Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hoàng Hậu Margot - Alexandre Dumas

"Hoàng hậu Margot" là thiên tiểu thuyết lịch sử tiêu biểu nhất Alexandre Dumas mà ngay khi ra đời đã gây tiếng vang lớn trong dư luận văn học ở Pháp và châu Âu lúc bấy giờ. Sau đó thiên tiểu thuyết này nhanh chóng được chuyển thành vở kịch lớn cùng tên, thu hút đông đảo người xem. Khi điện ảnh ra đời, tác phẩm đã được dựng thành phim và chiếu rộng rãi nhiều nước trên thế giới. Tác phẩm "Hoàng hậu Margot", thông qua các chuyện tình éo le giữa hoàng hậu Margot với bá tước de Mole, cũng như giữa quận chúa de Nervers và bá tước de Coconnas, đã dựng lại một thời kỳ đẫm máu trong lịch sử nước Pháp vào giữa thế kỷ XVI. Đó là thời kỳ diễn ra cuộc chiến tranh tôn giáo cực kỳ tàn khốc giữa hai giáo phái Giatô và Tin lành. Đó cũng là thời kỳ tranh đoạt vương quyền quyết liệt trong nội bộ triều đình Pháp với đủ các mưu mô, thủ đoạn tàn bạo, nham hiểm... Bạn đọc sẽ được gặp lại các nhân vật lịch sử có thật của thời đại đó: Thái hậu Catherine de Médicis, vua Charles IX, Henri de Navarre, quận công de Guise... mà nổi bật nhất trong số đó là Hoàng hậu Marguerite de Valois (Hoàng hậu Margot). Với tài năng sắc đẹp và trí tuệ phi thường của mình, hoàng hậu Margot đã đóng góp phần xứng đáng loại bỏ vai trò của dòng họ Valois lỗi thời và phản động để xác lập vương quyền cho Henri de Navarre, chồng mình, thuộc dòng họ Bourbon có phần tiến bộ hơn. *** Dumas Davy De La Pailleterie (sau này là Alexandre Dumas) sinh năm 1802 tại Villers Cotterêts trong khu Aisne, ở Picardy, Pháp. Ông có hai chị gái là Marie Alexandrine (sinh năm 1794) và Louise Alexandrine (1796 - 1797). Cha mẹ ông là bà Marie Louise Élisabeth Labouret, con gái của một chủ nhà trọ và ông Thomas Alexandre Dumas. Ông Thomas Alexandre được sinh ra tại thuộc địa Saint Domingue của Pháp (nay là Haiti), là con lai ngoài giá thú của Hầu Tước Alexandre Antoine Davy De La Pailleterie, một quý tộc Pháp, Cao Ủy Trưởng về pháo binh trong khu thuộc địa với Marie Cessette Dumas, nữ nô lệ da đen có nguồn gốc từ Afro Caribbean. Không ai biết rõ bà được sinh ra tại Saint Domingue hay ở Châu Phi (dù thực tế bà đã có một tên họ bằng tiếng Pháp nên có lẽ bà là người thiểu số Creole) và cũng không biết rằng cội nguồn của bà là ở đâu. Được cha đem về Pháp và cậu bé Thomas đã sống tự do một cách hợp pháp tại đây, Thomas Alexandre Dumas Davy theo học một trường quân đội và gia nhập quân ngũ khi còn thiếu niên. Khi trưởng thành, Thomas Alexandre lấy tên của mẹ là Dumas làm họ sau khi cắt đứt quan hệ với cha. Dumas được thăng cấp tướng năm 31 tuổi, người lính đầu tiên có gốc gác Afro Antilles đạt được cấp bậc này trong hàng ngũ quân đội Pháp. Ông đã tham gia trong Chiến Tranh Cách Mạng Pháp. Ông trở thành Tổng Chỉ Huy Trưởng trong Quân Đội Pyrenees, người đàn ông da màu đầu tiên đạt được cấp bậc đó. Dù là một vị tướng dưới trướng của Napoléon Bonaparte trong các chiến dịch ở Ý và Ai Cập nhưng Thomas Dumas không còn được tín nhiệm vào năm 1800 nên đã yêu cầu nghỉ phép để quay về Pháp. Trên đường về, tàu của ông phải dừng lại ở Taranto thuộc Vương quốc Napoli, tại đây ông và những người khác bị giữ làm tù binh. Trong hai năm bị giam giữ, sức khỏe ông đã bị yếu đi. Tại thời điểm Alexandre Dumas được sinh ra, cha ông bị suy kiệt nặng nề. Ông Thomas qua đời vì ung thu năm 1806 khi Alexandre lên 4. Người mẹ góa phụ Marie Louise không đủ sức lo cho việc học hành của con trai nhưng Dumas tập đọc mọi thứ trong khả năng và còn tự học tiếng Tây Ban Nha. Những câu truyện kể của mẹ về lòng dũng cảm của người cha trong các trận đánh đã truyền cảm hứng cho trí tưởng tượng sinh động của cậu bé. Mặc dù trở nên nghèo túng, gia đình vẫn có danh tiếng lỗi lạc của người cha để lại và thứ hạng quý tộc để trợ giúp con cái thăng quan tiến chức. Năm 1822, sau khi triều Bourbon phục hưng, Alexandre Dumas 20 tuổi chuyển đến Paris. Ông đã có được một vị trí trong văn phòng