nắn gì đó ở vùng bụng của tôi rồi hỏi anh chàng Vichia-Koschia: - Nó mạnh khỏe bình thường chứ? Không bị bệnh gì chứ? - Tất nhiên là nó mạnh khỏe. Sản phẩm của Trường đào tạo chó dẫn đường quốc gia mà lại. Ở trường ấy, đời nào người ta lại đi nuôi nấng, đào tạo thứ chó bệnh? Nói cho mà biết, ở trường còn có cả bệnh viện thú y. Việc tiêm chủng được thực hiện định kỳ, đều đặn theo lịch. Tóm lại, việc chăm sóc sức khỏe cho lũ chó ở đấy luôn được thực hiện trên tầm cao quốc tế. - Giấy tờ tùy thân của nó đâu? - Đây, có đây, đầy đủ. – Vichia-Koschia đưa ra các loại giấy tờ. - Tốt! – Gã trai có bộ mặt hầm hố xoa tay thỏa mãn. – Quan trọng nhất là buồng gan của nó còn xài được, chứ nếu không, sếp sẽ xé xác chúng ta ra làm trăm mảnh. – Rồi hắn quay sang gã trai đi cùng, nói: - Nào, chuẩn bị lồng rọ đi. Chỉ phút sau, tôi đã phải ngồi trong một cái lồng to vật, bản thân chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì cả. Ông sếp nào của họ mà dữ dằn đến thế? Tại sao ông ấy lại cần đến buồng gan của tôi? Ông ấy là người thích xơi món lạ hay sao? Ôi! Bất giác tôi cảm thấy đau nhói bên hông. Nếu ông ấy thường xuyên xơi món gan chó thì không biết đã có bao nhiêu con chó oan mạng. Lạ thật đấy. Đúng là đồ quái vật! Lát sau, tôi, giống như một con báo con beo man dã nào đó, bị nhốt trong cái lồng to tướng và chắc chắn, được người ta đưa ra ngoài sân rồi tống lên một chiếc xe hơi 16 chỗ đã dẹp bớt những hàng ghế sau. Thời gian di chuyển rất lâu, không phải vì đường xa, mà vì kẹt xe liên tục. Tôi ngủ gà ngủ gật, nhưng vẫn nghe được câu chuyện của những tên “lính” áp tải. - Ông chủ của chúng ta quả là một người cực quái. Nhiều lúc cứ như trẻ con. Thật đấy. – Gã lái xe nói. - Tại sao mày nói thế? - Thì đấy. Ông ấy cứ thích phải có được con chó Labrador to vật này cơ. Phải chi cứ chọn lấy một chú cún con, rồi nuôi dạy từ từ, tùy thích. - Ôi, mày nói gì vậy? – Gã hộ pháp phản đối. – Con chó của ông ấy đang gặp vấn đề gì đó. Mọi chuyện không đơn giản như mày nghĩ đâu. - Ôi dào, - một gã khác phẩy tay, - chó với chẳng má. Một khi giàu có thì người ta có thể nghĩ ra đủ mọi chuyện điên. - Nhìn chung thì mày nói đúng đấy, - gã tài xế gật đầu biểu đồng tình. – Nếu không có tiền, bố bảo cũng chẳng ai dám làm những trò điên như vậy. Một ca phẫu thuật như thế này tốn tiền tấn chứ ít sao, tao biết chứ. - Thôi đi cha nội ơi, việc quái gì mà cứ phải đếm tiền trong túi người khác. – Một tên trong bọn cười phá. - Vấn đề không phải là tiền. – Một tên khác chen vào. – Có ai thương xót con chó này không? – Hắn hất hàm về phía tôi. – Lát nữa đây người ta sẽ rạch bụng một con chó vô tội, và thế là xong đời nó… Tôi nghe những lời ấy mà giật mình. Nhưng cho đến lúc đó tôi vẫn chưa thể nào hình dung ra được người ta cần cái gì ở tôi. Và bỗng nhiên một trong những kẻ áp giải tôi tiết lộ bí mật: - Thật đáng tiếc nếu lá gan của nó không được cơ thể con chó của ông chủ chấp nhận. Chẳng chắc gì con chó của ông ấy sống được với lá gan của con chó này. - Ghê nhỉ, - tay tài xế huýt gió ngạc nhiên, - vậy hóa ra chẳng có gì bảo đảm thành công cả sao? - Tất nhiên là chẳng có gì bảo đảm cả! - Một gã trong bọn gật đầu. - Ông bác sĩ nói rồi - năm mươi/ năm mươi. Việc cấy ghép gan thì ông ấy vẫn tiến hành, nhưng không dám hứa chắc con chó của ông chủ sẽ sống được. - Bác sĩ gì mà lạ thế! Như vậy là lừa đảo. – Gã tài xế tỏ vẻ bất bình. - Tại sao mày nói vậy? - Năm mươi / năm mươi là thế quái nào? Chẳng có chút trách nhiệm nào về lời nói của mình cả. Chẳng khác gì dự báo thời tiết theo kiểu “có thể sẽ mưa, cũng có thể sẽ nắng”. Dự đoán như thế thì ai mà chẳng dự đoán được. Trong trường hợp này cũng vậy. Cả bọn cười ồ. Nhưng tôi bắt đầu hiểu chuyện gì đang xảy ra. Chuyện là sao? Phải chăng một tay nhà giàu nào đó muốn lấy buồng gan của tôi cấy ghép cho con chó đang bị bệnh của mình hòng cứu sống nó. Thật nhân đức làm sao! Cứu một con chó bằng cách tống tiễn một con chó khác qua thế giới bên kia. Nhưng điều đáng buồn nhất là thậm chí bác sĩ cũng không xác quyết là con chó nọ sẽ sống nổi sau khi được cấy ghép gan. Và họ đã dối gạt nhà trường bằng cách nào để được nhận tôi về? Khi đến nơi, người ta chẳng cho tôi ra khỏi lồng. Ông bác sĩ chích cho tôi một mũi thuốc gì đó khiến đầu óc tôi trở nên lơ mơ, lơ mơ, nhìn thấy mọi sự việc xung quanh diễn ra y như trong một cuốn phim chiếu chậm. Tóm lại tôi đã kịp kể các bạn nghe tại sao tôi lại có mặt trên bàn mổ. Tôi thầm từ biệt cuộc đời, thầm gửi lời tạ lỗi đến tất cả những ai mà tôi vô tình xúc phạm, sủa oan. Các bạn biết không, tôi tiếc cuộc sống này quá, chỉ muốn tru lên như chó sói. Xin đừng nghĩ là tôi đớn hèn, tham sống sợ chết. Không, tôi đã chấp nhận số phận. Chỉ buồn là phải chết một cách vô nghĩa và chết như một con chó vô danh… Ôi!!! Khoan! Hình như có một cơ hội dành cho tôi chăng? Một người đàn ông và một phụ nữ bước vào phòng mổ và nhìn ngắm tôi một cách chăm chú. Người đàn ông chính là ông bác sĩ, còn người phụ nữ là… là ai tôi không biết. Nhưng trước hết hãy nghe họ nói gì với nhau: - Bác sĩ Anton, nếu không có bất cứ sự bảo đảm thành công nào thì liệu ca phẫu thuật này có ý nghĩa gì? – Người phụ nữ vung tay, hỏi giọng cáu gắt. – Nuôi một con chó khác có phải hơn không? - Ôi, thưa bà Olga Semionovna, tôi cũng đã đề nghị như vậy với ông Alexander Mikhailovich rồi đấy ạ. - Rồi ông ấy nói sao? – Bà Olga nhìn chăm chú vào mắt ông bác sĩ. - Phản đối thẳng thừng. – Ông bác sĩ chém bàn tay vào không khí. – Ông ấy bảo: “Tôi không biết, ông làm gì thì làm nhưng phải cứu bằng được con chó Grin của