Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giữ Gìn 36 Phố Phường

"Có trách nhiệm với di tích lịch sử mọi mặt ở các nơi đô hội qua các đời là một phong tục đẹp của một dân tộc có văn hóa và truyền thống. Trên thế giới, hầu như bất cứ thủ đô hoặc thành phố lớn nào nhiều tuổi cũng đều được bảo vệ, trân trọng. Cách Tân Đê-li (Đê-li mới) thủ đô Ấn Độ vài ki-lô-mét là Đê-li cũ, thành cổ Đê-li ngày xưa. Tbi-li-xi, thủ đô nước Gruzia, ở kề bên vẫn nguyên thành cổ Tbi-li-xi phố phường và nhà thờ. Bên trong nhà ở các thành phố chính đã được hiện đại hóa cho thích nghi đời sống hôm nay, nhưng bề ngoài vẫn tầng nhà, màu tường và mặt đường đá tảng từ thời Pie đại đế. Thành phố Vacsava, thủ đô Ba Lan bị phát xít Đức hoàn toàn hủy diệt. Khi xây dựng lại Vacsava, các khu cổ được hồi sinh như trước kia. Kể từ màu gạch đến cái trụ đá trước sân nhà thờ để chống bệnh dịch tả – theo mê tín cũ, cũng được làm lại giống thế. Trải hàng nghìn năm, di tích lịch sử ở Hà Nội tập trung nhất ở hai khu: Khu thành cũ mà ta quen gọi là “trong thành”, kinh đô từ thời Lý và triều đại về sau; và vùng dân cư ở bọc ngoài thành, từ phố Nhà Hỏa đến ngõ Phất Lộc, từ Hàng Khoai sang Cầu Gỗ, tuy không có mốc giới hạn bao giờ, nhưng có một cái tên chung là khu 36 phố phường. 36 phố phường vẫn đứng yên thế, nhưng cũng lại luôn chuyển động theo thời gian và lịch sử mỗi thời kỳ. Nó là một bảo tàng ngoài trời, bảo tàng ở giữa sinh hoạt thành phố, không tách khỏi đời sống – một lưu niệm sâu sắc ý nghĩa giáo dục truyền thống... *** ó trách nhiệm với di tích lịch sử mọi mặt ở các nơi đô hội qua các đời là một phong tục đẹp của một dân tộc có văn hóa và truyền thống. Trên thế giới, hầu như bất cứ thủ đô hoặc thành phố lớn nào nhiều tuổi cũng đều được bảo vệ, trân trọng. Cách Tân Đê-li (Đê-li mới) thủ đô Ấn Độ vài ki-lô-mét là Đê-li cũ, thành cổ Đê-li ngày xưa. Tbi-li-xi, thủ đô nước Gruzia, ở kề bên vẫn nguyên thành cổ Tbi-li-xi phố phường và nhà thờ. Bên trong nhà ở các thành phố chính đã được hiện đại hóa cho thích nghi đời sống hôm nay, nhưng bề ngoài vẫn tầng nhà, màu tường và mặt đường đá tảng từ thời Pie đại đế. Thành phố Vacsava, thủ đô Ba Lan bị phát xít Đức hoàn toàn hủy diệt. Khi xây dựng lại Vacsava, các khu cổ được hồi sinh như trước kia. Kể từ màu gạch đến cái trụ đá trước sân nhà thờ để chống bệnh dịch tả – theo mê tín cũ, cũng được làm lại giống thế. Trải hàng nghìn năm, di tích lịch sử ở Hà Nội tập trung nhất ở hai khu: Khu thành cũ mà ta quen gọi là “trong thành”, kinh đô từ thời Lý và triều đại về sau; và vùng dân cư ở bọc ngoài thành, từ phố Nhà Hỏa đến ngõ Phất Lộc, từ Hàng Khoai sang Cầu Gỗ, tuy không có mốc giới hạn bao giờ, nhưng có một cái tên chung là khu 36 phố phường. 36 phố phường vẫn đứng yên thế, nhưng cũng lại luôn chuyển động theo thời gian và lịch sử mỗi thời kỳ. Nó là một bảo tàng ngoài trời, bảo tàng ở giữa sinh hoạt thành phố, không tách khỏi đời sống – một lưu niệm sâu sắc ý nghĩa giáo dục truyền thống. Hà Nội đã phải trải nhiều biến đổi. Khí hậu nhiệt đới tàn phá các công trình, mà các phường phố dân cư thời ấy thường là nhà đất tranh tre. Vua chúa các triều đại triệt hạ nhau. Hà Nội bị tàn phá nặng nề nhất là đến đời Nguyễn. Dời đô vào Phú Xuân, nhà Nguyễn phá hủy Thăng Long để “tiêu diệt thế đất đế vương ở Bắc Hà”. Nhưng trong nghệ thuật gìn giữ và tôn trọng di tích, trên thế giới và trong nước ta đã có nhiều biện pháp và kinh nghiệm tốt. Kho tàng ca dao, tục ngữ, bài vè, bút kí của các nhà văn thế kỉ trước và đầu thế kỉ này. Một số tranh, ảnh và sách, tư liệu của Pháp khi mới chiếm Hà Nội. Nhiều câu, nhiều đoạn, nhiều tranh ảnh có thể khơi gợi lại được hình thù, cảnh cũ. Lại còn những tài liệu cực quý, ấy là chuyện nhớ lại của các cụ ở Hà Nội thọ bảy tám mươi tuổi trở ra. Khi xây dựng lại khu thành Vacsava cổ, những tư liệu gia đình và mắt thấy tai nghe này rất quan trọng với các nhà chuyên