Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hiện Tại

Khi toàn bộ gia đình Malory tập trung tại Haverston để đón Giáng Sinh, một món quà bí ẩn được một người vô danh gửi đến. Món quà là một cuốn nhật ký cũ - một câu chuyện nhẹ nhàng và gay cấn về mối tình giữa vị Hầu tước thứ hai, Christopher Malory, và một người đẹp Gypsy bí ẩn tên là Anastasia, người đang tìm kiếm một mối tình với một người không phải Gypsy để cứu mình khỏi một cuộc hôn nhân sắp đặt trước với một kẻ vũ phu. Mặc dù lãnh chúa người Anh bảnh bao thấy Anastasia là một cô gái nóng bỏng và xinh đẹp lạ kỳ, Christopher cũng không bao giờ có thể đồng ý kết hôn với một phụ nữ ở tầng lớp thấp kém như vậy. Nhưng những điều kỳ diệu đã xảy ra trong hội mùa của hòa bình và sự trao gửi và yêu thương này, khi hai con người phi thường bị ngăn cách bởi tầng lớp xuất thân bắt đầu một vũ điệu cuồng nhiệt của ý chí và mưu mô. Và trong sự thăng hoa kỳ diệu của một mối tình lãng mạn huy hoàng vào dịp Giáng Sinh cách đây rất lâu, có những bài học khôn ngoan được đúc kết đầy đủ sẽ làm phong phú thêm trái tim của con cháu họ - và thực sự là của tất cả những ai đã từng mơ ước. *** Một cuốn tiểu thuyết mới từ JohannaLindsey là một món quà trong bất kỳ mùa lễ hội nào. Tuy nhiên, câu chuyện theo chủ đề ngày lễ mới của bà về một gia tộc liêm khiết - nhưng vẫn lộng lẫy đến say đắm - Gia tộc Malory, The Present, là một thứ đặc biệt không thể cưỡng lại được. Có rất nhiều kịch tính xung quanh cây thông Noel của gia đình ngay cả trước khi một gói quà bí ẩn được gửi đến, một gói quà sẽ mãi mãi thay đổi cách họ nhìn nhận về bản thân họ. The Present có những bí mật đen tối, những căng thẳng trong gia đình, tình yêu đơn phương - tất cả những yếu tố cấu thành nên một cuốn tiểu thuyết lãng mạn lịch sử khó quên. *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), Ngôi Sao Lạc Loài Chỉ Một Lần Yêu Nơi Em Thuộc Về Trái Tim Hoang Dã Yêu Lầm Anh? Tình Yêu Tìm Thấy Chỉ Một Tình Yêu The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you. *** Nước Anh, 1825 Gia tộc Malory luôn dành những ngày lễ Giáng Sinh tại Haverston, dinh thự của tổ tiên ở nông thôn, nơi người lớn tuổi nhất trong số họ sinh ra và lớn lên. Jason Malory, Hầu tước Thứ Ba của Haverston và là người lớn tuổi nhất trong số các anh em trai nổi loạn, là thành viên duy nhất trong gia đình vẫn thường xuyên trú ngụ tại đây. Là chủ gia đình từ khi mới mười sáu tuổi, Jason đã nuôi nấng các em trai của mình — hai người trong số họ đã hoàn toàn gây tai tiếng trong những trò theo đuổi của họ — và một cô em gái. Hiện tại, các Malorys và con cháu họ khá đông và khó sắp xếp chỗ ở, đôi khi ngay cả đối với chính Jason. Vì vậy, một đoàn người đông đúc đã tập trung tại Haverston vào những ngày này cho mùa Giáng Sinh. Con trai và là người thừa kế duy nhất của Jason, Derek, là người đầu tiên đến, hơn một tuần trước Giáng Sinh. Cùng với câu là vợ của cậu, Kelsey, và hai đứa cháu đầu tiên tóc vàng và mắt xanh của Jason. Anthony, em trai út của ông, là người tiếp theo đến chỉ vài ngày sau Derek. Tony, như hầu hết mọi người trong gia đình đều gọi anh, thừa nhận với Jason rằng anh đã rời khỏi London sớm sau khi nghe tin rằng anh trai James của họ đang tức giận với anh. Trêu trọc James là một chuyện, và một số điều mà Anthony thường cố gắng làm, nhưng khi James tức hộc máu, thì Tony coi đó là một vấn đề hoàn toàn khác. Anthony và James là hai người em trẻ nhất của ông, nhưng họ chỉ cách nhau một tuổi. Cả hai đều là những tay đấm bốc cừ khôi, và Anthony có thể cầm cự với những tay đấm cừ nhất, nhưng James thì cao tay hơn, và nắm đấm của anh thường được ví như những viên gạch rắn chắc. Đi cùng với Anthony là vợ anh, Roslynn, và hai cô con gái của họ. Judith, đứa lớn nhất 6 tuổi, giống cả cha và mẹ, có mái tóc vàng đỏ chói lọi của mẹ và đôi mắt xanh coban của cha, một sự kết hợp nổi bật nghiêm trọng mà Anthony sợ rằng sẽ khiến cô bé trở thành người đẹp trị vì trong thời đại của mình — điều mà với tư cách một người cha và một tay phóng đãng hoàn lương anh không hề mong đợi. Nhưng cô con gái nhỏ của anh, Jaime, cũng sẽ khiến vô số trái tim tan vỡ. Cũng như tất cả các vị khách của mình, Jason là người đầu tiên nhận thấy món quà xuất hiện trong phòng khách trong khi gia đình đang ăn sáng. Thật ra, thật khó để bỏ lỡ khi nó được đặt nổi bật trên một chiếc bàn bên cạnh lò sưởi. Được bọc bằng vải vàng, thắt một dải ruy băng nhung đỏ và nơ, nó có hình dạng kỳ lạ, gần giống như kích thước của một cuốn sách dày, nhưng một phần nhô ra tròn ở trên gợi ý rằng nó không chỉ đơn giản như vậy. Chọc ngón tay vào thấy phần nhô ra có thể di chuyển, nhưng không nhiều lắm, vì ông phát hiện ra khi ông nghiêng gói quà sang một bên mà nó không thay đổi vị trí. Thật lạ lùng, nhưng lạ lùng hơn vẫn là không có dấu hiệu gì cho thấy món quà này được gửi từ ai, cũng như nó là dành cho ai. “ Hơi sớm để chuyển quà Giáng sinh, phải không?” Anthony nhận xét khi đi vào phòng nhìn thấy Jason đang cầm món quà. “Cây thông Noel thậm chí còn chưa được đưa vào.” “Đó cũng là suy nghĩ của tôi, vì tôi không đặt nó ở đây,” Jason trả lời. “ Không ư? Vậy thì là ai?” “ Tôi không biết,” Jason thừa nhận. “ Vậy thì nó dành cho ai?” Anthony hỏi, “ Bản thân tôi cũng muốn biết điều đó.” Anthony nhướng mày vào thời điểm đó. “Không có tấm thiệp nào sao?” Jason lắc đầu. “Không có. Tôi vừa thấy nó ở đây trên cái bệ này,” ông nói và đặt nó trở lại. Anthony cũng nhặt món quà lên để xem xét nó một chút. “Hmmm, ai đó chắc chắn đã bọc nó thật đẹp mắt. Em cá rằng nó sẽ thu hút bọn trẻ — ít nhất là cho đến khi chúng ta tìm ra nó là gì.” Khi nó xuất hiện, nó cũng thu hút cả người lớn. Trong những ngày tiếp theo, vì không ai trong gia đình nhận đã đặt nó ở đó, món quà đã tạo ra một cảm giác tò mò. Tất cả người lớn đều cầm lên chọc, lắc hoặc kiểm tra nó, nhưng không ai có thể tìm ra nó có thể là gì, hoặc nó dành cho ai. Những người đã đến cho đến nay đã tập trung trong phòng khách vào cái đêm khi Amy bước vào ôm một trong hai đứa con sinh đôi của cô ấy. “Đừng hỏi tại sao chúng cháu đến muộn, mọi người sẽ không tin điều đó đâu.” Cô ấy nói, thở một hơi rồi nói tiếp, “Đầu tiên bánh xe ngựa rơi ra. Sau đó, không đầy một dặm trên đường, một trong những con ngựa bị mất không phải một, mà là hai chiếc móng. Sau khi chúng cháu giải quyết xong tất cả và chúng cháu gần như đã ở đây, thì chiếc trục xe chết tiệt lại bị gãy. Cháu nghĩ chắc chắn lúc đó Warren sẽ đập tan chiếc xe ngựa tội nghiệp đó. Anh ấy đã đá nó cho hả giận. Nếu cháu không nghĩ sẽ đánh cuộc với anh ấy rằng chúng cháu sẽ đến đây hôm nay, cháu thực sự không nghĩ rằng