Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kim Ji Young, Sinh Năm 1982

Kim Ji Young, Sinh Năm 1982 là cuốn sách kể về cuộc đời của một người phụ nữ bị chứng rối loạn tâm lí sau sinh, tên là Kim Ji Young. Câu chuyện mở đầu bằng những dòng giới thiệu về cô - ở thời điểm hiện tại. Nếu tinh ý, độc giả sẽ có thể nhận thấy ở nhiều phân đoạn, tác giả thường gọi cả họ tên của nhân vật chính, lặp đi lặp lại chứ ít dùng đại từ thay thế. Đó là vì trong tiểu thuyết này tác giả đóng vai trò là một nam bác sĩ tâm lí trị liệu cho Kim Ji Young, và phần đầu được viết dưới dạng hồ sơ bệnh án của bác sĩ, mô tả chi tiết về bệnh chứng của bệnh nhân. Những trang viết dần hé lộ về cuộc đời tưởng như rất đỗi bình thường của thiếu phụ trẻ, từ khi cô sinh ra đến khi lấy chồng rồi sinh con như bao người phụ nữ Hàn Quốc rất bình thường khác. Các triệu chứng kì lạ của Kim Ji Young xuất hiện sau khi cô sinh con, có những lúc dường như cô không phải là một Kim Ji Young thực sự, mà đã hóa thân thành những người phụ nữ khác, lúc thành mẹ cô, lúc lại thành người bạn gái cũ của chồng... Dường như cái vỏ thân xác Kim Ji Young cùng lúc có rất nhiều người khác nhau cùng tồn tại, có người còn sống và có người đã khuất, nhưng điểm chung nhất là họ đều là phụ nữ. Kim Ji Young như người phát ngôn hộ những người phụ nữ ấy những lời tự đáy lòng, nhưng bản thân họ thì có lẽ sẽ không bao giờ tự dám nói: “Ông thông gia, tôi xin mạn phép được nói điều này. Chỉ có nhà ông là có gia đình thôi sao? Chúng tôi cũng có gia đình chứ. Ba đứa nhà tôi cũng chỉ có ngày lễ tết mới có thể gặp mặt nhau. Bây giờ cuộc sống của đám trẻ đứa nào chẳng như vậy. Nhưng nếu con gái ông đã về thăm nhà rồi, thì cũng phải cho con gái chúng tôi về thăm nhà chứ”. Nghe những lời ấy, những người sống quanh cô sững sờ, thậm chí là bị sốc, bởi cô đã nói ra một cách khá thẳng thắn, đòi lại công bằng cho phụ nữ trước đặc quyền mà từ trước đến nay gần như cả xã hội vẫn mặc nhiên dành cho nam giới. Kí ức sâu đậm nhất về tuổi thơ của Kim Ji Young là vị sữa bột ngọt ngào: “...mỗi khi mẹ pha sữa cho em, cô lại ở bên cạnh dùng nước bọt thấm ướt ngón tay rồi chấm những hạt sữa bột rơi trên sàn để ăn. Đôi khi mẹ cô sẽ bảo cô ngửa đầu lên và mở miệng rộng, rồi đổ một thìa sữa bột ngọt ngào đậm đà lên lưỡi cô...” Vị sữa ấy sẽ không thể khiến cô nhớ đến vậy, nếu nó không đi kèm với chuyện hễ cô bị bà nội bắt gặp cảnh cô ăn sữa thì sẽ lập tức bị bà cho ăn đòn, khiến sữa phun ra cả miệng lẫn mũi. “Có thể hiểu rằng biểu hiện đó của bà có nghĩa là tại sao chúng mày ‘dám’ đụng vào đồ của cháu trai quý giá của tao. Em trai và những gì thuộc về em là quý giá nhất, không một ai có thể tùy tiện đụng tới bất cứ thứ gì, Kim Ji Young cũng chỉ là ‘không một ai’ trong con mắt của bà. Và cả chị gái cô cũng vậy...” Còn mẹ cô, một người phụ nữ lớn lên trong gia đình làm nông, học xong tiểu học thì ở nhà làm lụng để các anh em trai được đi học tiếp, lớn hơn chút nữa, bà vào làm việc cực nhọc trong xưởng dệt, cùng chị gái bán sức lao động lấy đồng lương còm cõi để tiếp tục nuôi các anh em trai đi học đại học, xây dựng sự nghiệp riêng, để rồi cuối cùng nhận ra rằng trong gia đình và sự nghiệp của những người kia, họ không có chỗ đứng, họ trắng tay. Sau tất cả, những người đàn ông được cả xã hội công nhận là đã “một tay nuôi sống gia đình”, đã gánh vác giang sơn, đã làm nên công to việc lớn, và dĩ nhiên là không hề nhắc đến đồng tiền mồ hôi nước mắt của hai người phụ nữ đổi lấy bằng cả thanh xuân. Những người phụ nữ nhận thấy điều ấy, nên họ phải tự tìm đường sống cho mình, tự đi học, tự xây dựng cuộc sống, sau khi lấy chồng lại tiếp tục guồng quay, sinh con đẻ cái, làm lụng nuôi mình, nuôi chồng, nuôi con. Guồng quay cuộc sống ấy chúng ta có thể bắt gặp ở bất cứ đâu, quá quen thuộc đến nỗi cả xã hội coi đó là điều mặc nhiên phải thế, nam giới mặc nhiên được ưu tiên, còn phụ nữ mặc nhiên xếp hàng thứ yếu. Ngay từ khi còn là những đứa trẻ, họ đã được dạy như vậy, từ những việc nhỏ nhất: Xếp số ăn cơm thì con trai xếp trước, lớp trưởng cũng là con trai; bị quấy rối, sàm sỡ thì nạn nhân là người có lỗi... Một điều khá thú vị là những người phụ nữ được khắc họa trong tiểu thuyết này hiện lên rất đời thường, gần gũi, có thể bắt gặp hình ảnh họ ở bất cứ đâu trong cuộc sống, và họ không đối xử độc ác với nhau. Đây là một điều ít thấy, không có sự hãm hại, dèm pha, chơi xấu giữa những phận đàn bà như thường gặp trong các câu chuyện khác, mà chỉ thấy họ cố gắng để thấu hiểu và nâng đỡ nhau vượt qua đau khổ, tiếp tục duy trì cuộc sống: Cô giáo sau khi nghe học sinh khiếu nại đã đối xử công bằng và tạo điều kiện cho học sinh nữ hơn; người phụ nữ trên xe bus nhận ra mối nguy mà cô bé xa lạ trên xe bus muốn cầu cứu bà; người đồng nghiệp của Ji Young dám chống lại nạn quấy rối tình dục nơi công sở... Câu chuyện tưởng như bình thường mà hóa ra lại chẳng bình thường, bởi nó khiến chúng ta giật mình nhìn lại cuộc sống của chính mình, có phải chúng ta cũng là một Kim Ji Young? Có phải mẹ chúng ta cũng chẳng khác nào bà Oh Mi Sook? Có phải ta cũng đã từng gặp được người bênh vực chúng ta như người phụ nữ xa lạ trên xe bus? Và có khi nào ta tưởng như có thể phát điên, nếu không được bàn tay ai đó nắm lấy đồng cảm, như bà Oh Mi Sook khi nằm trên bàn phá thai?... Quả thực không phải ngẫu nhiên mà cuốn tiểu thuyết khá mỏng này lại có thể khiến cả xã hội Hàn Quốc xôn xao dậy sóng, thậm chí các sao lớn của làng giải trí Hàn Quốc cũng không đứng ngoài cuộc. Không chỉ dừng lại ở phong trào Metoo - phong trào ủng hộ những người phụ nữ từng bị quấy rối tình dục dũng cảm nói lên câu chuyện của mình, Hàn Quốc gọi nữ nhà báo Kang Kyung Hoon là “hung thần” của nhiều công ty cũng như nghệ sĩ của showbiz. Chính cô là người nắm giữ trong tay hàng loạt bằng chứng môi giới mại dâm, quay lén và rao bán phụ nữ, trẻ vị thành niên của ca sĩ bậc nhất xứ Hàn. Một lần nữa truyền thông Hàn Quốc lại đặt câu hỏi cho vị trí cũng như vấn đề an toàn trong môi trường sống dành cho phụ nữ. Hàng loạt các ngôi sao ngầm ủng hộ phong trào nữ quyền bằng việc chia sẻ các trích dẫn về cuốn sách Sinh năm 1982 - cuốn sách nữ quyền gây tiếng vang lớn tại Hàn Quốc, Nhật Bản. Nhà xuất bản Phụ nữ xin được giới thiệu tới độc giả cuốn tiểu thuyết nữ quyền dũng cảm và giàu tính nhân văn này, để nhận thức rõ hơn về vị trí của người phụ nữ cùng những bất công mà họ phải chịu đựng do tình trạng bất bình đẳng giới trong xã hội, cũng như khích lệ những người phụ nữ hãy sống dũng cảm hơn để đấu tranh cho cuộc sống của chính mình. Một số phản hồi, nhận xét của truyền thông Hàn Quốc “Trên thực tế, trong số những phụ nữ sinh năm 1982 ở Hàn Quốc thì Kim Ji Young là cái tên được đặt nhiều nhất. Sinh năm 1982, bây giờ đang ở độ tuổi giữa 30. Tựa đề Kim Ji Young born 1982 đã phản ánh được mục đích của tác giả khi viết cuốn tiểu thuyết này, đó là vẽ nên cuộc sống phổ biến của đại đa số phụ nữ đương đại”. (--Kim Go Yeon Ju, học giả về nữ giới--) “Tôi biết rất nhiều người phụ nữ cảm thấy mình trong đó. Thật sự rất đáng buồn khi họ thấy đồng điệu với nhân vật Kim Ji Young. Ước gì không ai thấy mình giống nhân vật đó!”  (--Noh Hong Chul, diễn viên--) “Mặc dù đây chỉ là một cuốn tiểu thuyết, nhưng câu chuyện bên trong rất chân thật. Tôi không thể ngừng đọc nó cho đến hết. Tôi biết chính xác những gì Kim Ji Young đã cảm nhận... biết đến từng giây mà cô ấy phải trải qua, từ bất hạnh, buồn đau và sợ hãi... Cho dù đó không phải là câu chuyện của tôi nhưng tôi vẫn cảm thấy Kim Ji Young như là một người bạn thân của mình. Và tôi chắc chắn rằng có rất nhiều Kim Ji Young đang sống xung quanh tôi.”  (--Park Shin Hye, diễn viên--) “Dành cho những người có hứng thú muốn hiểu hơn về tình cảnh của người phụ nữ trong xã hội Hàn Quốc hiện nay, cuốn tiểu thuyết nữ quyền mang tên ‘Kim Ji Young sinh năm 1982’ được viết bởi nhà văn Cho Nam Joo sẽ cho bạn thấy một cái nhìn tổng quan thực tế về vấn đề này. Cuốn sách này không giống như những cuốn sách thông thường, thiên về một chuỗi giai thoại ghép lại hơn là tiểu thuyết. Cốt truyện không mấy thú vị. Nhân vật chính Ji Young đến trường, có việc làm, lập gia đình, nghỉ việc và sinh con. Ngoài những điều thường nhật ra thì không còn gì xảy ra nữa. Nhưng đó mới chính là cốt yếu của toàn bộ câu chuyện. Tất cả những người phụ nữ đều là Ji Young. (Kim Ji Young là cái tên được đặt khá phổ biến cho con gái sinh năm 1982, vì thế đây cũng chính là tên của cuốn tiểu thuyết này) Ji Young không chiến đấu chống lại chế độ như một người vận động nữ quyền. Khi có một lão khách già nua phóng đãng bắt cô phải ra ngoài để đi uống rượu với lão thì cô sẽ không chọn cách đứng dậy, đổ ly nước lên đầu lão và rời đi. Mà cô sẽ vẫn ngồi yên và đưa ra những bình luận chính kiến của mình về phân biệt đối xử giới tính như những nữ công nhân trẻ khác cũng làm. Cơ bản thì cô cũng chỉ là phụ nữ trẻ tuổi bị cuốn vào một xã hội sống theo lối gia trưởng." (--Trích review từ dramasrok và được dịch lại từ IRAINvn--) Tôi luôn có cảm giác rằng Kim Ji Young đang thực sự sống ở đâu đó. Bởi cô ấy có quá nhiều điểm giống với những người bạn, những người chị và cả tôi. Lúc viết tôi luôn cảm thấy ngột ngạt và thương cảm cho Kim Ji Young. Nhưng tôi biết rõ cô ấy đã lớn lên như vậy, đã sống như vậy, không có cách thay đổi nào khác nên tôi cũng phải viết như vậy. Kim Ji Young luôn luôn thận trọng và nghiêm túc khi đưa ra quyết định và làm hết khả năng của mình vì sự lựa chọn đó, tôi nghĩ rằng cô ấy cần sự ủng hộ và đền đáp thỏa đáng. Chúng ta cần cho cô ấy nhiều hơn nữa những cơ hội và sự lựa chọn. Tôi có một cô con gái lớn hơn Ji Won năm tuổi. Con gái tôi nói lớn lên muốn làm nhà du hành vũ trụ, nhà khoa học và nhà văn. Thế giới của con tôi sẽ sống phải tốt đẹp hơn thế giới tôi đã sống, tôi tin vào điều đó và đang nỗ lực để hiện thực hóa điều đó. Tôi hi vọng tất cả những bé gái trên thế gian này sẽ có thể mơ ước nhiều hơn, mơ những giấc mơ lớn lao hơn. (--Cho Nam Joo--) Tác giả Cho Nam Joo Sinh năm 1978 tại Seoul. Tốt nghiệp khoa Xã hội học trường Nữ Ehwa và là biên kịch cho những chương trình truyền hình nổi tiếng như Sổ tay PD, Bất mãn zero, Truyền hình trực tiếp buổi sáng... trong suốt 10 năm. Các tác phẩm đạt giải thưởng: Tiểu thuyết Lắng tai nghe (giải thưởng văn học Munhakdongne, năm 2011) Vì Komaneji (giải thưởng văn học Hwangsanbyeon lần thứ 2, năm 2016). Dịch giả: Dương Thanh Hoài Tốt nghiệp khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Hàn Quốc - Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội; tốt nghiệp thạc sĩ Kinh tế, Viện nghiên cứu Hàn Quốc học Trung Ương, Hàn Quốc. Các tác phẩm đã dịch, in và phát hành tại Nxb Phụ nữ: Tiểu thuyết: Lời nói dối hoa mỹ, Mây họa ánh trăng (tập 1), Cảm ơn tất cả Truyện thiếu nhi: Con chính là điều kỳ diệu, Mẹ nổi giận, Nàng công chúa giả vờ không biết mọi chuyện, Những chú ngựa của mẹ, Con là hạt giống nào vậy nhỉ, series Pretty girl - Là con gái... *** [Review Sách] "Kim Ji Young Sinh Năm 1982": Cuốn Sách Nữ Quyền Làm Bùng Nổ Trào Lưu "Metoo" Ở Hàn Quốc Hàn Quốc luôn được biết đến là một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển bậc nhất khu vực châu Á. Tuy nhiên trái ngược lại với kinh tế giàu mạnh, xứ sở kim chi lại được đánh giá là quốc gia còn mang nặng tư tưởng phong kiến và phân biệt đối xử với phụ nữ. Trước những bất cập xã hội ấy thì cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 ra đời và gây chấn động Hàn Quốc. Cuốn sách nữ quyền này đã giáng một đòn mạnh mẽ vào hệ tư tưởng lạc hậu và mở ra tương lai tươi sáng hơn cho những người phụ nữ đáng lý phải có được hạnh phúc. Em trai và những gì thuộc về em là quý giá nhất, không một ai có thể tùy tiện đụng tới bất cứ thứ gì, Kim Ji Young cũng chỉ là “không một ai” trong con mắt của bà. Và cả chị gái cô cũng vậy… Kim Ji Young Sinh sinh năm 1982 - người phụ nữ của một thế hệ Cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 của tác giả Cho Nam Joo kể từ khi ra đời đã gây được tiếng vang lớn tại quê nhà Hàn Quốc. Cuốn sách xoay quanh hành trình trưởng thành, lập gia đình, đối mặt với định kiến xã hội của nhân vật Kim Ji Young. Cuộc đời của cô được đánh giá là được xây dựng dựa trên cuộc đời của người phụ nữ Hàn Quốc trong xã hội hiện đại nhưng vẫn còn tư tưởng phong kiến.    Họ Kim là một người rất phổ biến tại Hàn Quốc. Cái tên Ji Young là cái tên được đặt phổ biến cho các bé gái chào đời vào những năm 80. Có thể nói như là cái tên  này đại diện cho thế hệ phụ nữ chào đời trong những ngày tháng Hàn Quốc còn chưa có những luật cần thiết để bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ. Và cho đến tận ngày nay họ còn phải gánh chịu sự bất bình đẳng giới. Vì vậy khi viết cuốn sách này, Cho Nam Joo không định kể lại cuộc đời của một người phụ nữ mà bà muốn khắc họa cuộc đời của phần đông phụ nữ Hàn Quốc. Cho Nam Joo bộc bạch: Tôi luôn có cảm giác rằng Kim Ji Young đang thực sự sống ở đâu đó. Bởi cô ấy có quá nhiều điểm giống với những người bạn, những người chị và cả tôi. Lúc viết tôi luôn có cảm giác ngột ngạt và thương cảm cho Kim Ji Young. Nhưng tôi biết rõ cô ấy đã lớn lên như vậy, đã sống như vậy, không có cách thay đổi nào khác nên tôi cũng phải viết như vậy.   Những bất công xã hội bắt đầu đổ xuống cuộc đời của mẹ của Kim Ji Young, bà Oh Mi Sook. Thuở thiếu thời, bà Oh Mi Sook phải nghỉ học làm công nhân và dành dụm tiền làm thuê để nuôi những người anh và em trai của mình đi học. Không chỉ có bà mà những người phụ nữ sống ở thời đại đó đều vậy. Họ sẽ phải từ bỏ tương lai của mình chỉ vì họ là phụ nữ. Họ phải dành hết cả công sức của mình để tìm đến những điều kiện tốt đẹp nhất cho những người anh, em trai trong nhà. Sau đó những người em, anh của bà đều có công việc ổn định. Người anh cả của bà làm bác sĩ, em thứ làm cảnh sát và em út làm giáo viên. Nhưng sau đó thì họ cũng dần thành gia lập thất. Họ phải chăm lo cho gia đình của mình và không thể thể báo đáp công ơn của bà Oh Mi Sook nữa. Vì chỉ hết tiểu học nên bà có cuộc sống rất khó khăn. Sau khi bà Oh Mi Sook kết hôn thì bà sinh được hai đứa con gái là Kim Ji Young,  Kim Eun Young và một con trai. Những đứa con gái của bà được đối xử bình đẳng hơn thời của người mẹ. Kim Ji Young và chị gái Kim Eun Young được đến trường, được đi học và hưởng những quyền lợi cần thiết. Chính phủ Hàn Quốc đã có những sự cải cách mạnh mẽ điểm xóa bỏ sự bất bình đẳng giới. Nhưng điều này chỉ khá hơn so với trước đây nhưng không có nghĩa là xã hội Hàn Quốc đã hoàn toàn bình đẳng nam nữ. Những dấu hiệu của sự không công bằng giữa nam và nữ được khắc họa trong cuốn sách từ gia đình đến xã hội đều vô cùng chân thật. Lúc còn nhỏ chị em Kim Ji Young luôn phải dành những thứ tốt đẹp nhất cho em trai của mình. Ăn cơm cũng phải để em trai ăn trước, cặp sách đi học của em trai luôn lành lặn còn của hai chị em cô thì lại là đồ cũ. Tương lai và kỳ vọng của cả gia đình điều đặt lên vai của người con trai. Có lẽ tư tưởng "Con gái gả đi rồi như nước đã đổ đi" khó mà thay đổi được trong xã hội Hàn Quốc hiện đại. Ở