thuộc Cung Điện Hoàng Gia của Công Tước Orléans - Louis Philippe. Ông lớn lên với sự chăm sóc và giáo dục của mẹ Dumas học hành chểnh mảng, khi học xong ông làm thư ký cho một phòng công chứng, và bắt đầu viết những vở kịch đầu tiên cùng với một người bạn, Tử Tước Adolphe Ribbing De Leuven. Nhưng những tác phẩm đầu tay đó thất bại. Năm 1823, nhờ viết chữ đẹp, ông được tới làm việc cho Công Tước Orléans với công việc giao gửi hàng ở Paris. Dumas tiếp tục viết kịch và cuối cùng cũng tìm được thành công với vở diễn Henri III và triều đình tại nhà hát Comédie Française, công diễn lần đầu ngày 10 tháng 2 năm 1829. Sự nghiệp văn chương của ông tiếp tục thành công, đặc biệt trong hai thể loại ông ưa thích: Kịch và tiểu thuyết lịch sử. Alexandre Dumas là một nhà văn có sức sáng tác mạnh mẽ. Ông để lại khoảng 250 tác phẩm, gồm 100 là tiểu thuyết, số còn lại là 91 vở kịch, rồi bút ký, phóng sự, hồi ký. Dumas có cả một đội ngũ cộng sự, đặc biệt là Auguste Maquet, người góp phần vào nhiều thành công của Dumas. Trong những tiểu thuyết của ông, nổi tiếng hơn cả là Ba Người Lính Ngự Lâm, còn được dịch Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ (Trois Mousquetaires) và Bá Tước Monte Cristo (Le Comte de Monte Cristo) năm 1844. Đương thời, Dumas bị chê trách là người ham ăn, ham chơi. Ông thường xuyên thết đãi thịnh soạn bạn bè, người thân, công chúng hâm mộ, với những bữa tiệc sang trọng khiến ngay cả Paris cũng loá mắt, trầm trồ. Ông còn để lại một công trình đặc biệt: Cuốn Đại Từ Điển Ăn Uống, mà ông muốn được hậu thế coi là đỉnh cao sự nghiệp văn chương của mình. Trong đời mình Dumas kiếm được 18 triệu franc vàng, song ông luôn luôn nợ nần, nhiều lần trốn nợ, thậm chí ra nước ngoài, những năm cuối đời, phải đến tá túc ở nhà con. Ông mất năm 1870 ở Puys, vùng Dieppe. Thi hài của ông được chuyển về Điện Panthéon năm 2002, bất chấp ý nguyện cuối đời của ông: “Trở về bóng đêm của tương lai cùng nơi tôi ra đời” (rentrer dans la nuit de l'avenir au même endroit que je suis sorti De La vie du passé), “nơi một nghĩa địa đẹp (Villers Cotterêts) trong mùi hoa của rào quanh...” (dans ce charmant cimetière qui a bien plus l'air d'un enclos de fleurs où faire jouer les enfants que d'un champ funèbre à faire coucher les cadavres) • Các Tác Phẩm Những Tội Ác Trứ Danh (1839 -1841); Ba Người Lính Ngự Lâm (1844); Hai Mươi Năm Sau (1845); Những Quận Chúa Nổi Loạn (1845); Bá Tước Monte Cristo (1845 - 1846); Hoàng Hậu Margot (1845); Kỵ Sĩ Nhà Đỏ (1845 - 1846); Tử Tước De Bragelonne (Cái chết Của Ba Người Lính Ngự Lâm, Mười Năm Sau Nữa - 1848); Hoa Tulip Đen (Bông Uất Kim Hương Đen - 1850) *** Tiếng Latinh của ông de Guise Từ ngày thứ hai, 18 tháng 8 năm 1572, lễ hội tưng bừng diễn ra tại cung điện Louvre. Trong những ngày ấy, tất cả các cửa sổ của toà Hoàng cung cổ kính đều được chiếu sáng rực rỡ thay cho cái vẻ âm u mà người ta vẫn thấy thường ngày. Nếu trước đây các quảng trường và phố xá đều vắng vẻ khi chuông đồng hồ ở Saint-Germain l Auxerrois mới điểm chín giờ tối, thì nay dù đã nửa đêm ở đó vẫn còn tấp nập, nhộn nhịp những đám thị dân. Trong bóng đêm, đó là những đám đông chen chúc, hỗn độn mang một vẻ dữ tợn như mặt biển tối sầm sôi động với những ngọn triều gầm réo. Những đợt triều đó, gồm hàng nghìn con người, tràn lên mặt kè sông, đổ vào các phố Fossés Saint-Germain, rồi dội vào chân tường điện Louvre, vào chân tường dinh thự de Bourbon. Nhưng có lẽ bắt nguồn ngay từ chính lễ hội này, một điều gì đó vừa bí ẩn vừa ghê gớm đang xuất hiện trong đám dân chúng này. Họ cảm thấy sự tưng bừng mà họ đang chứng kiến đây chỉ là màn giáo đầu cho một sự kiện nào đó vào tuần tới mà chính họ sẽ là những kẻ tham gia cuồng nhiệt nhất. Lẻ hội này chính là lễ thành hôn giữa công chúa Marguerite de Valois, con gái vua Henri II và là em vua Charle IX với Henri de Bourbon vua xứ Navarre. Sáng nay, trên một chiếc bục lớn trước cửa nhà thờ Đức Bà, Hồng y giáo chủ de Bourbon đã làm phép cưới