Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hoàng Hậu Margot - Alexandre Dumas

"Hoàng hậu Margot" là thiên tiểu thuyết lịch sử tiêu biểu nhất Alexandre Dumas mà ngay khi ra đời đã gây tiếng vang lớn trong dư luận văn học ở Pháp và châu Âu lúc bấy giờ. Sau đó thiên tiểu thuyết này nhanh chóng được chuyển thành vở kịch lớn cùng tên, thu hút đông đảo người xem. Khi điện ảnh ra đời, tác phẩm đã được dựng thành phim và chiếu rộng rãi nhiều nước trên thế giới. Tác phẩm "Hoàng hậu Margot", thông qua các chuyện tình éo le giữa hoàng hậu Margot với bá tước de Mole, cũng như giữa quận chúa de Nervers và bá tước de Coconnas, đã dựng lại một thời kỳ đẫm máu trong lịch sử nước Pháp vào giữa thế kỷ XVI. Đó là thời kỳ diễn ra cuộc chiến tranh tôn giáo cực kỳ tàn khốc giữa hai giáo phái Giatô và Tin lành. Đó cũng là thời kỳ tranh đoạt vương quyền quyết liệt trong nội bộ triều đình Pháp với đủ các mưu mô, thủ đoạn tàn bạo, nham hiểm... Bạn đọc sẽ được gặp lại các nhân vật lịch sử có thật của thời đại đó: Thái hậu Catherine de Médicis, vua Charles IX, Henri de Navarre, quận công de Guise... mà nổi bật nhất trong số đó là Hoàng hậu Marguerite de Valois (Hoàng hậu Margot). Với tài năng sắc đẹp và trí tuệ phi thường của mình, hoàng hậu Margot đã đóng góp phần xứng đáng loại bỏ vai trò của dòng họ Valois lỗi thời và phản động để xác lập vương quyền cho Henri de Navarre, chồng mình, thuộc dòng họ Bourbon có phần tiến bộ hơn. *** Dumas Davy De La Pailleterie (sau này là Alexandre Dumas) sinh năm 1802 tại Villers Cotterêts trong khu Aisne, ở Picardy, Pháp. Ông có hai chị gái là Marie Alexandrine (sinh năm 1794) và Louise Alexandrine (1796 - 1797). Cha mẹ ông là bà Marie Louise Élisabeth Labouret, con gái của một chủ nhà trọ và ông Thomas Alexandre Dumas. Ông Thomas Alexandre được sinh ra tại thuộc địa Saint Domingue của Pháp (nay là Haiti), là con lai ngoài giá thú của Hầu Tước Alexandre Antoine Davy De La Pailleterie, một quý tộc Pháp, Cao Ủy Trưởng về pháo binh trong khu thuộc địa với Marie Cessette Dumas, nữ nô lệ da đen có nguồn gốc từ Afro Caribbean. Không ai biết rõ bà được sinh ra tại Saint Domingue hay ở Châu Phi (dù thực tế bà đã có một tên họ bằng tiếng Pháp nên có lẽ bà là người thiểu số Creole) và cũng không biết rằng cội nguồn của bà là ở đâu. Được cha đem về Pháp và cậu bé Thomas đã sống tự do một cách hợp pháp tại đây, Thomas Alexandre Dumas Davy theo học một trường quân đội và gia nhập quân ngũ khi còn thiếu niên. Khi trưởng thành, Thomas Alexandre lấy tên của mẹ là Dumas làm họ sau khi cắt đứt quan hệ với cha. Dumas được thăng cấp tướng năm 31 tuổi, người lính đầu tiên có gốc gác Afro Antilles đạt được cấp bậc này trong hàng ngũ quân đội Pháp. Ông đã tham gia trong Chiến Tranh Cách Mạng Pháp. Ông trở thành Tổng Chỉ Huy Trưởng trong Quân Đội Pyrenees, người đàn ông da màu đầu tiên đạt được cấp bậc đó. Dù là một vị tướng dưới trướng của Napoléon Bonaparte trong các chiến dịch ở Ý và Ai Cập nhưng Thomas Dumas không còn được tín nhiệm vào năm 1800 nên đã yêu cầu nghỉ phép để quay về Pháp. Trên đường về, tàu của ông phải dừng lại ở Taranto thuộc Vương quốc Napoli, tại đây ông và những người khác bị giữ làm tù binh. Trong hai năm bị giam giữ, sức khỏe ông đã bị yếu đi. Tại thời điểm Alexandre Dumas được sinh ra, cha ông bị suy kiệt nặng nề. Ông Thomas qua đời vì ung thu năm 1806 khi Alexandre lên 4. Người mẹ góa phụ Marie Louise không đủ sức lo cho việc học hành của con trai nhưng Dumas tập đọc mọi thứ trong khả năng và còn tự học tiếng Tây Ban Nha. Những câu truyện kể của mẹ về lòng dũng cảm của người cha trong các trận đánh đã truyền cảm hứng cho trí tưởng tượng sinh động của cậu bé. Mặc dù trở nên nghèo túng, gia đình vẫn có danh tiếng lỗi lạc của người cha để lại và thứ hạng quý tộc để trợ giúp con cái thăng quan tiến chức. Năm 1822, sau khi triều Bourbon phục hưng, Alexandre Dumas 20 tuổi chuyển đến Paris. Ông đã có được một vị trí trong văn phòng thuộc Cung Điện Hoàng Gia của Công Tước Orléans - Louis Philippe. Ông lớn lên với sự chăm sóc và giáo dục của mẹ Dumas học hành chểnh mảng, khi học xong ông làm thư ký cho một phòng công chứng, và bắt đầu viết những vở kịch đầu tiên cùng với một người bạn, Tử Tước Adolphe Ribbing De Leuven. Nhưng những tác phẩm đầu tay đó thất bại. Năm 1823, nhờ viết chữ đẹp, ông được tới làm việc cho Công Tước Orléans với công việc giao gửi hàng ở Paris. Dumas tiếp tục viết kịch và cuối cùng cũng tìm được thành công với vở diễn Henri III và triều đình tại nhà hát Comédie Française, công diễn lần đầu ngày 10 tháng 2 năm 1829. Sự nghiệp văn chương của ông tiếp tục thành công, đặc biệt trong hai thể loại ông ưa thích: Kịch và tiểu thuyết lịch sử. Alexandre Dumas là một nhà văn có sức sáng tác mạnh mẽ. Ông để lại khoảng 250 tác phẩm, gồm 100 là tiểu thuyết, số còn lại