tôi”. Ông ấy dứt khoát không chịu nghe bất cứ ý kiến nào khác. - Nếu sau khi được ghép gan, con Grin vẫn không sống nổi thì sao? - Có Chúa biết được chuyện gì sẽ xảy ra, - ông bác sĩ nhún vai. – Nếu bà muốn, tôi xin nói thật: cơ hội được tiếp tục sống của con chó Grin là vô cùng thấp. - Nghe này, nếu… - bà Olga ngừng lời, đắn đo một lát rồi bật ra: - Nếu ta biến con chó này thành con Grin thì sao? - Như thế nghĩa là thế nào? – Ông bác sĩ há hốc mồm. - Rất đơn giản! – Bà Olga xoa xoa hai bàn tay vào nhau. – Một con chó cần bao nhiêu thời gian nghỉ ngơi tĩnh dưỡng sau phẫu thuật cấy ghép gan? - Bà nghĩ ra điều gì thế? – Ông bác sĩ tỏ ra lo sợ. - Chúng ta có thể giấu nó đi trong khoảng một tháng không? – Bà Olga hỏi. - Trước hết bà hãy cho biết, bà đã nghĩ ra kế gì? – Ông bác sĩ vẫn khăng khăng ý mình. - Tóm lại là thế này, - bà Olga nói dứt khoát: - Chúng ta sẽ hủy bỏ ca mổ! Ông bác sĩ giật mình, xua tay lia lịa. - Ối, ối, thưa bà Olga Semionovna, làm sao có thể như vậy được? Ông Alexander Mikhailovich lại chẳng moi buồng gan của tôi ra làm món pa-tê chứ ông ấy tha cho à? Không, không được đâu. Tôi không dám chơi trò mạo hiểm ấy đâu. - Bao nhiêu? – Bà Olga sầm mặt hỏi. - “Bao nhiêu” gì cơ? – Ông bác sĩ nhíu mày, co rúm người. - Ông cần bao nhiêu tiền cho sự im lặng của mình? – Bà Olga rít lên. - Thưa bà Olga Semionovna, xin bà tha cho tôi đi ạ. – Ông bác sĩ lập cập van lơn. – Xin bà hiểu cho... - Yên tâm đi, bác sĩ Anton, tôi sẽ lãnh nhận mọi hậu quả về mình nếu xảy ra điều tồi tệ. Ngày mai ông sẽ nhận một triệu rúp! - Vậy rồi chúng ta sẽ làm gì với con Grin? – Ông bác sĩ run rẩy hỏi. - Thì ông cứ hãy cứu chữa cho nó! – Bà Olga trả lời. – Trong những trường hợp tương tự, người ta sẽ phải làm gì với con chó bệnh? - Thông thường thì người ta chỉ còn cách đem chôn nó đi mà thôi. – Bác sĩ thở dài nặng nhọc. - Không! – Bà Olga nói dứt khoát. – Chúng ta sẽ không làm điều ác đó. Ông hãy cứ cứu chữa, tiêm thuốc giảm đau cho nó. Vạn bất đắc dĩ nếu nó không qua khỏi thì hãy để nó chết bằng cái chết tự nhiên. Tuyệt đối không được đem chôn khi nó chưa chết hẳn. Tôi không cho phép làm điều đó! - Tôi hiểu, – ông bác sĩ gật đầu. – Như vậy là mọi chuyện đã rõ. - Nó còn cầm cự được bao lâu nữa? – Bà Olga hỏi. - Nhiều nhất là một tuần, - bác sĩ trả lời, - nhưng chắc chỉ một hai ngày là cùng. Ông bác sĩ ngồi phịch xuống cái ghế giữa phòng, hai tay ôm đầu. - Bây giờ thế này, - bà Olga nói giọng ra lệnh, – ông sẽ nói với ông Alexander Mikhailovich rằng ca phẫu thuật đã thành công, nhưng hiện tại không được làm phiền con chó, phải để cho nó nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng. Sau đó, mọi chuyện hãy đẩy hết qua cho tôi. Hãy nói rằng bà Olga đã đưa con chó Grin ra nhà nghỉ ngoại ô cho nó dưỡng bệnh, nghỉ ngơi sau ca mổ cấy ghép. Những gì tiếp theo hãy để mặc tôi ứng phó với ông Alexander Mikhailovich. Tôi sẽ tìm cách giải thích hợp lý nhất. Còn bây giờ, ông hãy cải trang con chó này – bà Olga chỉ tay về phía tôi – thành một con chó “hậu phẫu”, băng bó kín mít, bôi máu me lên mình nó thật nhiều, khiến ngay mẹ đẻ của nó cũng không nhận ra. Tôi sẽ trở lại sau hai hoặc ba tiếng đồng hồ. Cứ thế mà làm, không được rút lui đâu đấy. Hiểu chưa? - Thưa bà Olga Semionovna kính mến, nói thực lòng, tôi rất sợ. – Ông bác sĩ run rẩy nói. - Ông sợ ai? – Bà Olga cười khẩy. - Tôi sợ ông Alexander Mikhailovich. – Bác sĩ Anton thì thào đáp. - Điều đó cũng tốt, thậm chí rất tốt! – Bà Olga gật đầu. – Nhưng trong trường hợp này, tốt hơn hết ông phải sợ tôi. Chớ có mà làm hỏng chuyện! – Bà Olga đưa ngón tay điểm mặt, hăm dọa. - Có chết tôi cũng không dám, thưa bà! – Ông bác sĩ run run thề thốt. – Tôi còn có lối thoát nào nữa đâu. - Giỏi. Biết thế là tốt! – Bà Olga khen một câu rồi tiến về phía cửa, nhưng ở ngay ngưỡng cửa, bà ấy quay ngoắt lại hỏi: - Hi vọng, trong vòng một tháng, chúng ta có thể biến con chó này thành con Grin chứ? Làm được không? - Làm được! – Ông bác sĩ trả lời, giọng đã có phần tự tin. – Hai con khá giống nhau. Thực ra cũng cần “cải trang” lại đôi chút, tô màu mấy vệt lông cho giống, cắt xẻ đôi chỗ, kiểu như phẫu thuật thẩm mỹ, chỉnh hình ấy mà. Tai của con Grin có bị sứt sẹo đôi chỗ vì từng cắn nhau với một con chó Stafford, bà nhớ chứ, vì vậy phải chỉnh tai của con chó này sao cho giống. Nhưng mọi công việc ấy chỉ là chuyện vặt. Tôi thuộc từng sợi lông trên mình con Grin mà. - Được rồi, cứ thế tiến hành đi. Sáng mai tôi với ông Alexander Mikhailovich sẽ đến. Ông hãy liệu làm sao để chồng tôi không hề tỏ ý nghi ngờ gì cả. Nhớ băng bó thật kỹ con chó “hiến tặng nội tạng” này đấy nhé, – bà Olga mỉm cười và hất hàm về phía tôi, – vì nó sẽ phải đóng vai con Grin sau ca mổ cấy ghép. - Mọi chuyện sẽ “trên cả tuyệt vời”, thưa bà chủ! – Ông bác sĩ hứa. - Tôi rất hi vọng ở ông, bác sĩ Anton ạ. – Bà Olga vẫy tay chào rồi bước ra khỏi phòng, khép cửa lại. Ôi, cuối cùng thì đã có thể thở phào nhẹ nhõm. Như vậy có nghĩa là án tử dành cho tôi một lần nữa lại được hoãn chăng? Hình như số tôi luôn may mắn gặp được những người tốt bụng như bà Olga Semionovna. Cầu Chúa cho bà sống lâu, bà quả là một người phụ nữ tuyệt vời. Tôi sẽ chịu được ba cái vụ “cải trang” kia, xin bà đừng lo. Sơn sửa màu lông chỉ là chuyện nhỏ. Cần xẻ vành tai một chút cho giống vết thương do bị chó cắn ư? Cũng là chuyện nhỏ! Có xẻ te tua nham nhở ra cũng chẳng sao. Thậm chí cứ việc biến tôi thành giống chó doberman hay chó chăn cừu Trung Á cũng được. Tôi chấp nhận tuốt. Đã có ai nhìn thấy những giống chó ấy chưa? Chúng hoàn toàn không có vành