môn. Nhà cửa hồi đầu thế kỉ, các khu vực Hàng Gai, Hàng Bài, Hàng Bạc, các ngõ Trung Yên, Nội Miếu bây giờ, cụ Hoàng Đạo Thúy còn nhớ được cái chuôi vồ đầu tường, hòn ngói âm dương, các kiểu cửa lùa, cửa đẳng, cửa ngăn, cửa bức bàn và cái só luồn bậc cửa. Những dãy nhà một tầng gác xép tầng tầng lớp lớp nhấp nhô sóng mái bây giờ vẫn thế. Đó là những nhà dân thường, người buôn bán, thợ thủ công ở tụ hội lại cả họ, cả phường đã thành tên phố: Hàng Đường, Hàng Đào, Hàng Bát Đàn… Bên những dinh thự và công sở người Pháp xây dựng, nhà cửa khoảng 100 năm trở lại đây còn in rõ cảnh sống thành phố, nhìn nhà, biết tuổi nhà – ở vùng bệnh viện Việt – Xô, nhà khách Bộ Quốc phòng và nhiều phố, trên tường nhà còn thấy đắp nổi con số năm khởi công và năm hoàn thành ngôi nhà. Những hiệu buôn và hàng quán của người Pháp ở Hàng Khay, Hàng Trống, của người Ấn Độ ở Hàng Ngang, của người Trung Quốc ở Hàng Buồm, của người Nhật ở Cửa Đông, của những người Việt Nam giàu có như nhà Trấn Hưng Hàng Bạc, nhà Cửu Nghi và Lê Thuận Kho át Hàng Bồ. Chỉ kể một vài tên làm ví dụ. Những nhà hàng cửa hiệu hiện nay còn, chỉ cần biết bảo quản, chứ không đến nỗi phải làm lại theo chuyện kể hay trí nhớ. Mới đây, trung tu cổng tam quan chùa Thiên Trù trong quần thể chùa Hương Phái nghiên cứu, sử dụng những bức ảnh ngày trước còn lưu trữ ở thư viện Phương Đông tại Paris bên Pháp, khi xây dựng. Khu phố cổ thành phố Plopdip (Bungari) tương tự 36 phố phường của ta, còn giữ được quán ăn và ngôi nhà đồ sộ của một người Do Thái buôn bán lớn đã lâu đời ở đấy, nhà này đi buôn đường Ấn Độ trong phòng trang trí lụa là, chiếu thảm, đồ đạc vùng Trung cận Đông và Nam Á. Ở Hà Nội, nhiều di tích chiến đấu và cách mạng đã được xếp hạng như di tích lịch sử và nghệ thuật, nhưng còn thật nhiều di tích phổ biến mà trong khu 36 phố phường rất sẵn những cái nho nhỏ chỗ nào cũng có ấy tạo nên không khí, và quang cảnh. Đi trong thành phố Vacsava, thấy cứ ở nơi nào có một trận đánh dù nhỏ và chớp nhoáng, nơi nào có chiến sĩ hy sinh trong thời kỳ Vacsava bị phát xít Đức chiếm đóng, đều có tượng nhỏ, phù điêu hoặc gắn biển ghi sự tích. Mỗi bước lại gặp cuộc chiến đấu của nhân dân Ba Lan anh hùng. Ở Béc-lin, bên cạnh tòa nhà Quốc hội mà quân đội Liên Xô đã cắm cờ chiến thắng lên nóc, vẫn như trong chiến tranh và có nhiều khu phố, hai bên nhà dân vẫn ở bình thường, nhưng mặt tường nhà để lởm chởm như bị bom phá, và màu tường quét vôi xám nhạt như ám khói, người đi qua vẫn có cảm tưởng về trận đánh khốc liệt ngay giữa dinh lũy sào huyệt của phát xít ngót nửa thế kỉ đã qua. Những sự việc lịch sử và cách mạng đã xảy ra ở Hà Nội rất phong phú, nhiều mặt. Dấu vết viên đạn trái phá quân Pháp xâm lược bắn thủng tường thành Cửa Bắc. Sử sách còn kể tên những pháp trường Pháp dựng quanh Bờ Hồ để giết hại các nhà yêu nước. Năm 1954, thành phố tìm lại và bốc mộ các chiến sĩ chiến đấu ở Liên khu 1 hy sinh và phải chọn ngay ở nơi vừa ngã xuống. Mỗi nơi ấy ngày nay cần có bia tưởng niệm, để cho những người tìm hiểu khu 36 phố phường không phải chỉ thấy sự tích anh hùng ở chợ Đồng Xuân, mà thật ra phố nào cũng có, có nhiều. Cũng như phải gắn bia lưu niệm chi tiết hơn nữa về các cơ sở cách mạng hồi bí mật trước Tổng khởi nghĩa, thời kỳ Hà Nội bị tạm chiếm, để cho người bây giờ thấy được hoạt động cách mạng thời kỳ đất nước còn đen tối đã to lớn, đã dũng cảm đến thế nào mới có được ngày nay. Sân gác thượng một nhà in phố Hàng Bồ, ở đấy tiểu đội của chiến sĩ Bạch Ngọc Liễn đã dùng súng trường bắn rơi một máy bay trinh sát Pháp khi Liên khu 1 đương còn trong vòng vây địch. Đấy là chiếc máy bay đầu tiên của Pháp bị bắn rơi trong cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta. Ở nhiều bức tường nhà hai tầng phố Hàng Gai còn lỗ chỗ vết thủng, vết đạn, khi hai bên phố là phòng tuyến của ta và địch hàng ngày tấn công sang nhau. Ở hầu hết mọi nhà còn vết tường nhà đã bị phá, để cả phố