chúng cháu sẽ đến nơi được. Nhưng mọi người biết đấy, cháu không bao giờ thua một vụ cá cược nào, vì vậy ... Nhân tiện, bác Jason, ngôi mộ không bia tội nghiệp nằm trong vùng đất trống đáng yêu ở phía đông ấy. Ngôi mộ nằm gần với con đường chạy qua khu đất của bác. Chúng cháu đã đi bộ qua con đường đó để đến đây, vì nó là con đường ngắn nhất vào thời điểm đó, chỉ cần đi qua khu đất trống đó.” Lúc đầu không ai nói một lời nào, vẫn còn buồn cười sau bài diễn văn dài đó. Nhưng sau đó Derek lên tiếng, “Nhớ lại ngôi mộ mà nãy em vừa nhắc đến, em họ. Reggie và anh đã tìm thấy nó khi bọn anh còn là những đứa trẻ đang tìm hiểu về điền trang. Đã từng luôn luôn có ý hỏi cha về nó, Cha không bao giờ nói đến nó, sau đó bọn con cũng quên nó luôn.” Lúc đó, tất cả mọi người đều đang nhìn về phía Jason, nhưng anh chỉ nhún vai. “Quỷ tha ma bắt nếu ta biết ai đã được an nghỉ ở đó. Ngôi mộ đó đã có ở đó từ trước khi ta được sinh ra. Ta đã hỏi cha ta về điều đó một lần, như ta nhớ lại, nhưng cha ta không trả lời, thực sự lúng túng và ấp úng rất nhiều. hình như ông ấy cũng không biết nên ta không hỏi lại.” “ Hãy nghĩ xem tất cả chúng ta đều đã nhìn thấy ngôi mộ đó vào lúc này hay lúc khác, ít nhất là những người trong chúng ta đã từng được nuôi dưỡng ở đây”, Anthony không nhắc đến ai cụ thể. “Một nơi kỳ lạ cho một ngôi mộ, và một ngôi mộ được chăm sóc tốt ở đó, trong khi có hai nghĩa trang gần đó, chưa kể nghĩa trang của tổ tiên ngay trên khu đất này.” Judith, người đang đứng cạnh cái bàn nhìn chằm chằm vào món quà bí ẩn, đến gần người chị họ Amy và giơ tay đỡ lấy đứa con song sinh hai tuổi khỏi tay cô. Judy cao so với tuổi của cô bé và rất thích chơi với những đứa trẻ mới biết đi. Amy chỉ ngạc nhiên là cô bé chả nói năng gì. “ Cái ôm của chị đâu, mèo con?” Khuôn mặt xinh đẹp nhìn chằm chằm vào cô một cách ương bướng. Amy nhướng mày về phía cha của cô bé. Anthony đảo mắt, nhưng vẫn giải thích, “Nó đang hờn dỗi vì Jack vẫn chưa ở đây.” Jack là con gái lớn của James và Georgina. Mọi người đều biết Jack và Judy, hai đứa chỉ cách nhau một tháng tuổi, không thể tách rời khi chúng ở cùng nhau, và chúng yêu nhau đến mức cha mẹ của chúng phải đảm bảo rằng chúng được thường xuyên ở bên nhau - đặc biệt là vì cả hai đều không hạnh phúc khi chúng cách xa nhau quá lâu. “Không phải,” Judith phủ nhận với một cái bĩu môi lầm bầm khi cô bé bước trở lại cái bàn. Jason là người duy nhất chú ý khi sự quan tâm của Amy tập trung vào món quà đang thu hút sự tò mò của mọi người. Ông sẽ không nghĩ gì, ngoại trừ biểu hiện của cô. Cái nhíu mày thoáng qua của cô khiến ông tự hỏi liệu cô có đang cảm nhận được điều đó không. Cô cháu gái này của ông có một sự may mắn phi thường, chưa bao giờ thua một cuộc cá cược nào trong đời, mà cô cho rằng đó là những “linh cảm”, như cách cô gọi chúng, mà cô có được. Jason coi những điều đó như những cảm giác quá kỳ lạ, đó là lý do tại sao ông sẽ không nhận ra nếu như cô đang có linh cảm đó ngay bây giờ. Vì vậy, ông cảm thấy nhẹ nhõm khi cái cau mày của cô dịu đi và cô dành sự quan tâm trở lại cho em trai ông. “Vậy là chú James vẫn chưa đến ạ?” Amy phỏng đoán từ phản ứng cuối cùng của Anthony. Anthony lẩm bẩm. “Chưa, và hy vọng anh ấy sẽ không đến.” “Ôi chao. Hai người lại đánh nhau ạ?” Amy lại phỏng đoán. “Chú á? Đánh nhau với anh trai thân yêu của chú à? Chú sẽ không nghĩ đến điều đó đâu,” Anthony trả lời, “Nhưng ai đó chết tiệt cũng phải nói với anh ấy rằng đây là lễ hội cho những lời chúc tốt đẹp chứ.” Derek cười khúc khích trước vẻ mặt chua ngoa của chú mình. “Nghe nói có tin đồn là chú James đang săn lùng chú. Điều gì đã khiến lần này chú ấy khó chịu thế ạ?” “ Nếu chú biết, thì chú sẽ biết cách để xoa dịu anh ấy, nhưng chú sẽ là con lừa nếu chú biết điều gì. Chú đã không gặp James trong một tuần vui vẻ, không phải từ khi chú bỏ Jack sau chuyến đi chơi mà chú dẫn các cô gái nhỏ đi cùng.” “Chà, James sẽ cho tôi biết nếu chú ấy không đến,” Jason chỉ ra. “Vì vậy, khi chú ấy đến đây, vui lòng gây lộn ở bên ngoài. Molly nghiêm túc phản đối máu làm vấy bẩn thảm.” Mời các bạn đón đọc Hiện Tại của tác giả Johanna Lindsey.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhà Tài Phiệt Cuối Cùng
“Nhà Tài Phiệt Cuối Cùng” là một tác phẩm văn học tiêu biểu của nhà văn nổi tiếng F. Scott Fitzgerald. Đây là cuốn sách mà tác giả gửi gắm cả cuộc đời của mình vào. Chắc hẳn chúng ta đều đã biết đến nhân vật trứ danh Gatsby, một nhân vật ám ảnh nhiều thế hệ bạn đọc trong tác phẩm kinh điển “Gatsby Vĩ Đại”. Bộ tiểu thuyết này được viết dưới ngòi bút của Fitzgerald. Cùng với Hemingway, Fitzgerald được xem là nhà văn tiêu biểu nhất của nước Mỹ nửa đầu thế kỷ XX. Ngoài “Gastby Vĩ Đại”, “Nhà Tài Phiệt Cuối Cùng” là tác phẩm vững vàng nhất của nhà văn vào khoảng thời gian ông đã trưởng thành trong sự nghiệp văn học của mình. Cuốn sách nói nhiều đến vấn đề sự nghiệp và kế sinh nhai. Monroe Stahr không giống bất cứ nhân vật nào khác của Fitzgerald, đã bị lôi cuốn vào một nền kỹ nghệ mới mà chính tác giả là người đi đầu sáng lập. Cuốn sách được nhà văn viết vào lúc cuộc sống gặp nhiều khó khăn nhất, vào lúc ông tự tử không chết. Bởi vậy, cuốn sách mang một tư tưởng sâu sắc, một ý nghĩa mà nhiều người cần phải suy ngẫm mới hiểu được. *** Francis Scott Key Fitzgerald là một nhà văn Mỹ, nổi tiếng với các tác phẩm về "thời đại nhạc Jazz". Sinh ra trong một gia đình theo đạo Cơ đốc Ireland. Năm 1913 Fitzgerald vào Đại học Princeton nhưng sắp tốt nghiệp thì bỏ học vào lính. Thời gian phục vụ trong quân đội Fitzgerald bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên This Side of Paradise (Phía bên kia địa đàng, 1920). Sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết này Fitzgerald cưới vợ và bắt đầu nổi tiếng. Cũng trong thời gian này ông in tập truyện ngắn đầu tay Flappers and Philosophers (Những cô nàng và những triết gia, 1920). Tiểu thuyết thứ hai The Beautiful and Damned (Đẹp và đáng nguyền rủa, 1922) kể về cuộc hôn nhân khổ sở của hai con người tài năng và quyến rũ. Năm 1923 ông viết và dựng vở kịch Vegatable (Rau cỏ, 1923) bị thua lỗ nhưng sau đó viết tiểu thuyết The Great Gatsby (Gatsby vĩ đại, 1925) được giới phê bình đánh giá là kiệt tác, là một trong những tiểu thuyết hay nhất nước Mỹ. Tiểu thuyết gia, nhà viết truyện ngắn F. Scott Fitzgerald thường tự nhận mình là người con của “thời đại nhạc Jazz”. Cùng với người vợ xinh đẹp Zelda Sayre, ông sống một cuộc đời sôi động, tràn đầy tiệc tùng và luôn tiêu tiền như nước. Tuy vậy, trong một truyện ngắn, ông mở đầu: “Thế giới người giàu hoàn toàn khác biệt với bạn và tôi”. Và thế giới được coi là “khác