cho đôi uyên ương theo đúng lễ nghi được dành riêng cho hôn lễ các công chúa nước Pháp. Đây là cuộc hôn nhân khiến hết thảy mọi người đều ngạc nhiên. Những người sáng suốt nhất cũng phải vắt óc suy đoán. Người ta không tài nào hiểu nổi vì sao phe Tân giáo và Cơ đốc giáo xưa nay vốn thù nghịch nhau giờ lại xích lại gần nhau đến như vậy. Làm sao ông hoàng Condé trẻ tuổi lại có thể tha thứ cho quận công hoàng đệ d Anjou về việc cha ông bị tên Montesquiou ám sát tại Jarnac? Làm sao quận công de Guise trẻ tuổi lại có thể tha thứ cho đô đốc de Coligny về việc cha mình bị Poltrot de Méré giết hại tại Orléans. Chưa hết! Cách đây chưa đầy hai tháng, hoàng hậu Jeanne de Navarre, người vợ can đảm của Antoine de Bourbon yếu đuối, người mẹ đã dẫn dắt con trai mình tới cuộc hôn nhân vương giả này, đã qua đời. Nhiều tin đồn kỳ lạ được lan đi quanh cái chết đột ngột đó. Khắp nơi dậy lên tiếng xì xầm, thậm chí còn có kẻ dám lớn tiếng cho rằng do bà đã phát giác được điều bí mật gì đó rất khủng khiếp nên Thái hậu Catherine de Médicis sợ bị tiết lộ, đã cho đầu độc bà bằng một đôi găng tay tẩm hương do một gã nào đó tên là René, người xứ Florence, vốn nổi tiếng khéo léo về các công việc loại này, chế tạo. Tiếng đồn ngày càng lan rộng và càng được khẳng định, vì sau khi bà hoàng vĩ đại này tạ thế, theo yêu cầu của con trai bà, hai thầy thuốc, trong đó có ông Ambroise de Paré nổi tiếng đã được phép mổ và nghiên cứu tử thi, trừ bộ não. Song thật oái oăm, vì Jeanne de Navarre đã bị đầu độc bằng đường khứu giác, nên chỉ có bộ não có thể để lại dấu vết của tội ác đó thì lại không được phép khám nghiệm. Người ta còn được biết vua Charle đã có một sự kiên trì đáng kinh ngạc đối với cuộc hôn nhân này đến mức được coi như một kẻ ương ngạch. Bởi vì xét cho cùng, ngoài việc đem lại hoà bình trong vương quốc, nó còn mở cửa để thu hút về Paris những thủ lĩnh Tân giáo chủ chốt, điều mà những người theo đạo Cơ đốc vẫn e ngại. Vì cặp tân hôn này, vợ thì theo đạo Cơ đốc, chồng thì theo Tân giáo, nên người ta buộc phải đề đạt tới Grégoire, là đấng tối cao tại Rome, xin được miễn trừ. Khi thấy lệnh miễn trừ đến chậm, Jeanne de Navarre tỏ ra rất lo ngại. Một hôm bà đã bày tỏ với Charle IX nỗi e ngại rằng lệnh miễn trừ có thể không đến thì được nhà vua trả lời: - Xin đừng quá e ngại, cô thân mến ạ! Cháu còn tôn trọng cô hơn cả đức giáo hoàng và yêu quý em gái cháu hơn là cháu lướng. Tuy cháu không phải là người Tân giáo nhưng cháu cũng không phải là thằng ngốc và nếu cái ông giáo hoàng ấy quá đần thì đích thân cháu sẽ cầm tay Margot đến cưới con trai cô giữa những lời giảng kinh Tân giáo. Lời đó lập tức được truyền từ cung Louvre tới khắp thành phố, làm hả lòng hả dạ những người Tân giáo đồng thời khiến những người Giatô phải hậm hực, suy nghĩ. Những người này đang tự hỏi xem liệu có phải nhà vua đã thực sự phản lại họ không hay ông ta chỉ đóng một tấn tuồng mà một sớm một chiều nó sẽ được kết thúc một cách hết sức bất ngờ. Đối với Charle IX, nhiều điều thật không giải thích nổi, nhất là thái độ của ông đối với đô đốc de Coligny, người đã điên cuồng chống lại nhà vua trong suốt năm, sáu năm nay. Và cũng trong thời gian đó, Charle IX đã từng treo giá cái đầu ông này một trăm năm mươi ê quy vàng. Ấy thế mà nay nhà vua chỉ tin dùng có mỗi mình ông ta, lại còn gọi ông ta là cha và cao giọng tuyên bố rằng từ nay trở đi chỉ có ông ta là người xứng đáng được quyền điều khiển chiến cuộc. Đến nỗi Thái hậu Catherine de Médicis, người điều khiển chính các hành động, ý đồ, thậm chí cả nguyện vọng của nhà vua trẻ tuổi này, cũng phải tỏ ra lo ngại thực sự. Điều lo ngại này không phải là vô căn cứ, vì trong một lúc thổ lộ tâm tình, Charle IX đã bày tỏ với đô đốc về cuộc chiến ở Flandres như sau: - Thưa cha, có một điều phải lưu ý: đó là Thái hậu. Như cha đã biết, bà ta cứ muốn dúng mũi vào mọi việc. Hiện nay bà ta còn chưa biết tí gì về việc này. Chúng ta phải giữ kín để bà ta mù tịt, vì con biết lúc nào bà ta cũng cứ sôi sục lên, bà ta sẽ làm hỏng việc mất. Dù lõi đời và khôn ngoan đến mấy, Coligny cũng khó mà nghi ngờ một sự tin cậy hoàn toàn đến như vậy. Trước đó, ông đến Paris lòng đầy nghi kỵ và trước khi ông rời Châtillon, một bà già nông dân đã quỳ sụp xuống chân ông kêu khóc: "Ôi, thưa ngài, ông chủ tốt bụng của chúng con, xin người đừng đi Paris. Nếu người tới đó, người sẽ chết cùng với tất cả những ai đi theo người". Nhưng rồi nỗi nghi ngại trong ông cũng dần dần tan biến. Nó cũng tan biến đối với Téligny, con rể ông, người được nhà vua ban cho những ân sủng đặc biệt, được nhà vua gọi là người anh em và xưng hô cậu cậu tớ tớ như ông thường cư xử với những người bạn thân nhất của mình. Vì vậy trừ một vài kẻ còn định kiến và đa nghi, hết thảy những người Tân giáo đều cảm thấy yên lòng. Cái chết của cố hoàng hậu Jeanne de Navarre được coi là hậu quả của bệnh sưng màng phổi. Trong những gian phòng rộng lớn ở Louvre tràn ngập những người Tin lành với lòng tin tưởng rằng, nhờ cuộc hôn nhân của thủ lĩnh Henri trẻ tuổi, họ sẽ được quay lại cái thời giàu sang phú quý. Đô đốc de Coligny, La Rochefoucault, ông hoàng Condé, Téligny, tóm lại là tất cả những nhân vật đầy thế lực của giáo phái này, những người mà ba tháng trước đây vua Charle và Thái hậu Catherine đã nhăm nhăm muốn treo cổ, đều hoan hỉ thấy mình được nghênh tiếp trọng thể và bỗng chốc trở nên đầy thế lực ở Paris. Chỉ còn Thống chế Monmorency là người duy nhất không tài nào tin được sự hoà hợp lạ lùng này. Không một lời hứa hẹn nào có thể làm xiêu lòng ông, không một sự giả dối nào có thể che được mắt ông, cho nên ông vẫn một mực ẩn dật trong lâu đài của mình ở Isle - Adam, viện cớ rằng vẫn còn đau buồn về cái chết của thân phụ mình là nguyên soái Andre Monmorency bị Robert Stuart giết bằng một phát súng lục tại trận Saint-Denis. Nhưng cứ xét sự kiện này xảy ra đã trên ba năm nay và tính đa cảm là một thứ đạo đức không mấy hợp thời thượng, nên chẳng mấy ai tin tưởng vào cái chuyện chịu tang quá đỗi lâu ngày như vậy. Vả chăng, cứ trông vào mọi sự đang diễn ra cũng khiến cho cử chỉ đó của thống chế Monmorency thành sai trái: Nhà vua, thái hậu, quận công d Anjou và quận công d Alençon hết lòng thù tạc tiếp khách khứa trong ngày hội của Hoàng gia. Quận công d Anjou nhận được từ chính những người Tân giáo những lời khen ngợi xững đáng về hai trận đánh ở Jarnac và Moncontour mà ở đó ông đã giành được thắng lợi trước khi tròn tuổi mười tám, về mặt này ông còn trẻ hơn cả Cédar và Alecxandre. Quận công d Alençon nhìn tất cả những điều trên với con mắt vờ vĩnh đầy ve vuốt của mình. Thái hậu Catherine vui mừng rạng rỡ và tràn trề vẻ ân cần. Bà hết lời khen ngợi ông hoàng Henri de Condé về cuộc hôn nhân mới đây của ông ta với Marie de Clevơ. Cuối cùng là chính ông de Guise lại mỉm cười với những kẻ kình địch dữ dội của tộc họ và quận công de Maten thao thao bàn với ông de Tavan và đô đốc về cuộc chiến tranh, hơn lúc nào hết, đang cần phải được tuyên bố chống Philip II. Ở giữa những nhóm người nói trên nổi bật lên một người. Người đó đang đi đi lại lại, đầu hơi nghiêng nghiêng và với đôi tai tinh tường đã thâu tóm được tất cả mọi chuyện. Đó là một chàng trai khoảng mười chín tuổi, cặp mắt sắc sảo, tóc đen cắt ngắn, lông mày rậm, mũi khoằm như mỏ chim ưng, có nụ cười tinh quái, mặc dù râu cằm và ria mép mới chớm mọc. Chàng mới nổi bật nhờ trận đánh d Arnay le Duc, nơi chàng đã tỏ ra gan dạ đến mức liều lĩnh. Chàng nhận được hết lới khen ngợi này đến lời ca tụng khác. Chàng chính là học trò yêu của Coligny và là người hùng trung tâm của lễ hội. Ba tháng trước đây, tức là lúc thân mẫu chàng chưa băng hà, người ta gọi chàng là hoàng tử xứ Bearn, hiện nay người ta gọi chàng là vua xứ Navarre trong khi chờ đợi để rồi sẽ gọi chàng là vua Henri đệ tứ. Tuy vậy, thỉnh thoảng một áng mây u tối lướt nhanh qua vầng trán chàng. Chắc là chàng chưa quên cách đây mới hai tháng thôi, mẹ chàng đã lìa đời, và hơn ai hết, chàng