trường học theo tỉ lệ lớp trưởng là nam chiếm tối đa. Dù các giáo viên ở đây có thói quen chọn ra mỗi lớp vài bạn nữ để chạy việc vì họ cảm thấy nữ sinh chăm chỉ hơn nhưng họ không chọn lớp trưởng là nữ. Trong những năm sau nhờ chính sách mới mà tư duy xã hội thay đổi, tỉ lệ lớp trưởng là nữ đã tăng dần. Những con số trong này vẫn chiếm rất ít so với tỷ lệ lớp trưởng là nam. Nhưng có lẽ những sự phân biệt ấy là rất là quá nhỏ so với những thái độ của mọi người khi những nữ sinh bị quấy rối. Hàng loạt những vụ quấy rối nữ sinh đến từ những kẻ lạ mặt thường xuyên đi lại quanh trường. Khi ấy những nữ sinh đã dũng cảm đứng lên tố giác những kẻ quấy rối thì lại phải chấp nhận những ánh mắt kỳ thị. Chỉ vì các cô bé đã dám nói lên những tội ác mà những người xấu đã làm mà bị xem là không biết xấu hổ. Vì cái tâm lý "tốt khoe xấu che" ấy mà những quyền lợi cơ bản nhất của những nữ sinh đã bị xâm phạm nghiêm trọng. Bất bình đẳng giới ảnh hưởng đến tương lai và cơ hội việc làm của phụ nữ Hàn Quốc Khác với Việt Nam, ở Hàn Quốc cơ hội việc làm không hề bình đẳng giữa nam và nữ. Phụ nữ có rất ít cơ hội việc làm, nhất là những công việc có chế độ đãi ngộ tốt. Lý do mà các doanh nghiệp đưa ra nhằm giải thích cho việc này là do người đàn ông có thể đảm đương được công việc tốt hơn. Họ không phải lo lắng về việc gia đình, chăm sóc con, chăm sóc cha mẹ già, họ không giống như phụ nữ. Phụ nữ sau khi lấy chồng phải chăm sóc cho cha mẹ chồng. Khi họ mang thai cần thêm chế độ đãi ngộ, họ phải nghỉ một khoảng thời gian để nuôi con. Khi con ra đời họ phải dành hết thời gian của mình để chăm sóc con nhỏ. Phần nhiều doanh nghiệp cho rằng phụ nữ có nhiều thứ phải lo nên họ không thể tập trung cho công việc được. Một lí do cũng quan trọng không kém là vì tư tưởng người đàn ông có năng lực, trí lực hơn người phụ nữ vẫn còn nặng trong xã hội xứ sở kim chi.   Trên một trang web thông tin tuyển dụng đã đưa ra kết quả điều tra tỷ lệ tuyển dụng lao động nữ khoảng 100 doanh nghiệp thì tỷ lệ này chỉ ở mức 29,6%[…] người ta vẫn nói rằng tỷ lệ nữ như vậy là khá cao! Trong 50 tập đoàn lớn thì có đến 44% trả lời rằng “nếu ứng viên có điều kiện tương tự nhau thì sẽ chọn ứng viên nam” và không một ai trả lời rằng “sẽ chọn ứng viên nữ”. Cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 đã khắc họa rõ nét hình ảnh của người phụ nữ Hàn Quốc trong công việc. Kim Ji Young đã từng rất chật vật sau khi ra trường vì không tìm được việc làm. Trong một lần đậu vòng phỏng vấn cô đã rất vui vẻ và hy vọng. Nhưng sự hy vọng của cô đã nhanh chóng tan biến bởi câu hỏi tình huống mà bên công ty đưa ra: Cuối cùng một giám đốc nam tầm tuổi trung niên ngồi ở vị trí xa nhất nãy giờ chỉ gật đầu mà không nói gì đặt ra một câu hỏi: "Giả sử các bạn tới tham dự một buổi gặp đối tác. Tìm đối tác của các bạn lại cứ liên tục, như thế này, đụng chạm thân thể bạn. Ví dụ như khoác vai, hoặc sờ đùi. Những việc đại loại như thế. Các bạn hiểu chứ hả? Trong trường hợp như vậy các bạn sẽ làm thế nào? Bắt đầu từ Kim Ji Young đi." Câu hỏi này dành cho ba ứng viên cùng tham gia phỏng vấn là Kim Ji Young và hai ứng viên nữ khác. Cả ba người đều có phong thái lịch sự, nhã nhặn và có trình độ học vấn tốt. Vì trình độ ngang nhau nên ai được nhận vào công ty sẽ quyết định bởi câu trả lời tình huống này. Đây là một câu hỏi phản ánh tình trạng chung của nạn xem thường phụ nữ tại Hàn Quốc. Cả ba ứng viên đều đưa ra những câu trả lời khác nhau. Một ứng viên nữ thì nói rằng sẽ xem lại bản thân ăn mặc có không phải phép không và xin lỗi người quấy rối mình để bảo toàn công việc. Một ứng viên khác thì quyết liệt hơn nói rằng sẽ không tha cho hành vi quấy rối của người đối tác, sẽ truy tố đến cùng dù cho có bị đuổi việc. Còn Kim Ji Young thì nói rằng cô sẽ viện cớ đi vệ sinh hoặc lấy tài liệu để tránh thái độ của đối tác vừa không làm tổn hại đến lợi ích của công ty. Không lâu sau thì Kim Ji Young nhận được kết quả là mình đã trượt phỏng vấn. Cô cứ nghĩ rằng ứng viên đã kiên quyết từ chối hành động quấy rối sẽ là người được tuyển vào công ty. Vì cô ứng viên này quá dũng cảm. Tuy nhiên khi cô gọi điện hỏi nhân viên trong công ty rằng ai là người đậu thì câu trả lời là có ba đều trượt. Trong thực tế thì cách tốt nhất để giải quyết câu hỏi tình huống ấy chính là không tuyển nhân viên nữ. Như vậy sẽ không xảy ra những vụ quấy rối nhân viên nữ của đối tác. Từ đó giảm tối đa thiệt hại của công ty. Cuốn sách bán được hơn 1 triệu bảng làm sống dậy hashtag #metoo Cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 bắt đầu nổi tiếng tại Hàn Quốc sau những vụ bê bối về những đường dây phát tán những đoạn clip nhạy cảm về phụ nữ của những nghệ sĩ nổi tiếng hàng đầu. Cùng với đó là việc phát hiện hàng trăm trang web đen quay lén phụ nữ. Điều này được thể hiện rõ trong cuốn sách khi nhà vệ sinh nữ trong công ty cũ của Kim Ji Young bị gắn camera quay lén và phát sáng lên mạng thì những người đầu tiên biết việc này đã không tố giác. Đó chính là những nam nhân viên đã xem những tấm ảnh này. Họ lén lút chuyền tay nhau xem mà không có một chút cảm giác tội lỗi. Sau khi sự việc được phơi bày, những nhân viên nữ đã rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Dù cố gắng vui vẻ khi đến công ty nhưng lúc nào cũng có cảm giác như sắp phát điên. Chỉ cần chạm vào một người không quen biết cũng có cảm giác như người ta đã xem ảnh của mình, ai đó cười thì nghĩ họ đang cười mỉa mình, lúc nào cũng thấy như tất cả mọi người đều biết mình. Các nhân viên nữ đa số đều phải uống thuốc, gặp bác sĩ tâm lý. Còn nữa, Jung Un vì uống thuốc ngủ mà phải cấp cứu đấy. Thậm chí có người đã nghỉ việc vì không chấp nhận được những sự sỉ nhục và xem thường ngầm ấy. Có lẽ khó tin nhưng một đất nước có nền kinh tế phát triển như Hàn Quốc lại luôn tồn tại hàng trăm web đen có nội dung quấy rối phụ nữ. Và số lượng người xem những trang web này không hề nhỏ. Sự bất bình đẳng nam nữ này đã đẩy nhiều người phụ nữ vào cái chết. Sự việc rúng động gần đây là cái chết của nữ thần tượng Sulli. Sulli đã tự sát tại nhà riêng vì căn bệnh trầm cảm kéo dài. Nổi tiếng là một nghệ sĩ xinh đẹp nhưng Sulli thường xuyên bị cộng đồng mạng chỉ trích vì phong cách ăn mặc của mình. Thậm chí sau khi cô tự sát thì người đồng nghiệp Bang Min Ah đã lòng tỏ tiếc thương trên mạng thì lại bị một số người dùng tấn công bằng lời lẽ thô bỉ trên internet. Bên cạnh sự tiếc thương vô bờ thì sự ra đi tuyệt vọng của Sulli cũng khiến một bộ phận người mang tưởng phong kiến cảm thấy không có gì để tiếc. Sáu tháng sau ngày Sulli qua đời, bạn thân của cô là Goo Hara đã tự sát vì những sự xem thường phụ nữ và bất bình đẳng giới phải chịu đựng. Có thể thấy sự bất bình đẳng nam nữ đã gây ra những hậu quả tiêu cực. Đồng thời những định kiến ấy đã người phụ nữ đến bước đường cùng. Có thể thấy cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 không chỉ được viết ra để mở mang kiến thức như những cuốn sách khác. Cuốn sách được sinh ra để thức tỉnh và thay đổi xã hội. Kim Ji Young Sinh Năm 1982 đã bán được hơn 1 triệu bản tại Hàn Quốc và rất nổi tiếng tại Nhật Bản, Đài Loan và Việt Nam. Cuốn sách nổi lên và làm sống dậy trào lưu #Metoo rúng động Hàn Quốc. Đó là trào lưu "Tôi cũng vậy", "Tôi đã từng sống và bị quấy rối như vậy". Phụ nữ đã không còn e dè mà dũng cảm lên tiếng tố cáo những tội ác. Phụ nữ đã chịu đựng quá nhiều bất công nhưng từ nay sẽ không bao giờ yếu đuối. Càng không bao giờ từ bỏ ước mơ và tương lai của mình. Tấm bản đồ thế giới trong phòng của chị em Kim Ji Young chính là biểu tượng tươi đẹp cho tương lai của những người phụ nữ. Dẫu trải qua bao sóng gió họ vẫn luôn lạc quan và tin rằng bản thân sẽ vượt qua tất cả. Họ tin rằng sẽ vượt qua những định kiến khắc nghiệt để xây dựng lên ước mơ bằng chính đôi tay của mình.   