thành giao thông hào luồn nhà này sang nhà khác khắp 36 phố phường ra tận chốt ngoài cùng. Ở ngõ Phất Lộc, điểm tập trung sau cùng của trung đoàn Thủ đô trước khi rút sang bên bờ sông Hồng, luồn khỏi vòng vây của địch. Cây đa cạnh đền Bà Kiệu còn những vết sẹo và cành gãy, đó là cái cây bị thương vì bom bi mấy trận máy bay Mỹ ném xuống quanh Hồ Gươm. Có thể nói, chỗ nào trong khu vực này cũng la liệt dấu vết cuộc chiến đấu cách mạng và lịch sử qua các thời kỳ. Khu vực 36 phố phường còn nhiều đình, chùa, đền miếu rải rác các phố. Chứng tích đô thị một đất nước châu Á gốc nông nghiệp, dẫu đã ra ở đường phố, nhưng tính cách lũy tre làng vẫn được gìn giữ, người ta lập nơi thờ mới hoặc thờ vọng thành hoàng làng ở quê. Cần giữ lại mọi hình ảnh có đặc điểm này, tất nhiên nơi là di tích được xếp hạng (đền Bạch Mã), những nơi khác có thể vẫn ở, vẫn sử dụng bình thường, nhưng phải có quy định không được tự tiện xê dịch, hủy bỏ hoặc tự ý sửa chữa, v.v... Vùng 36 phố phường có nhiều di tích tiêu biểu xứng đáng. Khách trong nước và nước ngoài có dịp được tham quan cái bảo tàng ngoài trời của thành phố ta qua các thời kỳ. Nhưng khu vực này đang có nguy cơ biến dạng. Nếu không sớm bảo vệ nghiêm ngặt, e đến khi ta có điều kiện tôn tạo, sẽ tốn công tốn sức lắm và có những mất mát không thể tìm lại được. Số người, số hộ đến ở khu này đông quá mức. Là khu buôn bán cũ, bây giờ vẫn tiếp tục buôn bán – trong tình hình này sinh hoạt buôn bán càng nhiều. Vì thành phố không trông trước được đây sẽ là vùng di tích nên không có quy định gì về người đến, người ở. Hiện các phường Đồng Xuân, Hàng Buồm, Hàng Bạc là những phường chật chội, đông người nhất, ô nhiễm nặng nhất, và sẽ còn đông nữa, bẩn nữa. Do đòi hỏi của sinh hoạt, người ta phá nhà cũ xây nhà mới, người ta phải cơi nới gác xép và lên tầng. Cả đến hai đầu đao mái đền Bạch Mã đã được xếp hạng cũng phải đâm vào cửa sổ một hiệu ăn sát nách nhà. Từ Hàng Đào lên Hàng Đường có lệnh bắt các nhà nhích ra hè phải lui cửa hàng vào như cũ, xem chừng chỉ đẩy vào một hai tấc cũng không phải dễ. Có thể báo động: Tất cả các nhà trong khu vực này, nếu người ta chưa phá đi làm lại thì nhà nào cũng đã sửa chữa cả rồi. Thành phố phải tổ chức biện pháp giữ gìn, bảo vệ ngay. Trước mắt, chưa có điều kiện tôn tạo, nhưng nhất thiết phải giữ gìn và bắt đầu những công việc sưu tầm nghiên cứu chuẩn bị cho công việc tới. Những vấn đề như số lượng người ở, các nhà xây mới và chữa, chuyện đường sá, cây cối, các đình chùa đền miếu đều liên quan đến công cuộc gìn giữ trước mắt và sau này. Không để tùy tiện buông tuồng như bây giờ. Hà Nội 36 phố phường. Cái 36 phố phường ấy của thành phố đã hình thành từ Thăng Long nghìn đời không chỉ trên quang cảnh trông thấy, mà đã vào tâm hồn tình cảm con người với biết bao tục ngữ, ca dao. Xin nói về việc hôm nay chúng ta bảo vệ “Hà Nội 36 phố phường” quý báu đó cho bộ mặt thủ đô cả nước và tấm lòng mến yêu của mọi người trên thế giới khi đã một lần đến thăm Hà Nội. Có thể tính ra đã hàng chục đề tài nghiên cứu bảo tồn phố cổ với hàng trăm triệu, hàng tỷ đồng đầu tư cho những công tác nghiên cứu này, nhưng vẫn chưa tìm ra một phương án tối ưu được các nhà khoa học, nhà quản lý, nhà kinh tế và giới kiến trúc nhất trí, ủng hộ là thực hiện toàn diện và đồng bộ. Ngoài ra để chuẩn bị bảo vệ khu phố còn có nhiều cuộc bàn bạc khác của các chính quyền về khu phố cổ 36 phố phường. Hội đồng nhân dân thành phố đã họp chuyên đề quyết định cả đặt mốc giới khu phố. Và hiện nay đương bàn soạn và dự thảo những quyết định chi tiết về thể thức cải tạo, xây dựng trong khu vực này. Quan tâm và làm việc cho một khu phố cổ giữ được sắc thái riêng của nó, là cần thiết, bởi khu phố cổ là một trong những hình ảnh Hà Nội xưa làm ăn, sinh sống, mà tinh thần Hà Nội xa xưa liên quan tới con người Hà Nội bây giờ chứ không phải chỉ về mặt di tích và du lịch. Tất cả mọi công việc kể trên