Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bãi Bờ Hoang Lạnh

Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khoác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu Lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Trong số đó thì Bãi bờ hoang lạnh cũng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với những câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Cuốn tiểu thuyết mở ra với bối cảnh là một bãi bờ ven biển heo hút thời hòa bình, chỉ vỏn vẹn bốn căn chòi với ba người đàn ông độc thân sinh sống. Ba người họ mang trong mình những số phận riêng biệt, đều là những nỗi khổ, dằn vặt nhưng không có ai có thể san sẻ cùng ai. Bãi biển đã chết, sự có mặt của ba người này càng làm cho nó quạnh quê giá lạnh hơn. Thế rồi một ngày, cô họa sĩ Dung - một người đàn bà đẹp đã từ thành phố xuống và nhậm cư vào cái xóm nhỏ ven biển này. Cô gái ấy là ai? Liệu giữa họ đã từ có sợi dây ràng buộc gì trong quá khứ? Cuộc sống nơi đây từng chút từng chút một thay đổi cùng với sự xuất hiện của cô Bãi bờ hoang lạnh nhưng tình người thật ấm áp. Có thể nói, mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cụng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thưc. *** Đại tá, nhà văn Chu Lai có tên khai sinh là Chu Văn Lai, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1946, tại xã Hưng Đạo, huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên, hiện ở Hà Nội. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ năm 1980). Ông là con trai của nhà viết kịch Học Phi. Trong chiến tranh Việt Nam ông công tác trong đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị rồi trở thành chiến sĩ đặc công hoạt động trong vùng Sài Gòn. Sau 1973, ông về làm trợ lý tuyên huấn Quân khu 7. Đến cuối năm 1974 ông tham dự trại sáng tác văn học Tổng cục Chính trị và sau đó học tại Trường Viết văn Nguyễn Du khóa 1. Sau khi tốt nghiệp, ông biên tập và sáng tác cho Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhà văn Chu Lai còn viết một số kịch bản sân khấu, kịch bản phim và tham gia đóng phim. Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Mưa Đỏ Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển *** Vào lúc nửa đêm, không gian chỉ toàn những gầm gào của sóng của gió và thời gian lại dường như ngưng đọng đạc sệt, dẻo quánh, người đứng đầu thị trấn đột nhiên bị dựng dậy bởi hàng loạt những tiếng đập cổng bấn loạn vô hồi. Chưa đến ba mươi tuổi, tráng kiện săn rắn hệt một gã thuyền chài chuyên đi săn bắt cá lớn ở khơi xa, không thích lấy vợ nhưng lại ưa dính dáng đến đán bà, chủ tịch thị trấn nhanh tỉnh như sáo, cây súng ngắn nhét hờ dưới gối được chuyển thành thạo lên tay. Tiếng đập cổng vẫn riết róng đến vô lễ, đến hỗn hào. - Cái gì thế? Cái gì vậy? - Chủ tịch hỏi gay gắt. Một bóng người cao lớn, ở trần, mặc độc chiếc quần cụt đã đứng choán ngay trước mặt anh. Trong đêm tối chỉ thấy một đôi mắt trợn ngược, một hàm răng nhe ra trắng ởn, một đống những râu và tóc dữ tợn rậm rì. Giọng chủ tịch thị trấn chợt dịu xuống: - Có gì không Quang? Vào nhà đã? Đừng đứng đó lạnh. Một tiếng cười khô và nhạt thếch. Sau đó là tiếng nói khàn khàn vọng âm như được phát từ trong đất đai, trong chum vại: - Bạn bè coi thường nhau hả? Sao lại không có gì? Không có gì mà dám đến đá cổng lão chủ tịch lúc nửa đêm này à? Láo! - Ừ thôi, cho xin lỗi đi! - Chủ tịch nhăn nhó - Mình vừa đi họp về, mệt quá! Vào nhà uống bậy ly rượu cho ấm bụng đã rồi có gì ta tính. - Bây giờ không phải lúc - Con mắt trắng đã xếch lên - Chủ tịch mà chỉ lo uống rượu say mèm trong khi ngoài bãi chúng nó đang tụ tập làm bạo loạn hả? Láo! - Cái gì? Ai bạo loạn? Ở đâu bạo loạn? Bãi nào? - Chủ tịch hỏi giật giọng. - Khắc ra khắc biết. Vui lắm! Ông cố nội nó! Nói xong, để văng ra một tiếng cười nhạt thếch nữa, bóng đen ngoắt người đi luôn. Vai rộng, bụng thon, đùi nhái… Anh ta đi xiêu xiêu ra biển, in vào nền trời màu cháo loãng, đẹp như một pho tượng đá biết chuyển dịch trong thế giới cổ tích, huyền thoại âm thầm. Nhoáng lát, guồng máy bạo lực của thị trấn được bôi trơn phát nổ rầm rầm. Hơn năm chục con người súng ống tua tủa, nai nịt đầy người, đằng đằng sát khí đã tề tựu đầy đủ. Với cây súng nhỏ xíu trên tay, chủ tịch Lân trực tiếp chỉ huy trận càn mang ý nghĩa tổng lực vào đêm tối, nom anh đẹp ra đáng. Bộ quân phục năm xưa còn giữ được tóc bay tung, giày Adidas đế mềm, khuôn mặt vuông vức sáng láng khá hấp dẫn, anh lao lên trước, giò xoải dài hệt một chú ngựa chiến. Hơn năm chục con người cả trai lẫn gái ưu tú