biệt” với mình đó còn được ông miêu tả trong rất nhiều những tác phẩm như Đẹp và đáng nguyền rủa, Gasby vĩ đại. Cuộc sống chìm trong rượu và những đại tiệc xa xỉ của vợ chồng Fitzgerald đã thu hút sự hiếu kỳ của công chúng thời bấy giờ. Đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho các sáng tác của ông khá đắt khách. Trong lá thư gửi cho một người bạn, nhà văn viết: “Một truyện ngắn có thể viết ngay đầu miệng chai nhưng với một cuốn tiểu thuyết, anh phải giữ cho đầu óc mình thật tỉnh táo và minh mẫn để có thể kiểm soát được tất cả các nhân vật như Ernest Hemingway đã làm được trong Giã từ vũ khí”. Tác phẩm: This Side of Paradise (Phía bên kia địa đàng, 1920) Flappers and Philosophers (Những cô nàng và những triết gia, 1920) The Beautiful and Damned (Đẹp và đáng nguyền rủa/Đợi Của, 1922) Vegatable (Rau cỏ, 1923) The Great Gasby (Đại gia Gatsby, 1925) Tender is the Night (Đêm dịu dàng/Cuộc Tình Bỏ Đi, 1934) Top at Reveille (Tín hiệu thức tỉnh, 1935) The Last Tycoon (Trùm tư bản cuối cùng/Nhà Tài Phiệt Cuối Cùng/Ông Hoàng Hollywood, 1941) The Crack-Up (Sụp đổ, 1945) Gatxbi Vĩ Đại Và Truyện Ngắn - Francis Scott Fitzgerald *** LỜI NGƯỜI DỊCH Fitzgerald là ai? Ông là người đã nhìn thấy rõ những nỗi vui buồn tế nhị nhất của con người, và đã biết dùng ngôn từ để mô tả những nỗi buồn vui đó một cách khéo léo, rõ ràng, tỉ mỉ nhất. Những hàng chữ ông đã viết ra, những cuốn truyện ông để lại cho nhân loại là “trầm tích” để con ngươi mãi mãi về sau này biết rằng những ngươi sống trước mình hàng chục năm, trăm năm, ngàn năm, triệu năm đã có những tình cảm như thế đấy. Cũng như Homer, Nguyễn Du, Shakespeare, Fitzgerald sẽ sống mãi với thời gian và không gian. Nhờ những đứa con đó mà nhân loại có thể tìm lại dấu vết của mình. Tìm lại dấu vết để có một sức sống liên tục, để suy tư về số kiếp và định mệnh của mình đồng thời toan tính một dự phóng cho tương lai. Nhà tài phiệt cuối cùng là cuốn truyện Fitzgerald đã gửi gấm cả cuộc đời mình trong đó. Ông đã viết nó vào lúc nghèo đói nhất, vào lúc ông tự tử không chết. Những tư tưởng sâu sắc nhất, những tình cảm cuối cùng ông đã đặt trong cuốn truyện này để gửi lại cho hậu thế. Chúng ta đã đọc Đoạn trường tân thanh và đã khóc cho Nguyễn Du. Chúng ta hãy đọc thêm Nhà tài phiệt cuối cùng để khóc thêm cho Fitzgerald khốn khổ một giọt nước mắt. Như thế là công bằng, bởi vì những người đó đã chảy rất nhiều mồ hôi, nước mắt mới viết lên được các tác phẩm để lại cho chúng ta ngày nay. Trước khi vào chuyện xin quý độc giả lướt qua vài nét chính về cuộc đời của Fitzgerald. Scott Fitzgerald: cơn sốt của đời sống “Mẹ ơi, sau này con có tất cả mọi cái mà bây giờ con chưa có hay không?” Cậu Fitzgerald đã hỏi mẹ câu đó lúc cậu bốn tuổi, sau này cậu đã có tất cả và Fitzgerald cũng đã trả lại cho xã hội tất cả. Ông chính là tác già những cuốn “Gatsby Huy hoàng” “Đêm trường êm dịu” và trở thành nhà văn lớn của Mỹ quốc. Cuối cùng, ông đã vĩnh biệt cuộc sống trong cảnh thanh bần và quên lãng của thế nhân. Phải chăng cuộc đời thi nhân giống như ngôi sao lạ, ánh sáng huy hoàng của mình phát ra lại thiêu đốt chính cuộc đời của mình? Francis Scott Key Fitzgerald chào đời ngày 24-9-1896 tại thành phố Saint Paul thuộc tiểu bang Minnesota, Hoa Kỳ. Ông là con trai duy nhất trong gia đình. Trưức khi sinh ông, cha mẹ ông đã có hai con gái, nhưng cả hai đều chết vì bệnh đậu mùa. Sau này Fitzgerald kể lại: “Trước khi sinh tôi ba tháng thì hai chị tôi qua đời. Tôi có cảm tượng cuộc đời văn sĩ của tôi bắt đầu từ đó. Tôi không biết tại sao nhưng nhất định là như vậy”. Càng lớn lên cậu Fitzgerald càng tỏ ra là một học sinh xuất sắc, thông minh, ngoan ngoãn. Cận có rất đông bạn bè và được mời đi hết dạ hội này đến dạ hội khác. Các cô bạn gái thích ngồi nghe cậu kể chuyện hàng ngày không chán. Những kỷ niệm đó, Fitzgerald không bao giờ quên, và ông dã dùng để xây dựng nhiều nhân vật trong tiểu thuyết của ông sau này. Năm 17 tuổi, Fitzgerald theo học ở đại học Princeton và bắt đầu viết bài cho những đặc san của nhà trường. Ông say mê viết suốt đêm và nhiều khi đến sáng lại liệng tất cả vào sọt rác. Trong lớp, Fitzgerald thường mơ mộng và nhiều khi cậu chỉ nghe loáng thoáng được câu sau này vị giáo sư văn chương hay nhắc lại nhiều lần: “Mọi việc đều tùy theo quan điểm của mỗi người. Thưa quý vị, vấn đề nào cũng có phương diện chủ quan của nó”. Túc cầu và binh nghiệp Càng ngày những bài của cậu viết trong đặc san của nhà trường càng được nhiều người chú ý, và chẳng bao lâu cậu trở thành một cây viết chính trong ban biên tập. Tuy nhiên ngoài công việc làm báo, còn một môn khác mà cậu cũng say mê không kém, đó là môn túc cầu. Không có buổi chiều nào Fitzgerald vắng mặt trên sân cỏ. Nhưng điểm đặc biệt nhất là chàng có cái nhìn thật quyền rũ, và một cách cư xử với bạn bè rất lịch thiệp, cởi mở. Sau khi tốt nghiệp ở đại học Princeton, Fitzgerald gia nhập quân đội với cấp bậc Chuẩn úy. Năm 1918, đơn vị của ông đóng ở tiểu bang Alabama, và tại đây lần đầu tiên Fitzgerald đã gặp Zelda, một thiếu nữ mà chàng cảm thấy tình yêu chân thành của mình và của nàng cùng hòa chung một nhịp với nhau. Hai ngươi có gương mặt giống nhau và nhiều người lầm tưởng họ là hai anh em ruột. Nhưng sự giống nhau giữa hai khuôn mặt chưa bằng sự giống nhau giữa hai tâm hồn của chàng và nàng. Chẳng bao lâu mối tình của cặp Fitzgerald - Zelda đã được cả thành phố biết, và mọi người đều ước mong cho họ mãi mãi được hưởng hạnh phúc. Những ngày lang thang ở Nữu ƯớcChiến tranh Âu châu kết liễu, Fitzgerald được giải ngũ, chàng liền lên đường đi Nữu Ước để tìm cư hội lập nghiệp. Trước đó chàng đã bàn chuyện hôn nhân với Zelda, nhưng nàng trả lơi: chỉ cưới nhau khi nào chàng kiếm được công ăn việc làm. Tới Nữu Ước, chàng ôm khư khư những bản thảo đi khắp nhật báo này đến nhật báo khác mà vẫn không kiếm được công việc gì. Cuối cùng chàng đành phải nhận làm công việc viết các tấm bảng quảng cáo trong một hãng quảng cáo với số lương 90 dollars một tháng. Chàng phải sống chui rúc trong một căn nhà ổ chuột hôi hám ghê gớm. Thơ, truyện ngắn, kịch của chàng đem đến các báo và nhà xuất bản, chẳng có chỗ nào thèm đăng hay in. Fitzgerald đã nhận được tất cả 225 lá thư của các nhật báo và nhà xuất bản trả lời từ chối không đăng hoặc in các tác phẩm của chàng. Chàng dán tất cả những lá thư đó lên vách và nằm suy nghĩ tìm hiểu lý do của sự thất bại. Cuối càng một an ủi nhỏ đã đến với Fitzgerald: chàng bán được một truyện ngắn cho tờ “Smart Set” với số tiến ba mươi dollars. Chàng liền khởi viết cuốn chuyện dài “This Side of Paradise”. Sau một năm trời cặm cụi sáng tác suốt ngày