tai, nhưng vẫn sống khỏe như thường. Quan trọng nhất là buồng gan vẫn còn nguyên trong bụng tôi và tôi tiếp tục được sống trên cõi đời này. Như vậy, tôi sẽ phải sống dưới một cái tên khác. Tên gì ấy nhỉ? Ờ, Grin. Thì đã sao nào. Một cái tên không đến nỗi tồi. Tuy nhiên, nếu tôi tìm được cách trốn thoát và trở về trường, không biết các thầy cô huấn luyện viên có nhận ra tôi không, vì lúc đó tôi đã bị tô lông thành màu khác, có khi trông sặc sỡ như con vẹt chứ chẳng chơi. Nhưng hình như tôi đã thả hồn đi quá xa. Chớ có vội mơ về ngày được trở lại trường. Để còn xem, liệu cái ông… ông gì ấy nhỉ, ờ ông Alexander Mikhailovich bạo chúa ấy có chấp nhận mi là con chó Grin của ông ấy hay không. Nhỡ chẳng may ông ấy phát hiện ra tôi chỉ là con Grin giả, nghĩa là bị đánh tráo thay cho con Grin thật của ông ấy, thì sao? Thôi thì phó mặc rủi may. Giờ đây, mọi sự chỉ có thể trông mong vào bà Olga Semionovna kính mến mà thôi. Một khi đã trót cưỡi lên lưng cọp thì ráng cưỡi cho khéo, chớ để ngã xuống, cọp nó xơi mất. Dĩ nhiên, trong chuyện này, tôi chẳng có tội lỗi gì cả. Người ta nghĩ ra những trò lừa dối gì đó, còn tôi thì lãnh hậu quả. Nhưng biết làm sao giờ, kiểu gì thì giờ đây tôi cũng sẽ phải trở thành con chó mang tên Grin của một đại gia nào đó. Dù sao thì như vậy cũng còn tốt hơn so với việc bị mổ bụng moi gan. Hai người đàn ông bước vào phòng mổ. Về sau tôi hiểu rằng đó là các phụ tá của ông bác sĩ. Cuộc “lột xác” của tôi bắt đầu.   Mời các bạn đón đọc Chó Dẫn Đường - Đại Gia Và Nhân Quả của tác giả Mikhail Samarsky & Phạm Bá Thủy (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cuốn Sách Hoàn Hảo Về Ngôn Ngữ Cơ Thể - Allan & Barbara Pease
Angelina Jolie luôn phơi bày bờ môi gợi cảm 'chết người', Adolf Hitler thích sử dụng bàn tay úp ngược, vươn thẳng khi khẳng định quyền lực. Cuốn Ngôn ngữ cơ thể là những giải mã thú vị về bề ngoài của con người. Trong cuộc sống, hầu như ai cũng bị chi phối quá nhiều bởi lời nói, vì thế đôi khi chúng ta quên rằng, cơ thể con người là bộ 'từ điển sống'. Quyển sách Ngôn ngữ cơ thể là cẩm nang thú vị để bước vào bộ từ điển này "Từ móng tay, tay áo, đôi ủng, đầu gối quần đến những vết chai ở ngón trỏ và ngón cái hay nét mặt, cổ tay áo, tác phong của một người đều nói lên nghề nghiệp của họ. Sự thật là tất cả những yếu tố này phối hợp lại có thể giúp điều tra viên tài giỏi làm sáng tỏ mọi vụ án", Sherlock Holmes, nhân vật thám tử nổi tiếng của ConanDoyle, đã nói như thế về khả năng nhận định con người qua bề ngoài của họ. Tất nhiên, quyển Ngôn ngữ cơ thể của tác giả Allan và Barbara Pease không nhằm mục đích biến độc giả thành thám tử tư với con mắt "cú vọ". Nhưng nếu ai thừa nhận rằng: "Đôi lúc, dáng vẻ khi bạn đang nói quan trọng hơn điều bạn muốn nói ra", thì cuốn sách sẽ mang lại những kiến thức tham khảo thú vị về tâm lý học và văn hóa giao tiếp. Sách dày gần 500 trang, được viết bằng lối văn trò chuyện giản dị nhưng cũng rất khoa học, nhiều hình ảnh minh họa sinh động về các tình huống ứng xử, các bài trắc nghiệm thú vị. Các ví dụ, dẫn chứng tác giả nêu ra trong sách không mang tính phỏng đoán, suy luận suông. Phần lớn chúng được đúc rút từ những khảo sát và thí nghiệm thực tế. Sách được thiết kế sao cho độc giả có thể lật bất kỳ trang nào cũng có thể đọc và hiểu ngay. Khi nắm được ngôn ngữ của cơ thể, người đọc có thể hiểu rằng, những người dối trá thường chỉ có thể giả vờ trong một thời gian ngắn, vì dáng vẻ bề ngoài sẽ vô tình "tố cáo" những gì họ che giấu. Nếu bạn biết rèn cho mình khả năng quan sát hoạt động giao tiếp của con người, thậm chí chỉ trong cách bắt tay như thế nào cho hiệu quả, bạn sẽ thấy thành công trong giao tiếp tự nhiên đến với mình. Khi một người có thể sử dụng tốt ngôn ngữ cơ thể họ, điều đó chứng tỏ rằng họ hiểu rõ bản thân, biết cách hiểu người khác và họ tự tin. Vì thế, phần lớn các nhân vật danh tiếng đều là những "bậc thày" về sử dụng ngôn ngữ cơ thể. Ngoài ra, cuốn sách còn cung cấp cho người đọc nhiều kiến thức thú vị về sự khác biệt trong giao tiếp giữa con người với con người đến từ các quốc gia khác nhau. *** Nhìn thoáng qua hình vẽ trên, bạn sẽ thấy một con voi, chỉ khi nào quan sát kỹ, bạn mới thấy mọi thứ không như vẻ ngoài của nó. Khi mọi người nhìn vào người khác, họ sẽ thấy người đó nhưng đa số họ lại bỏ lỡ những manh mối mà khi được chỉ ra mới vỡ lẽ là chúng rất rõ ràng. Ngôn ngữ cơ thể cũng vậy . Giao tiếp bằng ngôn ngữ cơ thể tuy đã tồn tại hơn một triệu năm nay những chỉ mới được nghiên cứu một cách có khoa học đến một mức độ nhất định từ cuối thế kỷ 20. Cuối cùng, ngôn ngữ cơ thể đã được “khám phá” và hiện trở thành một phần của nền giáo dục chính quy và các chương trình đào tạo kinh doanh ở khắp mọi nơi. Chương cuối này bàn về những tình huống xã giao và kinh doanh, đồng thời giúp bạn kiểm tra xem bạn có thể hiểu được các dấu hiệu cơ thể đến mức nào. Tuy nhiên, trước khi đọc phần đáp án, hãy quan sát từng hình vẽ để xem bạn có thể nhìn thấy bao nhiêu dấu hiệu ngôn ngữ cơ thể mà bạn đã được đọc. Tính một điểm cho mỗi dấu hiệu quan trọng bạn phát hiện ra và bạn sẽ nhận được một bảng đánh giá chung ở sau cùng. Bạn sẽ rất ngạc nhiên khi thấy “khả năng nhận biết” của mình đã được cải thiện đáng kể đến thế nào. Hãy nhớ là ở đây, tuy chúng ta phân tích những điệu bộ tĩnh nhưng trong thực tế, chúng cần phải được hiểu theo cụm, theo ngữ cảnh và xét đến các khác biệt về văn hóa. Bạn có thể đọc được các ẩn ý tốt như thế nào? ... Mời các bạn đón đọc Cuốn Sách Hoàn Hảo Về Ngôn Ngữ Cơ Thể của tác giả Allan & Barbara Pease.