đều đương và sẽ thực hiện chứ thực chưa một việc gì đã làm cả. Vấn đề phức tạp và cần đặc biệt lưu ý cấp bách phải giải quyết là ở đây. Bởi vì trong khi đó vùng phố cổ đông đúc, chen chúc đương hằng ngày các nhà dân, nhà thuê của thành phố được sửa chữa, được làm mới như Hà Nội hiện nay ở bất cứ nơi nào, đã mọc lên nhiều nhà cao ba bốn năm tầng, mỏng mảnh, các cửa sắt kéo đóng khép, các mặt tiền ốp đá rửa… Chẳng bao lâu nữa, vẻ riêng 36 phố phường sẽ biến mất, mà lặn vào, hòa vào Hà Nội nói chung. Mới đây, tôi có dịp đi dạo trong vùng 36 phố phường với ông Giắc Beekac, nhà báo Anh, đặc phái viên Đông Nam Á thường trú ở Băng Cốc của đài phát thanh BBC. Ông Giắc nêu câu hỏi với tôi: “Các ông chủ trương bảo vệ khu phố cổ này, giữ bộ mặt Hà Nội khác Băng Cốc, khác Hồng Kông… Nhưng từ nãy, chúng ta mới đi qua hai, ba phố đã thấy nhiều nhà kiểu mới như các khu phố khác, như ở thành phố Hồ Chí Minh, như Hồng Kông thế thì gọi thế nào là bảo vệ, vì như vậy khu phố cổ rồi sẽ không còn nữa”. Câu hỏi cũng là một nhận xét và lời phê bình đúng sự thật, thật chua chát và buồn phiền cho người phải trả lời. Nhưng tôi đã trách ông Giắc lịch lãm và tôi cắt nghĩa với ông ấy rằng: “Ông chưa biết và thông cảm hết được khó khăn của chúng tôi. Vâng, những cái ông trông thấy đương làm đau đầu những người có trách nhiệm và thật sự là điều không vui đối với cả những người yêu vẻ đẹp độc đáo của Hà Nội như ông. Tại sao vậy? Điều trước nhất là nhà ở khu phố cổ này, phần nhà riêng có chủ nhiều hơn nhà do Nhà nước quản lý. Mật độ dân số một cây số vuông ở khu này đông gấp trăm lần các khu khác và vào loại môi trường bị ô nhiễm nặng nhất thành phố. Nhưng di chuyển, tạo thoáng khu vực này đòi hỏi một sự đền bù rất lớn, rất rất lớn và rất phức tạp. Bởi, khu này là trung tâm buôn bán sầm uất nhất thành phố, nhất cả phía Bắc đất nước. Mỗi tấc đất ở đây giá trị một tấc vàng. Ở đây không thiếu những triệu phú, tỷ phú mới nổi, mặc dầu họ chỉ chen chúc ở một căn nhà chật hẹp, cũ kỹ. Tất cả nhà cửa ở khu phố cổ đều được xây dựng từ đầu thế kỉ với cách sinh hoạt thô sơ của thời kỳ thành phố chưa có điện, chưa có hệ thống nước máy. Thêm nữa, nhà cửa trong mưa nắng nhiệt đới, mối mọt và đổ nát nhiều. Vả lại mỗi nhà hiện nay, phần nhiều vì đã mấy thế hệ, tam tứ đại đồng đường, con cháu quá đông đúc mà các nơi bếp núc và nhà vệ sinh đều tồn tại từ ngót trăm năm nay, cho nên, sửa chữa hoặc làm lại, làm mới cũng đương là một đòi hỏi vô cùng khẩn thiết, tất nhiên không thể cản được vì là nhà của người ta và trong khi những quy định của Nhà nước, của thành phố chỉ mới thấy các điều khoản trên văn bản giấy tờ, chưa đẻ ra điều kiện vật chất và tiền bạc, làm sao ngăn được những chữa chạy hoặc làm mới khá chính đáng của mỗi chủ hộ trong ngôi nhà, trong dãy phố. Ấy là còn chưa kể có thể có những cái bên trong, để được làm ngơ đi, biết đâu. Tôi cũng như nhiều người hằng quan tâm và yêu quý khu phố cổ 36 phố phường, thực sự băn khoăn không yên. Từ bàn cãi đến các tổ chức, các kế hoạch, bảo tồn, tôn tạo, hội nghị, hội thảo và công phu ghi chép với sáng kiến đã nhiều, nếu thủ đô được giải phóng đã ngót 60 năm thì thời giờ bàn và lo cho khu vực này cũng đã dòng dã ngót 60 năm. Vậy mà chưa trông thấy cụ thể một việc gì cả. Bây giờ, bước vào đổi mới, chỉ thấy ngày và đêm, nhất là về đêm, những vôi gạch, xi măng và vật liệu xây dựng được tải vào đây nhà nhà cứ được chữa, được xây lại mốt mới giống hệt như ở bất cứ chỗ nào trong thành phố này và các thành phố khác. Có lẽ chẳng bao lâu nữa 36 phố phường chỉ còn trong ký ức, “Thăng Long thành hoài cổ” đầu bài thơ cũ đã mang sẵn cái điềm buồn thế rồi chăng? Mời các bạn đón đọc Giữ Gìn 36 Phố Phường của tác giả Tô Hoài.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bí Mật Của Những Cuộc Đời