đêm, cuốn sách được hoàn thành và chàng tràn đầy hy vọng, hăng hái gởi tác phẩm đến nhà xuất bản Scribners. Một tháng sau đó, chàng nhận đirạc điện tín của nhà xuất bản báo tin bằng lòng in cuốn truyện nói trên. Ngày đó chàng sung sướng đến ngây ngất. Zelda đem đến cho chàng một chai rượu mừng chiến thắng và nàng nhận lời làm lễ cưới với chàng. Ngày 26 tháng 3 cuốn “This Side of Paradise” bắt đầu xuất hiện trong các tiệm sách. Ngày 3 tháng 4, lễ cưới giữa Fitzgerald và Zelda diễn ra tại nhà thờ Saint Patrick ở Nữu Ước. Từ trong nhà thờ bước ra, chàng thấy tương lai mở rộng trước mặt và say sưa trong men chiến thắng. Chàng đã được cả tình lẫn tiền: Zelda đi bên cạnh và cuốn “This Side of Paradise” đã được in lại lần thứ hai. Báo chí nói đến một Thiên tài bí mật xuãt hiện. Các nhà phê bình ví chàng với Byron và Kipling (là hai đại văn hào Anh quốc). Báo chí còn thần thánh hóa mối tình của chàng với Zelda, và cái tên Fitzgerald được mọi người nhắc nhở để tượng trưng cho tiền tài, danh vọng, tình yêu và tuổi trẻ. Sẵn tiền chàng thường cùng với bạn bè giắt đầy đô la trong túi đi nhậu nhẹt say sưa tối ngày sáng đêm. Có khi họ vào rạp hát và cười lớn trong khi cả rạp đang yên lặng, hay ngồi trên mui xe tắc xi đi dạo phố và nhiều hành động lố bịch khác nữa, nhưng dư luận đã dễ dàng tha thứ cho chàng. Ở nhà thì lúc nào cũng đầy những bạn bè, nào nhà văn, nhà thơ, kịch gia, tài tử, nhà báo... Ngày vui chẳng được bao lâuVới lối sống phung phí tiền bạc như thế, chẳng bao lâu Fitzgerald không còn được một đồng xu dính túi, Tháng 3-1922 cuốn “The Beautiful and Damned” xuất hiện với sự hoan nghênh của dư luận, nhưng tiền bản quyển chàng đã lấy trước và tiêu sạch cả. Chẳng những thế chàng còn nợ thêm nhà xuất bản một số tiền lớn nữa, và phải tiếp tục viết để trừ nợ dần. Chàng làm việc đến 12 tiếng một ngày và uống rượu liên miên, nhiều khi người ta thấy chàng say nằm ngủ ngay ở bãi cỏ trong công viên. Tình trạng ăn ngả thất thường và làm việc quá độ đó khiến ông mắc phải bệnh phổi, bệnh đau dạ dày và chứng mất ngả. Năm 1924 Fitzgerald và Zelda sang Âu châu. Ông thuê một biệt thự xinh xắn ở Côte D’Azur và tiếp tục viết tác phẩm “Gatsby huy hoàng”. Năm 1925 tác phẩm hoàn thành và xuất hiện một cách thành công rực rỡ đối với dư luận, nhưng về phương diện tài chánh không làm cho ông thỏa mãn. Sách bán được 25.000 cuốn, chỉ vừa đủ để trừ nợ những số tiền ông đã nhận trước của nhà xuất bản. Năm 1927 ông trở về Hollywood viết truyện phim nhưng sau đó ông lại bỏ sang Âu châu và sống lang thang ở Thụy Sĩ, một xứ mà ông nhận xét là “nhiều cái đã hoàn thành nhưng ít cái được bắt đầu”. Trong thời này Zelda bắt đầu bị đau thần kinh. Năm 1929 ông phải đưa vợ về Mỹ để lo chạy chữa. Zelda tiều tụy đến nỗi không còn đủ sức lượm một trái banh ten-nít. Fitzgerald không bao giữ thốt một lời than vãn và tận lụy săn sóc vợ. Đầu hàng định mệnhBệnh tình của Zelda càng ngày càng trở nên nặng và chẳng bao lâu trở thành điên thực sự. Fitzgerald, sống trong cảnh khốn cùng, ông viết truyện ngắn kiếm ăn lần hồi. Sức lực mỗi ngày một thêm kiệt quệ. Nhiều đêm trường ông thức trắng đêm để viết. Cũng có khi thức đến sáng mà không viết được chữ nào! Năm 1934 ông hoàn thành cuốn “Đêm trường êm dịu” nhưng số bán không được nhiều như ông mong mõi. Càng ngày ông càng uống rượu nhiều và bị ám ảnh bởi nợ nần, bệnh tật, ông viết một tiểu luận nhan đề là “Sự rạn vỡ” phán tách tình trạng của ông. Nhân dịp kỷ niệm sinh nhật thứ 40 của ông, tờ New York Post có viết một bài mô tả ông như là một người khốn khổ đáng thương nhất trên đời. Ông đọc xong bài báo quá thất vọng ông toan tự tử bằng morphine nhưng được cứu thoát. Hãng MGM lại mời ông viết truyện phim, ông đi Hollywood và gặp nữ ký giả Sheilah Graham. Hai người trở nên bạn thân, ông tâm sự: “Nhà văn mà không viết được nữa thì phải trở thành điên dại”. Ngày 20-4-1940 sau khi cùng với Graham đi coi hát về, ông đang ngồi ở ghế nói chuyện về cuốn tiểu thuyết mới tên là “The last Tycoon” mà ông đã hoàn thành được một nửa. Bỗng nhiên như có một sức mạnh vô hình lôi kéo, đầu ông bật ngửa về phía sau và im lặng không nói nữa. Graham vội vàng lay gọi, nhưng Fitzgerald đã tắt thở. Ngoài trời, một vì sao sáng cũng vừa đổi ngôi trong lúc thiên tài rời bỏ cuộc sống. Tháng Ba năm 1948 nhằm ngày 11, nhà thương điên ở Highland phát hỏa. Zelda cùng chín bệnh nhân khác ở tầng chót bị chết cháy. Người ta an táng Bà cạnh mộ Fitzgerald ở Rockville. Đó chính là nơi an sống ngàn thu của hai tâm hồn giai nhân và thi sĩ vậy. Saigon ngày 30 tháng 3 năm 1974 Tuyết Sinh Mời các bạn đón đọc Nhà Tài Phiệt Cuối Cùng của tác giả F. Scott Fitzgerald & Tuyết Sinh (dịch).
Nô Tì Isaura
Là con gái một nô tì da đen và một viên quản lý người Bồ Đào Nha, Isaura được nữ chủ nhân một điền trang ở Campos thuộc tỉnh Rio de Janeiro nuôi dạy như một tiểu thư con nhà giàu. Vào tuổi hai mươi, nhan sắc của nàng được mọi người chiêm ngưỡng: dung nhan như một nữ thần, mái tóc đen dài và rậm, dáng dấp như một nữ hoàng. Nhưng rồi nữ chủ nhân qua đời trong khi chưa kịp trả tự do cho cô gái, bỏ nàng lại làm một mồi ngon cho dục vọng của Leoncio, người chủ mới của điền trang. Bị ép uổng, hành hạ, Isaura phải trốn đi với cha, sau khi Leoncio không chịu để ông này chuộc con về. Ở Recife, số phận run rủi cho Isaura gặp Alvaro, một thanh niên giàu có có tư tưởng chống chế độ nô lệ. Một tình yêu mãnh liệt nảy nở giữa hai người. Nhưng Alvaro vì thiếu tỉnh táo đã đưa nàng đến dự một buổi dạ hội của giới thượng lưu, trong đó Isaura bị lộ tung tích. Nô tì Isaura (tiếng Bồ Đào Nha: A escrava Isaura, phát âm tiếng Việt như là A ét-cơ-ra-ba Y-xao-ra) là một cuốn tiểu thuyết khai thác đề tài giải phóng nô lệ da đen của nhà văn Bernardo Guimarães, xuất bản lần đầu năm 1875. Với cuốn tiểu thuyết này, Bernardo Guimarães đã giành được danh vọng tột đỉnh trong sự nghiệp sáng tác, thậm chí được chính hoàng đế Pedro II đánh giá rất cao. Trước khi trở thành bộ phim vô tuyến truyền hình nhiều tập nổi tiếng vào bậc nhất trên thế giới, Nô tỳ Isaura vốn là một thiên tiểu thuyết rất lớn của văn học Brazil thế kỷ thứ XIX.