vẫn ngờ rằng mẹ mình bị đầu độc Nhưng áng mây u tối đó chỉ thoáng lướt qua vì những kẻ chuyện trò với chàng, những kẻ tâng bốc chàng, những kẻ đang kề vai sát cánh với chàng chẳng phải ai xa lạ mà chính là những kẻ đã ám hại mẹ chàng: bà Jeanne d Albert(1) dũng cảm. Cách vua xứ Navarre vài bước, quận công de Guise trẻ tuổi, với vẻ tư lự và lo âu đang chuyện gẫu với Téligny trong lúc ông này tỏ ra vui vẻ và cởi mở. So với anh chàng người Bearn, quận công vẫn còn may mắn hơn. Mới hai mươi hai tuổi mà tiếng tăm của ông đã nổi như cồn, gần được như cha ông là Françoise de Guise vĩ đại. Quận công là một lãnh chúa tao nhã, cao lớn, ánh mắt đầy tự hào pha lẫn kiêu ngạo, với cái vẻ đường bệ bẩm sinh khiến người ta có cảm giác rằng bên cạnh ông, những ông hoàng khác nom chỉ như những gã tiện dân. Mặc dù còn trẻ, ông vẫn được những người Gia tô giáo tôn làm thủ lĩnh của họ, cũng giống như những người Tin lành(2) coi Henri de Navarre là thủ lĩnh của mình. Thoạt tiên, quận công mang tước hiệu hoàng từ xứ Goanhvin và tham chiến lần đầu trong cuộc vây hãm Orléans dưới quyền chỉ huy của cha mình. Chính cha ông đã ngã gục trên cánh tay ông, trước khi chết còn kịp chỉ cho ông thấy đô đốc Coligny là kẻ ám hại mình. Cũng như Anibal, quận công đã nghiêm trang thề trước vong linh cha: nhất quyết báo thù đô đốc Coligny cùng cả nhà ông ta, quyết tróc nã, tiêu diệt những kẻ cùng giáo phái với đô đốc đến kẻ cuối cùng mới thôi, vì quận công đã tự phong cho mình làm thiên thần báo oán của Chúa. Vị hoàng thân này đã làm dấy lên một sự ngạc nhiên quá mức khi người ta tận mắt thấy ông, người vốn rất trung thành với lời thề của mình, nay lại chìa tay ra với kẻ thù muôn kiếp, hơn thế lại còn chuyện trò thân mật với con rể của con người mà ông ta sẽ quyết giết như đã hứa với người cha hấp hối. Buổi tối này quả thực đầy những sự việc đáng ngạc nhiên. Thực tế, nếu có biệt tài tiên đoán được mọi sự kiện của tương lai (mà may thay con người lại không có), nếu có khả năng đọc được những điều sâu kín trong lòng người mà chỉ Chúa mới nắm được, thì người quan sát nào được may mắn dự buổi lễ hội này chắc chắn sẽ cực kỳ khoái trá trước cảnh tượng kỳ dị nhất về tấn trò đởi mà sử sách đã từng nói tới. Nhưng cái người quan sát ấy lại không có mặt trong những sảnh phòng bên trong cung Louvre, mà chỉ tiếp tục đứng ngoài phố, nhìn lễ hội với cặp mắt nảy lửa và với giọng gầm gừ đe doạ. Người quan sát ấy chính là quần chúng. Với cái linh cảm được mài sắc ấy một cách kỳ diệu bởi nỗi căm thù, quần chúng theo dõi từ xa bóng của những kẻ thù không đội trời chung của họ và thể hiện các cảm tưởng của mình một cách rõ ràng như một người điếc tò mò đứng xem người ta nhảy múa. Âm nhạc tạo ra nhịp điệu và làm say lòng người nhảy nhưng người điếc thì chỉ thấy đó là những động tác hết sức lố lăng. Cái tiếng nhạc làm say sưa những người Tân giáo cũng chính là âm thanh tự mãn của dòng họ. Những ánh chớp lóe lên trong mắt thị dân Paris giữa đêm tối, đó là những ánh chớp của lòng căm thù, nó sẽ chiếu sáng cả tương lai. Mặc dù vậy trong cung cấm mọi việc vẫn tiếp diễn một cách vui vẻ. Lại thêm một màn khá ngoạn mục khiến hết thảy mọi người đều cảm thấy khá êm ái và huy hoàng: ấy là lúc vị hôn thê kiều diễm trẻ trung, sau khi gỡ chiếc áo choàng lễ phục dài sát đất và chiếc khăn voan, bước vào phòng lễ hội. Cùng sóng đôi với nàng là quận chúa de Nervers xinh đẹp, bạn chí cốt của nàng. Sau đó, anh nàng, vua Charle IX, đưa nàng đi giới thiệu với các đình thần quan trọng nhất trong số khách của ông ta. Vị hôn thê đó là con gái vua Henri II, viên ngọc của ngai vàng nước Pháp, Marguerite de Valois, người mà trong tình thân mật, nhà vua Charle IX chỉ gọi là cô em Margot của tôi. Chắc chắn từ xưa tới nay chưa có một sự tiếp đón nào lại xững đáng hơn sự tiếp đón mà người ta đang giành cho hoàng hậu mới xứ Navarre lúc này. Marguerite chưa đầy hai mươi tuổi mà đã trở thành đối tượng đề ca ngợi của hết thảy những thi sĩ. Người