là 91 vở kịch, rồi bút ký, phóng sự, hồi ký. Dumas có cả một đội ngũ cộng sự, đặc biệt là Auguste Maquet, người góp phần vào nhiều thành công của Dumas. Trong những tiểu thuyết của ông, nổi tiếng hơn cả là Ba Người Lính Ngự Lâm, còn được dịch Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ (Trois Mousquetaires) và Bá Tước Monte Cristo (Le Comte de Monte Cristo) năm 1844. Đương thời, Dumas bị chê trách là người ham ăn, ham chơi. Ông thường xuyên thết đãi thịnh soạn bạn bè, người thân, công chúng hâm mộ, với những bữa tiệc sang trọng khiến ngay cả Paris cũng loá mắt, trầm trồ. Ông còn để lại một công trình đặc biệt: Cuốn Đại Từ Điển Ăn Uống, mà ông muốn được hậu thế coi là đỉnh cao sự nghiệp văn chương của mình. Trong đời mình Dumas kiếm được 18 triệu franc vàng, song ông luôn luôn nợ nần, nhiều lần trốn nợ, thậm chí ra nước ngoài, những năm cuối đời, phải đến tá túc ở nhà con. Ông mất năm 1870 ở Puys, vùng Dieppe. Thi hài của ông được chuyển về Điện Panthéon năm 2002, bất chấp ý nguyện cuối đời của ông: “Trở về bóng đêm của tương lai cùng nơi tôi ra đời” (rentrer dans la nuit de l'avenir au même endroit que je suis sorti De La vie du passé), “nơi một nghĩa địa đẹp (Villers Cotterêts) trong mùi hoa của rào quanh...” (dans ce charmant cimetière qui a bien plus l'air d'un enclos de fleurs où faire jouer les enfants que d'un champ funèbre à faire coucher les cadavres) • Các Tác Phẩm Những Tội Ác Trứ Danh (1839 -1841); Ba Người Lính Ngự Lâm (1844); Hai Mươi Năm Sau (1845); Những Quận Chúa Nổi Loạn (1845); Bá Tước Monte Cristo (1845 - 1846); Hoàng Hậu Margot (1845); Kỵ Sĩ Nhà Đỏ (1845 - 1846); Tử Tước De Bragelonne (Cái chết Của Ba Người Lính Ngự Lâm, Mười Năm Sau Nữa - 1848); Hoa Tulip Đen (Bông Uất Kim Hương Đen - 1850) *** Tiếng Latinh của ông de Guise Từ ngày thứ hai, 18 tháng 8 năm 1572, lễ hội tưng bừng diễn ra tại cung điện Louvre. Trong những ngày ấy, tất cả các cửa sổ của toà Hoàng cung cổ kính đều được chiếu sáng rực rỡ thay cho cái vẻ âm u mà người ta vẫn thấy thường ngày. Nếu trước đây các quảng trường và phố xá đều vắng vẻ khi chuông đồng hồ ở Saint-Germain l Auxerrois mới điểm chín giờ tối, thì nay dù đã nửa đêm ở đó vẫn còn tấp nập, nhộn nhịp những đám thị dân. Trong bóng đêm, đó là những đám đông chen chúc, hỗn độn mang một vẻ dữ tợn như mặt biển tối sầm sôi động với những ngọn triều gầm réo. Những đợt triều đó, gồm hàng nghìn con người, tràn lên mặt kè sông, đổ vào các phố Fossés Saint-Germain, rồi dội vào chân tường điện Louvre, vào chân tường dinh thự de Bourbon. Nhưng có lẽ bắt nguồn ngay từ chính lễ hội này, một điều gì đó vừa bí ẩn vừa ghê gớm đang xuất hiện trong đám dân chúng này. Họ cảm thấy sự tưng bừng mà họ đang chứng kiến đây chỉ là màn giáo đầu cho một sự kiện nào đó vào tuần tới mà chính họ sẽ là những kẻ tham gia cuồng nhiệt nhất. Lẻ hội này chính là lễ thành hôn giữa công chúa Marguerite de Valois, con gái vua Henri II và là em vua Charle IX với Henri de Bourbon vua xứ Navarre. Sáng nay, trên một chiếc bục lớn trước cửa nhà thờ Đức Bà, Hồng y giáo chủ de Bourbon đã làm phép cưới cho đôi uyên ương theo đúng lễ nghi được dành riêng cho hôn lễ các công chúa nước Pháp. Đây là cuộc hôn nhân khiến hết thảy mọi người đều ngạc nhiên. Những người sáng suốt nhất cũng phải vắt óc suy đoán. Người ta không tài nào hiểu nổi vì sao phe Tân giáo và Cơ đốc giáo xưa nay vốn thù nghịch nhau giờ lại xích lại gần nhau đến như vậy. Làm sao ông hoàng Condé trẻ tuổi lại có thể tha thứ cho quận công hoàng đệ d Anjou về việc cha ông bị tên Montesquiou ám sát tại Jarnac? Làm sao quận công de Guise trẻ tuổi lại có thể tha thứ cho đô đốc de Coligny về việc cha mình bị Poltrot de Méré giết hại tại Orléans. Chưa hết! Cách đây chưa đầy hai tháng, hoàng hậu Jeanne de Navarre, người vợ can đảm của Antoine de Bourbon yếu đuối, người mẹ đã dẫn dắt con trai mình tới cuộc hôn nhân vương giả này, đã qua đời. Nhiều tin đồn kỳ lạ được lan đi quanh cái chết đột ngột đó. Khắp nơi dậy lên tiếng xì xầm, thậm chí còn có kẻ dám lớn tiếng cho rằng do bà đã phát giác được điều bí mật gì đó rất khủng khiếp nên Thái hậu Catherine de Médicis sợ bị tiết lộ, đã cho đầu độc bà bằng một đôi găng tay tẩm hương do một gã nào đó tên là René, người xứ Florence, vốn nổi tiếng khéo léo về các công việc loại này, chế tạo. Tiếng đồn ngày càng lan rộng và càng được khẳng định, vì sau khi bà hoàng vĩ đại này tạ thế, theo yêu cầu của con trai bà, hai thầy thuốc, trong đó có ông Ambroise de Paré nổi tiếng đã được phép mổ và nghiên cứu tử thi, trừ bộ não. Song thật oái oăm, vì Jeanne de Navarre đã bị đầu độc bằng đường khứu giác, nên chỉ có bộ não có thể để lại dấu vết của tội ác đó thì lại không được phép khám nghiệm. Người ta còn được biết vua Charle đã có một sự kiên trì đáng kinh ngạc đối với cuộc hôn nhân này đến mức được coi