Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chính Trị Hồ Quý Ly - (NXB Đại La 1945) - Chu Thiên

Hồ Quý Ly (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), lấy tên húy Hồ Nhất Nguyên, là vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi vị Hoàng đế từ năm 1400 đến năm 1401, sau đó giữ ngôi Thái thượng hoàng từ năm 1401 đến năm 1407. Thời niên thiếu, Hồ Quý Ly theo học võ, gia nhập chốn quan trường triều Trần sau khi đỗ thi Hương, khoa Hoành từ. Hồ Quý Ly có hai người cô ruột là vợ của vua Trần Minh Tông, một người sinh ra vua Trần Nghệ Tông còn người kia sinh ra Trần Duệ Tông, do đó ông được sự tín nhiệm khi Trần Nghệ Tông lên làm vua. Năm 1372, ông được phong làm Tham mưu quân sự. Năm 1377, vua Trần Duệ Tông đánh Chiêm Thành bị tử trận, Hồ Quý Ly sợ hãi, bỏ chạy về trước, nhưng vẫn được tha tội. Năm 1380, Hồ Quý Ly làm Thống lĩnh quân Đại Việt để chống lại các đợt tấn công của Chiêm Thành. Năm 1387, ông được phong làm Tể tướng. Từ đó, ông có quyền lực gần như tuyệt đối trong triều, các tông tộc, quan lại trung thành với họ Trần đã có 2 lần chính biến nhằm lật đổ sự thống trị của Quý Ly nhưng ông đều giành chiến thắng và đã có nhiều người bị hành quyết sau đó.