của thị trấn bươn bả theo sau. Một tiếng thét lạnh khí tử thần sắp vang lên: Những tiếng nổ chát chúa sắp xuyên vào da thịt con người… Một cảnh bao bủa gầm ghì rồi tiếp liền một cảnh đầu hàng còm róm… Kết cục bao giờ cũng xảy ra gọn sạch như trong băng hình VIDEO. Thường là như thế. Nhưng lần này cái màn chót mang tính bi kịch tất yếu không xảy ra. Nằm dang chân dang tay giữa vòng người thở dốc lại không phải ai khác ngoài Quang, kẻ báo tin, bức tượng âm thầm đang tạc dở. Gió mát hây hẩy, trăng bắt đầu lên… Những con người nắm bạo lực trong tay thoáng lặng đi. Vẻ đẹp hoang sơ của người đàn ông một chân đạp vào cát mịn, chân kia thọc sâu vào nước, mắt nhắm thiêm thiếp, tóc bồng bềnh, vồng ngực vuông vức đẫm ánh trăng và cát sáng, và ngoài kia sóng lại sóng cứ từng đợt, từng đợt dội về như mơn man, như khảm bạc, như muốn cuốn lấy, rủ rê đứa con của biển, của bóng đêm trở về cõi thân thuộc vĩnh hằng đá tưới rảy vào trái tim họ, cái góc trong cùng của mọi điều bừa bộn lo toan chút tĩnh lặng mơ hồ. - Thôi về nghỉ! Cám ơn các bạn. Coi như đêm nay ta tập trận giả nhân thể ngắm trăng dạo mát. Câu nói có duyên của vị chủ tịch được tán thưởng bằng sự tản ra nhanh chóng của vòng người. Thoáng thấy vài ba ánh mắt con gái kín đáo nhìn lại … Chủ tịch Lân nấn ná ở lại sau cùng. Anh khẽ khàng đắp lên tấm thân trần đang sáng dần lên chiếc áo bludông màu bộ đội vừa được cởi ra của mình, lầm bầm nói một câu gì đó rồi đứng dậy rảo bước theo dòng người. Mời các bạn đón đọc Bãi Bờ Hoang Lạnh của tác giả Chu Lai.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trúng Độc Yêu
Minaduki từng trải qua một đời chồng, và dù đã chia tay nhưng cô vẫn nhớ nhung người chồng cũ, thậm chí vì yêu mà phạm tội với nhân tình của chồng cũ. Thế nhưng, khi gặp được nhà văn, diễn viên là thần tượng tuổi mới lớn một thời của mình, cô cũng hết lòng yêu thương tha thiết. Người nghệ sĩ đó, thần tượng của cô, cũng rất yêu cô nhưng trái tim của anh còn dành cho nhiều cô gái khác nữa, mặc dù anh đã có vợ, và tình yêu nào đối với anh cũng chân thành. Dù biết sự thật nhưng cô vẫn yêu sống yêu chết, thủy chung đến mức sẵn sàng làm mọi thứ để có được tình yêu. Thậm chí khi cô bị ruồng bỏ, cô vẫn không từ bỏ tình yêu của mình, cho nên mới nói cô bị “trúng độc yêu”. Cuối cùng họ chia tay nhau, nhưng thi thoảng lại gặp nhau, mối quan hệ đó không chấm dứt. Bằng giọng văn giản dị, tác giả đã mang lại cho người đọc một cảm giác dễ chịu, thân thuộc. Vui vì niềm hạnh phúc của nhân vật, đau vì nỗi đau của nhân vật, để rồi tự nhận thấy mình cũng có một phần ở trong đó. Người ta nói yêu cũng như trúng độc vậy, ai đã trúng độc rồi thì khó thoát ra được. Tình yêu là một viên thuốc vừa đắng vừa ngọt nhưng ai cũng muốn được thử một lần trong đời và khi thử xong rồi thì muốn giữ mãi trong lòng. Cuốn sách sẽ khiến cho bất cứ ai, những người đã yêu, đang yêu và muốn yêu đều không thể dứt ra được. *** Chạm… Tôi luôn có một cảm giác bị mắc lại ở một nơi nào đó trong thế giới văn chương của Fumio Yamamoto. Từ Bến bờ thơm mùi dứa, Trúng độc yêu, Xanh màu lá,… cho tới tập truyện ngắn mới nhất Trốn thoát khỏi thực tại. Thứ cảm xúc vừa rõ ràng vừa mơ hồ này đôi khi đầy lên thành một ám ảnh không hồi kết. Fumio Yamamoto đã lưu trữ mình một cách không rõ ràng như thế. Và có lẽ, vì không thể nói ra hết được tư cảm đang đầy lên này nên bà dồn hết vào chữ nghĩa. “Tôi ảm đạm vì không thể nói cười”, đó gần như là một diễn đạt khác về văn chương của người đàn bà ở xứ mặt trời mọc. Văn Fumio Yamamoto không phải là thứ văn mỹ miều của những đường chữ đẹp, thơ mộng. Bà cũng không phải thuộc típ nhà văn nữ quyền để thỉnh thoảng gây hấn hoặc gây sốc. Văn mạch của bà điềm nhiên, có chỗ tỉnh queo, lúc lại sắc lạnh, thậm chí hơi gắt với nhiều câu trần thuật mộc mạc, ngắn gọn. Trong đó, có cảm giác, tác giả vừa muốn đi đến cùng để cắt nghĩa vùng u ám đó, lại như mặc kệ để nó diễn ra theo quy luật của “phi tiểu thuyết” hay những “tiểu tự sự” nhỏ vụn. Để rồi tất cả trống huơ hoắc trong một thế giới cô đơn, ít thấu hiểu và rời rạc. Để rồi, ở đó, những tự sự chồng lên nhau, lặp đi lặp lại một cách tầm thường, mòn vẹt và chán nản. Hakura, cô gái mắc bệnh ung thư vú, tự xem mình có dáng dấp của đồ cặn bã, lười nhác, sống tầm gửi, tâm lý bất định, đầy nhạy cảm, chán nản và nếu có kiếp sau, cô muốn làm một con giun dẹp bởi “giun dẹp sống trong khe suối trong vắt nơi rừng sâu, có bị băm thành trăm mảnh cũng sẽ không chết”. Izumi, người phụ nữ ngấp nhé tuổi 35, trải qua một đời