Cuộc đời của anh cảnh sát điều tra, cuộc đời của một người quá thành đạt để rồi vừa là tội nhân vừa là nạn nhân... trong cái vòng quay chóng mặt của tình và tiền tài danh vọng... Hai người lại là bạn thân của nhau từ nhỏ. Tình thân và tự trọng khiến hai người càng hiểu nhau, hiểu đời hơn để tự xử lý cho phải lẽ trong đêm trước khi tội nhân bị xử bắn... ***   LTS: Có lẽ hiếm có trường hợp nào mà một kẻ chỉ làm nghề bán thịt lợn lại lên làm Tổng giám đốc một doanh nghiệp Nhà nước. Đây thực sự là câu chuyện kỳ lạ và tiếc thay, lại là có thực. Truyện dài “Bí mật của những cuộc đời” của nhà văn Nguyễn Như Phong viết về một nhân vật như vậy. Tác phẩm đã được Giải B của Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam trong cuộc thi tiểu thuyết, truyện ký “Vì bình yên cuộc sống”. Báo Năng lượng Mới xin giới thiệu cùng bạn đọc tác phẩm này. Năng lượng Mới số 338 Nguyễn Như Phong Trại giam của Công an tỉnh Nam Sơn nằm trên một quả đồi thấp cách trung tâm thành phố khoảng sáu cây số có tên là đồi Dẻ vì thế mà cũng được mọi người gọi bằng cái tên Trại đồi Dẻ. Người ta kể rằng, ngày xửa ngày xưa, khi mà những vạt rừng còn chạy dài từ chân núi Hoàng Sơn đến tận gần thị xã thì khu vực này mọc rất nhiều cây dẻ và trên quả đồi có nhiều cây dẻ cổ thụ to cỡ một người ôm. Có hai địa danh được coi là nơi chứa nhiều bí ẩn và huyền bí ở tỉnh là đồi Dẻ và đầm Tà. "Ma già đồi Dẻ, ma trẻ đầm Tà", các bà các mẹ cứ lấy câu đó để dọa trẻ con, cái chính là ngăn không cho chúng ra đó chơi. Đầm Tà là một khu đầm rộng có đến hơn năm trăm hécta bạt ngàn lau sậy, là nơi trú ngụ của các loại chim bắt cá như cò, le le, cốc. Có ba đứa trẻ cả gan lấy thuyền thúng bơi ra giữa đầm và chẳng may bị vòi rồng hút ráo cả lên trời và từ đó, vào những đêm trăng xuông, thi thoảng người ta lại nghe thấy giữa thinh không tiếng trẻ con nói léo nhéo. Còn ở đồi Dẻ, nghe nói vào cái dịp đói năm 1945, có một lần người ta thấy có đến một chục người già ôm nhau nằm chết đói trên đồi Dẻ. Hóa ra đó là một số người của làng Bến quyết ra đi để chết cho gia đình đỡ một miệng ăn và thế là họ chọn đồi Dẻ... Dân quanh vùng quyên góp lập cho họ một miếu thờ và từ ngày đó, đồi Dẻ bỗng trở nên linh thiêng.   Nhưng đến năm 1965 thì Ty Công an tỉnh Nam Sơn chọn nơi này để xây dựng trại giam. Nghe nói là chính ông Phó ty Công an tỉnh bổ nhát búa đầu tiên đập miếu thì chỉ ba ngày sau, ông phát bệnh đau đầu rồi hóa người quẫn trí. Nhưng rồi trại giam vẫn cứ được xây và quy mô ngày càng mở rộng hơn. Năm 1990, trại được đầu tư lớn, xây lại gần như toàn bộ. Trại có bốn khu giam. Khu A là dành cho bệnh xá của phạm nhân, nhà trẻ, nhà giam những người bị tâm thần hoặc bị bệnh truyền nhiễm. Khu B gồm hai dãy, có mười phòng giam là khu phạm nhân nữ. Khu C là khu lớn nhất, gồm sáu dãy nhà giam và có  ba mươi phòng giam, mỗi phòng diện tích khoảng hơn bảy chục mét. Khu này giam đủ loại tội phạm và với nhiều mức án khác nhau. Còn khu D là khu dành riêng cho những loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm và phạm nhân bị kết án tử hình đang chờ thi hành án. Khu D có mười buồng giam tử tù và mỗi buồng chỉ giam một người. Buồng giam tử tù rộng khoảng 6m2, trong đó có một bệ xi măng dài 2,2m rộng 1,1m là nơi cho tử tù nằm, góc trong cùng là hố xí và một vòi nước. Nhưng sau này, với lý do phải đảm bảo tuyệt đối an toàn cho tử tù được sống khỏe mạnh cho đến lúc ra trường bắn chịu sự trừng phạt của pháp luật, người ta quyết định bỏ vòi nước và thay vào đó là một xô nhựa loại 30 lít. Mùa hè thì cứ hai ngày tử tù được tắm một lần còn mùa đông, khi nào họ cần tắm thì báo và quản giáo cho phạm nhân tự giác mang nước vào cho tử tù tắm. Gần đây, khi mà trại giam xây được khu lò hơi để nấu ăn thì nước nóng đâm ra dư thừa và thế là khi nào trời rét quá, tử tù được "ưu tiên" tắm nước nóng. Lúc đầu thì ai cũng nghĩ đó là chuyện đơn giản. Nhưng rồi có lần một đoàn khách nước ngoài thuộc một tổ chức nhân đạo nào đó đi đến trại và họ vô cùng ngạc nhiên khi thấy tử tù được tắm nước nóng và