như một kẻ ương ngạch. Bởi vì xét cho cùng, ngoài việc đem lại hoà bình trong vương quốc, nó còn mở cửa để thu hút về Paris những thủ lĩnh Tân giáo chủ chốt, điều mà những người theo đạo Cơ đốc vẫn e ngại. Vì cặp tân hôn này, vợ thì theo đạo Cơ đốc, chồng thì theo Tân giáo, nên người ta buộc phải đề đạt tới Grégoire, là đấng tối cao tại Rome, xin được miễn trừ. Khi thấy lệnh miễn trừ đến chậm, Jeanne de Navarre tỏ ra rất lo ngại. Một hôm bà đã bày tỏ với Charle IX nỗi e ngại rằng lệnh miễn trừ có thể không đến thì được nhà vua trả lời: - Xin đừng quá e ngại, cô thân mến ạ! Cháu còn tôn trọng cô hơn cả đức giáo hoàng và yêu quý em gái cháu hơn là cháu lướng. Tuy cháu không phải là người Tân giáo nhưng cháu cũng không phải là thằng ngốc và nếu cái ông giáo hoàng ấy quá đần thì đích thân cháu sẽ cầm tay Margot đến cưới con trai cô giữa những lời giảng kinh Tân giáo. Lời đó lập tức được truyền từ cung Louvre tới khắp thành phố, làm hả lòng hả dạ những người Tân giáo đồng thời khiến những người Giatô phải hậm hực, suy nghĩ. Những người này đang tự hỏi xem liệu có phải nhà vua đã thực sự phản lại họ không hay ông ta chỉ đóng một tấn tuồng mà một sớm một chiều nó sẽ được kết thúc một cách hết sức bất ngờ. Đối với Charle IX, nhiều điều thật không giải thích nổi, nhất là thái độ của ông đối với đô đốc de Coligny, người đã điên cuồng chống lại nhà vua trong suốt năm, sáu năm nay. Và cũng trong thời gian đó, Charle IX đã từng treo giá cái đầu ông này một trăm năm mươi ê quy vàng. Ấy thế mà nay nhà vua chỉ tin dùng có mỗi mình ông ta, lại còn gọi ông ta là cha và cao giọng tuyên bố rằng từ nay trở đi chỉ có ông ta là người xứng đáng được quyền điều khiển chiến cuộc. Đến nỗi Thái hậu Catherine de Médicis, người điều khiển chính các hành động, ý đồ, thậm chí cả nguyện vọng của nhà vua trẻ tuổi này, cũng phải tỏ ra lo ngại thực sự. Điều lo ngại này không phải là vô căn cứ, vì trong một lúc thổ lộ tâm tình, Charle IX đã bày tỏ với đô đốc về cuộc chiến ở Flandres như sau: - Thưa cha, có một điều phải lưu ý: đó là Thái hậu. Như cha đã biết, bà ta cứ muốn dúng mũi vào mọi việc. Hiện nay bà ta còn chưa biết tí gì về việc này. Chúng ta phải giữ kín để bà ta mù tịt, vì con biết lúc nào bà ta cũng cứ sôi sục lên, bà ta sẽ làm hỏng việc mất. Dù lõi đời và khôn ngoan đến mấy, Coligny cũng khó mà nghi ngờ một sự tin cậy hoàn toàn đến như vậy. Trước đó, ông đến Paris lòng đầy nghi kỵ và trước khi ông rời Châtillon, một bà già nông dân đã quỳ sụp xuống chân ông kêu khóc: "Ôi, thưa ngài, ông chủ tốt bụng của chúng con, xin người đừng đi Paris. Nếu người tới đó, người sẽ chết cùng với tất cả những ai đi theo người". Nhưng rồi nỗi nghi ngại trong ông cũng dần dần tan biến. Nó cũng tan biến đối với Téligny, con rể ông, người được nhà vua ban cho những ân sủng đặc biệt, được nhà vua gọi là người anh em và xưng hô cậu cậu tớ tớ như ông thường cư xử với những người bạn thân nhất của mình. Vì vậy trừ một vài kẻ còn định kiến và đa nghi, hết thảy những người Tân giáo đều cảm thấy yên lòng. Cái chết của cố hoàng hậu Jeanne de Navarre được coi là hậu quả của bệnh sưng màng phổi. Trong những gian phòng rộng lớn ở Louvre tràn ngập những người Tin lành với lòng tin tưởng rằng, nhờ cuộc hôn nhân của thủ lĩnh Henri trẻ tuổi, họ sẽ được quay lại cái thời giàu sang phú quý. Đô đốc de Coligny, La Rochefoucault, ông hoàng Condé, Téligny, tóm lại là tất cả những nhân vật đầy thế lực của giáo phái này, những người mà ba tháng trước đây vua Charle và Thái hậu Catherine đã nhăm nhăm muốn treo cổ, đều hoan hỉ thấy mình được nghênh tiếp trọng thể và bỗng chốc trở nên đầy thế lực ở Paris. Chỉ còn Thống chế Monmorency là người duy nhất không tài nào tin được sự hoà hợp lạ lùng này. Không một lời hứa hẹn nào có thể làm xiêu lòng ông, không một sự giả dối nào có thể che được mắt ông, cho nên ông vẫn một mực ẩn dật trong lâu đài của mình ở Isle - Adam, viện cớ rằng vẫn còn đau buồn về cái chết của thân phụ mình là nguyên soái Andre Monmorency bị Robert Stuart giết bằng một phát súng lục tại trận Saint-Denis. Nhưng cứ xét sự kiện này xảy ra đã trên ba năm nay và tính đa cảm là một thứ đạo đức không mấy hợp thời thượng, nên chẳng mấy ai tin tưởng vào cái chuyện chịu tang quá đỗi lâu ngày như vậy. Vả chăng, cứ trông vào mọi sự đang diễn ra cũng khiến cho cử chỉ đó của thống chế Monmorency thành sai trái: Nhà vua, thái hậu, quận công d Anjou và quận công d Alençon hết lòng thù tạc tiếp khách khứa trong ngày hội của Hoàng gia. Quận công d Anjou nhận được từ chính những người Tân giáo những lời khen ngợi xững đáng về hai trận đánh ở Jarnac và Moncontour mà ở đó ông đã giành được thắng lợi trước khi tròn tuổi mười tám, về mặt này ông còn trẻ hơn cả Cédar và Alecxandre. Quận công d Alençon nhìn tất cả những điều trên với con mắt vờ vĩnh đầy ve vuốt của