Một vài miếng sticker hình trái tim màu xanh lá cây và xanh dương được dán lên tấm bản đồ cũ kỹ với những vệt gấp giấy. Những miếng sticker đó để biểu hiện vị trí những đất nước mà Kim Eun Young muốn đi, cô cũng đưa cho cả Kim Ji Young để dán trang trí sổ nhật ký nữa. Kể từ khi cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 xuất hiện thì Hàn Quốc nổi lên trào lưu cắt tóc ngắn và để mặt mộc. Họ sẽ không để bất cứ ai đánh giá mình dựa trên vẻ bề ngoài. Phụ nữ hiện đại Hàn Quốc không cần phải ép mình xinh đẹp bằng cách phẫu thuật thẩm mỹ hay trang điểm. Điều này đi ngược lại so với trước đây. Ở Hàn Quốc, phụ nữ không xinh đẹp mà không phẫu thuật thẩm mỹ thì khó mà xin được việc làm. Bất chấp định kiến họ sẽ luôn đấu tranh, vì họ tin rằng có một ngày không xa người phụ nữ trong xã hội Hàn Quốc sẽ được đối xử một cách công bằng và họ sẽ tìm được hạnh phúc. Cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 của Cho Nam Joo đã làm cảm động biết bao trái tim của những người ủng hộ xã hội công bằng và bình đẳng. Cuốn sách đã góp phần truyền động lực sống mạnh mẽ cho những người phụ nữ bị đối xử bất công ở xứ kim chi. Tìm ẩn trong từng trang sách ấy luôn là lòng tin về tương lai tươi đẹp hơn sẽ đến với họ vào một ngày không xa. Review bởi Trần Hạnh - Bookademy Mời các bạn đón đọc Kim Ji Young, Sinh Năm 1982 của tác giả  Cho Nam Joo & Dương Thanh Hoài (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

La Mã Sụp Đổ
Rời bỏ trường đại học để kiến tạo thế giới riêng cho mình, hai chàng sinh viên Matthieu và Libero những tưởng đã tìm được thế giới hoàn hảo cho riêng mình tại một quán bar ở ngôi làng hẻo lánh trên đảo Corse, nhưng liệu thế giới ấy có khả thể? Bởi phải chăng “… mỗi thế giới chỉ là sự phản ánh méo mó của tất cả các thế giới khác, một tấm gương xa vời trong đó rác rưởi dường như cũng sáng lên như kim cương…” Với giọng văn sâu lắng, giàu cảm xúc, để lại nhiều dư vị, chủ nhân của giải Goncourt 2012 đã xây dựng cho mình một lối viết tiểu thuyết riêng biệt. Những câu văn dài đầy nhịp điệu như một dải lụa bất tận cuốn độc giả vào dòng suy tưởng về số phận con người. Bằng cách đó, Jérôme Ferrari gây dựng một niềm tin sắt đá,‑ rằng khi kết thúc cũng chính là lúc khởi đầu, niềm tin ấy động viên mỗi con người sống trọn vẹn cho thế giới của chính mình. Nhận định “Điều khiến ta choáng ngợp cho đến tận dòng cuối cùng chính là lối viết tuyệt mỹ vô song.”- Elle “Jérôme Ferrari mang đến những giấc mơ, những đớn đau, những đam mê và cả những ảo mộng tan vỡ, rất giống với một huyền thoại.”- Le Soir *** Từ “thế giới” gợi nên một quang cảnh xa xôi và đầy hứa hẹn. Với mỗi con người thế giới rộng đến đâu, họ phụ thuộc vào thế giới của mình như thế nào và làm sao mà thế giới sụp đổ? Những câu hỏi vĩnh cửu đó được khám phá trong cuốn tiểu thuyết gọn gàng và tuyệt đẹp La Mã sụp đổ (*) của Jérôme Ferrari - chủ nhân giải Goncourt năm 2012. Bắt đầu bằng một bức ảnh đen trắng cũ, Jérôme Ferrari ngay lập tức tạo ra một trạng thái bất an về vị trí của mỗi con người đối với thế giới, nó có thể rộng lớn khôn cùng và cũng có thể hết sức hạn hẹp. Marcel - đứa con cuối cùng của một người lính trở về từ Thế chiến thứ nhất - đã ra đời vào thời điểm mà châu Âu tan hoang sau chiến tranh, và lớn lên trở thành một viên chức thuộc địa tại châu Phi trong những ngày tàn của đế chế Pháp. Cuộc đời ông là những lần “lỡ hẹn với những thế giới không còn tồn tại nữa”. Sự ra đời và lớn lên của con, rồi cháu ông là những cơ hội mới, và họ tiếp tục kiên trì bước vào xây dựng những thế giới nhỏ bé khác, bởi ở mọi thời đại, những con người bị bỏ rơi, bị tước đoạt thế giới, vẫn tiếp tục tấn trò của thế hệ và của cái chết... Matthieu - cháu trai của Marcel - cùng người bạn thân Libero đã rời bỏ trường đại học khi những người thầy trên giảng đường không còn khiến họ tin vào thế giới triết học trong thời hiện đại nữa. Tại ngôi làng hẻo lánh trên đảo Corse quê hương, họ quyết định tiếp tục cái ước mơ không bao giờ cũ - xây dựng thế giới hoàn hảo của riêng mình bằng cách tiếp quản một quán bar địa phương. Buổi đầu mọi thứ bao giờ cũng đẹp đẽ. Hai chàng thanh niên đầy nhiệt huyết tập hợp được một bộ sậu, với những cô hầu bàn rộng rãi đáng yêu và một nhạc công guitar lang thang. Họ sống những ngày đầy sôi động trong ảo tưởng rằng thế giới họ xây nên đã bền vững. Nhưng trọng tâm mong manh vô hình của nó mỗi ngày một lệch dần vì tình dục, tiền bạc, nỗi sợ hãi, sự cô lập... Và nếu một ngày nó sụp đổ thì cũng không ai nhận ra. Phải chăng các đế chế thường chết như thế, chẳng ai nghe thấy dù là một tiếng rung rinh? - đó là cảm giác ám ảnh hiện diện, trong từng trang sách cứ vang vọng mãi âm thanh mơ hồ của những nền móng đang dần dần rạn nứt. Ba sự sụp đổ được sử dụng làm nền cho cuốn sách đầy tính biểu tượng: sự sụp đổ của đế quốc La Mã, qua những lời giảng của Thánh Augustin; sự sụp đổ của trật tự thế giới cũ sau chiến tranh thế giới, qua cuộc đời của nhân vật Marcel; sự sụp đổ của quán bar nhỏ bé, thế giới bất toàn mà những người thanh niên thời hiện đại tự xây cho mình - như một lời cảnh báo về văn hóa châu Âu buổi suy tàn. Họ nào phải thần linh, họ chỉ là những kẻ sáng tạo, và chính thế giới mà họ đã tạo ra giờ lại đặt họ dưới ách thống trị độc đoán của nó - tình cảnh mà Matthieu và Libera trải qua gắn với số phận con người, và giờ đây con người nhìn thấu nó hơn bao giờ hết khi những bức màn trang trí của nhiều thế kỷ qua đều đã rơi xuống hết. “...Chúng ta không biết thế giới là gì, sự tồn tại của thế giới phụ thuộc vào cái gì. Hẳn đã được ghi đâu đó trong vũ trụ quy luật bí hiểm đang chi phối sự hình thành, sự lớn lên và sự kết thúc của những thế giới đó. Nhưng chúng ta cũng biết điều này: để một thế giới mới nảy sinh, thế giới cũ phải chết đi đã... Khoảng cách giữa hai thế giới đó có thể vô cùng ngắn ngủi hoặc trái lại, dài lâu đến mức trong nhiều chục năm trời, con người phải học cách sống trong sầu não, đau buồn để cuối cùng tất yếu nhận ra họ không thể sống và xét cho cùng, họ chưa bao giờ sống”. Chỉ dày hơn 200 trang, La Mã sụp đổ là một tác phẩm tiêu biểu cho văn học hiện đại, với dung lượng vừa phải, những câu chuyện gợi mở và lối văn chương đáng thưởng thức. Chỉ có một ngòi bút bậc thầy mới có thể hòa trộn sự phóng túng, châm biếm với những nét lãng mạn thuần khiết trong từng bức chân dung được mô tả sống động, mà vẫn làm nổi bật được tính khái quát và chiều sâu triết học. Những câu văn dài đầy nhịp điệu lôi cuốn người đọc vào nỗi buồn, nỗi cô đơn, cảm giác bất an... nhưng bên dưới là sự điềm tĩnh và niềm hi vọng.   Jérôme Ferrari sinh năm 1968 tại Paris, từng học tại Sorbonne và nhận bằng cử nhân triết học tại Đại học Paris 1 Panthéon-Sorbonne. Hiện ông là giáo viên triết học tại Abu Dhabi, thuộc Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất. Trước khi nhận giải Goncourt 2012 với La Mã sụp đổ, Jérôme Ferrari từng nhận giải thưởng Landerneau của France Télévisions cho tiểu thuyết Un dieu un animal, giải thưởng lớn Poncetton cho cuốn Où j’ai laissé mon âme. (*): La Mã sụp đổ, Jérôme Ferrari. Nguyễn Duy Bình dịch, Nhã Nam và NXB Văn Học ấn hành, tháng 1-2014. THANH VÂN Mời các bạn đón đọc La Mã Sụp Đổ của tác giả Jérôme Ferrari & Nguyễn Duy Bình (dịch).