chồng, đang sống trong một chung cư cũ kỹ và rơi vào khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, hay sầu muộn vô cớ, nhàn rỗi đến lạc lõng, không còn khái niệm thời gian rõ ràng, có thể làm tình và thỏa mãn ham muốn nhục dục với một cậu đồng nghiệp cũ kém cả tuổi mình. Catherine, một bà nội trợ đúng nghĩa, có người chồng vừa bị mất việc nên ngoài công việc nhà ban ngày, cô làm nhân viên bán hàng cho một tiệm tạp hóa buổi tối để kiếm thêm tiền. Cuộc sống của cô cứ như một mớ bòng bong, quanh đi quẩn lại vì chồng, con cái, bố mẹ; lắm lúc mỏi mệt, khủng hoảng, cô đơn và trơ trọi ngay trong mái ấm gia đình mình. Mido, cô gái trẻ 25 tuổi rơi vào “thế lưỡng nan của tù nhân”, đã có người yêu hơn 7 năm nhưng vẫn ngủ với những người đàn ông khác. Ngày ngày trôi trong nhịp sống tùy tiện, không buồn không vui, nhiều hồ nghi và vô nghĩa của mình. …Cứ thế, mỗi nhân vật của Fumio Yamamoto là một phần nứt toác của vỏ đương đại có vẻ bằng phẳng, đẹp đẽ đó. Họ là những con người đáng thương bị rớt lại trong đời sống nhộn nhạo, trôi tuột này. Những con người ấy từng xót thương cho người khác nhưng rồi chính họ, cũng không biết từ bao giờ, lại bước vào hoàn cảnh tương tự. Và bao nhiễu nhương, tù đọng và cô đơn vây bủa đó làm họ thỏa hiệp, thây kệ rồi trở nên nhàm chán, chết dần chết mòn. Và lửng lơ, và ám ảnh… Qua những mẩu chuyện nhỏ của những con người không liên quan đến nhau ấy, Fumio Yamamoto đã vẽ nốt những vệt màu còn khiếm khuyết trong bức tranh Nhật Bản hiện đại bằng ngôn ngữ. Một vệt màu trầm cảm triền miên. Một “sự tự sát” từ những vô định không có lời đáp. Bà đưa những người phụ nữ nhỏ bé, những người sống bên rìa xã hội vào vị trí trung tâm và để họ kể những câu chuyện của riêng mình. Kế thừa đặc điểm truyền thống của văn học Nhật nên không quá ngạc nhiên khi văn của Fumio Yamamoto mang đậm tính nữ. Bà đi vào ngóc ngách tâm lý li ti của phụ nữ bằng trải nghiệm và sự đồng cảm của một trái tim nhiều thổn thức. Bà để nhân vật nói những tiếng nói tự do nhất mà trong đời sống đôi lúc họ không có quyền lên tiếng hoặc chán phải lên tiếng. Bà tham dự vào những câu chuyện đó như một người có mặt và vắng mặt. Để rồi, mảng hiện thực của đời sống vừa quen vừa lạ ấy khoét vào ta những vết thương tỉnh thức, về một băn khoăn, bối rối đương đại. Cho đến khi gấp cuốn sách lại, tôi vẫn còn nguyên đó một lưỡng lự. Sự dở dang khó hiểu này rốt cuộc là gì? Vẫn còn một điều mơ hồ nào đó, tôi chưa hiểu lắm. Có khi nào, đó là những điều Fumio Yamamoto không muốn người khác chạm vào chăng? Hay thực ra, nó cũng trống rỗng hết thảy – như những nhân vật của bà cất tiếng. Nó khiến tôi bỗng dưng nhớ đến Woman in the Dunes (tạm dịch: Người đàn bà trong cồn cát) của đạo diễn Nhật sinh năm 1964 – Hiroshi Teshigahara – viên ngọc quý của lịch sử điện ảnh thế giới, sinh muộn hơn bà hai năm. Yamamoto ẩn mình trong “cồn cát” ngôn ngữ để nói về thế giới nội tâm sâu thẳm của người Nhật Bản hôm nay nói riêng và những người phụ nữ đâu đó trên khắp thế giới này. “Vì không nói ra được nên đã mang một nỗi buồn ảm đạm. Tôi ảm đạm vì không thể nói cười”. Năm 1999, Yamamoto đã vinh dự nhận được giải thưởng văn học Yoshikawa Eiji lần thứ 20 dành cho các tác phẩm mới xuất sắc và hiện là một trong những nhà văn đương đại có tác phẩm được đón chờ không chỉ trong phạm vi nước Nhật. *** Tình yêu có thể hủy hoại con người. Đó là điều tôi ngộ ra được một cách sâu sắc sau lần nhảy việc này. Không những thế, thứ mà tình yêu hủy hoại không phải chỉ có con người. Sau bao lần tranh cãi không điểm dừng, không biết bao nhiêu chiếc đồng hồ báo thức, bao nhiêu chiếc cốc cà phê đã bị đập vỡ; rồi những lúc tôi không có nhà, không biết đã có bao nhiêu chiếc áo vest và áo sơ mi bị băm nát. Để thoát khỏi sự đeo bám của cô ta, tôi đã phải lặng lẽ chuyển nhà, đánh mất lòng tin của cấp trên và rất nhiều đồng nghiệp, thậm chí tôi đã phải xin nghỉ việc. Thế nhưng, thứ thực sự bị hủy hoại có lẽ không phải là cuộc sống của tôi mà chính là cuộc sống của cô ta. Vì tùy tiện nghỉ làm quá nhiều nên cuối cùng cô ta bị mất việc; vì chậm đóng tiền nhà quá lâu nên cuối cùng cũng mất luôn cả chỗ ở. Và cô ta còn mất một thứ không thể nào bù đắp được, đó chính là tôi, mặc dù nói như vậy có vẻ hơi ngạo mạn. Chuyện tình giữa tôi và cô ta, nếu đem quay thành một bộ phim dài tập thì e rằng quá vô vị và nhàm chán. Thế nên, tôi chưa từng nghĩ sẽ kể cho bất cứ ai nghe chuyện của chúng tôi, vì quả thực, nó quá đỗi tầm thường. Thấm thoát, tôi đã nhảy việc được hai tháng. Với