Con Sẽ Làm Được! - Donna M. Genett, Ph.D
Phát Triển Khả Năng, Sự Tự Tin Và Sức Mạnh Tinh Thần Của Trẻ Bạn có cho rằng điểm số và thành tích hiện tại của con bạn chưa thật sự phản ánh được thực lực của cháu? Có phải con bạn luôn hết sức vất vả để cân bằng thời gian dành cho việc học hành, thể dục thể thao, nghỉ ngơi và các hoạt động ngoại khoá khác? Có bao giờ bạn cảm thấy thà mình tự làm một việc gì đó còn hơn là yêu cầu các con thực hiện? Bạn có phải rầy la, trách mắng để các con phụ giúp bạn làm việc nhà? Bạn có cảm thấy mình luôn không đủ thời gian dành cho gia đình? Có phải bạn cảm thấy quãng thời gian ở bên gia đình không được vui vẻ như mình mong đợi? Nếu bạn trả lời "Có" cho bất kỳ câu hỏi nào trong danh sách trên thì đây chính là cuốn sách dành cho bạn, giúp bạn và con cái của bạn có được sự thay đổi như mong muốn. "Con sẽ làm được!" sẽ mang đến cho bạn cách vận dụng nguyên tắc giao việc hiệu quả ấy vào việc giáo dục con cái. Với 6 bước đơn giản nhưng hữu ích, bạn sẽ giúp con trẻ gặt hái thành tích cao nhất và tự tin bước vào đời. *** Tiến sĩ tâm lý học Donna M. Genett là một chuyên gia tư vấn về phát triển tổ chức, đồng thời là Chủ tịch của GenCorp Consulting - một công ty tư vấn hoạt động trên toàn nước Mỹ. Hơn 20 năm qua, bà đã không ngừng cống hiến để tạo nên những ảnh hưởng tích cực cho các tổ chức và sự nghiệp của nhân viên thuộc những tổ chức đó. Không những thế, bà cũng luôn tìm cách giúp con người sống tốt hơn bằng cách tìm ra những quy luật tâm lý ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta. Và trên hết, dựa trên những quy luật đó, bà đưa ra những bí quyết cùng những nguyên tắc ứng xử để áp dụng vào cuộc sống thường ngày. Cuốn sách đầu tay của bà, “Người giỏi không phải là người làm tất cả”, đã trở thành kim chỉ nam cho hàng trăm nhà quản lý, nhà điều hành và các doanh nhân khắp Bắc Mỹ, giúp họ quản lý đúng-ngay-từ-đầu. Trong cuốn sách này, Tiến sĩ Genettt đã áp dụng nguyên tắc tâm lý màu nhiệm của mình vào việc giáo dục con cái. Cuốn “Giúp con tự giác và học giỏi” là tập hợp những phương pháp hết sức rõ ràng, lôgíc và dễ hiểu mà bất cứ bậc cha mẹ nào cũng có thể áp dụng để xây dựng kỹ năng sống cho con và giúp chúng vững bước vào đời. *** Trong tuần đó, Joyce với James quyết định dành một ngày để cùng Jake và Jolie tổng kết lại tất cả những gì họ đã làm được. Có vẻ như gia đình James lúc này hoàn toàn khác so với 8 tuần trước đó. Buổi tổng kết không chỉ diễn ra rất tốt mà lại còn rất đúng lúc, khi năm học sắp kết thúc và bọn trẻ đang rất phấn khích. Mùa hè đang đến gần, và hai tháng học cuối đã diễn ra vô cùng tốt đẹp. Bọn trẻ học hành tiến bộ, thành tích thể thao cũng rất khả quan và cả hai đều rất thích thú với các hoạt động ngoại khóa sau giờ học. Những đám mây đen đe dọa treo lơ lửng trên đầu trước đây như điểm kém, bị loại ra khỏi đội tuyển thể thao giờ đã biến mất. Chúng như trở thành những đứa trẻ khác – vui vẻ, hạnh phúc và đầy tự tin. Những gì Jake nói vào bữa sáng thứ Bảy hôm đó không nằm ngoài dự đoán, nhưng nó vẫn khiến mọi người ngạc nhiên. Khi James đang chuẩn bị bữa sáng, Jolie dọn bàn, còn Joyce thì vui vẻ ngồi đợi được phục vụ, thì Jake bước vào nhà bếp với vẻ mặt tươi tỉnh, dù vẫn có thể nhận ra là cậu vừa ngủ dậy. Vì nhận nhiệm vụ rửa chén nên cậu được quyền dậy muộn một chút hơn so với mọi người. - Con đã đặt tên cho đội của mình rồi, bố mẹ ạ. - Đó là những lời đầu tiên cậu bé nói trong buổi sáng hôm đó. ... Mời các bạn đón đọc Con Sẽ Làm Được! của tác giả Donna M. Genett, Ph.D.