Chính Trị Hồ Quý Ly

NXB Đại La 1945

Chu Thiên

125 Trang

File PDF-SCAN

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

LỊCH SỬ ĐỘC LẬP & NỘI CÁC ĐẦU TIÊN VIỆT NAM - NGUYỄN DUY PHƯƠNG
Vì sao có tập sách này?! Vì sao có tập sách này?!Để kỷ-niệm và lập một kỷ nguyên mới! Đề kiến thiết nền độc Để kỷ-niệm và lập một kỷ nguyên mới! Đề kiến thiết nền độc lập Việt Nam. Để xây đắp nền thịnh-vượng chung cho Đại-Đông-Á. Để cảm tạ Đức Thiên Hoàng nước Nhật, và để nhắc lại lời ngài đã tuyên-bố không có ý tham vọng về lãnh thổ của nước Việt Nam chúng ta. Đề im lặng một phút truy điệu các bực vương bá, các vị anh hùng, các ông cha ta, các anh em chúng ta, các liệt sĩ đã đem tính mệnh mà hy sinh cho nền độc lập từ Thượng cổ đến hiện-đại và để cho quốc dân biết kể từ ngày mồng 9 tháng 8 năm 1945 là ngày nước Việt-Nam ta được giải-phóng. Nền độc lập Việt Nam nhà đã trở lại. Tổ quốc đã trở lại với dân chúng người mẹ yêu quý đã trở về với đàn con mong đợi ngày đêm. Là ngày mà những chiến sĩ Việt-Nam ta đã hy sinh, đã biết đặt quốc-gia lên trên tính mệnh, cùng với quân-đội Nhật-bản hòa chung máu với nhau đánhđuổi hết bọn cường-quyền Pháp, là bọn giặc đi giầy đạp vò xé quốc- đuổi hết bọn cường-quyền Pháp, là bọn giặc đi giầy đạp vò xé quốc-dân Việt-Nam ta, ngót một thế - kỷ nay, mà đã bao phen ông cha ta, anh em ta phơi sương đổ máu để tranh cướp lại đất nước Việt Nam. Trích - Nguyễn Duy Phương.
LỊCH SỬ VĂN MINH TRUNG QUỐC - NGUYỄN HIẾN LÊ dịch
Trước khi dịch cuốn Lịch sử văn minh Trung Hoa, cụ Nguyễn Hiến Lê đã có khá nhiều tác phẩm viết hoặc dịch về triết học và văn học Trung Quốc. Do vậy, so với cuốn Lịch sử văn minh Ấn Độ, cụ có nhiều điều kiện hơn để giúp người đọc dễ hiểu rõ và hiểu đúng nguyên tác hơn. Nhờ “vài chữ hoặc một câu ngắn trong mạch văn” đặt trong dấu [ ] và nhờ phần chú thích của cụ, chúng ta biết được rằng cụ đã đính chính mấy chỗ sai, hoặc chúng ta thấy nhiều chỗ, thay vì dịch theo bản chữ Pháp, cụ lại dịch theo bản chữ Hán mà cụ tìm được, cũng có khi cụ dịch trọn một đoạn mặc dầu trong nguyên tác, tác giả chỉ trích dẫn vài câu ngắn. Ngược lại, trong các cuốn như Lão tử – Đạo Đức kinh, Khổng tử, Sử Trung Quốc, chúng ta thấy nhiều chỗ cụ Nguyễn Hiến Lê dẫn lời của Will Durant. Ví dụ, trong cuốn Khổng Tử, cụ viết: “Durant, tác giả bộ Lịch sử văn minh, đã nhận định đạo Khổng rất đúng: “Chỉ trong đạo Ki-tô và đạo Phật, chúng ta mới thấy có sự hùng tâm gắng nhân hóa cái bản chất con người như đạo Khổng”. Ngày nay cũng như ngày xưa, dân tộc nào cũng bị cái nạn giáo dục thiên về trí dục quá mà đạo lí suy đồi, tư cách cá nhân cũng như tập thể thấy kém quá thì không có phương thuốc nào công hiệu hơn là cho thanh niên được thấm nhuần đạo Khổng. Nhưng chỉ một triết lí Khổng học thôi, chưa đủ. Nó rất thích hợp với một quốc gia cần thoát khỏi cảnh hỗn loạn nhu nhược để lập lại trật tự lấy lại sức mạnh, nhưng đối với một quốc gia cần cải tiến hoài để ganh đua trên trường quốc tế thì triết lí đó là một trở ngại”. Chúng ta đã biết rằng cụ Nguyễn Hiến Lê mua bộ Lịch sử văn minh của Will Durant vào khoảng 1969, và khoảng bốn năm sau cụ viết bộ Trang tử – Nam Hoa kinh, nhưng trong bộ này tôi không thấy cụ dẫn lời nào của Will Durant; hơn nữa, cụ Nguyễn Hiến Lê lại không có chút nghi ngờ nào giống như Will Durant rằng thuyết luân hồi trong các kinh Veda của Ấn Độ đã ảnh hưởng đến học thuyết của Trang tử, nên cụ bảo: “Trang tử không phải là nhà khoa học, mà thời ông sống, đạo Phật chưa truyền qua Trung Hoa, ông không biết các luật khoa học, và luân hồi, nhưng ông đã cảm thấy một cách sâu sắc luật biến hoá trong vũ trụ. Ông nghĩ rằng chúng ta chết rồi có thể biến thành bất kì một vật nào khác như đổi căn nhà (VI.6) mà vật cũng vậy, cũng có thể biến thành người, và dù biến thành gì thì vật và ta rốt cuộc cũng trở về Đạo, “qui căn”, hợp nhất với Đạo. Đó là một tư tưởng đặc sắc của ông, làm căn cho thuyết không phân biệt ta và vật, trọng thiên tính và sự tự do của vạn vật”. Trong cuốn Sử Trung Quốc, chúng ta thấy cụ Nguyễn Hiến Lê trích dẫn rất nhiều từ bộ Lịch sử văn minh, đặc biệt là từ cuốn Lịch sử văn minh Trung Hoa, và có lẽ do chịu ảnh của Will Durant, trong cuốn đó, cụ trình bày khá chi tiết nền văn minh Trung Hoa. Cụ bảo: “Tôi cho lịch sử Trung Hoa là lịch sử của một nền văn minh vô cùng độc đặc, tuy ra đời sau vài nền văn minh khác: Ai Cập, Lưỡng Hà… nhưng tồn tại lâu nhất”. Ngược lại, trong các cuốn như Lão tử – Đạo Đức kinh, Khổng tử, Sử Trung Quốc, chúng