công việc mới ở một phòng biên tập nhỏ, tôi lao đầu vào làm việc hết sức chăm chỉ, chăm chỉ một cách chưa từng thấy. Công việc đòi hỏi tôi phải thường xuyên đi tiếp khách và nhậu nhẹt, hơn nữa, ngày nào cũng có không ít những cô gái trạc tuổi tôi đi ra đi vào, thậm chí có những nàng còn chủ động hẹn hò hoặc dụ dỗ tôi lên giường. Nhưng tôi vẫn kiên quyết giữ khoảng cách nhất định với tất cả, điều này đã làm xuất hiện những lời đồn đại kiểu như “Iguchi là gay”. Tôi đã không còn uống rượu đến sáng như trước kia nữa mà hôm nào cũng đi làm rất sớm, thường xuyên là người đầu tiên đến văn phòng, làm việc hết sức nghiêm túc. Nhưng hôm nay, nhất định tôi phải đặc biệt cẩn thận. Mới sáng sớm, tôi đã đứng ngồi không yên, đi đi lại lại trong văn phòng. Vốn dĩ hôm nay tôi không định đến công ty, nhưng thật không may cuộc hẹn bàn công việc đã bị huỷ, và tổng biên tập đột nhiên thông báo sẽ họp vào ba giờ chiều – cái giờ lửng lơ chẳng sớm cũng chẳng muộn. Hôm nay là sinh nhật lần thứ hai mươi lăm của tôi. Ba tháng trước, vì muốn thoát khỏi cô bạn gái lằng nhằng nhất quyết không chịu chia tay, tôi đã phải xin nghỉ việc ở công ty cũ, lặng lẽ biến khỏi tầm nhìn của cô ta, và từ đó đến nay, chúng tôi cũng không hề liên lạc với nhau. Tôi đã thay số điện thoại di động, nơi ở mới cũng không lắp điện thoại cố định. Nhưng nếu cô ta thực sự muốn biết thì chắc chắn sẽ tra ra được số của bộ phận biên tập nơi tôi đang làm. Tôi không thể nào yêu cầu tất cả người quen của mình không được tiết lộ thông tin về tôi. Vậy nên nếu muốn liên lạc với tôi, nhất định cô ta sẽ liên lạc trong ngày hôm nay. Bình thường tôi làm việc rất chăm chỉ, nếu hôm nay có giả vờ ốm xin nghỉ thì cũng chẳng có vấn đề gì, có điều nếu làm như vậy thì cảm thấy quá là hèn nhát. Không thể cứ lẩn trốn mãi được. Tôi cũng không muốn phải thay đổi chỗ làm thêm một lần nào nữa chỉ vì một đứa con gái! Quyết định vậy đi! Rõ ràng là đã quyết tâm thế rồi, vậy mà khi đến công ty, tôi vẫn không thể nào bình tâm được. Cứ chốc chốc lại chạy đi photocopy, pha cà phê, rồi còn hì hục cọ rửa khay đựng bình nước nóng. Trong lúc đó, có mấy lần điện thoại đổ chuông. Mỗi lần nghe thấy tiếng gọi “Iguchi, điện thoại” là tôi lại giật bắn mình. “Tại sao hôm nay cậu không nghe điện thoại?” Sau khi kết thúc cuộc điện thoại với bên in ấn, cô Minaduki quay sang hỏi tôi với giọng đầy vẻ băn khoăn. “À, chả là… tôi xin lỗi.” Trong khi tôi còn đang ấp a ấp úng thì cô ấy đã chêm vào một câu “cũng chẳng có vấn đề gì”, rồi lại quay mặt vào màn hình máy tính, bộ dạng không một chút quan tâm đến chuyện của tôi, rồi bắt đầu gõ lạch cạch trên bàn phím. Ngoài tôi ra, những cuộc điện thoại gọi từ bên ngoài vào chủ yếu đều do cô ấy nghe. Những người khác vẫn chưa đến, chi bằng nhân cơ hội này nói thẳng với cô ấy xem sao: “Ừmm… Cô Minaduki này…” Mời các bạn mượn đọc sách Trúng Độc Yêu của tác giả Fumio Yamamoto & Trương Thị Hảo (dịch).
Quán Ăn Tìm Lại Tình Yêu
"Tìm lại tình yêu" - nghe có vẻ xa xôi nhưng đó lại là câu chuyện có thật ở một quán ăn nhỏ vùng quê mang tên “Ốc sên”. Điều đặc biệt là quán ăn này chỉ có một bàn và không có thực đơn. Bởi cô chủ Rinko sẽ quyết định món ăn cho thực khách sau khi lắng nghe câu chuyện của họ. Thật kì lạ và quả nhiên kì diệu, những món ăn của Rinko đã trở thành thần dược cho trái tim những vị khách từng ghé qua nơi đây, và cũng là cho chính tâm hồn cô, trên hành trình tìm lại tình yêu tưởng chừng đã đánh mất.. ----- OGAWA ITO Sinh năm 1973 tại tỉnh Yamagata, Nhật Bản. Bà là tác giả của nhiều tiểu thuyết và một số tác phẩm dành cho thiếu nhi. "Quán ăn tìm lại tình yêu" là tiểu thuyết best-seller đầu tay của bà, đã được chuyển thể thành phim vào năm 2010. *** Review "Quán ăn tìm lại tình yêu": Hành trình tìm lại chính mình Một ngày, cô gái trẻ độc thân Rinko quyết định khởi nghiệp bằng một quán ăn đầu tiên trong cuộc đời mình. Ogawa Ito cũng khởi đầu sự nghiệp tiểu thuyết gia bằng cách kể lại hành trình của cô gái trẻ và quán ăn mang tên "Ốc sên" trong tiểu thuyết "Quán ăn tìm lại tình yêu" (Vũ Phương Anh dịch, Wingsbook và NXB Kim Đồng - 2019). Nếu ẩm thực mang lại hạnh phúc thì "Quán ăn tìm lại tình yêu" là nơi để mỗi con người tìm những điều hạnh phúc mới, để xoa dịu những vết thương cũ. "Quán ăn tìm lại tình yêu" của Ogawa Ito không phải đơn thuần là một "quán ăn" mà là câu chuyện về sự cảm thông và thấu hiểu, là hành trình tìm lại chính mình của một cô gái sau quá nhiều mất mát tổn thương. Bằng niềm khát khao đã ấp ủ bấy lâu và sự giúp đỡ của mẹ cùng những người quen xung quanh, Rinko đã mở quán ăn nhỏ mang tên "Ốc sên". Đây là động lực để cô có thể vực dậy tinh thần, bỏ qua những nỗi đau để bắt đầu một cuộc đời mới ở vùng đất mới và là khởi đầu cho những hy vọng mới. Chắc hẳn bạn sẽ phải ngạc nhiên, bởi vì quán ăn "Ốc sên" chỉ có một bàn ăn duy nhất, chỉ phục vụ một món ăn duy nhất cho một vị khách duy nhất. Mỗi một món ăn mang một màu sắc, mùi vị khác nhau. Mỗi món ăn phù hợp với câu chuyện của riêng từng thực khách và giúp người thưởng thức tìm lại những điều ý nghĩa, những cảm xúc tưởng chừng đã đánh mất. Cũng như Rinko, quán ăn "Ốc sên" đã giúp cô tìm lại bản thân mình, tìm thấy liều thuốc để chữa lành những vết thương. Độc giả Việt Nam khi đọc sách này hẳn thấy những điều thú vị gần gũi vì không dưới hai lần, tác giả Ogawa Ito nhắc đến Việt Nam giữa hàng loạt những nền văn hóa ẩm thực khác nhau, từ trà sen, bánh đa cho đến chiếc bát men xanh, những chi tiết nhỏ ấy cũng phần nào cho thấy văn hóa Việt Nam đã vươn ra thế giới một cách từ tốn nhưng chắc chắn, hiện diện hài hòa bên cạnh các nền văn hóa khác. *** Quán ăn tìm lại tình yêu: chỉ 'dành cho tuổi trưởng thành'! LAM ĐIỀN Review Khi nhìn thấy dòng chữ 'dành cho tuổi trưởng thành' in ở trang bìa lót quyển Quán ăn tìm lại tình yêu hẳn nhiều người sẽ hình dung đây là một loại chuyện tình kiểu Nhật Bản. Quán ăn tình yêu do Vũ Phương Anh dịch, là tiểu thuyết đầu tay bán chạy của Ogawa Ito. Nhưng không hẳn vậy, mạch truyện đột khởi gay cấn ngay từ đầu như một cách tác giả khéo léo dùng để "giữ mắt" bạn đọc. Sau đó, câu chuyện như trôi vào một mạch văn đầy chất thơ, giàu tính nhân văn và thấp thoáng yếu tố tâm linh. Sách sẽ là món "khoái khẩu" cho những ai yêu thích thiên nhiên hồn hậu, bởi truyện được xây dựng trong một không gian thiên nhiên thuần phác đáng yêu. Ở đó có hoa quả hạt, rau củ; có vườn, đồi, núi và cánh đồng; có những con người giàu tính thiện lương. Ở đó là quê hương của cô gái Rinko hai mươi lăm tuổi vừa bị một cú sốc nặng đến mức đột ngột bị mất giọng: số tiền lên đến hàng triệu yen Rinko dành dụm mấy năm trời và vật dụng làm bếp, một gia tài đang được hình thành để ươm mầm cho ước mơ mở một quán ăn và trở thành đầu bếp chuyên nghiệp, phút chốc bốc hơi cùng với chàng trai người Ấn phản phúc. Rinko làm một hành trình chẳng đặng đừng là gom hết tiền lẻ còn trong túi ra đón xe khách quay về nhà mẹ ở quê - nơi mà cô đã bỏ đi chưa một lần quay lại từ năm mười lăm tuổi. Mười lăm tuổi, do bất đồng với mẹ và do tinh thần nổi loạn của một cô bé mới lớn, Rinko rời nhà lên thành phố sống với bà ngoại. Nhờ vậy mà cô được thừa hưởng những bí kíp nấu ăn từ bà, thừa hưởng cả tinh thần xem việc chế biến món ăn như một "đạo" với niềm tin vị thần ẩm thực sẽ theo giúp những ai có hạnh nguyện đem lại hạnh phúc cho người khác thông qua công việc chế biến món ăn. Thế rồi bà ngoại mất, Rinko tự lập, sau mười năm cô rơi vào tình trạng trắng tay, mất sạch ngay cả đến giọng nói của mình. Cô quay về, trong cơn cùng quẫn đó, tự dưng ý tưởng về việc mở một quán ăn ngay tại mảnh vườn nhà ở quê - một vùng nông thôn lấn sâu trong núi - hiện ra trước mắt. Mặc dù ở đúng nơi "khỉ ho cò gáy", nhưng quán ăn Ốc Sên cực dễ thương của một cô chủ bị mất giọng cùng với thực đơn vô cùng sinh động được chế biến thật khéo léo ý vị đã nhanh chóng lan xa đến nhiều nơi. Kỳ diệu hơn, chính từ quán ăn Ốc Sên này, những cảm tình quên lãng được tìm thấy lại, những cặp đôi được nên duyên. Nhưng điều kỳ diệu hơn cả là chính mẹ của Rinko đã gặp lại người yêu đầu đời... Ogawa Ito đã phả đầy chất thơ vào tác phẩm bằng cách đặt trục nội tâm của nhân vật lên một trục khác, là quang cảnh thiên nhiên tuyệt diệu xung quanh. Cho nên độc giả, trong một lúc nào đó mải say sưa theo dõi mạch truyện, sẽ bất chợt bị đánh động bởi thiên nhiên trong các trang văn. Sẽ choáng ngợp khi hình dung cây nấm tùng với mùi hương cao quý, cà ri lựu từ vườn nhà và món Nukazuke táo hấp dẫn ra sao... Có thể nói, chính tình yêu ẩm thực và nét đẹp thiên nhiên quê nhà đã nâng nhân vật Rinko lên thành một biểu tượng trong văn Ogawa Ito. Nói về món ăn mà như nhặt lấy từ thiên nhiên ra cái tinh thần vốn được sinh ra để giao hòa với thế giới con người, điều ấy hé lộ bút pháp của một tác giả giàu nội lực nhân văn. Tiểu thuyết này từng được chuyển thể thành phim năm 2010, nhưng ấn tượng từ trang văn để lại cho người đọc mới thật là sâu sắc ngọt ngào. Mời các bạn mượn đọc sách Quán Ăn Tìm Lại Tình Yêu của tác giả Ito Ogawa & Vũ Phương Anh (dịch).