Đông Lai Bác Nghị - Dương Tấn Tươi
Nếu không có tài dàn xếp của bao sự ngẫu nhiên thì đâu có quyển Đông-Lai bác nghị nầy ! Đầu tiên, một vị túc nho của chốn Thần kinh, lúc tản cư vào Sài-thành, ngẫu nhiên đến trú ngụ cạnh phòng khám bịnh của chúng tôi. Đó là việc hệ trọng : vì đối với chúng tôi, bực đại nhân ấy là một người thầy đáng kính, mặc dầu Cụ vẫn có nhã ý tự xem mình là bạn vong niên ; vì đối với quyển sách này, bực lão thành ấy mới thật là người cha tinh thần, mặc dù Cụ ấy vẫn một mực chối từ không nhìn nhận. Vả lại, vì muốn giữ vẹn cốt cách của nhà ẩn dật, Cụ yêu cầu chúng tôi đừng nêu danh Cụ vào trong sách ! Thật đáng phục thay đức tính khiêm tốn của bực nho phong, mà cũng khổ cho chúng tôi vì phải dài dòng nhắc lại tiểu sử của bổn dịch mà chỉ được phép dùng một chữ « Cụ » vỏn vẹn để kể cho tròn câu chuyện ! Thì cũng bởi vai tuồng quan trọng của vị túc nho ấy trong khi phiên dịch cho nên chúng tôi xin độc giả niệm tình tha thứ khi thấy chúng tôi lắm lời nói về thân thế của một người đương cầu xin đời đừng nhắc đến tên. Sanh trưởng trong một thế gia của chốn đế đô, cha làm Thượng thơ bộ Lễ, thì khi vào sân Trình, Cụ chiếm bằng cử nhân, việc ấy, theo chúng tôi, cũng chưa đáng kể. Đáng nể là khi rời cửa Khổng để theo tân học, chỉ trong mấy năm Cụ theo kịp các bạn đồng niên nơi lớp tú tài « Tây » ! Rồi sang Pháp để trau giồi học mới, rồi xông pha nơi bể hoạn, rồi cuối cùng nối được chức của cha, thì với sức học đó, với thông minh đó, âu cũng là một việc có thể đoán trước được. Ngày nay, đã chứng kiến bao cuộc bể dâu, Cụ chỉ còn giữ lại một ham muốn là tận hưởng chữ « nhàn » trong thời hưu trí. Muốn được thế, Cụ ẩn mình trong đám rừng người để thưởng thức một câu thơ đẹp với chén trà ngon hoặc cùng vài ba tri kỷ luận bàn về văn học. Cụ nhứt quyết chủ trương : « Lịch sử và địa dư đặt nước nhà vào giữa hai nguồn văn hóa, muốn trở nên một công dân đất Việt, chúng ta phải thâu thập cả đôi. Âu Tây giúp ta kỹ thuật, Á Đông cho ta nghệ thuật làm người ». Để chứng minh lời nói, Cụ nhắc lại một gay cấn vừa xảy ra trong trường quốc tế, rồi chỉ rõ giải pháp của người xưa khi gặp cảnh ngộ tương tợ để bắt buộc kẻ đối thoại phải nhìn nhận : « Thiếu Hán học là một sự thiệt thòi rất lớn ». Sẵn có quan niệm ấy nên Cụ nhận lời ngay khi chúng tôi ngỏ ý cầu học. Lối dạy của Cụ thật là đặc biệt. thường ngày Cụ dùng tiếng Việt để giảng bài, nhưng khi gặp áng văn quá bóng-bảy hay huyền-diệu thì Cụ dùng cả tiếng Pháp để diễn-tả tư-tưởng, mượn triết-học Đức để so-sánh, đem học-thuyết Hy-Lạp để chứng minh, cốt-yếu là giúp học trò hiểu cho thấu đáo, tận-tường. Khi gặp tư-tưởng thanh-cao hoặc áng văn bất-hủ, chúng tôi lật đật ghi rồi chép lại trong giờ nhàn rỗi để trình lên cho Cụ xem-xét. Cụ dò từng câu, đối-chiếu từng chữ để phê-bình. Nhờ Cụ tiến dẫn, chúng tôi mới « nuốt hận » chép thơ của Tư-mã Thiên, sụt sùi thảo tờ biểu xuất-sư của Gia-Cát, băn khoăn đứng trên lầu Nhạc-Dương với Trọng-Yêm, ngạo nghễ biên thơ từ-chức cùng Tạ-Phùng-Đắc. * Ngẫu-nhiên khéo sắp cho chúng tôi gặp được một bực thầy đáng kính, thì cũng nhờ ngẫu-nhiên chúng tôi lại gặp quyển sách đáng yêu. Kẻ vừa nhập đạo thường không tiếc lời ca-tụng tôn-giáo mới của mình. Chúng tôi nào có tránh được thường tình đó trong khi hầu chuyện với ông Trương-Quan, một nhân vật mà giới mại bản Huê-kiều và làng « thanh sắc » bổn xứ vẫn còn nhớ tiếng. Nghe chúng tôi ca tụng nhân tánh của nền văn-hóa Trung-Hoa, Trương-quân đột-ngột hỏi : « Như thế chắc bác-sĩ đã đọc quyển Đông-Lai bác nghị rồi ? » Chúng tôi phải thẹn thùng nhìn nhận : « Chẳng những chưa được đọc mà như phần đông người Việt-Nam, chúng tôi chưa từng nghe đến tên ! » Vì bác-sĩ khen ngợi văn học cổ Trung-Hoa, trí tôi vùng nhớ lại câu chuyện hai mươi năm về trước khi còn thơ ngây cặp sách vào trường để ăn mày chữ. Trong những giờ các bạn được nghỉ ngơi hoặc nô đùa chạy giỡn thì chúng tôi bị ông bác ngồi kèm bên cạnh ép buộc đọc một vài trang Đông-Lai bác nghị. Đó là lời phê-bình về hành vi và hạnh kiểm của các nhân vật đời Đông-Chu. Câu văn huyền diệu, lập luận chặt chẽ, tâm lý sâu sắc là ba đặc điểm của tác phẩm bất hủ đó. Nhưng đối với bộ óc non nớt của đứa trẻ lên mười thì làm sao thưởng thức nổi vẻ đẹp của câu văn hay và sự điêu-luyện của bài luận khéo ? Vậy mà, ông bác vẫn bắt buộc chúng tôi « ê » « a » đọc cho xong vì : « nơi trường, thầy dạy cháu làm văn ; nơi đây, bác dạy cháu làm người ». Lời của bác thật là chí lý ! Thời-đại Đông-Chu là khoảng đen tối nhứt của lịch-sử Trung-Hoa, vì lúc ấy, xã hội đương vươn mình thay đổi lốt, nên gây ra bao sự xáo trộn lớn lao. Bực thánh phải chung đụng với sát nhân, hiền triết phải ăn ở cùng gian tà, rồi tranh đấu chống chọi nhau nẩy sanh ra trăm ngàn việc, hay dở đều có. Tất cả hai mặt – tốt và xấu, thanh với tục – của con người đều phô bày. Nếu gặp một nhà phê-bình có cặp mắt tinh đời, có bộ óc sáng suốt, lại thông tâm lý, hiểu chánh trị, khảo sát thời kỳ ấy thì chắc chắn sẽ để lại cho đời một tác phẩm vô cùng hữu ích. Lữ Đông-Lai có đủ điều kiện ấy cho nên quyển Bác-nghị là một chiếc thuyền đã cắm sào ở ngoài dòng thời gian… Khi đọc quyển Đông-Lai, chúng ta có cảm giác đương nghe một tay thợ chuyên môn giải thích về các bộ phận trọng yếu của guồng « máy lòng » rồi chỉ cho chúng ta thấy các nguyên do thường làm cho động cơ ấy chạy. Cũng bởi « động cơ » và nguyên do ấy không thay đổi cho nên lời của Đông-Lai luận về một thời vẫn có thể giúp ích cho người trong muôn thuở. Vì lẽ đó, lúc trẻ, chúng tôi oán trách ông bác bao nhiêu, thì ngày nay, đã tránh được