Ba Phụ Nữ Can Đảm
Ba câu chuyện về trực diện đương đầu với cuộc đời này được viết ra không để tạo tâm trạng dễ chịu cho độc giả, vì cứ qua mỗi trang kế tiếp, sự cay nghiệt và tàn độc của cõi đời lại tăng thêm một mức nữa. Các hình dung ban đầu của độc giả còn kém xa những gì diễn tiến của hư cấu bày ra. Cuộc đời những người phụ nữ châu Phi có chút dính dáng với phương Tây, không bao giờ mang màu hồng, nhưng phải có cái nhìn thấu suốt, "từ bên trong". Như tác giả ba câu chuyện trong cuốn sách này thì toàn bộ sự thảm khốc mới được lột tả đầy đủ và cùng lúc là sức sống mãnh liệt của con người bị đẩy tới đường cùng. Cái nhìn ấy và sức mạnh ngôn từ đặc biệt ấy, Marie Ndiaye sở hữu với một dung lượng lớn đến kinh ngạc. *** Phải chăng, bằng một ngòi bút thấm đẫm nhân văn, Marie NDiaye – một phụ nữ da màu, muốn khắc sâu vào tâm tưởng của độc giả khắp thế giới hai tiếng ấy. Dù đã được “cảnh báo” trước về một cuốn tiểu thuyết không hề dễ đọc, một cuốn tiểu thuyết “lạ hóa”, nhưng “Ba phụ nữ can đảm” của Marie NDiaye vẫn khiến tôi đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, suốt từ trang đầu tiên đến trang cuối cùng. Bất ngờ không phải vì tình huống truyện, không phải bởi những cách thắt nút hay mở nút thông thường, mà bất ngờ bởi cách mà tác giả sử dụng để viết nên cuốn sách ấy. Cuốn sách tái hiện lại ba mảnh đời, tôi thích dùng từ “mảnh đời” hơn là “cuộc đời” bởi số phận của ba người phụ nữ được tái hiện trong trang sách đều không toàn vẹn. Nó chỉ như một lát cắt, một góc nhỏ, nhưng là cái góc cay nghiệt nhất, ai oán nhất, bi thương nhất. Ở đó, người ta thấy cái góc của Norah, nữ luật sư 38 tuổi gốc Phi, đang định cư tại Paris thì bỗng dưng được người bố ở Sénégal gọi về nhà vì tin cậu em trai đang phải ngồi tù vì tội giết người. Chỉ trong một tình huống ngắn ngủi ấy, nhưng gần như cả cuộc đời Norah đã được tái hiện lại: bố mẹ ly dị từ khi còn nhỏ; xây dựng gia đình với một cuộc hôn nhân chắp vá; mẹ tái hôn với người đàn ông khác, người bố chìm đắm trong mối quan hệ hoan lạc với những người phụ nữ đáng tuổi con mình, bỏ quên trách nhiệm của một người cha, thậm chí bắt con cái phải gánh chịu những tội lỗi do chính mình gây ra… Người ta cũng thấy cái góc của Fanta, một người phụ nữ gốc Phi khác theo chồng sang Pháp sinh sống với lời hứa hẹn về một tương lai tốt đẹp. Nhưng trái với ước mong về cuộc sống màu hồng, cuộc hôn nhân của Fanta rơi vào trạng thái căng thẳng và nặng nề, chẳng khác nào địa ngục. Điều đặc biệt là câu chuyện của Fanta được kể lại dưới góc nhìn, góc tự sự của chồng cô – Rudy Descas. Và cái góc cuối cùng, cũng là chìa khóa làm rõ hơn cho chủ đề câu chuyện, là cái góc bi kịch của Khady Demba, một người phụ nữ góa chồng, bị gia đình nhà chồng hắt hủi, lưu lạc sang Châu Âu trong một hành trình đầy bất hạnh: bị bắt làm gái, bị bạo hành, bị ném ra đường làm kẻ ăn mày… và kết lại bằng cái chết đầy bi thảm. Ba mảnh đời chỉ liên kết với nhau bằng một sợi dây vô cùng mỏng mảnh, mà nếu không để ý thì độc giả cũng khó lòng nhận ra. Đó là chi tiết Khady trong câu chuyện cuối là người nấu ăn cho bố của Norah, lên đường đến Pháp để gặp cô chị họ Fanta. Ngoại trừ mối liên hệ mong manh ấy, thì dường như họ không có điểm nào chung. Thế nhưng ba cái “góc” của họ lại được xếp lại gần nhau, theo cấp độ tăng dần của tính bi kịch, và hoàn chỉnh trong một cuốn tiểu thuyết chứ không phải là một tập truyện ngắn như nhiều người nghĩ rằng nên như thế. Phải chăng, ngoài dụng ý tạo nên một cấu trúc khác lạ cho tác phẩm của mình, Marie NDiaye còn muốn nói, còn muốn khắc họa một điều gì hơn thế? Phải chăng, những Norah, Fanta hay Khady, rốt cuộc cũng chỉ là một cái tên để gọi, một biểu hiện nhạt nhòa của tính cá thể, ẩn sau đó là cả một thế giới tăm tối những bi kịch giống nhau của “Phụ - Nữ”. Phải chăng, bằng một ngòi bút thấm đẫm nhân văn, Marie NDiaye – một phụ nữ da màu, muốn khắc sâu vào tâm tưởng của độc giả khắp thế giới hai tiếng ấy. “Phụ - Nữ”, nguồn cảm hứng của nghệ thuật, nét đẹp của cuộc sống, cứu tinh của gia đình, thế nhưng cũng là nơi để người ta trút lên đủ mọi cơn thịnh nộ. Norah, Fanta hay Khady chỉ là ba trong rất nhiều, rất nhiều những cuộc đời khác, số phận khác, thậm chí còn bi kịch hơn, đang hàng ngày hàng giờ lặp đi lặp lại vai diễn tủi nhục của mình trong sân khấu cuộc đời. Đâu đó giữa biển người rộng lớn này, có những người phụ nữ vẫn hàng ngày lo toan cho cuộc sống gia đình để đêm đêm lui vào cái góc nhỏ của mình và khóc; có những người phụ nữ cả đời vì chồng vì con mà vẫn bị coi khinh; có những người phụ nữ bị bạo hành, bị chà đạp, bị biến thành công cụ để phục vụ cho lạc thú của đàn ông… “Ba phụ nữ can đảm” không phải là tuyên ngôn bảo vệ bình đẳng giới, bởi họ, những người phụ nữ Châu Phi ấy không hề đứng lên đòi quyền sống, cũng chẳng hề mở miệng rao giảng bất kỳ thứ triết lý nào. Họ chỉ như thế, nhẫn nhịn chịu đựng, nhưng không để bị dập vùi. Họ can đảm không phải bằng nắm tay giương cao, mà bằng tinh thần, như một viên ngọc vẫn tỏa sáng lấp lánh cho dù cuộc đời tăm tối. “Ba phụ nữ can đảm” là một cuốn sách về hiện thực, cay đắng và khắc nghiệt. Nhưng nó làm tôi thỏa mãn. Và tận sâu trong cái vực tăm rối và rữa nát những bi kịch ấy, tôi vẫn nhìn thấy một lối thoát nhỏ bé, đấy là khi Khady, cô cái của câu chuyện cuối, ra đi vào cõi vĩnh hằng. Hình ảnh cuối cùng mà cô nhìn thấy, không phải là những kẻ ăn xin rách rưới, không phải là đám lính tráng được trang bị súng ống, cũng không phải là hồi ức về cái nhà thổ bẩn thỉu, nơi đã vắt kiệt thể xác của cô, mà là nó – một con chim cánh dài màu xám. Cái con chim bay liệng trên bầu trời tự do ấy, cô tự nhủ, cũng chính là “mình – Khady Demba đây mà”. Và cô đã ra đi, hạnh phúc với cái phát hiện ấy, hạnh phúc với sự bay bổng của tự do vĩnh viễn, dù phải đánh đổi bằng cái chết. Cuộc đời đắng cay là thế, số phận ác nghiệt là thế, thể xác dù có thể bị dập vùi, bị chà đạp, nhưng tinh thần con người, chẳng ai có thể ngăn được, vẫn như cánh chim kia, bay lên trên mọi khổ đau tủi cực để hướng về phía có ánh nắng và khí trời. *** Và người đón chị hoặc tuồng như vô tình xuất hiện trên bậu cửa căn nhà lớn xây bằng bê tông, tắm mình trong một cường độ ánh sáng đột nhiên mạnh mẽ đến độ tựa hồ chính cơ thể vận đồ nhạt màu của ông ta phát tỏa luồng sáng ấy, người đàn ông đứng đó, thấp lùn, phục phịch, khuếch tán một quầng sáng trắng hệt một bóng đèn nê ông, người đàn ông ló ra trên bậc thềm căn nhà ngoại cỡ chẳng còn gì sót lại, Norah thốt lên trong lòng ngay khi ấy, của vẻ cao ngạo, của dáng bề thế, của sự tươi trẻ nơi ông ta vốn thường hằng một cách bí ẩn đến nỗi ngỡ như không thể lụi tàn. Ông ta đan hai tay vào nhau để trên bụng và đầu ngoẹo sang một bên, mái đầu lốm đốm bạc còn bụng thì trương lên và chảy sệ dưới lớp sơ mi trắng, bên trên cạp cái quần màu kem. Ông ta đứng đó, lút trong sự chói lọi lạnh lẽo, có lẽ từ cành một cây phượng vĩ trồng đâu đó trong vườn rớt xuống ngưỡng cửa căn nhà ngạo nghễ của mình bởi, Norah tự nhủ, trong lúc tiến