thế là khi trở về, họ ca ngợi chính sách nhân đạo của trại hết lời. Hồi xây dựng, khi thiết kế có mười buồng giam tử tù, ông Chủ tịch tỉnh đã phê phán công an là dự báo tình hình tội phạm bằng con mắt bi quan. Cái lý của ông là xã hội ngày càng phát triển, càng văn minh, dân càng giàu thì tội phạm phải càng ít đi, vì thế chỉ cần xây bốn buồng tử tù là được. Ai ngờ đến cuối những năm 90 của thế kỷ XX, tội phạm cứ tăng vùn vụt và các buồng giam đều quá tải. Riêng tử tù, có lúc lên đến hơn hai chục, mà chủ yếu là buôn bán ma túy, vì thế nhiều khi  phải lấy các buồng giam khác để giam tử tù. Mỗi lần như vậy thì quản giáo đến khổ bởi họ phải thực hiện thêm bao nhiêu phần việc ngoài nhiệm vụ. *** Từ lâu, Đại tá Công an, nhà văn Nguyễn Như Phong đã được biết đến không chỉ là một cây bút tên tuổi với những phóng sự điều tra, mà còn là tác giả của nhiều tiểu thuyết và kịch bản phim nổi tiếng như “Chạy án” I và II, “Bí mật tam giác vàng”, “Cổ cồn trắng”, “Quỷ ám”, “Bí mật những cuộc đời”… từng tạo nên lượng độc giả và khán giả rất lớn. Anh cũng là một trong những nhà văn Công an có nhiều giải thưởng văn học và báo chí. “Tác phẩm đầu tay” lần này có cuộc trò chuyện cùng anh: + Tác phẩm đầu tay thường ghi một dấu ấn với người cầm bút, về cả cảm xúc lẫn hoàn cảnh ra đời. Với anh, ấn tượng về tác phẩm đầu tay đọng lại là gì? Nhà văn Nguyễn Như Phong (NV NNP): Thời gian đóng quân ở Lào, tôi đã viết truyện ngắn “Đại đội trưởng của tôi” và được đăng trên Báo Văn nghệ năm 1978. Đó là câu chuyện tôi hư cấu, nhưng thấp thoáng hình ảnh người đại đội trưởng của tôi khi đó. Vài tháng sau, tôi mới được cầm số báo có truyện ngắn đầu tay chuyển từ Việt Nam sang. Ngày ấy, Báo Văn nghệ là tòa lâu đài văn học của nước nhà nên được đăng truyện ngắn ở đây là điều danh giá với người sáng tác, đặc biệt là người mới cầm bút như tôi. Thế là anh em trong đơn vị đã gọi tôi là “nhà văn”. Tôi mới tập viết, gửi truyện ngắn về, nhưng bố tôi (nhà văn Hoài An) khi đó làm biên tập ở Báo Văn nghệ không đọc một truyện nào.  Ông đưa cho nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú và bảo: “Cô đọc, nếu thấy nó viết được thì khuyên nó tiếp tục, còn không thì thôi”. Mời các bạn đón đọc Bí Mật Của Những Cuộc Đời của tác giả Nguyễn Như Phong.
Về Nhà
“Về nhà” là cuốn sách quan trọng nhất, “là lý do để viết bộ sách này”. Không còn loay hoay với những câu hỏi như trong đời, đâu là việc chính, đâu là việc phụ, hay sống để làm gì, cuốn sách kể lại những nhân duyên đầu tiên – kỳ quặc, lạ lùng, đáng sợ hay vui vẻ - đã đưa chị trở lại căn nhà đích thực của mình – ngôi nhà bên trong thân và tâm, “nơi tất cả các ham muốn ghi nhận, ghi nhớ, ghi chép, suy luận, tư duy, kết nối, so sánh đều dừng bặt”. Cũng giống như hai cuốn trước, "Về nhà" được viết từ những ghi chép tỉ mỉ của tác giả về mọi việc xảy đến trong cuộc sống, và được chị tự biên tập cắt đi chỉ còn một nửa. *** Bộ sách gồm có Bất Hạnh Là Một Tài Sản: Một mình ở châu Âu Xuyên Mỹ Về Nhà *** Ngày quan trọng nhất Bắt đầu lại từ đâu? Đây là câu hỏi thường trực của mùa hè 2010 sau khi tôi từ Chicago chuyển tới California. Ly hôn là một cánh cửa mà ngay sau ly hôn, như người loanh quanh trên ngưỡng cửa, bạn không chắc bạn vừa bước ra hay vừa bước vào. Bạn thậm chí không chắc bạn bước ra khỏi cái gì và bước vào cái gì. Nhưng ngã ở đâu, bạn phải đứng lên ở đó. Một tuần sau khi tới San Jose, trong tình trạng tỉnh táo mà mê muội đặc thù của thời hậu ly hôn, tôi thuê nhà, nhận phòng làm việc, gặp đồng nghiệp mới, đăng ký ô tô, đổi bằng lái, mở tài khoản ngân hàng, làm tất cả giấy tờ để ổn định cuộc sống, rồi tất bật về Hà Nội giảng một khóa học ngắn về công tác xã hội với trẻ em và gia đình. Lớp học có gần trăm học viên, phần lớn là giảng viên các trường đại học hoặc cán bộ các bộ, sở, tổ chức phi chính phủ - đa phần hiểu biết hơn tôi về chính sách đối với trẻ em tại Việt Nam. Buổi đầu tiên lên