ta thấy nhiều chỗ cụ Nguyễn Hiến Lê dẫn lời của Will Durant. Ví dụ, trong cuốn Khổng Tử, cụ viết: “Durant, tác giả bộ Lịch sử văn minh, đã nhận định đạo Khổng rất đúng: “Chỉ trong đạo Ki-tô và đạo Phật, chúng ta mới thấy có sự hùng tâm gắng nhân hóa cái bản chất con người như đạo Khổng”. Ngày nay cũng như ngày xưa, dân tộc nào cũng bị cái nạn giáo dục thiên về trí dục quá mà đạo lí suy đồi, tư cách cá nhân cũng như tập thể thấy kém quá thì không có phương thuốc nào công hiệu hơn là cho thanh niên được thấm nhuần đạo Khổng.Nhưng chỉ một triết lí Khổng học thôi, chưa đủ. Nó rất thích hợp với một quốc gia cần thoát khỏi cảnh hỗn loạn nhu nhược để lập lại trật tự lấy lại sức mạnh, nhưng đối với một quốc gia cần cải tiến hoài để ganh đua trên trường quốc tế thì triết lí đó là một trở ngại”.Chúng ta đã biết rằng cụ Nguyễn Hiến Lê mua bộ Lịch sử văn minh của Will Durant vào khoảng 1969, và khoảng bốn năm sau cụ viết bộ Trang tử – Nam Hoa kinh, nhưng trong bộ này tôi không thấy cụ dẫn lời nào của Will Durant; hơn nữa, cụ Nguyễn Hiến Lê lại không có chút nghi ngờ nào giống như Will Durant rằng thuyết luân hồi trong các kinh Veda của Ấn Độ đã ảnh hưởng đến học thuyết của Trang tử, nên cụ bảo: “Trang tử không phải là nhà khoa học, mà thời ông sống, đạo Phật chưa truyền qua Trung Hoa, ông không biết các luật khoa học, và luân hồi, nhưng ông đã cảm thấy một cách sâu sắc luật biến hoá trong vũ trụ. Ông nghĩ rằng chúng ta chết rồi có thể biến thành bất kì một vật nào khác như đổi căn nhà (VI.6) mà vật cũng vậy, cũng có thể biến thành người, và dù biến thành gì thì vật và ta rốt cuộc cũng trở về Đạo, “qui căn”, hợp nhất với Đạo. Đó là một tư tưởng đặc sắc của ông, làm căn cho thuyết không phân biệt ta và vật, trọng thiên tính và sự tự do của vạn vật”.Trong cuốn Sử Trung Quốc, chúng ta thấy cụ Nguyễn Hiến Lê trích dẫn rất nhiều từ bộ Lịch sử văn minh, đặc biệt là từ cuốn Lịch sử văn minh Trung Hoa, và có lẽ do chịu ảnh của Will Durant, trong cuốn đó, cụ trình bày khá chi tiết nền văn minh Trung Hoa. Cụ bảo: “Tôi cho lịch sử Trung Hoa là lịch sử của một nền văn minh vô cùng độc đặc, tuy ra đời sau vài nền văn minh khác: Ai Cập, Lưỡng Hà… nhưng tồn tại lâu nhất”.
LỊCH SỬ NỘI CHIẾN Ở VIỆT NAM (1771 - 1802)
“Lịch sử nội chiến Việt Nam từ 1771 đến 1802” đã từ lâu được coi là một kiệt tác sử học, đem lại cả giải thưởng lẫn danh tiếng cho sử gia Tạ Chí Đại Trường. Thoát khỏi sự ràng buộc do định kiến hay lập trường chính trị, tác phẩm đã dựng lại chi tiết bàn cờ quyền lực trong xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ 18, với các liên minh và đối địch, dựa trên quyền lợi thiết thân, được tác giả mô tả sinh động: giáo sĩ thừa sai và nhà buôn Tây phương, các thế lực ngoại bang Xiêm La hay Mãn Thanh, vua Lê chúa Trịnh cùng những ông hoàng chạy loạ Và nổi lên trên hết là hai gương mặt đối nghịch lớn nhất của thời đại: Quang Trung Nguyễn Huệ và Gia Long Nguyễn Ánh, những người còn in dấu ấn vào các thế kỷ kế tiếp. Ra đời từ 1973, “Lịch sử nội chiến Việt Nam từ 1771 đến 1802” của Tạ Chí Đại Trường đã luôn được học giới nhìn nhận như một công trình chung quyết về lịch sử phân ly và nhất thống đất nước. Đây thực sự là một cuốn sách gối đầu giường cho cả nhà chuyên môn, lẫn độc giả phổ thông, muốn tìm hiểu kỹ càng những gì đã xảy ra từ thế kỷ trước, mà ảnh hưởng vẫn còn mãi đến bây giờ.
LƯƠNG NGỌC QUYẾN VÀ CUỘC KHỞI NGHĨA THÁI NGUYÊN NĂM 1917
LƯƠNG NGỌC QUYẾN VÀ CUỘC KHỞI NGHĨA THÁI NGUYÊN 1917 của nhà văn Đào Trinh Nhất (1900-1951) viết về Lương Ngọc Quyến (1885-1917). Ông có tên hiệu là Lương Lập Nham, một chí sĩ yêu nước. Ông là con thứ của nhà yêu nước Lương Văn Can. Vào những năm 1905-1907, phong trào Đông Du phát triển mạnh mẽ do Phan Bội Châu khởi xướng và tổ chức, Lương Ngọc Quyến là một trong những thanh niên ưu tú được chọn đưa sang Nhật học tập. Trong thời gian đầu ở Nhật, cũng như các lưu học sinh khác, Lương Ngọc Quyến trải qua một cuộc sống nghèo khổ, nhưng vẫn khổ công học tập. Sau khi học tiếng Nhật, ông vào học và tốt nghiệp trường Chấn Võ Quân Sự Học Hiệu. Bị trục xuất khỏi Nhật Bản, Lương Ngọc Quyến sang học tại trường Quân Nhu ở Quảng Châu rồi học trường Sĩ Quan Bắc Kinh.Ông bị mật thám Anh bắt tại Hồng Kông trao cho thực dân Pháp giam ở Hà Nội, Phú Thọ, Thái Nguyên. Tại Thái Nguyên ông cùng Trịnh Văn Cấn (Đội Cấn) lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên. Quân Pháp phản công, ông đã anh dũng hy sinh để không rơi vào tay giặc.