lại gần căn nhà từ phía ngoài hàng rào chị vẫn chằm chằm nhìn cửa ra vào mà không thấy nó bật mở để hé lối ra cho bố chị - thế nhưng ông ta hiện ra trước chị trong ánh chiều tà, người đàn ông sáng lựng và bệ rạc dường như đã bị một nhát búa tạ hung hãn giáng xuống đầu, tán những tỉ lệ cân xứng hài hòa mà Norah vẫn nhớ thành ra một người cục mịch, cổ rụt, bắp chân to bè, lũn chũn. Đứng ngay đơ, ông ta ngó chị tiến lại gần, và tịnh không điều gì trong cái nhìn lần chần, hơi lờ vờ của ông ta để lộ rằng ông ta đang ngóng chị đến hay chính ông ta đã yêu cầu chị, có lúc còn nài xin chị (trong chừng mực, chị nghĩ, một người như ông ta vẫn còn khả năng khẩn cầu bất kỳ sự trợ giúp nào) đến thăm mình. Ông ta chỉ đơn giản là ở đó, có lẽ bằng một nhịp đập cánh đã rời cành chính của cây phượng vĩ tròa ánh vàng lên căn nhà nặng nề đậu xuống bậc thềm bê tông nứt nẻ, và cứ như chỉ vì run rủi mà lúc này bước chân Norah được dẫn về phía cổng. Và người đàn ông có khả năng biến mọi lời mình vật nài thành sự van vỉ hướng về phía mình ngó chị đẩy cánh cổng tiến vào vườn trong dáng điệu một ông chủ nhà bị rầy rà đang gắng gượng che lấp điều đó, tay khum lại trên mắt dẫu rằng nhập nhoạng đã phủ bóng rợp cái ngưỡng cửa được con người kỳ quặc, rực rỡ và phản quang của ông ta rọi sáng. - À, ra là con. Ông ta thốt lên giọng âm u, yếu ớt, thiếu tự tin bằng tiếng Pháp bất chấp khả năng làm chủ ngôn ngữ tuyệt vời, như thể sự e sợ trịch thượng ông ta hằng cảm thấy trước một vài lỗi khó tránh rốt cuộc đã khiến cho đến cả giọng ông ta cũng run rẩy. Norah không đáp. Chị ôm phớt ông ta, không ghì sát, chợt nhớ ra ông ta thậm ghét sự động chạm thân thể khi phần thịt nhèo nhẹo của cánh tay ông ta mơ hồ giật giật dưới các ngón tay chị. Chị như thoáng ngửi thấy một mùi ẩm mốc. Thứ mùi tỏa ra từ sự nở hoa ào ạt, hết mình của cây phượng vĩ vàng to sụ xòe cành bên trên ngôi nhà mái bằng và có lẽ người đàn ông âm thầm và tự phụ kia làm tổ trong các tán lá của nó, rình chờ, Norah e ngại nghĩ thầm, từng tiếng bước chân khẽ khàng nhất lại gần cánh cổng để lao vút lên rồi lóng ngóng đáp xuống bậc thềm ngôi nhà bề thế tường bê tông thô, hoặc bốc ra, cái mùi ấy, từ chính thân người hoặc áo quần bố chị, từ làn da lão hóa, nhăn nhúm, màu gio, chị không biết được, chị không thể gọi tên nó được. Cùng lắm chị cũng chỉ có thể khẳng định rằng hôm đó ông ta mặc, giờ này ông ta vẫn mặc chưa biết chừng, chị nghĩ, một chiếc sơ mi nhàu nhĩ, loang lổ vệt mồ hôi, rằng quần ông ta xanh lè, đầu gối nhẵn thín, phùng lên đầy dị hợm, hoặc là vì, như một con chim lặc lè, cứ chạm đất là ông ta khuỵu ngã, hoặc vì, Norah nghĩ trong nỗi chạnh lòng pha lẫn chán chường, cả ông ta nữa, sau rốt, cũng trở thành một lão già trễ nải, dửng dưng hoặc đui mù trước sự dơ dáy cho dù vẫn giữ các thông lệ lịch lãm quy ước, vẫn mặc màu trắng và bơ tươi thường trực khi xưa và không bao giờ xuất hiện dù là trước hiên ngôi nhà đang xây dở mà không chỉnh lại nút cà vạt, kể cả có chui ra từ phòng khách bụi bặm nào hay sà xuống từ cây phượng vĩ kiệt cùng vì nở hoa nào đi chăng nữa. Norah, từ sân bay đến, đã bắt taxi rồi đi bộ rất lâu dưới trời nắng nóng vì quên địa chỉ chính xác nhà bố chị và chỉ định vị được khi nhận ra ngôi nhà, cảm thấy mình nhớp nháp, bẩn thỉu, rã rời. Chị mặc một chiếc váy xanh lục không tay, điểm xuyết những bông hoa vàng li ti từa tựa những cánh phượng la liệt khắp hiên nhà, và đi một đôi xăng đan bệt màu lục nhạt. Mời các bạn đón đọc Ba Phụ Nữ Can Đảm của tác giả Marie NDiaye & Hồ Thanh Vân (dịch).
Sao Không Chờ Đợi Nhau
Ngày xưa Trời ở trên trời. Trời xui đằng ấy đến ngồi bên ta. Ngày xưa đằng ấy nhà xa. Tan trường mưa quá nên ta đưa về. Ngày xưa đằng ấy tóc thề. Ta thời tóc ngắn nên về tương tư. Ngày xưa ta viết phong thư. Đằng ấy nhận được hình như bằng lòng … Tình yêu tuôi học trò là đẹp nhât, cai tuôi mà ta lưu luyến mãi. Cái tuổi mà đã đem lại tình yêu cho Tử Khiêm và Đan Châu một tình yêu đẹp,dù có phải xa cách nhau nhưng họ vẫn hướng về nhau, vẫn chờ đợi nhau đến ngày cuối cùng để được sống với nhau bằng tất cả tình yêu mà họ đã trao cho nhau. Mời các bạn đón đọc Sao Không Chờ Đợi Nhau của tác giả Mèo Ttm (Võ Nghiêm Phương).
Các Hung Thần Lên Cơn Khát
Anatole France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, ông sinh ở Paris ngày 16 tháng 4 năm 1844, ngày 13 tháng 10 năm 1924 ở Tours, Indre-et-Loire, Pháp. Năm 1921 ông được trao giải Nobel Văn học vì "những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gô-loa đích thực"… Đến năm 1922, sách của ông đã nằm trong danh sách cấm của Giáo Hội Công Giáo La Mã, bởi trước tác của ông chống lại sự mê hoặc tôn giáo, giáo điều chủ nghĩa; dưới ngòi bút châm biếm đả kích, trào lộng, A. France mỉa mai những luận điệu thần thánh, những thiết chế Nhà nước, những thối nát của nhà thờ cùng với sự đớn hèn của loài người. Các hung thần lên cơn khát là một thiên hùng ca bi tráng về thời kỳ Công xã Paris. Nhân vật chính của câu chuyện là Évariste Gamelin, một họa sĩ trẻ tràn trề sức sống và lý tưởng, một người con hiếu thảo sống cùng mẹ già nghèo khó, một người bạn vô hại dễ thương, một công dân nhiệt tình yêu nước, một chiến sĩ tuyệt đối trung thành với Cách mạng được bổ nhiệm làm hội thẩm của Tòa án Cách mạng Pháp. Tư tưởng cực đoan và sự sùng bái cá nhân của Gamelin đối với các nhà lãnh đạo công xã Robespierre, Marat,... và cơn ghen cuồng điên trong mối tình si chớm nở đã từng bước đưa anh từ một nghệ sĩ mộng mơ thành một tên giết người hàng loạt. Vì chế độ Cộng hòa, anh hy sinh không hối tiếc bao nhiêu sinh mạng, kể cả bạn bè, và nếu cần, cả em gái mình để làm lễ dâng lên bàn thờ Tổ quốc. Điều gì sẽ đến khi lý tưởng trở thành ngọn hải đăng tỏa sáng dẫn đường, khi lý tưởng trở thành vị thần được tôn thờ mù quáng, khi lý tưởng được sùng bái một cách bất khả tư nghị? Và chuyện gì sẽ xảy ra khi con người trở thành nô lệ của dư luận, khi suy nghĩ bị dẫn dắt bởi đám đông. Đó là khi máy chém sẽ trở thành vị chủ tế, mạng sống và máu của con người được xem như vật hiến sinh, những buổi hành hình trở thành lễ hội náo nhiệt. Khi sự phi lý trở nên bình thường, khi quyền lực trao tay những kẻ vô tri, con người trở thành điên rồ và khát máu. Các hung thần lên cơn khát, một kiệt tác của A.France không chỉ là một tiểu thuyết lịch sử cách mạng. Dưới ngòi bút của một thiên tài, một xã hội thị dân Paris với đầy đủ các cung bậc cuộc sống, tình yêu, dục vọng, với ghen tuông được tái hiện. Các hung thần lên cơn khát còn là một bản trường ca về sự giao hòa giữa lý tưởng và tình người, về cách mạng và nhân văn, giữa duy tâm với duy vật, cả thánh thiện và tàn ác, về chiến thắng và chiến bại, về sự sống cùng cái chết, tất cả đã được Anatole France dệt thành một câu chuyện đa sắc sinh động. *** Anatole France (1844-1924) là một nhà văn vĩ đại của nước Pháp, thành viên Viện Hàn lâm và nhận giải thưởng Nobel Văn học năm 1921. Sự nghiệp văn chương của ông thực đồ sộ và mang dấu ấn những quan điểm của ông trong từng thời kỳ. Khi còn trẻ, với