lớp, tôi nhận thấy trong 98 học viên của lớp có một thành viên đặc biệt: một nhà sư mà các học viên gọi là “thầy Đạo.” Học viên trong lớp nói rằng thầy trụ trì một ngôi chùa ở ngoại thành Hà Nội. “Chùa ở trong làng cổ, đẹp lắm cô ạ. Hôm nào cô vào chơi.” Một buổi chiều, sau khi tan lớp, học viên rủ tôi đến thăm chùa. Từ trường, chúng tôi đi xe máy ra ngoại thành rồi men theo bờ sông qua một cây cầu xuống con đường đất nhỏ. Xe chạy trên đường đất hẹp dọc sông rất lâu, băng qua các làng cổ để tới một cổng sắt nhỏ dẫn vào ngôi chùa sát bờ sông. Bước qua cổng là khoảng sân rộng lát gạch đỏ có rất nhiều cây nhãn rợp bóng. Đập vào mắt tôi là hàng chục bức tượng Phật lớn bằng xi măng, mỗi tượng cao hơn hai mét, sắp hai hàng song song, chạy từ cổng về phía sau chùa. Khuôn mặt, trang phục, cách ngồi, và dáng tay của các tượng Phật này không hề giống các tượng tôi từng nhìn thấy. Phật ngồi trên tòa sen, đội mũ năm cánh, tóc dài dưới vành mũ, mắt dài nhìn hướng xuống dưới, bàn tay phải thì nắm lấy ngón trỏ của bàn tay trái ở phía trước ngực. Hàng tượng chạy ra sau chùa, ở đó là cánh đồng lớn xanh mướt và những bụi tre. Mặt trời lúc này bắt đầu xuống, hắt ánh nắng rạng rỡ lên hàng tượng Phật. Từ bé, tôi đã luôn cảm mến cảnh chùa nhưng gia đình tôi không theo tôn giáo nào nên một năm tôi chủ yếu đi chùa vào dịp Tết chứ chưa từng tham gia lễ bái, không biết các phong tục, nghi lễ, cũng chưa từng đọc kinh. Với tôi, đạo Phật chỉ lờ mờ trong các khái niệm phổ thông như Phật Bà Quán Âm, A Di Đà Phật, Tây phương cực lạc, Phật tổ Như Lai, nhân quả, hòa thượng, Niết Bàn mà tôi chủ yếu học từ... Tây du ký. Tôi đinh ninh rằng Phật (mà ở Việt Nam còn gọi là Bụt) cũng giống Chúa hay Allah - tức một đấng quyền năng mà người ta kêu cứu khi cùng đường. Tôi thậm chí đinh ninh “A Di Đà Phật” không phải tên một vị Phật mà là câu chào thông thường của người tu hành vì trong phim Tây du ký, rõ ràng Đường Tăng gặp ai cũng chắp tay cúi đầu “A mi thò phò!.” Lần đến chùa này là lần đầu tôi đến một ngôi chùa làng và cũng là lần đầu tôi nói chuyện trực tiếp với một nhà sư. Học viên lớp tôi đều gọi thầy Đạo là “thầy”, “sư phụ”, “cụ” hoặc “cụ chùa”, xưng con; thầy Đạo thì gọi mọi người là cô, chú, và xưng “thầy” hoặc “tôi”. Tôi không biết phải xưng thế nào nên cứ theo phép lịch sự và... dân chủ. “Thầy Đạo cho tôi hỏi, các tượng Phật kia là thế nào ạ?” “À, là Phật Tỳ Lô Giá Na cô giáo ạ.” Lần đầu tiên tôi nghe thấy tên Phật này. Tôi thấy nó vừa thú vị vừa quê quê với lối phiên âm tiếng Việt. “Thế sao tay của Phật lại thế kia ạ?” “À, đó là ấn trí quyền.” - thầy cười. Lại một từ nữa tôi không hiểu. Học viên trong lớp đã lấy ghế tập trung quanh tầng trệt của một nhà sàn gỗ hai tầng nằm giữa sân chùa. Nhiều học viên từng làm cán bộ đoàn lâu năm, thường xuyên phải hoạt động phong trào nên truyện cười, thơ văn, hát hò rất giỏi. Họ kể truyện cười, đọc thơ, vè, ứng khẩu tiếu lâm khiến tôi cười nghiêng ngả. Rồi chúng tôi nói chuyện gia đình, cuộc sống. Từ đầu khóa học đến giờ, tôi chỉ nói chuyện công việc với các học viên nhưng hôm nay, tôi cảm thấy có thể nói chuyện cuộc sống riêng của tôi với họ theo kiểu “người lớn với nhau.” “Chắc các bạn ở đây không biết chứ tôi...” - tôi mở đầu, định nói với họ rằng tôi đã từng kết hôn và bây giờ đã ly hôn. “Ôi cô ơi, mọi người biết hết rồi” - các học viên cười, cắt lời tôi - “Lý lịch của cô thế nào, chúng nó lên mạng điều tra hết rồi cô ạ.” “Thật à? Thế mà tôi cứ tưởng...” - tôi cố vớt vát chữa ngượng. “Cô cứ thoải mái đi, chúng em biết hết rồi.” Chúng tôi bắt đầu nói về tình yêu và hôn nhân. Các học viên hỏi tôi cảm thấy thế nào sau ly hôn. Tôi nói cũng tùy hôm; có hôm thì tôi thấy mình tự do, cuộc đời rộng mở trước mặt; có hôm thì tôi thấy cuộc đời tôi chỉ còn là một chuỗi ngày cầm cự với sự tuyệt vọng không đáy để chờ chết trong cô đơn. “Nhưng mà thực sự tôi không hề trách móc hay oán hận chồng cũ” - tôi