thì so sánh nàng với nữ thần Bình minh, kẻ thì ví nàng với Cythérée(3). Vẻ đẹp của nàng quả là nghiêng nước nghiêng thành trong cái triều đình mà Catherine de Médicis đã thu hút về tất cả những mỹ nhân như những tiên dung làm đắm đuối lòng người. Nàng có mái tóc đen, nước da sáng rỡ, mắt nhìn mê đắm ẩn sau hàng mi dài, đôi môi nhỏ đỏ thắm, cổ cao thanh tú, thân hình thon thả và mềm mại, bàn chân nhỏ nhắn như chân con trẻ của nàng ẩn trong đôi hài sa tanh. Những người Pháp coi nàng như quốc bảo, tự hào được thấy trên đất nước họ nở ra một bông hoa lộng lẫy đến thế. Những người nước ngoài đến nước Pháp không những loá mắt về sắc đẹp của nàng khi được nhìn nàng mà họ còn choáng ngợp về kiến thức của nàng nếu được nói chuyện với nàng. Bởi Marguerite không chỉ là người phụ nữ đẹp nhất thời đại mà nàng còn là người phụ nữ có học thức nhất. Người ta dẫn lại lời một nhà bác học Ý, sau khi được nàng tiếp chuyện trong một giờ bằng tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp, đã bước ra và thốt lên trong niềm xúc động: "Được hội kiến với triều đình mà chưa được gặp Marguerite de Valois nghĩa là chưa nhìn thấy cả nước Pháp và chưa gặp triều đình". Cũng vì thế nên không thiếu những lời đàm tiếu nhằm vào vua Charle IX và hoàng hậu xứ Navarre. Về tài đàm tiếu của những người Tin lành thì khỏi phải bàn, vì vậy đã có nhiều lời ám chỉ quá khứ, nhiều ước đoán cho tương lai được khéo léo xen vào giữa những lời hô hào qui thuận nhà vua. Nhưng đối với tất cả những lời ám chỉ này, Charle chỉ trả lời với một nụ cười xảo quyệt trên đôi môi tái nhợt: - Khi trao cô em Margot của tôi cho Henri de Navarre, tôi đã trao trái tim mình cho tất cả những người Tin lành trong vương quốc. Đó là lời làm yên lòng kẻ này và khiến kẻ khác tủm tỉm cười, vì nó thực sự có hai nghĩa: một là theo nghĩa nhân ái, vì hắn Charle cũng không có ẩn ý gì trong câu nói thực lòng đó; hai - nó mang theo một nghĩa khác: nó nhằm lăng mạ cô dâu, chú rể và nhằm cả vào kẻ thốt ra câu nói đó. Thực ra câu nói này có thể gợi lại những điều tai tiếng âm ỉ do những kẻ sính tin đồn muốn tìm cách làm vấy lên tấm áo tân hôn của Marguerite de Valois. Trong lúc đó, de Guise vẫn đang chuyện trò với Téligny, nhưng ông không chú tâm lắm vào chuyện trò mà thỉnh thoảng lại ngoái đầu nhìn về nhóm các bà, các cô trong đó hoàng hậu xứ Navarre nổi bật lên rực rỡ. Mỗi khi ánh mắt của nàng bắt gặp cái nhìn của chàng quận công trẻ tuổi thì một áng mây mở lại lướt qua vầng trán duyên dáng được kết những ngôi sao bằng kim cương tạo nên một vầng hào quang lung linh của nàng và khi ấy một ý định mơ hồ nào đó được để lộ ra qua thái độ sốt ruột và xao xuyến của nàng. ... Mời các bạn đón đọc Hoàng Hậu Margot của tác giả Alexandre Dumas.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bọn Đạo Chích - William Faulkner
Tiểu thuyết Bọn đạo chích (The Reivers, 1962) kể câu chuyện phiêu lưu khôi hài về ba kẻ trộm xe và thói mê đua ngựa ở thôn quê đầu thế kỷ Hai mươi qua cái nhìn ngây thơ của một đứa trẻ. Tác phẩm được dịch từ bản tiếng Anh của Nhà xuất bản Vintage International, New York, tháng Chín 1992. Đây là tác phẩm cuối cùng và cũng là một trong hai tác phẩm giành giải thưởng Pulitzer của William Faulkner. *** William Faulkner (1897-1962) là một tiểu thuyết gia người Mỹ. Đoạt Giải Nobel Văn học năm 1949, hai giải Pulitzer năm 1955 và 1963, ông là một trong những nhà văn quan trọng nhất thế kỷ 20. Những sáng tác của Faulkner gây ảnh hưởng sâu rộng lên văn chương châu Mỹ La tinh, Pháp, Nga... nếu không muốn nói là toàn cầu. Nhắc tới ông, không thể không kể đến tứ đại kỳ thư nổi tiếng: -    Âm thanh và cuồng nộ (The Sound and the Fury -1924) -    Khi tôi nằm chết (As I lay Dying - 1930) -    Nắng tháng Tám (Light in August -1932) -    Absalom, Absalom! (1936) Một số tác phẩm khác đã được dịch và xuất bản tại Việt nam: Hoa Hồng Cho Emily Cọ Hoang Bọn Đạo Chích ... Mời các bạn đón đọc Bọn Đạo Chích của tác giả William Faulkner.