mình. Thái hậu Catherine vui mừng rạng rỡ và tràn trề vẻ ân cần. Bà hết lời khen ngợi ông hoàng Henri de Condé về cuộc hôn nhân mới đây của ông ta với Marie de Clevơ. Cuối cùng là chính ông de Guise lại mỉm cười với những kẻ kình địch dữ dội của tộc họ và quận công de Maten thao thao bàn với ông de Tavan và đô đốc về cuộc chiến tranh, hơn lúc nào hết, đang cần phải được tuyên bố chống Philip II. Ở giữa những nhóm người nói trên nổi bật lên một người. Người đó đang đi đi lại lại, đầu hơi nghiêng nghiêng và với đôi tai tinh tường đã thâu tóm được tất cả mọi chuyện. Đó là một chàng trai khoảng mười chín tuổi, cặp mắt sắc sảo, tóc đen cắt ngắn, lông mày rậm, mũi khoằm như mỏ chim ưng, có nụ cười tinh quái, mặc dù râu cằm và ria mép mới chớm mọc. Chàng mới nổi bật nhờ trận đánh d Arnay le Duc, nơi chàng đã tỏ ra gan dạ đến mức liều lĩnh. Chàng nhận được hết lới khen ngợi này đến lời ca tụng khác. Chàng chính là học trò yêu của Coligny và là người hùng trung tâm của lễ hội. Ba tháng trước đây, tức là lúc thân mẫu chàng chưa băng hà, người ta gọi chàng là hoàng tử xứ Bearn, hiện nay người ta gọi chàng là vua xứ Navarre trong khi chờ đợi để rồi sẽ gọi chàng là vua Henri đệ tứ. Tuy vậy, thỉnh thoảng một áng mây u tối lướt nhanh qua vầng trán chàng. Chắc là chàng chưa quên cách đây mới hai tháng thôi, mẹ chàng đã lìa đời, và hơn ai hết, chàng vẫn ngờ rằng mẹ mình bị đầu độc Nhưng áng mây u tối đó chỉ thoáng lướt qua vì những kẻ chuyện trò với chàng, những kẻ tâng bốc chàng, những kẻ đang kề vai sát cánh với chàng chẳng phải ai xa lạ mà chính là những kẻ đã ám hại mẹ chàng: bà Jeanne d Albert(1) dũng cảm. Cách vua xứ Navarre vài bước, quận công de Guise trẻ tuổi, với vẻ tư lự và lo âu đang chuyện gẫu với Téligny trong lúc ông này tỏ ra vui vẻ và cởi mở. So với anh chàng người Bearn, quận công vẫn còn may mắn hơn. Mới hai mươi hai tuổi mà tiếng tăm của ông đã nổi như cồn, gần được như cha ông là Françoise de Guise vĩ đại. Quận công là một lãnh chúa tao nhã, cao lớn, ánh mắt đầy tự hào pha lẫn kiêu ngạo, với cái vẻ đường bệ bẩm sinh khiến người ta có cảm giác rằng bên cạnh ông, những ông hoàng khác nom chỉ như những gã tiện dân. Mặc dù còn trẻ, ông vẫn được những người Gia tô giáo tôn làm thủ lĩnh của họ, cũng giống như những người Tin lành(2) coi Henri de Navarre là thủ lĩnh của mình. Thoạt tiên, quận công mang tước hiệu hoàng từ xứ Goanhvin và tham chiến lần đầu trong cuộc vây hãm Orléans dưới quyền chỉ huy của cha mình. Chính cha ông đã ngã gục trên cánh tay ông, trước khi chết còn kịp chỉ cho ông thấy đô đốc Coligny là kẻ ám hại mình. Cũng như Anibal, quận công đã nghiêm trang thề trước vong linh cha: nhất quyết báo thù đô đốc Coligny cùng cả nhà ông ta, quyết tróc nã, tiêu diệt những kẻ cùng giáo phái với đô đốc đến kẻ cuối cùng mới thôi, vì quận công đã tự phong cho mình làm thiên thần báo oán của Chúa. Vị hoàng thân này đã làm dấy lên một sự ngạc nhiên quá mức khi người ta tận mắt thấy ông, người vốn rất trung thành với lời thề của mình, nay lại chìa tay ra với kẻ thù muôn kiếp, hơn thế lại còn chuyện trò thân mật với con rể của con người mà ông ta sẽ quyết giết như đã hứa với người cha hấp hối. Buổi tối này quả thực đầy những sự việc đáng ngạc nhiên. Thực tế, nếu có biệt tài tiên đoán được mọi sự kiện của tương lai (mà may thay con người lại không có), nếu có khả năng đọc được những điều sâu kín trong lòng người mà chỉ Chúa mới nắm được, thì người quan sát nào được may mắn dự buổi lễ hội này chắc chắn sẽ cực kỳ khoái trá trước cảnh tượng kỳ dị nhất về tấn trò đởi mà sử sách đã từng nói tới. Nhưng cái người quan sát ấy lại không có mặt trong những sảnh phòng bên trong cung Louvre, mà chỉ tiếp tục đứng ngoài phố, nhìn lễ hội với cặp mắt nảy lửa và với giọng gầm gừ đe doạ. Người quan sát ấy chính là quần chúng. Với cái linh cảm được mài sắc ấy một cách kỳ diệu bởi nỗi căm thù, quần chúng theo dõi từ xa bóng của những kẻ thù không đội trời chung của họ và thể hiện các cảm tưởng của mình một cách rõ ràng như một người điếc tò mò đứng xem người ta nhảy múa. Âm nhạc tạo ra nhịp điệu và làm say lòng người nhảy nhưng người điếc thì chỉ thấy đó là những động tác hết sức lố lăng. Cái tiếng nhạc làm say sưa những người Tân giáo cũng chính là âm thanh tự mãn của dòng họ. Những ánh chớp lóe lên trong mắt thị dân Paris giữa đêm tối, đó là những ánh chớp của lòng căm thù, nó sẽ chiếu sáng cả tương lai. Mặc dù vậy trong cung cấm mọi việc vẫn tiếp diễn một cách vui vẻ. Lại thêm một màn khá ngoạn mục khiến hết thảy mọi người đều cảm thấy khá êm ái và huy hoàng: ấy là lúc vị hôn thê kiều diễm trẻ trung, sau khi gỡ chiếc áo choàng lễ phục dài sát đất và chiếc khăn voan, bước vào phòng lễ hội. Cùng sóng đôi với nàng là quận chúa de Nervers xinh đẹp, bạn chí cốt của nàng. Sau đó, anh nàng, vua Charle IX, đưa nàng đi giới