Được viết vào năm 1875 do ngòi bút của Bernardo Guimarães (1825_1884), nhà thơ, nhà văn và giáo sư , cuốn tiểu thuyết này minh hoạ cho phong trào phản kháng mãnh liệt lên án và đòi bãi bỏ chế độ chiếm hữu nô lệ đang dấy lên rầm rộ trên khắp đất nước Brazil lúc bấy giờ ( chế độ này tồn tại đến năm 1888).Sự kiện trong truyện xảy ra vào khoảng thập kỷ 1830, dưới triều vua Pêdrô đệ nhị. Là con gái một nô tỳ lai da đen và một viên quản lý người Bồ Đào Nha, Isaura được nữ chủ nhân một điền trang ở Campos thuộc tỉnh Rio de Janeiro nuôi dạy như một tiểu thư con nhà giàu. Vào tuổi hai mươi, nhan sắc của nàng được mọi người chiêm ngưỡng:dung nhan như một nữ thần, mái tóc đen dài và rậm, dáng dấp như một nữ hoàng. Nhưng rồi nữ chủ nhân qua đời trong khi chưa kịp trả tự do cho cô gái, bỏ nàng lại làm một mồi ngon cho dục vọng của Leoncio, người chủ mới của điền trang.Bị ép uổng, hành hạ, Isaura phải trốn đi với cha, sau khi Leoncio không chịu để ông này chuộc con về. Ở Recife, số phận run rủi cho Isaura gặp Alvaro, một thanh niên giàu có có tư tưởng chống chế độ nô lệ. Một tình yêu mãnh liệt nẩy nở giữa hai người.Nhưng Alvaro vì thiếu tỉnh táo đã đưa nàng đến dự một buổi dạ hội của giới thượng lưu, trong đó Isaura bị lộ tung tích. Trong câu chuyện đầy những tình tiết bất ngờ này, đây chỉ là đoạn giữa chừng. Người đọc hồi hộp cầu mong cho cuộc tình duyên đầy gian truân của đôi bạn kêt thúc tốt lành... *** Vào những năm đầu của triều đại Don Perdro, trên dải đất Goitacases phì nhiêu và trù phú, có một điền trang tuyệt đẹp trải dọc con sông Paraiba, cách thị trấn Campos mấy dặm đường. Một tòa dinh thự nguy nga với những đường nét hài hòa mọc lên trên vùng đồng bằng canh tác, dưới chân mấy ngọn đồi phủ rừng đã có phần được những người tiều phu khai phá. Quanh vùng ấy, thiên nhiên hãy còn giữ nguyên vẻ hoang dã nguyên thủy, nhưng trong khu vực gần dinh thự bàn tay con người đã thuần phục cái thế giới thực vật quá phồn vinh để gầy dựng những khu vườn cây ăn quả, những bãi chăn súc vật tươi tốt và những vườn hoa cỏ xén phẳng phiu. Lác đác đó đây mới thấy những cây đại thụ - những cây xoài khổng lồ, những cây thông bá hương và những khóm chuối - hắt bóng lên cảnh vật như những di tích còn lại của sức sống mãnh liệt của rừng xưa. Họa hoằn lắm mới thấy một dãy tường, một hàng rào hay một quãng hào hố. Những cánh đồng cỏ và những khu trồng trọt lân cận được phân giới bằng những lũy tre khiến cho toàn cảnh nom như một khu công viên rộng mênh mông. Tòa nhà trông thẳng ra mấy ngọn đồi.Trước mặt nhà là dãy thềm bậc đá dẫn đến một khung cửa bám đầy những cây leo lúc nào cũng nở hoa. Phía sau tòa dinh thự là khu nhà phụ thuộc: những túp lều của nô lệ, những dãy chuồng bò và những kho chứa thóc và rơm rạ. Xa hơn nữa là những khu vườn hoa, vườn trồng cau và một khu vườn ăn quả rộng mênh mông chạy dài ra đến bờ sông. Ấy là một buổi chiều tháng mười quang đãng và yên tĩnh. Mặt trời như vẫn chần chừ không muốn lặn; nó cứ nổi lềnh bềnh cuối chân trời, treo lơ lửng trên những đám mây viền kim tuyến chốc chốc lại đổi màu. Một làn gió nhẹ và thơm khẽ lay động đám cây con và những tàu lá dừa soi mình trên nước sông trong vắt. Ánh tà dương đỏ rực chiếu thẳng vào các cửa kính trông như thể ở bên trong các phòng lửa đã tràn ngập khắp nơi. Cảnh vật chìm trong im lặng. Mấy con bò cái tơ nằm dưới bóng cây cao nhai cỏ chầm chậm, dáng hiền hòa. Đàn gà vịt tha thẩn đi nhặt thóc quanh nhà, mấy con cừu chốc chốc lại kêu lên vài tiếng “bê-ê-bê bê-ê-bê”, và mấy con thỏ thong thả về chuồng, thỉnh thoảng cất tiếng rống buồn bã. Tòa nhà dường như hoàn toàn hoang vắng. Chỉ có mấy cánh cửa lớn ở phía trước và mấy cánh cửa sổ ở phòng khách mở rộng là còn cho biết rằng trong nhà vẫn có người. Bỗng trong bóng hoàng hôn êm ả nổi lên những tiếng dương cầm thánh thót, rồi một giọng nữ du dương và tha thiết, tươi mát và trong trẻo lạ thường, cất tiếng hát. Giọng hát tuy có phần bị nén lại nhưng vẫn có một âm hưởng vang dội. Điệu hát buồn buồn, nghe như xa vắng khiến người ta nghĩ đến lời than thở của một tâm hồn bị giày vò đau đớn. Lời hát rằng: Từ thuở lọt lòng tôi đã thở Không khí đắng cay của kiếp nô lệ Như một mầm cây gieo xuống Một mảnh đất bị rủa nguyền Suốt đời tôi than khóc Thân phận kẻ tôi đòi. Hai cánh tay tôi bị kìm hãm Chẳng còn ôm ấp được ai Đôi môi và đôi mắt của tôi Nào có dám nói lấy một lời âu yếm Trời cho tôi một quả tim Chỉ để tôi đau khổ hơn nữa mà thôi. Trong gió đồng nội cất lên Hoa tỏa hương ngây ngất Chim chóc tự do ca ngợi Vẻ đẹp của rừng Riêng kẻ nô tỳ tội nghiệp Làm gì có được một lời ca! Hãy im đi, kẻ nô tỳ đáng thương Lời than của mi đầy tội lỗi Mi không có quyền Hát lên những niềm tủi cực Đời mi nào phải của mi Mà tim mi cũng không: hãy nhớ lấy. Mời các bạn đón đọc Nô Tì Isaura của tác giả Bernardo Guimarães.
Út Teng
Chiến tranh đi liền với đau thương, mất mát, biết bao người thân trong gia đình Việt Nam đã không còn có mặt trong ngày vui chiến thắng. Gia đình Út Teng là một trong số đó. Chứng kiến cái chết đau đớn của ba trước tội ác của Mỹ ngụy, Út Teng âm thầm nuôi chí trả thù cho người cha thân yêu. Và cứ như thế, Út Teng lớn lên trong không khí đấu tranh sôi sục của cả Sài Gòn. Tình thương ba đã dẫn em đi theo con đường cách mạng tự lúc nào. Em theo một đơn vị đặc công nước, chiến đấu anh dũng bên những người đồng đội của cha *** Đại tá, nhà văn Chu Lai có tên khai sinh là Chu Văn Lai, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1946, tại xã Hưng Đạo, huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên, hiện ở Hà Nội. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ năm 1980). Ông là con trai của nhà viết kịch Học Phi. Trong chiến tranh Việt Nam ông công tác trong đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị rồi trở thành chiến sĩ đặc công hoạt động trong vùng Sài Gòn. Sau 1973, ông về làm trợ lý tuyên huấn Quân khu 7. Đến cuối năm 1974 ông tham dự trại sáng tác văn học Tổng cục Chính trị và sau đó học tại Trường Viết văn Nguyễn Du khóa 1. Sau khi tốt nghiệp, ông biên tập và sáng tác cho Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhà văn Chu Lai còn viết một số kịch bản sân khấu, kịch bản phim và tham gia đóng phim. Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Mưa Đỏ Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển *** Thực ra tên nó là Ròng, út Ròng! Nhưng người ta cứ hay gọi nó là Teng, út Teng! Lớn lên một chút bắt đầu nhận biết được điều này, nó tò mò hỏi má. Má nó hơi ngớ ra, ngúc ngoắc cái đầu một chút rồi cười à: "Ôi! Thằng nhỏ không hỏi thì tôi cũng quên phứt rồi! Ròng, con ạ! Đúng ra ba đặt tên con là Ròng. Má sanh ra con ở trên ghe, vào một buổi nước ròng tới đáy, ba con phải lội bộ đẩy má đi cả nửa ngày trời mới tới cái chòi có bà đỡ nhưng không kịp... Con ra đời giữa con nước ròng, vậy đó". "Thế sao tụi bọn nó cứ kêu con tên Teng?". Nó định hỏi nữa nhưng thấy má nó có vẻ tất bật định đi đâu, nên thôi. Vả lại, nó nghĩ, Ròng có cái cớ kêu Ròng, chắc Teng cũng có cái cớ kêu Teng, phải tự hiểu lấy thôi. Hôm sau ra sông gặp thằng Đảm, bạn chí cốt của nó, nó tuyên bố đầy vẻ trịnh trọng: "Mầy biết tại sao tao tên Teng không mầy? Tại vì tao hay toòng teng đeo chiếc giỏ xách ra sông kiếm cá hoài đó mầy. Cũng như, mầy tên Đảm, chắc là hồi má mầy sanh mầy, bả...". Nói tới đây, nó tịt vì chưa kịp nghĩ ra được cái lý do gì mà bạn nó tên Đảm cả. Hai đứa nhe răng cười, thằng Teng cười to nhất. Vậy là nó vẫn chưa thành người lớn. Người lớn gì mà có thế cũng không biết. Rồi nó cũng quên chuyện đó ngay. Ròng hay Teng cũng đều dính dáng đến sông hết trọi. Gọi tên gì cũng được, kể cả tên Sông, tên Nước, tên Cá, tên Tôm... Ngon lành hết. Miễn là ngày ngày, má cứ cho nó ra sông với thằng Đảm là được rồi. Cả hai đứa năm này đều chưa đầy mười ba tuổi. Nhưng có lẽ do chạy nhảy, bơi lội nhiều nên chân tay mau dài ra, rắn lăn lẳn và da dẻ thì hồi nào cũng cóc cáy. Hai đứa thuộc loại bơi lội giỏi nhất ấp. Con sông Sài Gòn to rộng là thế, lắm sóng là thế mà ngày nào hai đứa cũng lội qua lội lại như không. Thằng Teng da xanh trắng, có vẻ hoạt hơn một tí, bơi lặn, nói năng cũng khá hơn bạn, nhưng thằng Đảm lại nhiều mẹo mực bắt tôm, bắt cá hơn và da thì đen bóng. Ba thằng Đảm là dân sông nước, cả đời lênh đêng với đăng, với vó mà. Còn ba của thằng Teng... Lâu lắm nó không nhìn thấy mặt ba nó. Phải đến mấy năm rồi ấy! Tất nhiên là nó hỏi, cũng như tính nó thường hay hỏi làm nhiều khi má nổi đoá lên, nhưng riêng hỏi về ba thì má lại nhỏ giọng đi, ánh mắt nhìn nó dịu dàng hơn: "Ba con đi rồi! Đi xa lắm!... Ráng ngoan, lớn lên chút nữa, con sẽ gặp ba". Bà Năm ở kế bên lại có lần bô bô nói giữa chỗ đông người: "Thằng cha mầy đi lấy vợ nhỏ rồi, nhắc tới làm gì cho mất công!" Lúc khác, vắng vẻ, bả gọi nó vào cho cái kẹo mè xửng: "Đừng nhắc nhiều đến ba nữa nghe con... Đừng nhắc nhiều má con nó buồn". Không hiểu phải quấy ra sao, từ đó thằng Teng không nhắc đến ba nữa, song từ ký ức nó vẫn nghĩ đẹp về ba nó. Nó chỉ nhớ láng máng ba nó người cao nhưng ốm, tóc cắt ngắn, bàn tay to toàn mùi thuốc rê hay vỗ vỗ vào má nó và tiếng nói khàn khàn ấm ấm. Hồi ấy, mỗi đêm ba về, nó đều bị dựng dậy và hai cánh tay to tướng của ba cứ ôm riết nó vào lòng tới muốn nghẹn thở luôn. Từ người ba, nó thấy mùi thơm thơm nồng nồng của sông nước. Ba chắc từ sông về? Nó chấc mẩm thế và càng nép chặt vào bộ ngực có cái mùi quen thuộc đó hơn. Những đêm như thế, ba nói chuyện với má rất lâu, lâu lắm, tiếng ba rì rầm thoảng nhẹ như tiếng gió thổi vào vườn chuối ở sau nhà. Gần sáng ba đi, mắt má mọng nước nhìn ba nhưng ba lại nhìn nó. Gặp mắt ba mênh mang như mặt sông mùa nước. Khiến nó rộn rạo cả người. Nó thương ba nó lắm! Má cũng thương ba lắm! Thế tại sao ba nó lại bỏ má con nó đi với bà nhỏ? Bỏ đi lâu năm rồi! Lâu đến nỗi nó không còn nhớ mặt ba ra sao nữa. Nó không tin ba nó là người như thế. Bà Năm ác với má, bà Năm đặt điều ra thế thôi. Không đừng được nó lại mang điềunày hỏi má. Má tái mặt đi, giọng nói tắc tắc như đang nhai cục cơm to: "Bà Năm nói... Nói đúng đó con! Ba con đi lấy vợ nhỏ rồi! Lấy xa lắm. Thôi! Con ở với má cũng được. Má thương con, thương con nhiều..." Nếu thế thì nó tin. Má đẻ ra nó nói cơ mà. Nhưng bằng nhạy cảm của tuổi nhỏ, của đứa con quen hơi ben tiếng người cha, lắm khi nó cứ ngờ ngợ. Nếu thế thì má phải ghét ba, phải la ba như cô Bẩy ở đầu ấp chớ. Cô Bẩy ấy à? Mỗi lấn nhắc đến chú Bẩy bỏ cô đi Sài Gòn với gái là mắt cô lại long lên, tiếng nói át cả tiếng ca - nông nổ trên chi khu. Còn má, nhắc đến ba, cặp mắt má trông khác lắm, giống cái lúc gần sáng hồi nào ba từ giã má con nó ra sông. Ra sông, nó chắc thế. Nó cho rằng: tất cả những người tốt bụng, những người nó quý yêu đều sinh ra từ sông, và nếu có đi đâu thì cũng chỉ về sông thôi. Sông đối với nó là cả một thế giới bí hiểm, là những chuyện cỏ tích hấp dẫn tới mụ người mà hồi bà nội còn sống nội thường kể cho nó nghe. Nhưng... lòng nó chợt thắt lại: nếu ba không thương má, ba bỏ đi như chú Bẩy thì ba cũng phải thương nó chớ! Nó có tội gì đâu. Nó chỉ biết thương ba, đêm đêm mong ba gõ cửa lách vào nhà và mang theo cả gió lạnh, cả cái vị thơm thơm nông nồng của dòng sông thân thộc. Nó có ghét ba đâu! Có lỗi gì với ba đâu! Nghĩ thế, tủi thân,nó lại rơm rớm nước mắt. Sáng dạy, thấy đuôi mắt con đọng nước, má vội siết nó vào lòng và lập rập nói cái gì không rõ, chỉ thấy hơi thở nóng hổi phả vào gáy nó. Sáng nay thằng Đảm nhử Teng ra sông bắt cu đinh (một loài ba ba ở sông). Teng thích chí lắm. Gì chứ bắt cu đinh là Teng chịu liền. Mùa này cu đinh rời mí nước bò lên kiếm mồi lổm ngổm đầy ruộng lậu, tha hồ mà rượt. Một chú cu đinh cỡ vừa, mang ra chợ bán cho tiệm ăn ông ba tàu Sáng Lố cũng được vài trăm mang về cho má. Một buổi bắt cật lực cũng phải được ít nhất ba con. Ba con là gần một ngàn bạc. Thế là má vui rồi, sớm sớm má đỡ tất bật lo gạo mắm cho hai bữa cơm trong ngày nữa. Teng thương má lắm! Từ ngày không dòm thấy ba, Teng dồn hết tình thương cho má. Má lắc đầu: "Con thương má thì con ráng đi học tiếp, đừng để cái dốt nó làm hèn người đi. Ba ngày trước..." Nhưng Teng thích ra sông hơn đi học. Học cũng thú nhưng ngày nào cũng phải đi qua thấy mấy cái đồn trong chi khu, nhìn thấy tụi lính ăn nhậu, chửi tục, hù doạ trẻ con, trêu chọc các thím,các chị qua lại, là Teng không ưng rồi. Vả lại trong lớp sao lắm con nhà phách lối thế. Học thì dốt mà mặt cứ vênh lên. Ông già tụi nó người thì có tiệm ăn, tiệm vàng ngoài chợ, người thì đứng chân trong hội đồng, trong ban đại diện, trong quận cảnh sát... Tóm lại toàn một thứ con nhà khó xài cả. Tính Teng lành, xởi lởi với bạn bè, nhưng thằng con nhà nào bỉ mặt khinh Teng là Teng muốn ục liền. Tháng trước Teng đã thoi sưng mặt thằng con trai nhà trưởng ấp ví nó dám sấc láo gọi thằng Đảm là con nhà mất giống. Lão hiệu trưởng bắt Teng đứng dang nắng một ngày. Uất quá! Hôm sau Teng đốt sách, bỏ học ở nhà. Thấy Teng nghỉ, thằng Đảm cũng thôi học luôn. Ngày đầu má khóc, má lại nhắc đến ba. Ngày sau, ngày sau nữa thấy Teng không chuyển, má làm mặt giận. Teng lầm lì không nói thêm câu gì nữa, cứ lủi thủi ra sông tối mịt mới về. Dần dà má hiểu tâm trạng của Teng lại càng thương Teng hơn. Đáp lại lòng má, tối tối Teng kiếm sách đến nhà Đảm tự học thêm. Hai đứa hì hụi học với nhau đến khuya mới lọ mọ ra về. Thấy thế, má Teng bắt đầu cười: "cái tính thằng Teng kỳ quá bà Năn à! Y hệt cái tính... Nói là làm, mà làm cái gì cũng phải kỳ được. Sau này rồi khổ thế đấy". Nói "khổ đấy" mà mắt má lại sáng lên. Cấm nó nhắc tới ba mà động một chút má đều kêu tên ba! Người lớn sao kỳ quá! Tuy vậy về chuyện ba, nó láng máng cảm thấy có cái gì không bình thường, nhưng trẻ con không thích phân tich chi li, nó tạm chấp nhận cái đã. Mời các bạn đón đọc Út Teng của tác giả Chu Lai.