các tác phẩm “Sách của bạn tôi”, “Tội ác của Sylvestre Bonnard”, “Bông huệ đỏ”, “Khu vườn của Epicure”,… Anatole France nổi tiếng là một nghệ sĩ đơn thuần, một nhà nhân văn cá nhân chủ nghĩa ít quan tâm đến cuộc đời. Nhưng khi đã đứng tuổi, ông bắt đầu chú ý đến những vấn đề thời đại, những nỗi băn khoăn, lo lắng của con người. Ông tham gia bảo vệ Dreyfus, một sĩ quan Pháp bị kết án oan về tội làm gián điệp. Trong số các tác phẩm ông viết trong thời kỳ này ta có thể kể: “Chiếc vòng thạch anh xanh”, “Ông Bergerer ở Paris”,… Đặc biệt trong các cuốn “Thiên thần nổi loạn” và “Các hung thần lên cơn khát”, ông đã tố cáo bạo lực và chuyên chế, phản đối những hành động quá khích phát sinh từ cách mạng. Luôn luôn tranh đấu cho một xã hội công bằng và nhân đạo, Anatole France đứng vào hàng ngũ các chiến sĩ cực tả. Ông quan niệm tự do là tài sản quý nhất của con người, nhưng không thể có tự do khi một giai cấp còn bị một giai cấp khác nô dịch. Ông mơ ước một nhà nước thực sự dân chủ không vi phạm quyền của mỗi công dân và bảo đảm hạnh phúc cho từng cá nhân trong xã hội. Là người vô thần, ông phản đối cả cuồng tín tôn giáo lẫn cuồng tín chính trị; là nghệ sĩ, ông luôn luôn để lòng mình rung động xen lẫn xót xa trước những niềm vui mong manh, giúp ta trong giây phút quên đi nỗi đau đớn của thân phận con người. Tiểu thuyết “Các hung thần lên cơn khát” (1912) là một trong những tác phẩm hàng đầu của Anatole France. Câu chuyện xảy ra trong thời kỳ thứ ba của Cuộc cách mạng 1789 Pháp, “Thời kỳ chuyên chính Jacobin” bắt đầu từ tháng sáu năm 1793 đến hết tháng bảy năm 1794. Đó là thời kỳ cuộc cách mạng nằm trong tình thế thù trong giặc ngoài cực kỳ hiểm nghèo. Để đối phó, một mặt Quốc ước tung quân chống ngoại xâm, dẹp bạo loạn trong nước, mặt khác, bên cạnh những biện pháp nhằm ổn định đời sống, đã dùng Tòa án Cách mạng làm công cụ thực hiện quốc sách khủng bố các phe phái, cá nhân chống đối. Và vì bản thân phái Jacobin cũng phân hóa, khủng bố lan tràn vào ngay nội bộ những người cách mạng trung kiên nhất. Đó là thời kỳ rối ren nhất, đẫm máu nhất trong cuộc Cách mạng 1789. Có thể gọi “Các hung thần lên cơn khát” là một tiểu thuyết lịch sử: Một loạt sự kiện được mô tả khá đầy đủ, chính xác đến từng ngày, nhiều nhân vật lịch sử được nhắc đến trong đó một số lãnh đạo vĩ đại của Cách mạng, như Robespierre, như Marat, được phác họa bằng ngòi bút tài tình khiến người đọc có thể hình dung được cả hình dáng lẫn tâm hồn họ. Trong bối cảnh lịch sử ấy, Anatole France đưa lên sân khấu cả một đám thị dân Paris bình thường, để cho họ sinh hoạt, yêu đương, chơi bời, hy vọng, đau khổ… cả bọn đục nước béo cò thời nào cũng có. Khi nói đến những con người bình thường, tính hoài nghi cố hữu của ông thường kết hợp với sự cảm thông sâu sắc với nỗi đau nhân thế. Và mỗi lần như vậy, bút pháp bình dị của ông tự nhiên sống động, ấm áp hẳn lên. Đó là nỗi khổ đau triền miên của bà cụ Gamelin sống giữa người con trai đã mất tính người và người con gái tội lỗi đang lẩn trốn; bà cụ sợ từng tiếng động nhỏ, “vì địa vị thấp kém,… coi hèn nhát là một nghĩa vụ.” Chúng ta phải buồn cười với cô Élodie đa tình quyết tâm “đi nửa quãng đường, hoặc hơn nữa” để chinh phục người yêu. Để mô tả tâm hồn trong trắng của một cô gái điếm, tác giả đã để cho “mặt trăng lên cao rọi vào gian phòng sát mái một tia bạc làm bừng sáng mớ tóc bồng bềnh, từng chiếc mi vàng, cái mũi thanh tú, cái miệng tròn và đỏ của Athénaïs đang ngủ ngon giấc, hai bàn tay nắm chặt.” Ông đã dùng những lời lẽ thực trang trọng, đầy xúc động khi nói đến Fortuné Trubert, người chiến sĩ được giao trọng trách không hề cảm thấy “sự nhỏ bé của các phương tiện sẵn có” vì “đời sống của anh hòa nhập với đời sống của một dân tộc vĩ đại”. Nhưng ông đã dành nhiều trang nhất để diễn tả hai nhân vật trung tâm, hai con người có cá tính thực đặc biệt. Một người là họa sĩ Évariste Gamelin, người con hiếu thảo, hội thẩm Tòa án Cách mạng. Anh là một công dân nhiệt tình yêu nước, một chiến sĩ tuyệt đối trung thành với cách mạng. Vì chế độ Cộng hòa, anh hy sinh không hối tiếc bao nhiêu sinh mạng, kể cả bạn bè, nếu cần, cả em gái mình để làm lễ dâng lên bàn thờ Tổ quốc. Anh nghĩ, mỉa mai thay, làm thế để mai đây “mọi người Pháp sẽ ôm hôn nhau trong hạnh phúc”. Người kia là ông già Brotteaux nguyên là nhà quý tộc, yêu thiên nhiên, luôn luôn xúc động trước cảnh đẹp, môn đệ của Épicure. Tác giả đặt ông vào bao nhiêu tình huống, cho ông gặp bao nhiêu con người để ông có dịp nêu lên những ý nghĩ, những tình cảm của mình, của một người vô thần nhưng không cuồng tín, chống mọi hình thức chuyên chế hay bạo lực. Những ý nghĩ, những tình cảm đó được bộc lộ đôi khi mơ mộng, thường thường nhẹ nhàng, châm biếm, có lúc lố bịch, che giấu một tấm lòng cực kỳ nhân hậu, nhạy cảm, vị tha. Thế là rõ, Anatole France đã gián tiếp nêu lên quan điểm của mình. Đó là một quan điểm và còn có những quan điểm khác: bao nhiêu sử gia và nhà nghiên cứu đã viết và còn viết để đánh giá cuộc cách mạng Pháp. Giới thiệu với bạn đọc cuốn tiểu thuyết này, chúng tôi cũng mong góp phần nhỏ bé kỷ niệm một cuộc cách mạng vĩ đại mà những lý tưởng vẫn luôn luôn thôi thúc loài người. Người dịch Trần Mai Châu ***   Sáng sớm hôm đó, Évariste Gamelin, họa sĩ, học trò của David*, thành viên phân khu Cầu mới, trước đây là phân khu Henri IV, đến nhà thờ dòng Barnabites. Từ ngày 21 tháng 5 năm 1790 cách đây ba năm, nhà thờ này được dùng làm trụ sở các đại hội của phân khu. Nó vươn cao trên một quảng trường hẹp và tối, gần hàng rào Tòa án. Mặt tiền nhà thờ có hai cây cột kiến trúc cổ điển với những công-xôn đảo ngược và bình lửa cháy đã dầu dãi với thời gian và bị con người xúc phạm. Người ta đã lấy búa đập các biểu tượng tôn giáo và thay bằng những châm ngôn Cộng hòa với dòng chữ đen tô đậm trên cửa chính: “Tự do, Bình đẳng, Bác ái hay là Chết”. Évariste Gamelin bước vào gian giữa: các vòm nhà thờ trước kia bao lần vang lên lời ca của các tu sĩ bận áo thụng trắng thuộc giáo đoàn Saint Paul thì nay chứng kiến các công dân yêu nước đội mũ chụp đỏ hội họp bầu các thẩm phán của thành phố và thảo luận về công việc của phân khu. Các vị thánh đã bị lôi ra khỏi bệ; thay vào đó là tượng bán thân của Brutus, Jean-Jacques và Le Peltier. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền đặt sừng sững trên bàn thờ để trống. Jacques-Louis David (1748-1825): là họa sĩ thời cách mạng Pháp, đứng đầu trường phái Tân cổ điển. Chính tại gian giữa này, mỗi tuần hai lần, từ năm giờ chiều đến mười một giờ đêm, tiến hành các hội nghị công khai. Giảng đài có trang trí một lá quốc kì, được dùng làm diễn đàn kêu gọi quần chúng. Đối diện với giảng đài là một chiếc bục sơ sài làm bằng gỗ thô dành làm chỗ đứng cho đàn bà, trẻ con, thường đến khá đông, dự các buổi họp. Sáng hôm ấy, đứng trước một chiếc bàn kê ngay ở chân giảng đài là công dân Dupont-anh, mình mặc áo vét ngắn, đầu đội mũ chụp đỏ, làm nghề thợ mộc ở quảng trường Thionville, hiện là một trong mười hai ủy viên của ủy ban Giám sát. Trên bàn có bày một cái chai, mấy cái ly, một hộp bút và một quyển vở trong viết sẵn một kiến nghị đòi Hội đồng Quốc ước* trục xuất hai mươi hai đại biểu bất xứng. Hội đồng Quốc ước: là nghị viện cách mạng thay thế Quốc hội lập pháp từ ngày 21-9-1792 và cai trị nước Pháp cho đến ngày 26-10-1795. Évariste Gamelin cầm bút ký. “Tôi biết chắc, công dân Gamelin, cậu thế nào cũng ký, - ông ủy viên kiêm thợ thủ công nói. - Cậu là một phần tử trung kiên. Nhưng dân ở đây không nhiệt tình, lại thiếu đạo đức. Tôi đã đề nghị ban Thanh tra không cấp chứng chỉ ái quốc cho những người không ký.” “Tôi sẵn sàng dùng máu của mình ký vào kiến nghị đặt ra ngoài vòng pháp luật bọn phản quốc theo chủ nghĩa liên bang*. Họ đã muốn Marat* chết thì chính họ phải bị tiêu diệt.” Trong thời cách mạng Pháp, đây là những người chống lại những kẻ thù của tự do. Jean-Paul Marat (1743-1793): đại biểu phái Montagne trong Hội đồng Quốc ước, kịch liệt lên án và đòi chém đầu Louis XVI, bị một phụ nữ là Charlotte Corday ám sát năm 1793. “Điều nguy hiểm đối với ta chính là chủ nghĩa bàng quan. Phân khu này gồm chín trăm công dân có quyền bỏ phiếu nhưng chưa tới năm mươi người đi họp. Hôm qua lại chỉ có hai mươi tám người.” “Vậy phải bắt họ đến, nếu không thì nộp phạt.” “Này, này, - anh thợ mộc nhíu mày đáp, - nhưng nếu họ đến cả, công dân yêu nước chúng ta sẽ bị thiểu số… Công dân Gamelin, cậu có muốn làm một chén rượu chúc mừng những người cách mạng chân chính không?…” Trên tường nhà thờ, phía bên Phúc âm*, có những dòng chữ sau đây, kèm theo hình một bàn tay màu đen, ngón trỏ chỉ đường ra hành lang: Ủy ban dân sự, Ủy ban thanh tra, Ủy ban cứu trợ. Đi qua vài bước là cửa một phòng trước đây còn là gian nhà áo*, trên có ghi: Ủy ban quân sự. Gamelin đẩy cửa và thấy anh thư ký Ủy ban thanh tra đang ngồi viết trước một chiếc bàn bừa bộn sách vở, giấy tờ, thỏi thép, vỏ đạn và những mẩu đất chứa diêm tiêu. Côté de L’Évangile: Phía bên Phúc âm. Phía bên trái bàn thờ, đối với vị chủ tế. Nhà áo: là nơi các linh mục chuẩn bị trước khi làm lễ. “Công dân Trubert, chào cậu. Cậu khỏe không?” “Mình ấy à?… Mình rất khỏe…” Fortuné Robert trả lời những ai quan tâm đến sức khỏe của mình bằng một câu bất di bất dịch, muốn cho người ta biết về tình trạng của mình thì ít, mà muốn cắt đứt câu chuyện về đề tài đó thì nhiều. Anh ta mới hai mươi tám tuổi mà da đã khô, tóc thưa, gò má đỏ, lưng còng. Làm nghề bán kính ở bến Kim hoàn, anh là chủ nhân một tiệm có từ lâu đời, nhưng năm 1791 anh đã nhượng lại cho một viên thầy ký già để có thể toàn tâm làm nhiệm vụ của anh trong thành phố. Mẹ anh, một phụ nữ duyên dáng, chết lúc hai mươi tuổi mà các cụ già trong khu phố vẫn còn nhớ lại những kỷ niệm xúc động, đã để lại cho anh đôi mắt dịu dàng, đắm đuối, nước da xanh xao, tính tình rụt rè, nhút nhát. Còn tính chính xác, cần cù thì anh đã kế thừa của cha anh, kỹ sư quang học, người cung cấp vật dụng cho hoàng gia, qua đời cùng một căn bệnh khi chưa đầy ba mươi tuổi. Vẫn tiếp tục làm việc, anh hỏi: “Còn cậu, công dân, cậu thế nào?” “Tớ khỏe. Có gì mới không cậu?” “Không, không có gì mới. Cậu thấy đấy: Ở đây, tất cả đều yên tĩnh.” “Thế còn tình hình?” “Tình hình vẫn thế.” Tình hình thực khủng khiếp. Đạo quân tinh nhuệ nhất của nền Cộng hòa phải đưa vào cố thủ Mayence; Valenciennes bị bao vây; dân Vendée* chiếm Fontenay; Lyon làm loạn; Cévennes nổi dậy, biên giới với Tây Ban Nha bỏ trống; hai phần ba các quận bị xâm lăng hay nổi dậy; còn Paris không tiền bạc, thiếu cả bánh mì thì nằm trong tầm đại bác của bọn Áo. Một số dân vùng Vendée và những nơi khác chống lại cách mạng vì chính sách dân sự hóa Giáo hội và bắt lính hàng loạt của chính quyền cách mạng. Fortuné Trubert vẫn yên lặng ngồi viết, chiếu theo quyết định của Công xã* giao cho các phân khu trách nhiệm động viên mười hai nghìn người để cứu viện Vendée, anh đang thảo các chỉ thị về việc tuyển quân và cung cấp vũ khí thuộc phạm vi phân khu Cầu Mới. Tất cả súng trường sẽ được giao cho những người được trưng dụng. Đội Vệ quốc của phân khu chỉ còn súng săn và giáo mác. Công xã: là chính quyền thành phố Paris thời kỳ Cách mạng. Từ ngày 10-8-1792, công xã áp dụng chính sách khủng bố. Gamelin nói: “Mình mang lại cho cậu báo cáo về tình trạng các quả chuông phải gửi đi Luxembourg để đúc đại bác.” Mặc dầu không có một xu trong túi, Évariste Gamelin vẫn được ghi vào danh sách những thành viên tích cực của phân khu: luật chỉ ban đặc quyền đó cho các công dân tương đối giàu, đã đóng góp số tiền bằng ba ngày lao động; và muốn là ứng cử viên thì phải đóng góp mười ngày. Nhưng muốn phát huy quyền bình đẳng và giữ vững tính tự trị, phân khu Cầu Mới cho phép các công dân nào chịu bỏ tiền túi sắm đồng phục Vệ quốc được quyền bầu cử và ứng cử. Đó là trường hợp Gamelin, công dân tích cực, thành viên ủy ban quân sự. Trubert đặt bút xuống nói: “Công dân Évariste, cậu hãy qua bên Quốc ước đề nghị họ gửi cho chúng ta chỉ thị đào xới các hang động, lọc đất đá để sản xuất diêm tiêu. Có đại bác đâu đã đủ, còn cần thuốc súng nữa.” Một chàng gù bé nhỏ, bút giắt tai, tay cầm giấy tờ, bước vào. Đó là công dân Beauvisage, trong ban Thanh tra. Anh ta nói: “Này các công dân, chúng ta vừa nhận được tin xấu. Custine đã rút khỏi Landau.” “Custine là tên phản bội!” Gamelin thét lên. “Phải chém cổ hắn,” Beauvisage nói. Bằng một giọng hơi hổn hển, Trubert bình tĩnh phát biểu: “Quốc ước đâu có thành lập ủy ban cứu quốc để chơi. Hành động của Custine sẽ được đem ra xét xử. Bất lực hay phản bội, cũng phải thay y bằng một vị tướng có quyết tâm chiến thắng. Rồi sẽ ổn cả thôi!” Anh lật các giấy tờ và đọc lướt bằng cặp mắt mệt mỏi: “Muốn cho binh sĩ của ta hoàn thành nhiệm vụ, không rối loạn, không chùn bước, cần làm cho anh em hiểu rằng đời sống những người thân của họ được bảo đảm. Nếu cậu đồng ý, công dân Gamelin, trong phiên họp tới, cậu sẽ cùng mình đề nghị ủy ban cứu trợ phối hợp với bên quân sự giúp đỡ những gia đình khó khăn có con em tại ngũ.” Anh mỉm cười và ngân nga: “Sẽ ổn cả! Ổn cả!…” Như vậy là làm việc từ mười hai đến mười bốn giờ mỗi ngày trước một chiếc bàn mộc, để bảo vệ Tổ quốc lâm nguy, viên thư ký tầm thường của một ban trong phân khu không hề cảm thấy sự chênh lệch giữa mức độ to lớn của nhiệm vụ và sự nhỏ bé của phương tiện: anh cảm thấy sức mình hòa với nỗ lực chung của các công dân yêu nước, anh và đất nước là một, đời sống của anh hòa nhập vào đời sống của một dân tộc vĩ đại. Anh thuộc hạng người nhiệt tình và kiên nhẫn, sau mỗi thất bại lại chuẩn bị cho chiến thắng dường như không thể có được nhưng lại chắc chắn vô cùng. Họ phải thắng! Những con người chẳng là gì cả đó, những người đã đạp đổ vương quyền, cái anh Trubert, kỹ sư quang học tầm thường, cái anh Gamelin, họa sĩ vô danh, không thể chờ đợi sự khoan dung của kẻ thù. Họ chỉ có thể lựa chọn giữa chiến thắng và chết. Do đó họ đầy nhiệt tình và cũng vô cùng thanh thản.   Mời các bạn đón đọc Các Hung Thần Lên Cơn Khát của tác giả Anatole France & Trần Mai Châu (dịch).