thiệu với các đình thần quan trọng nhất trong số khách của ông ta. Vị hôn thê đó là con gái vua Henri II, viên ngọc của ngai vàng nước Pháp, Marguerite de Valois, người mà trong tình thân mật, nhà vua Charle IX chỉ gọi là cô em Margot của tôi. Chắc chắn từ xưa tới nay chưa có một sự tiếp đón nào lại xững đáng hơn sự tiếp đón mà người ta đang giành cho hoàng hậu mới xứ Navarre lúc này. Marguerite chưa đầy hai mươi tuổi mà đã trở thành đối tượng đề ca ngợi của hết thảy những thi sĩ. Người thì so sánh nàng với nữ thần Bình minh, kẻ thì ví nàng với Cythérée(3). Vẻ đẹp của nàng quả là nghiêng nước nghiêng thành trong cái triều đình mà Catherine de Médicis đã thu hút về tất cả những mỹ nhân như những tiên dung làm đắm đuối lòng người. Nàng có mái tóc đen, nước da sáng rỡ, mắt nhìn mê đắm ẩn sau hàng mi dài, đôi môi nhỏ đỏ thắm, cổ cao thanh tú, thân hình thon thả và mềm mại, bàn chân nhỏ nhắn như chân con trẻ của nàng ẩn trong đôi hài sa tanh. Những người Pháp coi nàng như quốc bảo, tự hào được thấy trên đất nước họ nở ra một bông hoa lộng lẫy đến thế. Những người nước ngoài đến nước Pháp không những loá mắt về sắc đẹp của nàng khi được nhìn nàng mà họ còn choáng ngợp về kiến thức của nàng nếu được nói chuyện với nàng. Bởi Marguerite không chỉ là người phụ nữ đẹp nhất thời đại mà nàng còn là người phụ nữ có học thức nhất. Người ta dẫn lại lời một nhà bác học Ý, sau khi được nàng tiếp chuyện trong một giờ bằng tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp, đã bước ra và thốt lên trong niềm xúc động: "Được hội kiến với triều đình mà chưa được gặp Marguerite de Valois nghĩa là chưa nhìn thấy cả nước Pháp và chưa gặp triều đình". Cũng vì thế nên không thiếu những lời đàm tiếu nhằm vào vua Charle IX và hoàng hậu xứ Navarre. Về tài đàm tiếu của những người Tin lành thì khỏi phải bàn, vì vậy đã có nhiều lời ám chỉ quá khứ, nhiều ước đoán cho tương lai được khéo léo xen vào giữa những lời hô hào qui thuận nhà vua. Nhưng đối với tất cả những lời ám chỉ này, Charle chỉ trả lời với một nụ cười xảo quyệt trên đôi môi tái nhợt: - Khi trao cô em Margot của tôi cho Henri de Navarre, tôi đã trao trái tim mình cho tất cả những người Tin lành trong vương quốc. Đó là lời làm yên lòng kẻ này và khiến kẻ khác tủm tỉm cười, vì nó thực sự có hai nghĩa: một là theo nghĩa nhân ái, vì hắn Charle cũng không có ẩn ý gì trong câu nói thực lòng đó; hai - nó mang theo một nghĩa khác: nó nhằm lăng mạ cô dâu, chú rể và nhằm cả vào kẻ thốt ra câu nói đó. Thực ra câu nói này có thể gợi lại những điều tai tiếng âm ỉ do những kẻ sính tin đồn muốn tìm cách làm vấy lên tấm áo tân hôn của Marguerite de Valois. Trong lúc đó, de Guise vẫn đang chuyện trò với Téligny, nhưng ông không chú tâm lắm vào chuyện trò mà thỉnh thoảng lại ngoái đầu nhìn về nhóm các bà, các cô trong đó hoàng hậu xứ Navarre nổi bật lên rực rỡ. Mỗi khi ánh mắt của nàng bắt gặp cái nhìn của chàng quận công trẻ tuổi thì một áng mây mở lại lướt qua vầng trán duyên dáng được kết những ngôi sao bằng kim cương tạo nên một vầng hào quang lung linh của nàng và khi ấy một ý định mơ hồ nào đó được để lộ ra qua thái độ sốt ruột và xao xuyến của nàng. ... Mời các bạn đón đọc Hoàng Hậu Margot của tác giả Alexandre Dumas.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Veronika Quyết Chết - Paulo Coelho
“Veronika quyết chết” là một cuốn sách viết về cái chết, nhưng ngay và bên trong cái chết lại là khúc tráng ca về sự sống, mãnh liệt, kiên cường... Cuốn sách của Paulo Coelho mở đầu bằng một vụ tự tử. Veronika, một cô gái vốn chẳng có lý do gì để bất hạnh trong cuộc đời. Cô có một gia đình hết lòng yêu thương mình, có một công việc không thú vị lắm nhưng ổn định, có sắc đẹp, có các chàng trai theo đuổi... Thế nhưng cô vẫn quyết định chết. Một quyết định không ai có quyền phán xét. Bởi: “Mỗi người tự biết những nỗi khổ đau cùng tận của mình, đó là những nỗi khổ đau khi mà rốt cuộc chính ý nghĩa của cuộc đời cũng chẳng còn”. Thế nhưng vụ tự tử không thành. Và Veronika thấy mình thức dậy trong Villete – nơi dành cho những bệnh nhân tâm thần. Tại đây, cô nhận được tin xấu. Như ý muốn của mình, Veronika vẫn sẽ “được” chết. Nhưng không phải chết một cách tức thì như khi uống thuốc ngủ tự tử, mà là một cái chết khắc khoải. Bởi thuốc độc đã hủy hoại đến tận cùng cơ thể cô, cô chỉ có thể sống trong vòng chưa đầy một tuần lễ nữa. Có gì khác giữa một cái chết tức thì và một cái chết được báo trước? Có lẽ với cái chết tức thì, nạn nhân sẽ chỉ “đau một lần rồi thôi”, còn với một cái chết được báo trước như trường hợp của Veronika, cô sẽ phải sống trong nỗi lo sợ khắc khoải. Cái chết sẽ từ từ ngấm vào cơ thể cô. Cô cảm nhận được nó, cô nhìn thấy bước đi của nó mỗi ngày. Và đó thực sự là một nỗi ám ảnh ghê gớm. Nhưng chẳng ai ngờ, chính trong khoảng thời gian ngắn ngủi tự mình “chiêm