Tôi, Charley Và Hành Trình Nước Mỹ - John Steinbeck
Sau khi đọc xong quyển “Tôi, charley và hành trình nước Mỹ “, tôi đã phải thốt lên rằng: TÔI YÊU VIỆT NAM! Chắc mọi người thấy lạ lắm nhỉ? Rõ ràng đây là một quyển sách viết về nước Mỹ cơ mà! Nhưng không, mọi người cứ thử đọc quyển sách này đi rồi mọi người sẽ hiểu tại sao tôi lại nói như vậy. Một quyển sách hay là khi nó truyền cho người đọc một điều gì đó, một sức mạnh tâm linh của cảm xúc chẳng hạn. Và như thế, John Steinbeck đã truyển cho tôi cảm xúc về tình yêu Việt Nam. Hẳn đây là một tác dụng vĩ đại của quyển sách mà ngay đến cả tác giả - người đã viết ra nó cũng không ngờ: nó khiến cho tôi yêu Việt Nam hơn! “Tôi, charley và hành trình nước Mỹ” không dừng lại ở chữ hành trình, quyển sách vượt xa ý nghĩa của từ ấy. Đó là một cuộc phiêu lưu, một cuộc phiêu lưu mà tác giả phải rong ruổi khắp những nẻo đường từ Bắc Dakota cho đến Nam Texas, từ California quay trở về New York để đi tìm một hài của nước Mỹ thật sự. Mỗi nơi ông lái chiếc Rocinante đi qua là một nét vẻ ngọt ngào, đầy đủ hương vị, âm thanh và màu sắc lên bức tranh mà ông đang ôm ấp, bức tranh mà ông quyết chí phải vẻ ra, đó là bức tranh về nước Mỹ. Mỗi trang văn là những sợi tơ bạc óng ánh của những suy nghĩ chất chứa, tất cả đan lại để tạo nên những chiêm nghiệm sâu sắc và đa chiều về nước Mỹ. Đọc quyển sách này cũng giống như bật nút bần của một chai rượu vang, nó khơi dậy trong tôi hình ảnh của chính đất nước mình. Và từ đó một khao khác trở thành một gã lang bạt thứ hai được châm ngồi bùng nổ: tôi cũng muốn làm một cuộc hành trình như thế! Tôi thấy đất nước Việt Nam mình thật đẹp, và sẽ tuyệt vời biết bao nếu như được trải lòng ra trên những trang sách. Biết đâu được, nhiều năm về sau có một cuốn sách khác với tên gọi: “Tôi, Charley và hành trình Việt Nam”, nếu như thế thì quả thật là phải cảm ơn quyển “Tôi, charley và hành trình nước Mỹ” vì nó đã khơi nguồn cho tôi cảm xúc này. Và cuối cùng, không nghi ngờ gì hết, đây là một quyển sách hay! *** John Ernst Steinbeck, Jr. (1902-1968) là một tiểu thuyết gia người Mỹ được biết đến như là ngòi bút đã miêu tả sự đấu tranh không ngừng nghỉ của những người phải bám trên mảnh đất của mình để sinh tồn. Sinh ra trong một gia đình chủ xưởng bột mì ở Salinas, California, John Steinbeck học ở Đại học Stanford. Thuở thiếu thời, ông phụ giúp việc trong nông trại, thu hái nông phẩm, và chịu ảnh hưởng sâu sắc văn học Hy Lạp cổ điển, Kinh Thánh và văn học châu Âu cổ điển ngay trong những ngày niên thiếu. Năm 1918 John Steinbeck hoàn thành bậc học trung học. Từ năm 1920 đến 1925 ông chọn môn văn học Anh và sinh vật học hải dương ở trường đại học Standford. Trong cuộc đời ông đã làm rất nhiều nghề nghiệp khác nhau, đặc biệt là việc hay tiếp xúc với người lao động đã tích lũy những tư liệu hết sức phong phú cho công việc sáng tác của ông sau này. Tác phẩm đầu tiên gây tiếng vang của John Steinbeck là cuốn Of Mice and Men (1937), dựng nên một câu chuyện bi thảm về hai nông dân ít học thức hằng mong mỏi một mảnh đất cho riêng mình để canh tác. Tác phẩm được đánh giá cao nhất là The Grapes of Wrath (1939); đoạt giải Pulitzer (năm 1940), dựng nên câu chuyện của gia đình Joad, bị nghèo khó ở vùng hoang hóa Dust Bowl của bang Oklahoma, phải chuyển đến California trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930. Quyển tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi, được xem không những là truyện hư cấu nhưng có tính hiện thực mà còn là lời phản kháng xã hội đầy cảm động, đã trở nên một tác phẩm kinh điển trong nền văn học Mỹ. Là một trong những "tượng đài" văn học từ thập kỷ 1930, Steinbeck lấy chủ đề trung tâm là phẩm giá trầm lặng của những người cùng khổ, những người bị áp bức. Dù những nhân vật của ông thường bị vây bọc trong thế giới thiếu công bằng, họ vẫn giữ mình như là những con người đầy cảm thông và có anh hùng tính, tuy có thể bị khuất phục. John Steinbeck nhận Giải Nobel Văn học năm 1962. Ở tuổi 58, sau một thời gian sống ở nước ngoài, nhà văn Mỹ đoạt giải Nobel văn học John Steinbeck quyết định tái khám phá đất nước mình. Ông lái một chiếc xe bán tải có cabin trên thùng xe, cùng con chó Charley rong ruổi khắp nước Mỹ. Đó là một hành trình gần mười ngàn dặm mà John Steinbeck gọi là hành trình “đi tìm nước Mỹ”. John Steinbeck đối diện với nhiều hoàn cảnh, sự kiện, con người trong suốt chuyến đi. Ông tìm thấy sự đa dạng của người Mỹ và phong cảnh nước Mỹ, nhưng cũng tìm cách khái quát nên những nét chung. Ông cũng phải đối diện với nhiều vấn đề của bản thân, chủ yếu là nỗi cô đơn và vấn đề sức khỏe. Nhà văn đã luôn đứng về phía những người lao động, đã thấy tổ quốc mình tồn tại không phải ở các địa danh mà trước hết, và quan trọng nhất, ở những con người đã lựa chọn mảnh đất này làm nơi sinh sống và, dù khác nhau, đều chỉ đang cố gắng thực hiện một hành trình tồn tại xứng đáng nhất. Một số tác phẩm của tác giả John Steinbeck được dịch, xuất bản tại Việt Nam: Tôi, Charley Và Hành Trình Nước Mỹ Chùm Nho Phẫn Nộ Của Chuột Và Người Phía Đông Vườn Địa Đàng Thị Trấn Tortilla Flat Trăng Lặn Viên Ngọc Trai ... Mời các bạn đón đọc Tôi, Charley Và Hành Trình Nước Mỹ của tác giả John Steinbeck.