nhiều kinh nghiệm chua cay, chúng tôi lại cám ơn ông bác bấy nhiêu ! Đáp lời yêu cầu, ông Trương-Quan phải nhờ người về tận Thượng-hải mua giùm cho chúng tôi một bổn. Của báu cầm tay, chúng tôi đến nhờ Cụ dẫn giải giùm điều thắc mắc : « Tại sao một tác phẩm giá trị dường kia, mà từ xưa, trong xứ ta chưa từng nói đến ? » Cụ giảng : « Những sách Trung-Hoa được phiên dịch và truyền bá ở Việt-Nam phần nhiều vì ba cớ : Một là bởi có nhiều người bị bắt buộc phải đọc đến, cho nên bàn tới cũng nhiều, dịch ra không ít, đó là những sách có tên trong chương trình thi cử. Hai là các thứ sách quyến rủ người vì cốt chuyện, ấy là lịch sử tiểu thuyết tức là truyện. Còn về loại thứ ba là vận văn, vì đọc lên nghe êm tai, lại dễ nhớ, nên có nhiều người ưa thích. « Đông-Lai bác nghị không đứng vào ba hạng đó. Vì là văn phê bình nên đòi hỏi ở độc giả một trí phán đoán mà người đời ít hay dùng đến. Và là văn nghị luận nên khô khan mà bắt buộc người đọc phải suy xét mới thưởng thức. Không có vần, thiếu cốt chuyện hấp dẫn, lại không được ghi vào chương trình thi cử, như vậy ít người biết đến thì cũng là một chuyện không lạ. Nói thế không phải bảo sách ấy không có độc giả ! Ngoài số thí sinh hiếu kỳ nên tìm Đông-Lai đọc trước khi vào đình thí, phần đông, các người mê thích sách đó toàn là những kẻ đã đỗ đạt, ra làm quan, ưa dùng quyển Bác-nghị để kiểm điểm hành động trong lúc chăn dân hay khi xử thế. Rồi đến lúc chiều tà bóng xế, khi đã mỏi mệt thì trí muốn yên nghỉ hơn là dịch sách ? Vả lại đối với các bực tiền bối ấy, dịch hay viết sách là một sự ngoài tưởng tượng. Đối với họ, học là hành nghĩa là đem ra áp dụng, để làm tròn bổn phận của mình, chớ không dám học để truyền cho ai cả. » * Rồi theo lệ thường, Cụ giải thích, chúng tôi ghi chép. Cả thảy được tám mươi bốn bài. Mỗi bài là một sự ngạc nhiên. Trong văn chương Trung-Hoa, chúng ta thường bực mình vì gặp lời nhiều hơn ý. Với Lữ Đông-Lai, câu văn đẹp đẽ vẫn đi kèm với tư tưởng cao thâm. Lắm bài không đầy gang tấc mà chất chứa ý dài muôn vạn dặm. Càng suy xét, càng thấy sâu rộng. Về mặt tâm lý thực nghiệm và chánh trị thực hành, chưa chắc có quyển sách nào trong văn chương Âu-Mỹ sánh kịp Đông-Lai bác nghị. Ấy là chưa bàn đến lý luận, phần cốt yếu của sách. Mở đầu cho mỗi bài, tác giả nêu ra một tư tưởng căn-bản, nhiều khi không dính-líu với cốt chuyện đem ra phê-bình. Độc-giả còn tưởng nhà văn lạc đề, thì chỉ vài câu, đã móc dính đầu-đề với ý-niệm căn-bản. Rồi dùng câu chuyện đem phê-bình để chú-thích tư-tưởng chánh ghi trên đầu bài. Trước với sau, đầu với đuôi đều ăn khớp, các bộ-phận liên-lạc cùng nhau một cách tế-nhị làm cho độc-giả tưởng là đương nghe nhà toán-học khéo chứng-minh một định-lý của hình-học. * Rồi một hôm, mấy người bạn tình-cờ đến viếng giữa giờ giảng dạy của cụ, đó là ngẫu nhiên thứ ba. Cũng như chúng tôi, các bạn đều bị câu văn trong-sáng và lập-luận huyền-diệu của Đông Lai hấp-dẫn nên mới khuyên chúng tôi cho xuất-bản. Từ-chối là sự dĩ-nhiên, vì bổn-tâm của chúng tôi là chỉ học cho mình… Lý-luận của các bạn thật cũng chặt-chẽ : « Hiện nay, quốc-văn đương nghèo… học-sanh thiếu món ăn tinh-thần, v.v…. Trong lúc các tiểu-thuyết khiêu-dâm chường mặt trên báo và trong hàng sách thì ôm giữ cho mình một tác-phẩm có giá-trị là một việc… ích kỷ, một tội to đối với nền học-vấn ». Không phương chối-cãi, đành phải nghe theo. Từ đây mới gặp bao nỗi khó … * Trước hết, nếu cho in vỏn-vẹn tám mươi bài nghị-luận của Đông-Lai mà chẳng có những đoạn Xuân-Thu, Tả-Truyện thì làm sao độc-giả lãnh-hội được ? Vả lại, lắm khi, vì bắt-bẻ một câu hoặc một chữ của Tả-Truyện mà Đông-Lai viết thành bài « bác-nghị ». Vậy dịch Xuân-Thu và Tả-Truyện song-song theo « bác-nghị » là một sự tối-cần. Cũng là một điều quá khó. Các bạn chắc đều biết Xuân-Thu là một trong năm quyển kinh của Đức Khổng-tử. Đó là bộ sử nước Lỗ do Ngài sửa-định, chép từ đời Lỗ Ẩn-công cho đến Lỗ Ai-công gồm có 240 năm (từ 721 tới 481 trước tây lịch). Với quan-niệm hiện-tại về sử học khi chúng ta trịnh-trọng lật quyển Xuân-Thu thì sẽ vô-cùng ngạc-nhiên hay thất-vọng. Vì đó chỉ là một mớ sử liệu chép rời-rạc, dường như gặp chuyện thì ghi, không màng đến sự liên-lạc hay tương-quan. Lại có nhiều việc quan-trọng mà không chép. Khi chép thì quá vắn-tắt gần như đơn-sơ. Thí-dụ : bà Khương-thị vì thương con không đồng nên gây ra cuộc xung-đột giữa Trịnh Trang-công và em là Cung Thúc-Đoạn thì nào là quỷ-kế của anh, nào là tham-vọng của em, nào là lời bàn của bá-quan rồi đến trận đánh, với cuộc vây thành phá lũy, cho đến khi cùng đường Thúc-Đoạn chạy vào xứ Yển. Trịnh Trang-công giam mẹ, thật là bao nhiêu gây cấn mà trong Xuân-Thu chỉ có một câu : « Mùa hạ, tháng năm, Trịnh-bá thắng Đoạn tại Yển ». Có lúc còn vắn tắt hơn, như « Tề cứu Hình » hoặc « Địch đánh Vệ ». Vậy thì chân giá trị của bộ Xuân-Thu ở đâu mà vẫn được xem là quyển kinh để « định công luận, đoán án cho muôn đời » ? Tại sao chính Đức Phu-Tử cũng yêu cầu người đời « biết cho ta » hay « buộc tội cho ta » thì nên do bộ Xuân-Thu ? Như vậy, bực thánh và dư luận cổ kim đã lầm chăng ? Hoặc giả, vì quan niệm về sử học của xưa với nay quá khác nhau mới có điều chinh lịch đó ? Nếu thật thế thì tại sao một học giả của thời đại nầy, cụ Nguyễn-Văn-Tố, một người mà chưa ai dám ngờ vực về sức học uyên thâm, cũng chưa ai dám nghi đến sự thận trọng của ngòi bút, đã viết : « Muốn thưởng thức cái hay của bộ Xuân-Thu, phải nhận thấy hương nồng của triết lý, thơm ngát của luân lý, mùi vị của chánh trị ở trong kinh đó. » Làm sao những câu văn vắn-tắt sơ sài kia lại chứa được