nghiệm” về cái chết như thế, Veronika đã nhận ra nhiều điều. Cuộc chạy đua với lưỡi hái tử thần đã giúp cô ý thức được giá trị của từng khoảnh khắc được sống. Sự sợ hãi về một cái chết đang đến từng giờ, từng phút lại có tác dụng biến mỗi ngày được sống với Veronika là một điều kỳ diệu. Chính tại nơi ấy, trong bệnh viện của những người điên, Veronika mới được là chính mình – điều mà cô đã đánh mất trong cuộc sống của những người bình thường ở bên ngoài bức tường kia. Cô được đắm mình trong niềm đam mê âm nhạc đã bị vùi lấp từ lâu chỉ vì những mong muốn của cha mẹ. Cô khám phá ra những “mặt khác” trong con người mình, và trên tất cả, cô trở nên yêu nó – yêu cái cuộc sống mà cô đã từng có ý định từ bỏ, một tình yêu muộn màng nhưng đáng quý. Tại Villete, Veronika cũng tìm thấy tình yêu của cuộc đời mình khi gặp gỡ chàng trai mắc chứng tâm thần phân lập Eduard. Và tình yêu ấy đã biến Veronika, từ ý định “quyết chết” sang “quyết sống”. Trong “Veronika quyết chết”, Paulo Coelho đã chứng tỏ một tài năng bậc thầy trong việc đi sâu khám phá tâm lý nhân vật. Cho dù là một cô gái đang đứng trước ranh giới mong manh của sống và chết, hay một người đàn bà trở nên điên loạn vì yêu, một người mắc chứng hoảng sợ hay một bệnh nhân tâm thần phân lập... Mỗi một con người ở nhà thương Villete ấy là một số phận, một cuộc đời nhiều ngang trái. Sau những trang viết của Paulo Coelho, độc giả bỗng nhận ra rằng, trại thương điên không chỉ dành cho những người điên! Ở đó còn có những người hoàn toàn bình thường, nhưng tự đóng khung mình trong những bức tường ấy để thoát khỏi cuộc sống hỗn tạp bên ngoài. Thậm chí những bệnh nhân nơi đây còn lập luận rằng: “Cuộc sống của chúng ta đã đạt tới sự cân bằng hoàn toàn, thế mà ở ngoài kia, sau những bức tường này có bao nhiêu người muốn được như thế đến phát điên lên!”. Sự thực thì ai mới là người điên? Những người bên trong hay bên ngoài bức tường này? Ranh giới thật khó đoán. Và sự thật ngỡ ngàng mà Paulo Coelho đã chỉ ra rằng, điên rồ không phải là việc làm mình trở nên khác biệt, mà chính là cái mong muốn mình được bình thường giống như tất cả mọi người. Chính cái ước muốn “bình thường” ấy đã thủ tiêu tất cả ý nghĩa của cuộc sống. Và phải chăng cũng vì bình thường mà trở nên tầm thường, nhạt nhẽo, vô vị - một lý do khiến cô gái Veronika quyết tâm từ bỏ thế giới này. Và cuối cùng, sau những trang viết về cái chết, thông điệp mà cuốn sách của Paulo Coelho gửi gắm lại chính là nét đẹp vĩnh hằng của sự sống. Chẳng có cuộc đời nào là vô nghĩa, chẳng có sự tồn tại nào là sai lầm, chỉ có cách mà mỗi người nhìn nhận cuộc đời của mình là khác nhau. Bởi thế, bạn đọc, dù chán nản thì cũng đừng buông tay. Hãy nhìn lại bản thân mình, hãy sống đúng với những gì mình yêu, những ước mơ mà mình theo đuổi, bạn sẽ nắm giữ chiếc chìa khóa diệu kỳ của cuộc sống này. *** Paulo Coelho là tác giả viết tiếng Bồ Đào Nha bán chạy nhất mọi thời đại, là một trong những nhà văn được nhiều người đọc nhất thế giới, và là tác giả còn sống được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất. Cha đẻ tiểu thuyết 'Nhà giả kim' sẵn sàng đăng sáng tác của mình lên mạng Internet và khuyến khích mọi người tải về đọc. Tiểu thuyết gia cho rằng, cách này rất hữu hiệu để khuyến khích mọi người đến với sách in, cũng như kích thích văn hóa đọc.   Là một nhà văn lướt web sành điệu, Paulo Coelho bỏ thời gian tìm tòi một phần mềm mới trên trang The Pirate Bay và khám phá các chức năng của nó. Sau khi kết luận rằng chương trình này rất thú vị, ông đăng các tác phẩm của mình trên trang này cho mọi người cùng đọc. Nhà văn khẳng định, càng nhiều người đọc miễn phí sách ông trên mạng thì sách in của ông sẽ bán chạy hơn. Những tác phẩm đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam Nhà Giả Kim Ngoại Tình Hành hương Bên bờ sông Piedra tôi ngồi khóc Những nữ chiến binh Ngọn núi thứ năm Cẩm nang của chiến binh ánh sáng Veronika quyết chết Quỷ dữ và nàng Prym Cha, con và chú Mười một phút Như một dòng sông chảy Phù thủy phố Portobello O ZAHIR - Nỗi Ám Ảnh 24 Giờ Cô Độc Ở Cannes Điệp Viên ... *** Bác sĩ Igor vừa mới bật công tắc đèn - trời vẫn sáng rất muộn, mùa đông vẫn kéo dài lê thê - thì đã có tiếng người gõ cửa phòng. Một nhân viên giám sát bước vào. Vậy là lại bắt đầu có chuyện đây. Bác sĩ Igor tự nhủ. Hứa hẹn một ngày khá vất vả đấy, dù sao đi nữa cũng không bằng cuộc nói chuyện sắp tới với Veronika. Ông bác sĩ đã mất cả tuần chuẩn bị cho cuộc nói chuyện này, vì thế đêm nay khó mà có thể ngủ được. - Tôi có những tin tức đáng lo ngại - nhân viên giám sát nói - Có hai bệnh nhân mất tích: anh con trai ông Đại sứ và cô gái đau tim. - Trời ơi! Các anh kém hết chồ nói rồi đấy. Đội bảo vệ của bệnh viện này mãi vẫn không khá lên được. - Nhưng bởi trước đây chưa từng có một ai có ý định trốn cả - nhân viên giám sát sợ hãi