Sông Xa
Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khoác áo lính cho, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu Lai đã khẳng định được tài năngvà phong cách của mình. Trong số đó thì Sông xa cũng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với những câu chuyện và những phận người đầy gai góc Sống xa là dòng hồi tưởng kể về số phận xót xa của những người lính đã anh dũng chiến đấu trong thời chiến. Câu chuyện có nhiều tình tiết bất ngờ, lôi cuốn và có cái nhìn hiện thực mới lạ: trong người tốt vẫn có những phần ích kỷ và trong người xấu vẫn có những phần rất nhân văn... Có thể nói, mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. *** Đại tá, nhà văn Chu Lai có tên khai sinh là Chu Văn Lai, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1946, tại xã Hưng Đạo, huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên, hiện ở Hà Nội. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ năm 1980). Ông là con trai của nhà viết kịch Học Phi. Trong chiến tranh Việt Nam ông công tác trong đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị rồi trở thành chiến sĩ đặc công hoạt động trong vùng Sài Gòn. Sau 1973, ông về làm trợ lý tuyên huấn Quân khu 7. Đến cuối năm 1974 ông tham dự trại sáng tác văn học Tổng cục Chính trị và sau đó học tại Trường Viết văn Nguyễn Du khóa 1. Sau khi tốt nghiệp, ông biên tập và sáng tác cho Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhà văn Chu Lai còn viết một số kịch bản sân khấu, kịch bản phim và tham gia đóng phim. Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Mưa Đỏ Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển *** Đã lâu lắm chúng tôi mới có dịp ngồi lại với nhau như thế này. Chúng tôi là những người lính, hay đúng hơn là năm thằng cựu chiến binh may mắn còn sống sót trong cả đội hình một trung đoàn vượt Trường Sơn năm xưa. Hòa bình được mười năm rồi, bây giờ ngồi nhìn nhau cứ thấy buồn buồn.Cuộc đời trôi nhanh quá! Cuộc chiến cũng lùi về quên lãng với tốc độ không chậm. Mới đó mà đầu tóc đã có sợi bạc, sợi đen, đã đùm đề vợ con, đã bị cái khó của đời thường làm cho đạo mạo, làm cho nói năng trễ nải đi nhiều. Đứa nào cũng đã bước qua vạch tuổi 40 rồi. Thằng làm giám đốc, thằng làm thày giáo, thằng làm ngoại giao và có cả thằng mất sức sớm, về nhà kỳ cạch ngồi sửa xe máy cho thiên hạ kiếm sống. Tất nhiên có cả thằng đến nay vẫ còn đeo đuổi binh nghiệp mà đôi quân hàm cũng rất khiên tốn nếu đem so với những gì cậu ta đã trải qua, đã cống hiến. Thế mà đã có một thời cả năm đứa chỉ làm độc một nghề, nghĩ cùng một hướng, mang trên mặt cùng một màu da sốt rét và chỉ duy nhất một niềm hy vọng mỏng manh: còn sống mà trở về. Có lẽ khác với một số đông người khác, họ không thích nhắc lại quá khứ, không thích kể lại những tháng ngày gian khổ đã qua với một lý do nghe chừng có vẻ biện chứng: cái gì qua cho nó qua, nhớ lại làm gì, cho nhọc lòng, cuộc sống đã chẳng quá nhọc nhằn rồi sao! Đành là thế nhưng chúng tôi cứ thích tạo một thứ thành lũy cho cảm hứng hoài cổ thánh thiện của mình. Lâu lâu tụ bạn bè, chúng tôi vẫn cứ thích lôi chuyện cũ ra kể, kể chân thành, kể say sưa mà có lẽ chẳng có đề tài nào có khác khiến chúng tôi có thể đạt được độ nhiệt tâm cao như thế. Rất đơn giản: bởi lẽ chúng tôi chỉ còn lại năm người trong đội hình trai trẻ một ngàn năm trăm người; bởi lẽ, người lính không nhớ lại chuỗi ngày làm lính của mình thì còn nhớ cái gì khác nữa, và cuối cùng cũng có thể vì, bây giờ tuy mỗi đứa một hoàn cảnh, một số phận khác nhau nhưng đều ý thức rất rõ rằng: đoạn đời ở rừng cầm cây súng chắc chắn sẽ là đoạn đời đẹp nhất. Điều này được thể hiện mạnh đến nỗi, anh bạn trung đội phó công binh ngồi cạnh tôi, nay là giám đốc hay tổng giám đốc gì đó của một xí nghiệp lớn ở phía Nam, phải chân thành thốt lên: - Chao! Giá mà được sống lại một ngày của cái thời ấy....Một cái bồng, một cái võng, một khẩu súng. Tất cả chỉ có thế, bước nhẹ tênh trong cuộc đời, chẳng bận bịu, chẳng lo toan và ngay cả cái chết cũng không làm lòng bớt thanh thản... Tất nhiên đó là nghĩ ngợi của riêng cậu ấy nhưng dù sao, câu nói không đượm chút giả tạo đó đã dồn đuổi đầu óc tất cả chúng tôi cùng trôi ngược về phía sau, nơi thấp thoáng những cánh rừng ẩm thấp và những đồng bưng nhòe nhoẹt ánh hỏa châu kẻ thù... - Buồn cười nhỉ! Khi oánh nhau, bọn mình có nghĩ ngợi xa xôi gì lắm đâu mà bây giờ ngồi ngẫm lại cứ bật ra đủ thứ này nọ. Thì ra người ta nói đúng: chiến tranh ít triết lý nhất nhưng chiến tranh cũng chứa đựng nhiều triết lý nhất. Người bạn nhà giáo, vốn trước đây làm đại đội trưởng bộ binh ở một vùng rất ác liệt mào đầu với cái giọng khá khúc triết. Chúng tôi gật đầu. Nghe đâu anh bạn này gần đây có viết một vài lý luận về văn học chiến tranh sang tiếng Việt được dư luận chú ý. Trong những buổi gặp gỡ, cậu ta bao giờ cũng tìm được những câu nói thú vị để đưa đà cho một đêm tâm tình cựu chiến binh như vậy. Và để đối lập với khẩu khí thâm trầm ấy, bao giờ cũng vẫn là giọng nói bỗ bã của Tịnh, anh bạn chữa xe máy kiêm bán rượu chui ở một thị trấn buồn tênh ngoại thành Hà Nội. Tịnh vẫn giữ được cái phong độ ngang ngang, hơi bề trên của một người tiểu đoàn trưởng hào hoa và can đảm mười lăm năm về trước, khi ấy anh là thủ trưởng của tất cả bọn chúng tôi, một thủ trưởng nghiêm khắc và khó gần. Tịnh lôi từ túi áo lông ra một chai lít đựng thứ nước đùng đục: - Mỗi đứa uống một ly rồi hẵng triết lý các chú! Rượu chính tay tao cất đấy. Toàn nếp thôi. Nếp cũng do chính tay tao trồng. Chôn xuống chân giường hai năm nay, giờ mới moi lên để nhậu lai rai với các chiến hữu. Rót đi! Để một phút nhớ lại ba cái xị đế trước kia. Đế đắng bỏ mẹ, nhạt phèo, lại chỉ toàn uống với lá giang, lá lộc vừng khé cổ nhưng zô hết sức. Nào, nâng ly! Nâng ly mừng cho những thằng còn sống và mừng cho những thằng đã chết. - Chết mà mừng gì anh Hai? – Tôi rụt rè đế vào. - Xét đến cùng là mừng. Còn sống, giờ này cũng cực lắm. Chết khỏe re. Tao nghiệm ra, thằng người đã chót có một thời trần thân trận mạc rồi thì sống đời thường nó cứ thế nào ấy. Vướng víu, ngứa ngáy và nặng đầu bỏ mẹ. Các chú thấy sao? Có lẽ ở đây không ai mếch lòng với lối xưng hô suồng sã của Tịnh, một anh bán hàng nước ở ngã tư đường, kể cả Hoàng, anh viên chức cao cấp đã đáp máy bay ra chỉ để gặp nhau tối nay. Tịnh cứ phải thế mới là Tịnh, tối nay chúng tôi dừng sống khác đi mới đúng là chúng tôi. Rượu uống vào cứ như không nhưng uống đến đâu, người nóng phừng phừng đến đó tưởng như tất cả tế bào thân thể muốn giãn ra, nở bung trong sự giao cảm tột cùng với những vùng sâu thẳm nhất của thần kinh tâm