bao nhiêu mùi, hương và vị ? Chỉ vì Đức Phu-Tử khéo dùng một phương pháp kín đáo : quên TÊN và VIỆC. Sự quên hữu ý, sự cố tâm quên có nghĩa là chê bai, là khiển trách. Như trong thí dụ trên, không chép tên Trịnh Trang-công chỉ gọi Trịnh-bá là chê lỗi chẳng biết dạy em. Như Thúc-Tôn Kiểu-Như, đại phu nước Lỗ chuyên chế mạng lịnh qua rước vợ ở nước Tề thì Xuân-Thu chép : « Vợ Kiểu-Như tên Phụ-Hỉ ở Tề về. » Như vua của nước Châu, tên Thiệt, chức là công, thường gọi là Châu-công, vì sợ loạn nên bỏ xứ trốn qua Tào, sau cùng qua triều Lỗ, Xuân-Thu chỉ chép : « Thiệt đến ». Còn vua nước Kỷ, tước là bá, khi qua triều Lỗ lại dùng lễ của man di, Xuân-Thu chỉ biên : « Kỷ đến triều ». Chẳng những thiếu là chê, có khi thừa cũng là khiển trách, như thêm tên tộc của các vị vua có lỗi. Muốn chỉ trích vua Vệ dùng kế tiểu nhơn để chiếm nước Hình thì Xuân-Thu ghi : « Mùa xuân, tháng giêng, ngày bính ngọ, Vệ-hầu tên Hủy diệt Hình. » Khi muốn tỏ sự hư hèn của Tống Chiêu công thì chép : « Mùa đông, tháng mười một, người Tống giết vua tên là Chử-cữu. » Nhưng phần nhiều khi Xuân-Thu thêm tức là khen, nếu ghi cả chức tước. Muốn nêu tấm lòng trung của hai bề tôi nước Tống – công tử Ấn và Đãng Ý-Chư – Xuân-Thu chép : « Người Tống giết quan đại tư mã. Quan đại tư thành trốn qua Lỗ ». Như câu : « Mùa thu, tháng tám, ngày giáp ngọ, tên Vạn của Tống giết vua tên Tiệp và quan đại-phu Cừu Mục » là dụng-ý phạt Nam-Cung Trường-Vạn, một kẻ thí chúa, lại chê vua Tống vì tánh ham đùa-bỡn với bề tôi, phải mua lấy cái chết thảm-khốc, còn khen quan đại-phu tuy yếu-đuối mà dám cầm hốt đánh một tên võ phu, coi thường cái chết. Chỉ thêm bớt vài chữ, Đức Phu-tử đã tỏ sự khen chê, ban điều thưởng phạt. Mà khen với chê, thưởng và phạt, khi đã trưng nhiều lượt, sẽ tỏ bày một luân-lý và một đường chánh-trị. Cả hai là sản-phẩm của quan niệm về cuộc đời, về vũ-trụ tức là triết-lý. Phương-pháp kín đáo ấy chẳng những bày tỏ được mấy nguồn văn hoá mà còn gây một ảnh-hưởng, một hiệu lực phi thường : được một tiếng khen của Xuân-Thu là hưởng giọt mưa Xuân đầm-ấm, bị một câu trách là chịu ngọn nắng Thu gay gắt. Thật là kết quả mỹ-mãn, nhờ bởi tay thợ thánh khéo dùng một khí cụ thô sơ. Và cũng vì thế, sự phiên dịch Xuân-Thu chất chứa bao nhiêu nỗi khó : phải cân nhắc từng chữ, phải theo đúng nghĩa mà còn lo-sợ thừa lời. * Thiếu một chữ là chê bai, không chép một việc là trách phạt, thật là cực kỳ tinh khéo ! Nhưng chỉ khéo đối với những độc-giả thông lịch-sử Trung-Hoa thời Đông-Chu ; còn với những người khác, không thấy chép, tưởng không có chuyện, thì sự thưởng phạt sẽ vô hiệu quả. Vì vậy bộ Xuân-Thu cần có chú-giải. Chính là Tả-Truyện, một quyển sử đi song song với kinh Xuân-Thu do ngọn bút cứng rắn của Tả Khâu-Minh chép. Nơi đây, cần mở một dấu ngoặc để bàn về tên của nhà sử trứ-danh ấy. (Có nhiều học-giả – trong số ấy có thầy của chúng tôi – đọc là : Tả kỳ Minh. Vậy nên theo phần đông đọc Khâu hoặc Khưu hay theo các cụ mà đọc là Kỳ ? Sự chinh lịch nầy do tục cữ tên mà sanh ra. Số là khi có tên Khâu hay Ni (tức Khổng-Khâu, Trọng-Ni, tên của Đức Phu-Tử), hoặc Kha (tức Mạnh-Kha tên của thầy Mạnh) thì sách nho đều ghi ba chữ « nên đọc Mỗ » thành ra Khổng-Mỗ, Trọng-Mỗ và Mạnh-Mỗ. Lâu ngày – theo lời của ông Nhượng-Tống – bản in mòn đi, chữ Mỗ mất hết một nét sổ nên thành chữ Kỳ. Bọn hậu-sanh chúng tôi không phải thiếu lòng thành kính thánh hiền, nhưng thấy cần đọc cho đúng, mà chắc các đấng Phu tử, Mạnh tử, và các cụ cũng đã tha thứ khi chúng tôi đọc đến Ni và Kha. Vì vậy, từ đây nên đọc là Tả Khâu-Minh và đóng lại dấu ngoặc.) Có phải vì đứng gần cụ Khổng, một cây cổ-thọ của văn hóa Trung Hoa nên bị tàn che bóng lấp mà thân thế của Tả Khâu-Minh bị vùi mất trong biển thời gian chăng ? Chỉ còn nhớ là vị quan coi về sử của nước Lỗ noi theo ý chí của Phu tử chép lại những chuyện của kinh Xuân-Thu. Vi Khổng-tử cân nhắc ngòi bút để thưởng phạt như một vì thiên tử, nên được gọi là « Tố vương » – nhà vua không ngôi – và vì đó Tả Khâu-Minh được gọi là « Tố thần ». Nhiệm vụ của tử gia ấy là theo mỗi câu Xuân-Thu để kể chuyện. Và tất nhiên nhắc lại những đoạn không có chép trong kinh, để tỏ sự biếm nhẽ của Phu tử. Theo lối viết sử ngày xưa, mỗi bài đều có luân lý, ở đây là « lời bàn của người quân tử ». Chúng ta chớ lầm tưởng vì là quyển truyện cho nên kể lể dông dài như… bài tựa nầy. Trái lại, vừa đẽo gọt vừa cân nhắc nên câu văn trở nên gọn gàng và cứng rắn. Như tả Lỗ Trang-công đi cùng Tào Uế đánh Tề ở Trường câu : « Ngồi chung xe đến Trường-câu. Trang-công sắp ra lịnh đánh trống thúc quân. Tào Uế ngăn : « Chưa nên ! » Chờ quân Tề xong ba hồi trống. Tào Uế bảo : « Đến lúc ! » Thua to, quân Tề chạy. Trang công sắp ra lịnh đuổi theo, Tào Uế ngăn : « Chưa nên ! » Xuống, xem dấu xe của Tề, trở lên đứng trông lại. Bảo : « Đến lúc ! « mới có lịnh đuổi theo. Toàn thắng. » Như khi Khuất Hà đánh trận Bồ-tao, vì hoài nghi, hỏi Đấu Liêm : « – Sao không bói thử ? - Bói là để quyết điều nghi. Không nghi cần gì bói ! Rồi đem quân đánh thắng Viên, chiếm Bồ tao, minh hội xong, kéo về. » Câu văn có khi trở nên trục trặc, gút mắt vì bị bóp chặt hay thâu quá ngắn « Cho đánh trống. Tiến quân. Toàn thắng. Tiêu diệt hạ Nhược Ngao ». Trong nhiều đoạn, Tả-Truyện chỉ ghi lại vài cử chỉ mà cũng vẽ được một tâm lý phức tạp của nhân vật. Muốn tả lòng căm tức và chí gấp báo thù của vua Sở khi được tin Thân Vô-Uý bị Tống giết, Tả-Truyện chép : « Vua Sở hay, giũ áo đứng lên, đi chơn vào thất. Vào đến cung, giày đem tới. Ra cửa cung, gươm dưng tới. Đến chợ Bồ tiêu, xa giá đẩy tới. Mùa thu, tháng