đáp - chúng tôi không ngờ là có thể có chuyện này. - Anh ra khỏi đây mau! Tôi cần phải chuẩn bị để báo cáo cho các vị chủ nhân đây, báo cảnh sát, có ngay các biện pháp cần thiết đi và hãy nói để đừng có ai làm phiền tôi thêm nữa. Để giải quyết vụ việc do các anh gây nên phải mất đứt không chỉ một tiếng đồng hồ mà xong đâu! Người nhân viên giám sát đi ra, mặt cắt không còn hạt máu vì hiểu rằng, dù gì thì anh ta cũng phải gánh phần lớn trách nhiệm, bởi những người có quyền thế thường hành xử chính xác là thế với những ai yếu thế hơn. Không còn nghi ngờ gì nữa đến cuối ngày hôm nay anh sẽ bị đuổi việc thôi. Bác sĩ Igor lấy cuốn sổ ghi chép ra, đặt lên bàn và chuẩn bị bắt đầu những ghi nhận của mình, nhưng lại chợt đổi ý. Ông tắt đèn, vẫn ngồi yên sau bàn, nét mặt sáng lên đôi chút nhờ những tia nắng đầu tiên của mặt trời mùa đông, và ông mỉm cười. Điều Này đã có tác dụng rồi đấy. Ông nhẩn nha, khoan khoái nghĩ đến việc sau mấy phút nữa, cuối cùng ông cũng bắt tay vào bản báo cáo của mình về phương pháp duy nhất được biết đến để tránh khỏi Vitriol - nhận thức về sự sống. Và về phương pháp được ông áp dụng trong lần thử nghiệm đầu tiên thành công của mình trên bệnh nhân - nhận thức về cái chết. Cũng có thể có các phương pháp chữa trị khác, nhưng bác sĩ Igor quyết định xây dựng bản luận án của mình dựa trên phương pháp duy nhất mà ông có thể thử nghiệm một cách toàn diện nhờ một cô gái, tình cờ đến với cuộc đời ông. Cô ấy nhập viện trong tình trạng hết sức nguy kịch, bị trúng độc rất nghiêm trọng và đã bắt đầu giai đoạn hôn mê sâu. Gần một tuần cô ấy ở giữa sự sống chết và thời gian này là vừa đủ để ông nảy ra một ý tưởng tuyệt vời - thực hiện thử nghiệm. Tất cả chỉ phụ thuộc vào một việc - liệu cô gái có thể sống được hay không? ... Mời các bạn đón đọc Veronika Quyết Chết của tác giả Paulo Coelho.
11 Phút - Paulo Coelho
Mười một phút là cuốn sách nổi tiếng của nhà văn Brazil, Paulo Coelho, xoay quanh nhân vật Maria, một thiếu nữ Brazil, 23 tuổi, một gái điếm trẻ trung, quyến rũ bị lừa đến thành phố Geneva xinh đẹp của Thụy Sĩ. Maria là cô gái tuyệt vọng với tình yêu. Maria sống bằng công việc tình dục. Nghề gái điếm đã đặt cô vào những trải nghiệm li kì, và từ đó, cô khám phá bản chất của tình dục bằng kinh nghiệm thực tế của mình. Mười một phút, chính là thời gian để Maria có thể khiến những vị khách của mình có được cảm giác sung sướng, thỏa mãn. Nhưng bản thân Maria gần như lãnh cảm. Cô chưa bao giờ cảm nhận được sự thăng hoa trong xác thịt. Cô làm công việc như một gái điếm chuyên nghiệp. Cô được trả tiền để thực hiện việc đó.   Trong cuộc hành nghề của mình, Maria đã gặp gỡ một kẻ khiến cô “phát điên”, kẻ đã khai mở những cực khoái trong bản năng tình dục của cô. Paulo Coelho khá tỉ mỉ khi miêu tả những cảnh tình dục giữa Terence và Maria. Tình dục trở thành một hố thẳm đen tối, ngột ngạt, trần trụi, nhưng nó khiến Maria run rẩy trong sung sướng. Những cảnh tình dục trần trụi ấy, khiến ta có thể liên tưởng đến không gian tình dục ngột ngạt trong bộ phim The last Tango in Paris của đạo diễn Bernardo Bertolucci. Điều quan trọng nhất là sự thỏa mãn của bản năng. Nhưng, trong cái dữ dội ấy, tình dục không phải là điều sau cuối con người tìm kiếm. Hành trình sống, theo Paulo Coelho là hành trình của tình yêu. Cái đích cuối cùng chính là tình yêu chân chính. Cũng giống như trong Người tìnhcủa Marguerite Duras, tình dục đưa đến một cái kết về tình yêu đầy ám ảnh. Cuộc gặp gỡ giữa Maria và chàng họa sĩ trẻ, đẹp trai Ralf Hart chính là hạt nhân bên trong lớp vỏ sắc dục mà Paulo Coelho tạo nên. Ralf Hart chính là người đã nhìn thấy vẻ đẹp thuần khiết trong tâm hồn Maria. Chàng say đắm Maria, tôn sùng Maria bởi ánh sáng toát ra từ tâm hồn nàng. Hình ảnh Maria phản chiếu trong đôi mắt chàng Ralf Hart là một phiên bản thơ ngây đẹp đẽ. Trong mối quan hệ tay ba giữa Maria, Ralf Hart, Terence, người đọc có cơ hội được nhìn thấy Maria ở hai trạng thái đối lập. Nàng là trinh nữ Maria, hay gái điếm Mary Magdalen? Ở nàng có tất thảy những suy tư, ẩn ức, đau buồn, hạnh phúc, khao khát của những người đàn bà trên thế gian này. Những phức cảm ấy, tác giả đã thật khéo léo thể hiện bằng cách dẫn dắt câu chuyện với những tình huống éo le, những suy tư nội tâm khắc khoải. Ralf Hart đã khiến Maria một lần nữa có niềm tin vào tình yêu, nhưng khoái cảm tình dục trong mười một phút hoàn hảo kia, Terence đã mang lại cho nàng. Vậy cuối cùng nàng lựa chọn điều gì? Tình yêu và tình dục thực chất có phải là hai điều tách rời nhau không? Nietzsche đã từng nói: “Trong một tình yêu đích thực, chính tâm hồn bao bọc lấy thân thể”. Tâm hồn và thân thể không tách rời nhau, cũng như tình yêu và tình dục thâm nhập vào trong nhau, đó là cách khiến con người thăng hoa. Hành trình Mười một phút của Maria không phải là hành trình tìm kiếm sự thỏa mãn trong cơn mê tình dục. Đó là hành trình đi đến tình yêu đích thực. Trong bộ phim Devdas của đạo diễn Sanjay Leela Bhansali, nhân vật gái điếm trong phim, Chandramukhi đã từng nói: “Chẳng lẽ gái điếm không được quyền yêu”. *** Paulo Coelho là tác giả viết tiếng Bồ Đào Nha bán chạy nhất mọi thời đại, là một trong những nhà văn được nhiều người đọc nhất thế giới, và là tác giả còn sống được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất. Cha đẻ tiểu thuyết 'Nhà giả kim' sẵn sàng đăng sáng tác của mình lên mạng Internet và khuyến khích mọi người tải về đọc. Tiểu thuyết gia cho rằng, cách này rất hữu hiệu để khuyến khích mọi người đến với sách in, cũng như kích thích văn hóa đọc.   