Nếu Thời Gian Dừng Lại Ở Ngày Hôm Nay
“Tôi sẽ quên đi Koyomi âm thầm khóc vào những ngày mưa buổi sớm. Nếu nhắm mắt lại tôi cũng có thể nhìn thấy Koyomi đang đi bộ trên con đường được cát vàng thổi. Thế giới của tôi có Koyomi, thế giới của Koyomi có tôi cũng đang ở đó. Hai thế giới có chút hòa trộn vào nhau. Như vậy là đủ rồi.”   Nếu thời gian dừng lại ở ngày hôm nay kể về cuộc gặp gỡ tình cờ giữa Yukisuke và Koyomi ở tiệm bánh taiyaki. Cuộc sống của hai người bắt đầu bị xáo trộn bởi tai nạn của Koyomi. Tỉnh lại sau 3 tháng hôn mê, Koyomi vẫn nhớ được những gì trước khi xảy ra tai nạn, nhưng những ký ức sau khi xảy ra tai nạn, những công việc cô làm trong một ngày đều bị biến mất sau mỗi lần thức dậy ngày mới. Yukisuke muốn Koyomi có một cuộc sống mà mỗi ngày đều là những ngày vui vẻ, mới mẻ, đồng thời cũng giúp đỡ cô trong những lúc như thế này nên đã ngỏ ý mời cô về sống chung một nhà. Hai người đã có những ngày tháng yên bình cùng nhau. Nhưng niềm vui đó cũng sẽ chỉ trọn vẹn được trong một ngày vì sang ngày hôm sau, ký ức về ngày hôm qua của Koyomi sẽ lại biến mất. Cuộc gặp gỡ tình cờ ở tiệm bánh taiyaki giống như một sợi dây vô hình gắn kết hai người lại với nhau, họ luôn cố gắng cùng nhau khởi tạo những ký ức mới, để Koyomi không quên Yukisuke, để trân trọng hơn những phút giây dành cho nhau và để ngày mai không bao giờ đến. Koyomi, một cô gái chỉ có thể giữ được ký ức của mình trong một thời gian ngắn. Yukisuke, một chàng trai luôn coi sự tồn tại của Koyomi là tất cả. Dù cố lãng quên bao nhiêu đi chăng nữa, thế giới của hai con người ấy vẫn không thể nào biến mất.   *** MIYASHITA NATSU Sinh năm 1967 tại tỉnh Fukui. Tốt nghiệp chuyên ngành Triết học - khoa Văn trường Đại học Sophia. Năm 2004, tác phẩm Nếu thời gian dừng lại ở ngày hôm nay(Shizukana ame) của bà được bình chọn là tác phẩm xuất sắc cho giải thưởng Bungakukai Shinjinshou. Năm 2015, tiểu thuyết Hitsuji to Hagane no Mori được phát hành và mang lại cho bà giải thưởng Honya Taisho, cuốn sách đã đứng đầu bảng xếp hạng Kinobest đồng thời được trao giải Branch Book Award. *** MỞ ĐẦU Không còn xa nữa dự đoán bản thân trở thành kẻ vô dụng sẽ đến, nhưng tôi không nghĩ nó lại tới sớm như thế. Vì hiếm khi có đại biểu ở công ty từ sáng sớm, tất cả các nhân viên đã tập trung lại nói chuyện với nhau. Nghe nói năm nay công ty sẽ dừng hoạt động, đóng cửa toàn bộ. Trợ cấp nghỉ việc là một tháng lương cơ bản. Vì đây là việc gấp và cũng vừa đủ hết một tháng nên nghe nói công ty sẽ chuyển khoản cho nhân viên vào ngày nhận lương của tháng sau. Tuyết rơi báo hiệu mùa đông đến. Vào Giáng sinh có tuyết đúng là một cảnh tượng tuyệt vời, thế nhưng đến quá trưa khi tôi ra khỏi công ty thì tuyết đã ngừng rơi, trên đường chẳng còn lưu lại dấu hiệu nào cả. Tôi xuống ga gần nhất, trong lúc đang thơ thẩn dạo bước bỗng ngửi thấy một mùi hương thoang thoảng, dễ chịu lẫn trong cái giá lạnh của từng đợt gió ngày đông, khiến bước chân tôi dừng lại. Tôi chợt nhận ra rằng, thì ra có một tiệm bánh taiyaki* ở chỗ bãi gửi xe đằng sau quán pachinko*cạnh ga. Đúng lúc tôi đang nghĩ giá mà có thứ gì đó ấm ấm để lót dạ. Tiệm bánh hình như được xây dựng theo kiểu nhà tiền chế*. Nhắc mới nhớ, hèn chi tôi rất hay bắt gặp mấy người vừa đi bộ vừa ăn bánh taiyaki ở gần ga. Thì ra là bánh taiyaki của quán này. Tuyết đã ngừng rơi nhưng gió thì vẫn còn khá tê buốt, khiến tai và mũi tôi cảm thấy đau vì giá lạnh. Tôi phải cho tay vào túi quần, co đầu rụt cổ để tránh sự luồn lách của những cơn gió vào cơ thể. Trong lúc chờ nướng bánh, tôi thơ thẩn, mơ màng với suy nghĩ: “Từ bây giờ mình phải làm gì đây?” “Xin lỗi đã để anh phải chờ.” Người bán bánh đưa cho tôi chiếc bánh taiyaki được bọc trong giấy mỏng, tôi đếm tiền lẻ, trả tiền bánh. Bánh taiyaki vừa nướng xong dù được bọc bằng một lớp giấy mỏng nhưng vẫn ấm nóng. Tôi kẹp chặt bánh vào giữa đôi bàn tay đang lạnh buốt của mình, rời khỏi cửa hàng, vừa đi bộ vừa ăn trên đường về nhà. Cắn một miếng. Trời ơi ngon tuyệt, đến mức bước chân tôi phải dừng hẳn lại để cảm nhận. Tôi ăn thử miếng nữa. Ôi, cái này không phải ngon nữa mà thật sự là quá ngon, quá tuyệt vời. Tôi quay lại chỗ bán bánh, dùng tay gõ vào cánh cửa quán đã được đóng. Phía sau cửa kính, một cô bé đang lau chùi tấm sắt nướng bánh ngẩng mặt lên nhìn. “Cái này ngon thật đấy.” Đó là điều duy nhất tôi có thể nói lúc đó, câu nói tựa như của một đứa trẻ hai tuổi. Cô bé tròn xoe đôi mắt đen láy, hai má đỏ ửng và nói: “Cảm ơn quý khách.” Khuôn mặt đó giống như đang thấy rất vui từ tận đáy lòng. Sáng hôm sau, lúc tôi thức dậy đã là bảy giờ. Bắt đầu từ ngày hôm nay, tôi không phải đi làm cũng chả sao, không biết là nên thấy vui hay buồn nữa. Mặc dù đang là buổi sáng nhưng cơ thể tôi lúc đó có cảm giác như đã hơn bốn giờ chiều. Hôm nay, tôi sẽ giải quyết nốt những công việc còn lại ở công ty, rồi sau đó sẽ đi tìm việc. Thế nhưng tôi lại không muốn dậy chút nào, có điều gì đó mông lung, mơ hồ; mọi thứ như thế nào cũng được. Tôi cảm thấy dường như sắp có tin vui đến với mình và tự hỏi không biết đó là gì nhỉ? Tôi nhấc người dậy. Bánh taiyaki, đúng rồi tiệm bánh taiyaki tình cờ hôm đó và cả cô bé ấy nữa. Thế rồi tôi đến công ty, gọi điện thoại, dọn dẹp lại bàn làm việc. Sau khi kết thúc công việc, trên đường về tôi sẽ ghé qua tiệm bánh đó. Chỉ nghĩ vậy thôi mà cơ thể tôi cảm thấy thoải mái, nhẹ nhõm hơn hẳn. Mời các bạn mượn đọc sách Nếu Thời Gian Dừng Lại Ở Ngày Hôm Nay của tác giả Miyashita Natsu & Akichan (dịch).