chín, Sở vây kinh thành Tống. » Dùng câu văn tuy vắn mà sâu để thuật lại những mẩu chuyện tuy đơn sơ mà đầy ý nghĩa có thể làm gương đáng theo hay nên tránh cho muôn đời, Tả-Truyện thành một áng văn tuyệt tác, chẳng những được văn nhân sùng bái mà còn được võ tướng kỉnh mộ. Chính những tay cung kiếm lại mắc phải « bịnh Tả-Truyện », là vì đi đến đâu, trong hổ trướng hay khi điều khiển ở trận tiền đều giữ cận bên mình quyển sử của Khâu-Minh. Nhìn nhận giá trị của văn Tả-Truyện là nhìn nhận sự khó dịch của bộ sử đó. Vì diễn tả một tư tưởng của người bằng tiếng của mình, việc đó còn có thể làm được. Còn chuyển dịch một câu văn hay từ tiếng nầy qua tiếng nọ thật là một chuyện quá khó. * Lẽ tất nhiên, muốn dịch hai quyển Xuân-Thu và Tả-Truyện, chúng tôi hoàn toàn nhờ nơi Cụ. Từng chữ, từng lời. Cụ kiên tâm giải thích rồi chịu khó kiểm duyệt. Khi nghe các bạn khuyên tôi xuất bản, thản nhiên, Cụ dạy : « Tùy nơi anh ! Nếu thấy có thể giúp ích được thì cứ tự tiện. Còn tôi chỉ là người của thế hệ trước. Đã qua rồi. Theo thế hệ đó, muốn đọc sách thánh hiền cần phải thông Hán học mới trọn hiểu tinh thần. Anh chớ quên : theo chúng tôi, Hán-văn là sự cần thiết, không thể không ; còn phiên dịch là sự bất đắc dĩ… Anh cũng nên nhớ giùm tánh tôi ưa thanh tịnh, ít ham đời nói đến tên… » Lời nhắc nhở ấy – đối với chúng tôi – là một mạng lịnh. Vì sự yêu cầu đó mới có lời phân trần lè nhè nầy. Chớ đâu phải vì chúng tôi. Nào có muốn phô trương thằng tôi khả ố nầy làm gì cho rườm tai độc giả ! Vì công lớn của cụ trong sự phiên dịch ; Vì sự giúp đỡ của các bạn : trước là ông Trương Quan cho sách, sau là các bạn Đỗ-Thiếu-Lăng giúp tài liệu, bạn Nguyễn-Duy-Cần cho xem vài bài Đông-Lai đã dịch từ lâu. Nhứt là anh Lê-Thọ-Xuân, cặn kẽ lúc chỉ bảo, tận tình khi sửa chữa, tỉ mỉ trong ấn loát. Một người « Anh » với nghĩa tốt đẹp của danh từ ; Vì sự lương thiện của trí óc trong khi trước tác ; Vì sự thành thật đối với mình, với đời, với nền văn học ; Chúng tôi trân trọng xin đọc giả nhận rõ điều nầy : Khi gặp những câu dịch gọn gàng, ăn khớp với nguyên văn, bạn nên nhớ đó là công, đó là tài của Cụ, thầy chúng tôi ; Khi thấy câu văn bất thành cú, khi gặp những lỗi lầm, chỗ dịch sai, bạn nên chắc chắn là vì sự dốt nát của DƯƠNG-TẤN-TƯƠI Mời các bạn đón đọc Đông Lai Bác Nghị của bác sĩ Dương Tấn Tươi.
Cổ Nhân Đàm Luận - Cầm Đài & Trần Trung Viên
NHỜI NÓI ĐẦU Người xưa dẫu khuất, truyện cũ còn ghi. Trăm năm bia đá thì mòn, nghìn năm bia miệng hãy còn chơ chơ. Nói một câu mà muôn đời sử sanh còn chép, luận một nhẽ mà mấy kiếp miệng thế còn chuyền. Nhất ngôn hưng bang nhất ngôn táng quốc, một nhời nói ra mà nước vững nhà yên, một nhời nói ra mà bể dao núi động. Quan-hệ thay là lời nói ! Xét ra các bậc đế-vương, vĩ-nhân, anh-hùng, hào-kiệt ; chí-khí hiên ngang, công-danh cái thế, sự-nghiệp ngang-tàng, non song chung đúc, kể đã bao phen vật đổi sao dời, mà tiếng tăm còn lừng-lẫy, muôn thuở nào quên. Ấy chẳng phải là những người đã dìu-dắt dậy khôn cho hậu-sinh dư ! Gương sáng ví tầy nhật nguyệt, khí thiêng tựa với càn khôn ; những nhời vàng tiếng ngọc đó, ta há nỡ quên sao ? Vậy nên lưu chữ lấy mà mở mang chí-khí, mà nghiền mà nghĩ cho kỹ-càng cho thấm-thía, họa may óc non dổi nên sắt đá, khỏi phải như sáp, mà muốn nận vuông nên vuông, nận tròn nên tròn, mang tiếng nhược-nhu. Vậy thì anh em ta, đang lúc ở vào buổi Âu Á dao thời này, cũng nên đọc mấy câu cổ ngữ sau đây chẳng cũng là một phương thể thao cho tinh-thần dư ? Mong thay ! Mong lắm thay ! Ngày mồng 3 tháng chạp năm Mậu-Thìn (13 Janvier 1929) T. T. V. *** Cống-Chỉnh là một tay dan hùng đời Lê, trước sau không một, chỉ biết lợi mình. Khi bỏ ngoài Bắc vào theo Tây-Sơn, rồi dắt quân Tây-Sơn ra Bắc sâm lấn, làm lắm điều tàn bạo. Chỉnh có một người bạn thân tên là Thế-Long. Một hôm hai người nói truyện việc nước, Chỉnh có ý thương tiếc chúa Trịnh ; Thế-Long nhân dịp muốn toan mưu dúp đỡ nhà Chúa mới nói rằng : « Ông tuy nói thì nhân nghĩa mà bụng ông thì tàn-bạo. Trước ông xuất thân, được danh giá cũng nhờ có chúa Trịnh, nay ông lại dúp Tây-Sơn mà diệt Trịnh, kể tội chúa Trịnh là hiếp vua, sao ông không xét công chúa Trịnh phù Lê hơn 200 năm. Ông theo người mới hại người cũ là bất nghĩa ; kể tội người, không kể công người là bất nhân. Làm đời trượng-phu mà lại đeo tiếng ấy sao ? » Cống-Chỉnh nghe song thẹn nói rằng : « Tôi vì đạo nhớn thiên-hạ mà diệt Trịnh tôn Lê, đó là rất nhân-nghĩa, sao gọi được là tàn-bạo. » Thế-Long nói : « Vua Lê vẫn tôn mà nước vẫn yên, can gì phải nhờ đến ông dúp, chẳng qua ông chỉ mượn tiếng là tranh cướp. Ông đưa quân Tây-Sơn về hại dân hại chúa, cả nước ai cũng cho ông là thú dữ, tôi nói tàn bạo là còn nể ông đấy ông đừng dữ mãi lỗi cáo đội lốt cọp mà rồi nhân tâm ngày một thêm thù oán. Ông sẽ là người có tội với cả nước, thì rồi cả nước dong ông làm sao được, » Cống-Chỉnh nghe xong giận quá, nhưng mà cứ điềm nhiên nói rằng : « Thôi anh đã chót bạn với thú dữ thì nên nghĩ mưu gì hộ thú dữ với ! » Thế-Long nói : « Nay ông dẹp bọn kiêu binh đã song, chỉ nên điều-đình với Tây-Sơn cho rút quân về, rồi tìm người hiền nhà Trịnh lập lên là yên. » Chỉnh nói : « Thế thì anh cứ về xem có người hiền nhà Trịnh nào, sẽ đem nhời ra nói mà kiếm đường tiến thân nhé ! » Thế-Long từ dở ra, Chỉnh nói một mình rằng : « Tên nó là Long, long là rồng, rồng nên cho nó xuống nước mới được, kẻo để trên cạn nó hại người ! » Nói song mật sai người ra đón Long ở ngoài cổng, bắt chói quăng xuống sông Nhị Hà.   Mời các bạn đón đọc Cổ Nhân Đàm Luận của tác giả Cầm Đài & Trần Trung Viên.