Là một nhà văn lướt web sành điệu, Paulo Coelho bỏ thời gian tìm tòi một phần mềm mới trên trang The Pirate Bay và khám phá các chức năng của nó. Sau khi kết luận rằng chương trình này rất thú vị, ông đăng các tác phẩm của mình trên trang này cho mọi người cùng đọc. Nhà văn khẳng định, càng nhiều người đọc miễn phí sách ông trên mạng thì sách in của ông sẽ bán chạy hơn. Những tác phẩm đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam Nhà Giả Kim Ngoại Tình Hành hương Bên bờ sông Piedra tôi ngồi khóc Những nữ chiến binh Ngọn núi thứ năm Cẩm nang của chiến binh ánh sáng Veronika quyết chết Quỷ dữ và nàng Prym Cha, con và chú Mười một phút Như một dòng sông chảy Phù thủy phố Portobello O ZAHIR - Nỗi Ám Ảnh 24 Giờ Cô Độc Ở Cannes Điệp Viên ... *** Đôi khi cuộc sống thật tồi tệ: một người có thể sống qua nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều tháng và nhiều năm mà không cảm thấy có điều gì mới mẻ. Thế rồi, khi một cánh cửa mở ra - như nó đã xảy đến với Maria khi nàng gặp Ralf Hart - thì những điều tốt đẹp lại dồn dập ập tới. Khoảnh khắc trước, bạn chẳng có gì, một khắc sau, bạn đã có nhiều hơn cả những gì bạn có thể đối phó với nó. Hai giờ đồng hồ sau khi viết nhật ký, nàng đến chỗ làm thì Milan, ông chủ câu lạc bộ, đã đến tìm nàng: "Vậy cô đã ra ngoài với anh chàng họa sĩ đó, có phải không?" Hiển nhiên là Ralf đã được biết đến ở câu lạc bộ - nàng đã nhận ra điều này khi chàng trả số tiền bằng ba khách hàng mà không cần hỏi han giá cả. Maria chỉ gật đầu, cố gắng hành động một cách bí hiểm, nhưng Milan không để ý đến; anh ta biết về cuộc đời này nhiều hơn nàng. "Có thể cô đã sẵn sàng cho giai đoạn kế tiếp. Có một vị khách đặc biệt của chúng ta thường xuyên hỏi về cô. Tôi đã nói với anh ta rằng cô chưa đủ kinh nghiệm, và anh ta đã tin tôi, nhưng có lẽ bây giờ đã đến lúc thử rồi." Một khách hàng đặc biệt? "Điều này có nghĩa gì đối với người họa sĩ đó?" "Anh ta cũng là một khách hàng đặc biệt." Vậy là mọi thứ nàng đã làm với Ralf Hart đã được một người nào đó trong số những đồng nghiệp của nàng làm. Nàng cắn môi và im lặng; nàng đã có một tuần lễ dễ chịu, tuyệt vời, và nàng không được phép quên những gì nàng đã viết. "Tôi có nên làm điều gì tương tự với anh ta không?" "Tôi không biết cô đã làm gì; nhưng tối nay, nếu có ai đó mời cô uống, hãy nói không. Những khách hàng đặc biệt sẽ trả nhiều hơn; cô không phải hối hận vì điều đó đâu." Công việc bắt đầu như nó vẫn thường thế. Những cô gái Thái Lan ngồi cùng nhau, các cô gái Colombia thì tiếp tục cái không khí thường lệ của họ, luôn tỏ vẻ biết mọi thứ, ba cô gái người Brazil (trong đó có Maria) nhìn một cách lơ đãng như thể không gì có thể làm họ ngạc nhiên hay thích thú. Ngoài họ ra, còn có một cô gái người Áo, hai cô gái người Đức, và số còn lại là những phụ nữ cao lớn, xinh đẹp với những đôi mắt xanh nhạt đến từ các quốc gia thuộc khối Đông Âu cũ, những cô gái này có vẻ sẽ kiếm được những ông chồng nhanh hơn các cô gái đến từ nơi khác. ... Mời các bạn đón đọc 11 Phút của tác giả Paulo Coelho.
Con Nhà Giàu - Hồ Biểu Chánh
Tuy Thượng Tứ sanh trưởng nơi chốn nầy, nhưng mà hồi nào bị mẹ cưng không cho ra khỏi nhà, chừng khôn lớn thì mắc đi học, lúc bãi trường về nhà mẹ cũng không cho tới nhà tá điền tá thổ mà chơi, bởi vậy cậu không biết nhà ai, không quen với ai, cậu chỉ thấy nhà cậu cao lớn sung sướng, chớ cậu không dè nhà người ta lúm túm nghèo khổ. Hôm nay cậu đi vòng trong xóm, cậu thấy quang cảnh khó khăn của con nhà nghèo, già cả mà còn lụm cụm đi làm, con nít mà phải trần truồng không quần áo, người trải nắng dầm mưa mà không đủ cơm nuôi vợ con, kẻ chai tay nám mặt mà không dám than phiền mệt nhọc. Cậu thấy như vậy cậu lấy làm đau lòng, nên chừng ngồi ăn cơm với Hương hộ, cậu thở ra mà nói rằng: “Tôi nghĩ lại thiệt tôi dại quá. Tôi đi chơi bậy bạ mấy tháng tốn bốn năm ngàn đồng bạc. Chớ chi tôi để số tiền ấy tôi phát cho mỗi người nghèo trong xóm, mỗi người năm bảy chục hoặc một trăm, thì họ mừng biết là chừng nào”. *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... Mời các bạn đón đọc Con Nhà Giàu của tác giả Hồ Biểu Chánh.