Mười Ba Lý Do
Ở thời điểm hiện tại, có 3 cuốn sách tôi chưa “can đảm” đọc lại lần nữa trong tương lai, 3 cuốn đó, là: Mắt Biếc (Nguyễn Nhật Ánh), Tình nhỏ làm sao quên (Đoàn Thạch Biền) và Mười ba lý do (Jay Asher). Tôi chạm đến những trang gây “ám ảnh” với chính mình vào ngày “thất tịch” (mồng 7-7), buổi trưa trời đương nắng bỗng mưa ào xuống, rồi thôi… Rạng sáng, trời mưa lớn, kéo dài, như đã thấm bao ẩn ức chất chứa bấy lâu và chực vỡ òa sau thời khắc gặp nhau ấy; tôi giật mình bởi tiếng động, hồi tưởng về nhân vật trong câu chuyện, tôi nặng lòng lắm! Ngưu Lang – Chức Nữ dẫu mỗi năm chỉ gặp được một lần, ít ra họ còn được nhìn thấy nhau; nhưng hai nhân vật chính trong “MƯỜI BA LÝ DO” mãi mãi chẳng thể nghe giọng nhau, cùng trò chuyện hay thấy nhau nữa… Tôi chợt nhớ dòng trạng thái người quen đăng trên mạng xã hội: “Cuộc đời này vô thường lắm, có lỡ thương ai, nhớ ai thì cứ nói đi, biết còn được gặp nhau bao nhiêu lần nữa đâu… Ngại ngùng không nói, thờ ơ không nói, vô tâm không nói… Để rồi, muốn nói thì chẳng còn ai nghe nữa rồi!” Và, chúng ta sẽ chẳng thể biết rằng, phút giây bất chợt, có khi ta là điểm tựa, là “phao cứu sinh” tinh thần mà đối phương trông ngóng để trút hết những tâm sự thầm kín nhất đời mình. Một ánh mắt, một lời ủi an đúng lúc là liều thuốc tinh thần kịp thời vực dậy ý chí lịm dần giữa đại dương tuyệt vọng chỉ chực nhấn chìm người nặng mang ý nghĩ tiêu cực… * 13 mặt, 7 cuộn băng – 13 lý do như lời trăn trối của Hannah Baker trước khi tự sát. Cô đã thu âm số băng này gửi những nhân vật có liên quan và “yêu cầu” họ chuyển tiếp số băng trên đến những đối tượng khác là một phần của 13 lý do trên. Nếu ai đó làm trái luật, một bộ băng khác sẽ được phát hành ra công chúng. Nhân vật tôi “Clay” ngoài nghe hết 13 mặt băng, cậu còn đi đến những địa điểm được Hannah đánh dấu trên bản đồ, như một cách tưởng niệm người bạn quá cố, như một cách hình dung câu chuyện Hannah kể lại. * Cuốn sách gợi cho tôi khá nhiều suy tư: Về phía Hannah Baker: Thứ 1, cô có quá “ích kỷ” và “tàn nhẫn” lắm không khi nêu tên 13 người trong cuộn băng cùng lý do khiến cô tự sát, như ngầm đeo quả tạ nặng lên vai đảo lộn cuộc sống họ mà họ không được một lần đính chính và xác tín từng chi tiết xuất hiện trong câu chuyện. Thứ 2, cô bất công lắm không khi “quy kết” toàn bộ việc mình tự vẫn cho thầy tâm lý (tôi lờ mờ phán đoán thế). . Về phía Clay Jensen: Giá như anh “lì lợm”, chịu “chai mặt” một chút, không “nghe lời” Hannah bỏ về mà nán lại, rồi ôm cô vào lòng mặc cô đẩy anh ra xa thì có thể anh sẽ không phải nghe cuộn băng nói về mình trong nước mắt, dẫu Hannah nói về anh chỉ những điều tốt đẹp. Giá như Clay cứng rắn hơn, quyết đoán hơn tìm hiểu tin đồn thay vì im lặng, chết nhát để rồi giờ đây tự dày vò mình. . Và, về phía chúng ta; những người làm công tác giáo dục, những bạn học sinh – sinh viên, những con người bình thường trong cuộc sống: Có bao giờ chúng ta từng “kết tội” người tự sát chưa? Có bao giờ mọi người to nhỏ hoặc nhìn đối phương với ánh mắt khinh rẻ thông qua tin đồn mình nghe được về họ chưa? Có bao giờ chúng ta hứng chí lập một danh sách trêu đùa cá nhân bởi vẻ bề ngoài họ có phần “nổi bật” (như thừa cân, số đo 3 vòng…) chưa? Có bao giờ chúng ta tự bào chữa cho hành động đùa quá trớn vô thưởng vô phạt của mình bằng câu chống chế “Vui mà, sao căng vậy…” chưa? Có bao giờ chúng ta lên tiếng tố cáo những việc làm vi phạm pháp luật để bảo vệ chính mình và bảo vệ người khác chưa? Có bao giờ chúng ta bàng quan chuyện ấy không liên quan đến mình và tốt nhất không nên dây vào tránh rắc rối chưa? … Câu chuyện đặt ra rất nhiều vấn đề trong môi trường giáo dục quá cởi mở như nước Mỹ, từ đó dẫn đến các vấn nạn, như: sử dụng chất kích thích và gây tai nạn khi lái xe, hiếp dâm,… * Tôi vẫn thường nói, thời chúng ta đang sống là “thế kỷ cô đơn.” Nhịp sống mỗi ngày thúc hối, công nghệ chi phối con người,… mỗi cá thể tự dựng xây ốc đảo giam hãm mình, sẽ đến một ngày, cá thể không thể tiếp tục chịu đựng và tự kết liễu đời mình. Mãi đến phút cuối, Clay mới thực sự vượt qua bức tường thỏ đế bản thân tạo nên, tiếp cận đối tượng mà anh sợ sẽ rơi vào hoàn cảnh như Hannah Baker, cứ để quả cầu tuyết lăn mãi và đến lúc buông xuôi cho chúng cuốn mình… Cảm ơn Jay Asher đã viết “MƯỜI BA LÝ DO” – cuốn sách đầu tay đầy tinh thế, xoáy vào chủ đề quen thuộc dẫu tồn tại quanh chúng ta nhưng ít tác giả đề cập. Qua “MƯỜI BA LÝ DO”, tôi mong mọi người quan tâm và hiểu nhau