Sự An Ủi Của Triết Học - Alain de Botton
"Gần gũi và dễ đọc... Độc đáo một cách thú vị, tràn ngập những.... câu chuyện ngụ ngôn hiện đại dí dỏm." Chúng ta sống ngày này qua ngày khác cùng những nỗi bận tâm: không tiền, thất tình, thiếu thốn vật chất và tinh thần, lo lắng, sợ thất bại và giảm áp lực phải hành xử theo chuẩn mực... Nỗi bận tâm nhỏ khiến ta dằn vặt. Nỗi bận tâm lớn có thể huỷ hoại cả đời người. Alain de Botton viết về cách mà các bộ óc vĩ đại nhất trong lịch sử triết học bàn về những nỗi bận tâm, niềm đau khổ trong cuộc sống thường ngày ấy. Khi không được ưa thích, khi chịu áp lực phải hành xử theo chuẩn mực..., ta có thể tìm đến Socrates. Khi không có tiền, ta có thể hỏi ý kiến Epicurus. Còn khi thất tình, ta hoàn toàn có thể chia sẻ với Schopenhauer. Qua tư tưởng của sáu triết gia vĩ đại, de Botton đã đưa triết học trở lại với mục đích giản dị và quan trọng nhất của nó: giúp chúng ta sống cuộc đời của mình. *** Alain de Botton Sinh năm 1969 tại Zurich, Thụy Sĩ, hiện nay sống ở London. Ông là tác giả của nhiều tiểu luận và được gọi là tác giả của một “triết học về cuộc sống thường ngày”. Các chủ đề của ông có thể là: tình yêu, du lịch, kiến trúc hay văn chương. Các tác phẩm của ông từng trở thành bestseller tại hơn 30 nước. Một số tác phẩm tiêu biểu của Alain de Botton: - Luận về yêu, - Sự An Ủi Của Triết Học, - The News: A User’s Manual, - How to Think More about Sex, - Status Anxiety, - The Art of Travel, - How Proust Can Change Your Life.   Mời các bạn đón đọc Sự An Ủi Của Triết Học của tác giả Alain de Botton.
Bông Sen Vàng - Sơn Tùng
Tác giả phác hoạ đại thể cả quá trình thành nhân của Nguyễn Tất Thành. Tức là cả giai đoạn Lập Thân ấy của nhà yêu nước trẻ tuổi, từ Nghệ An vào Huế và Phan Thiết, cho đến khi rời cảng Sài Gòn ra đi với quyết tâm lập nghiệp. Qua tác phẩm, Sơn Tùng tập trung đặc tả sự hình thành nhân cách cảu Bác Hồ thời trẻ, trong nhưng năm đèn sách tại gia ở kinh đô Huế (bên sông Hương, núi Ngự) với hai quãng đời quan trọng nhất của Bác Hồ thời niên thiếu. *** Bông sen vàng của Sơn Tùng viết về thời niên thiếu của một người rất đặc biệt . Nơi đây không có hình ảnh của những tòa nhà kính sang trọng lộng lẫy, lớp học khang trang, không một từ hoa mĩ nào miêu tả vẻ đẹp của những con người trong đó, cũng không kể về những vấn đề tình cảm tuổi mới lớn của một ai . Đó là một câu chuyện viết về quãng thời gian trưởng thành của một nhân cách cao đẹp : Hồ Chí Minh ! Vâng ! Cuốn sách tái hiện lại thời niên thiếu của cậu bé Nguyễn Sinh Côn lúc theo cha và anh trai đèn sách ở kinh thành Huế. Ở đó ta gặp cậu bé Côn thông minh, sáng dạ . Gặp được những cảnh tượng thấm đượm tình người của những người con miền Trung chân chất ! Ở đó ta cũng bắt gặp những nét văn hóa vô cùng tốt đẹp trong gia phong , nơi trường lớp giữa thầy trò, bè bạn mà ngày nay tưởng như đã mai một mất . Cao đẹp nhất , chính là bởi cuốn sách đã giúp ta hình dung một phần quá trình hình thành nhân cách của Hồ chủ tịch . Một gia đình nhà nho yêu nước , sống với biết bao điều hay lẽ phải . Gia đình của một nhà nho có tầm trong thời đại, nhưng không hề khinh nhờn những kẻ nghèo mạt, tật nguyền trái lại còn hết lòng đỡ đần, yêu thương. Gia đình của một nhà nho hay đi dạy học cho con của quan lớn trong triều đình nhưng không vin vào cớ đó mà làm lợi cho bản thân . Đọc " Bông sen vàng " ta hiểu thêm về tuổi thơ lắm thăng trầm của Bác : một gia đình lúc bình yên, êm ấm bên mâm cơm đạm bạc và sống trong sự quý mến của xóm giềng, lúc lại phải trải đầy biến cố, đau thương - Mẹ mất, em trai mất. Đi qua những sóng gió ấy, ta thầm biết ơn những người bạn thuở niên thiếu đã đồng hành cùng Người suốt những tháng năm vui buồn, cùng người vượt qua bao hỉ nộ ái ố, những Cô Hạnh, anh Tuấn, cậu Kỳ nhiệt tình , hết lòng giúp đỡ Côn ! Cuốn sách kể về những cái đẹp dung dị của tình người, cuốn sách tái hiện một lát cắt lớn chân thực trong hành trình hình thành nên một nhân cách cao đẹp, sáng mãi trong lòng dân tộc Việt Nam   Mời các bạn đón đọc Bông Sen Vàng của tác giả Sơn Tùng.