lý. Chúng tôi nói đến đủ thứ chuyện, ôn lại vài kỷ niệm, dăm ba trận đánh, nhắc nhở đến mấy thằng bạn chết vì B52, vì biệt kích Mỹ phục giữa rừng; đến thời tiết khí hậu của một vùng sông, một vùng đất; đến vị đắng của mìn Klêmo, vị ngọt của măng tầm vông, của trái khổ qua nhấm nháp trong đêm chờ vượt lộ...Nói đến nhiều lắm. Có chuyện hình như đã nói rồi, hôm nay nói lại vẫn thật mới, thật bồi hồi. Người này nói nhiều, người kia nói ít, có người không nói chỉ ngồi nghe. Nói bằng đủ thứ giọng. Giọng trầm lắng có, giọng sôi nổi có, lại có cả những câu văng tục đốp chát mà nghe vẫn cứ thấy đó là câu chuyện, là tâm tư của mình. Nhà ngoại giao hôm nay nói lại mười lăm lần hút chết hôm xưa để rồi bồng bột kết luận với cái cách không giống tính cách ngoại giao chút nào: “Con người ta ở đâu cũng chịu sự an bài của số phận. Sống, chết, giàu nghèo, sướng khổ đã định sẵn khi anh sinh ra đời, có gồng lên cũng chẳng thay đổi được gì, chỉ bể đầu sứt trán. Đấy như tớ - anh nói – Ngày xưa vốn nổi tiếng là một tay trinh sát nói năng bán trời không văn tự, ai ngờ hết chiến tranh lại húc vào nghề này, mà lại húc được”. “Thì cũng như tớ - ông Tổng giám đốc hùa theo – Ngày xưa đánh giặc rát như cáy, cứ nghe mùi B52 là nước đái chảy trong quần, xểnh ra là tìm cách chuồn về phía sau, vậy mà bây giờ... có khi có số thật. Cái may, cái họa nó cứ lù lù ập đến, chả đứa nào biết trước được mà tu rèn, mà chuẩn bị. Thì cứ như cái ông Tịnh này này...” Cậu ta dừng lại. Tư duy của một nhà quản lý kinh doanh cao cấp đủ tinh nhạy để giữ cậu ta không đẩy tiếp luồng ngôn ngữ buông thả đến trót câu, mặc dù Tình đã há mồm cười thật to để đón trước câu nói bạn bè đó. Duy chỉ có một người, tôi để ý từ đầu đến giờ chỉ cười không nói. Đó là Thắng. Thiếu tá Thắng, vừa ở tiền đồn Hà Tuyên về chiều nay, có thể nói từ đầu tóc, mặt mũi đến bộ quân phục mặc trên người còn sặc mùi biên ải gió sương. Thắng ngồi im lặng rót thêm rượu cho người này, đưa cái tăm cho người kia, rút thuốc châm lửa cho người kia nữa. Thỉnh thoảng lại xuống bếp giúp bà chủ nhà, vợ tôi, mang lên một đĩa xào, đĩa nấu gì đó. Thắng ngồi đấy, hiền hậu như một đứa em gái, lại bao dung như một bà chị cả tốt tính. Trong bất cứ cuộc rượu nhỏ, to nào; trong cái đám người thích nói, tranh nhau nói, nói không cần ai nghe hoặc buộc tất cả phải nghe, một tính cách hiền hậu, chu đáo như thế là rất cần. Chỉ có đôi mắt có vẻ ít ngủ của Thắng là hiện rõ vẻ yêu thương, quý trọng bạn bè đến ủy mị. - Thôi, vất mẹ nói chuyện số phận đi! - Tịnh bẻ một miếng bánh đa nghe cái rắc. – Bây giờ chuyển làn sang nói về đàn bà. Đàn bà thời chiến đàng hoàng chứ không phải thứ đàn bà vớ vẩn chung chung đâu. Tớ sống ở chiến trường lâu hơn các chú, va chạm với họ nhiều hơn các chú, tớ có quyền nói rằng: Chả có cái gì khổ bằng làm một người đàn bà trong trận mạc. Khổ kinh khủng. Và sức chịu đựng cũng kinh khủng. Tớ mê họ và kính trọng họ sát đất. À...Mà cái đó cũng lại là số phận rồi còn quái gì. Hở? Tít mù nó lại vòng quanh... Tịnh cười vang. Tiếng cười đầy sức lây lan. - Phải chăng vì thế mà ông Tịnh dám vác hẳn một cô gái Lái Thiêu ra xứ lạnh này làm vợ mà không sợ cô ta chê nghèo, chê khổ bỏ đi. Ông này khôn! Nghĩ cái gì ra cái đó. Nếu không bị vết thương ở đầu năm 1970 làm cho cụt ngẵng đường quan lộ thì lúc này ông đâu có thèm ngồi ở đây – Nhà bình luận văn học nhận định, không giấu nổi một chút tâng bốc chân thành. - Ở địa bàn tam giác sắt của tớ có một cô xã đội trưởng thân hình dềnh dàng như đàn ông, vào trận cũng thét lác như đàn ông, nhưng đêm mò về hầm lại úp mặt xuống võng khóc một mình. Dạo ấy... - Cái hồi Mậu Thân, chính tay tớ chôn cất một cô du kích nằm chết giữa rừng đã lâu ngày. Cũng là cái chết nhưng xác đàn ông trông đỡ hơn, còn xác đàn bà...Thịt da vẫn trắng, tóc xõa ra vẫn đen nhánh. Tội lắm! Nhất là... - Mình lại có kỷ niệm với một cô giao liên ở đường 14 biên giới, chẳng hiểu tại sao thỉnh thoảng lại lăn đùng ra, sùi cả bọt mép. Một lần kia... - Còn tớ... - Theo mình thì... Lại tranh nhau nói...Những đoạn hồi ức được bùng nổ bất thần, đan chéo vào nhau, khi nặng nề, lúc dí dỏm, lúc đằm xuống thành im lặng. Chính trong cái khoảnh khắc im lặng đa thanh đó. Tịnh đã buộc được Thắng phải lên tiếng. Thoạt đầu Tịnh cười cười: - Thôi chứ! Cứ cả vú lấp miệng em mãi. Cũng phải để cho thằng Thắng nó nói một câu gì chứ. Sáng mai chúng mình nghỉ, nó lại phải lặn lội lên trên đó rồi! - Nhất trí nhưng – Nhà quản lý kinh tế nói - Tớ tin chắc thằng Thắng sẽ không bao giờ nói về thế giới đó. Hận thù truyền kiếp thì có. Mang hình ảnh cô người yêu ở nhà đi suốt các cánh rừng, khi trở về cô ta đã có con với người khác. Đàn bà... Điểm chốt là nhà. Thôi, tha cho nó. - Không....không đến nỗi thế đâu - Thắng đột ngột lên tiếng bác bỏ với cái cười ngượng nghịu – Các anh chỉ hay nói quá! Tôi...thực ra tôi cũng có biết một người phụ nữ, một người chị... Cuộc đời chị ấy... Nhưng mà dài lắm! Tôi lại không biết cách kể... - Không sao! Cứ nói đi! Nói đại đi! Đêm nay giành cho cậu. Cậu hoàn toàn có quyền được sử dụng phần thời gian còn lại của hội cựu chiến binh đêm nay. Mạnh dạn lên! Chú lính! Hầu như tất cả chúng tôi đều nhất loạt lên tiếng giục Thắng như thế. Không phải vì để lấp đầy khoảng trống, cũng chẳng phải do tò mò muốn được nghe một câu chuyện lạ - còn cái gì là lạ nữa khi chúng tôi đã đi hết tuổi trẻ của mình trong chết chóc – Mà có lẽ bạn bè muốn được nghe Thắng nói, Thắng tâm sự một cái gì đấy. Giữa năm thằng, Thắng là đứa trẻ nhất và có lẽ cuộc đời cũng trắc trở, lận đận nhất, lận đận đến tận hôm nay. Chúng tôi muốn san sẻ với Thắng tất cả, muốn Thắng ngày mai lên đường có thể mang theo được chút ít hơi ấm của tình bạn chân thành đêm nay. Chúng tôi muốn được nghe Thắng nói. Và Thắng đã nói. Nói nhỏ nhẹ, nói vấp váp, thỉnh thoảng lại quên, lại ngừng, lại ho khan. Những điều Thắng nói không sáo rỗng, không một chi tiết giả trá. Thắng nói như rút ruột của mình ra phơi bày trước mặt bạn vè. Và, rất không ý thức, chúng tôi ngồi nghe mà trời sáng khi nào chẳng hay... Hôm nay, Thắng không còn nữa, anh đã hy sinh ngay sau tháng thứ hai khi tạm biệt chúng tôi. Nhớ bạn, thương bạn, bốn đứa còn lại bảo tôi xin nghỉ phép năm mà chép lại những điều Thắng kể. Chép tỉ mỉ, đừng để sót, đừng bịa đặt, mà cũng đừng tránh né sự thật trần trụi, kẻo Thắng nó oán. Họ nhủ tôi thế. Và tôi đã cố gắng làm đúng như thế. Dưới đây là tất cả những lời của Thắng kể về người đàn bà ấy, gần như hoàn toàn nguyên văn, tôi chỉ làm cái động tác sắp xếp điều chỉnh một chút cho rõ ý, rõ nghĩa.   Mời các bạn đón đọc Sông Xa của tác giả Chu Lai.