hơn, để không còn trường hợp đau lòng nào như Hannah Baker nữa… *** “Anh?” cô nhân viên nhắc lại. “Anh muốn chừng nào nó đến nơi?” Tôi lấy hai ngón tay gãi mạnh lông mày mắt trái. Đầu tôi càng ngày càng nhức. “Sao cũng được,” tôi bảo. Người nhân viên nhận gói bưu kiện. Cái hộp giày đó cũng chính là cái hộp giày đã nằm trước thềm cửa nhà tôi hai mươi bốn tiếng trước; nó đã được tôi gói lại trong một cái túi giấy màu nâu và dán kín bằng băng keo trong, y như lúc tôi nhận được. Nhưng giờ thì địa chỉ nó sắp đến lại là một cái tên khác. Cái tên tiếp theo trong danh sách của Hannah Baker. “Một tá của thợ bánh,(*)” tôi lẩm bẩm. Rồi lại thấy tởm vì như vậy cũng nghĩ ra được. “Anh nói gì cơ?” Tôi lắc đầu. “Hết bao nhiêu vậy?” Cô ta đặt chiếc hộp lên một tấm đệm cao su, sau đó gõ liên tục trên bàn phím. Tôi đặt cốc cà phê mua ở cây xăng lên thành quầy và ngó vào màn hình. Tôi móc vài tờ tiền từ trong ví ra, lục vài xu trong túi, rồi đặt chúng lên quầy. “Tôi nghĩ cốc cà phê đó chưa ép phê đâu,” cô nhân viên nói. “Anh đưa thiếu một đô la.” Tôi đưa thêm một đô la, rồi dụi mắt cho tỉnh ngủ. Cà phê còn âm ấm khi tôi làm một ngụm, nên lại càng khó uống hơn. Nhưng dù thế nào tôi cũng phải tỉnh. Hoặc có lẽ không. Có lẽ tốt nhất tôi nên nửa tỉnh nửa mơ cho đến hết ngày. Có lẽ đó là cách duy nhất để tôi trụ qua hết ngày hôm nay. “Đúng lịch thì ngày mai cái hộp đến nơi,” cô ta nói. “Hoặc mốt.” Rồi thả cái hộp vào chiếc xe đẩy đằng sau. Đáng lẽ tôi nên chờ tới sau giờ học. Tôi nên để Jenny tận hưởng ngày yên bình cuối cùng của cậu ta mới phải. Dù cậu ta chẳng đáng để tôi làm vậy. Khi về tới nhà ngày mai, hoặc mốt, cậu ta sẽ thấy một bưu kiện trước thềm cửa nhà mình. Hoặc nếu bố, mẹ hay ai đó nhận thư trước thì có thể cậu ta sẽ thấy chiếc hộp nằm trên giường mình. Và cậu ta sẽ phấn khích. Tôi cũng đã phấn khích đấy. Một bưu kiện không đề tên người gửi à? Họ quên đề tên, hay là cố ý? Có thể từ một người hâm mộ bí mật chăng? “Anh có muốn lấy hóa đơn không?” cô nhân viên hỏi. Tôi lắc đầu. Dù vậy, cái máy cũng in ra một tờ hóa đơn. Tôi nhìn cô nhân viên xé dọc rìa răng cưa nhựa của máy in rồi quăng tờ giấy vào thùng rác. Trong thị trấn có độc một bưu điện. Không biết có phải chính cô nhân viên này cũng là người nhận cái hộp giày này từ những người khác trong danh sách không, những người nhận được nó trước tôi. Rồi bọn họ có giữ hóa đơn như vật lưu niệm bệnh hoạn không? Giấu chúng vào ngăn đồ lót? Ghim chúng lên một tấm bảng? Suýt nữa tôi đã xin lại tờ hóa đơn rồi. Suýt nữa tôi nói, “Em xin lỗi, cho em xin lại hóa đơn được không?” Để về sau có thứ nhắc tôi nhớ chuyện này. Nhưng nếu muốn có thứ nhắc nhớ mình thì tôi đã đi sao lại số băng cát sét hoặc giữ lại tấm bản đồ rồi. Nhưng tôi không bao giờ muốn nghe lại đống băng đó nữa, dù giọng cậu ấy sẽ còn vang mãi trong đầu tôi. Và những ngôi nhà đó, những con phố đó, và ngôi trường cấp ba đó sẽ luôn luôn còn đó để nhắc tôi nhớ về chuyện này. Giờ thì hết làm gì được nữa rồi. Bưu kiện đã trên đường gửi đi. Tôi ra khỏi bưu điện mà không lấy hóa đơn. Sâu bên trong chân mày mắt trái, đầu tôi vẫn nhức. Mỗi ngụm nước bọt tôi nuốt đều có vị chua, và càng gần đến trường, tôi càng thấy mình sắp ngã gục. Tôi muốn gục ngã. Tôi muốn ngã xuống ngay vỉa hè đằng kia rồi lết thân mình vào trong đám thường xuân đó. Vì ngay bên kia bụi thường xuân, vỉa hè uốn cong, men theo rìa ngoài bãi đỗ xe của trường. Rồi nó cắt xuyên qua bãi cỏ trước, tiến vào tòa nhà chính. Nó đi xuyên qua cửa chính và nhập vào hành lang, ngoằn ngoèo giữa những dãy tủ đồ và lớp học ở hai bên, rồi cuối cùng dẫn vào cánh cửa luôn để mở của tiết học thứ nhất. Phía trước lớp, đối diện với học sinh, sẽ là bàn của thầy Porter. Thầy ấy sẽ là người cuối cùng nhận được gói bưu kiện không có tên người gửi. Và ở giữa phòng, dịch qua bên trái một bàn, sẽ là bàn của Hannah Baker. Không người ngồi. (*) Một tá của thợ bánh, hay Baker’s dozen, có nghĩa là 13 chứ không phải 12 như nghĩa thường của một tá. Cụm từ này được cho là có nguồn gốc từ thời Trung cổ ở Anh. Thời đó, giá bán bánh mì được quy định phải dựa theo giá của bột mì, thợ bánh nào bán thiếu cân sẽ bị trừng phạt. Và vì bánh mì được tính theo cân bột chứ không phải số lượng nên để tránh thiếu cân, các thợ bánh thường cho thêm vào một hoặc hai ổ bánh giống hệt mỗi khi bán ra một tá bánh. Họ Baker của Hannah cũng có nghĩa là thợ làm bánh. Mời các bạn mượn đọc sách Mười Ba Lý Do của tác giả Jay Asher & Tuấn Phúc (dịch).