nói. “Nếu thế thì có thể là cô chưa bao giờ yêu chồng cô” - một học viên nói - “Yêu thì nhất định phải đi kèm một ít ghen tuông, oán hận chứ ạ.” Tôi nói tôi không thấy thế. Thực sự không cảm thấy thế. Ly hôn chẳng liên quan gì đến tình yêu hay hận thù cả. Câu nói này của tôi lập tức làm nổ ra một cuộc tranh luận giữa các học viên về yêu - ghen - và hận. Nếu yêu mà không ghen thì có phải là yêu không? Yêu mà khi chia tay không hận đối phương một tí nào thì có phải là yêu không? Vô lý. Ớt nào mà ớt chẳng cay, gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng. Thế rồi, được, cứ cho là yêu có thể không ghen, thế chồng hay vợ nó đi ngoại tình thì sao? Có ghen không? Nếu nó say nắng, có tình cảm thật với đứa nào thì sao? Rồi nó ngu, nó không biết giữ gìn, nó có con với đứa khác, thì lúc đấy chia tay có hận không? Không bên nào chịu bên nào. Bên nào cũng có lý và có bằng chứng từ bản thân, từ “con bạn em”, từ “chị cùng cơ quan em”, từ “dì tớ”... Một học viên quay sang thầy Đạo: “Nhức đầu cụ nhỉ, như cụ sướng nhất, khỏi lắm chuyện phức tạp.” Thầy Đạo cười. “Có gì phức tạp đâu. Ở đời, người ta gặp nhau không ngoài chuyện ân oán; có ân thì báo ân, có oán thì báo oán. Vợ chồng cha mẹ anh em là duyên nợ, có duyên thì tụ, hết duyên thì tán. Cô giáo đã trả hết nợ hết duyên thì chia tay không thấy vướng mắc là bình thường mà.” Ha! Tôi chưa bao giờ nghĩ tôi với Sơn lấy nhau vì duyên số. Ừ thì người ta vẫn nói “Vợ chồng là duyên số” nhưng tôi luôn nghĩ đó là một câu dĩ hòa vi quý khi người ta không dùng điều gì khoa học hơn để giải thích được. Và thường chỉ áp dụng cho những người lười nghĩ, mê tín dị đoan, chứ không phải cho người như tôi. Duyên số thì, xin lỗi chứ, bố ai mà chứng minh được. Tôi như thế, Sơn như thế, gặp nhau như thế, tính cách như thế, vậy là chúng tôi lấy nhau. Đơn giản vậy thôi. Vậy mà sống với nhau thì không đơn giản chút nào. À nhưng không đơn giản cũng là vì tôi như thế... Sơn như thế... và chúng tôi là như thế, như thế... về mặt tính cách, xuất thân, hoàn cảnh, hành vi. Nghĩa là dĩ nhiên có thể giải thích được bằng các mô hình tâm-sinh-lý xã hội chứ không phải một thứ duyên số định sẵn nào tồn tại trước cả khi chúng tôi biết nhau. Nhưng mà biết đâu có duyên số thật nhỉ? Lẽ nào những đau khổ tôi phải trải qua là do tôi đã nợ gì Sơn và bây giờ phải trả? Tôi đã làm gì sai? Trong đời này, tôi có thể không hổ thẹn mà nói rằng tuy tôi không hoàn hảo gì nhưng quả thực là tôi ít làm điều ác, cũng ít nghĩ điều ác hay nói điều ác - điều ấy thì tôi tự biết. Với Sơn cũng như với những người quanh mình, tôi có thể đếm chưa hết một bàn tay những lần mà tôi nổi giận. Thế thì có kiếp trước chăng? Tôi đã nợ gì Sơn từ kiếp trước chăng? Từ bé đến giờ, không ít lần những người gặp tôi lần đầu (như ở sân bay) cứ tự động “phán” rằng tôi có “quý nhân phù trợ”, có “năng lực tâm linh đặc biệt”, có “nhiều phước báu”, có “tiên cốt” với “đạo cốt”, còn tôi thì luôn nghĩ các “thánh phán” này muốn phỉnh tôi lấy tiền hoặc bị tẩu hỏa nhập ma do đọc quá nhiều sách huyền thuật. Nếu quả có kiếp trước tức là sống và chết và tất cả những gì chúng ta làm giữa hai mốc đó đều phải được xem xét lại. Cũng tức là có cái lớn hơn thế giới vật chất mà ta thấy bằng mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, này chăng? Cũng tức là chùa chiền, Phật, Chúa thánh thần không phải chuyện mê tín dị đoan, thậm chí không phải một liệu pháp an tâm, một thứ tín ngưỡng hay tập tục văn hóa mà ẩn chứa một sự thật tôi chưa từng biết đến? Có thể nào những hủ tục, tín điều, lễ nhạc ma mị mà người ta phủ lên đạo Phật đã làm người ta hiểu nhầm một hệ thống giải thích thế giới rốt ráo và triệt để? Ít nhất thì, ngay cả khi không hiểu gì về đạo Phật, tôi vẫn thấy khái niệm nhân quả có lý hơn việc cho rằng có một đấng Chúa Trời nặn ta ra từ đất sét và định đoạt cuộc đời ta. Rút cục là thế nào đây? “Trông cô giáo cứ ngơ ngơ ngác ngác buồn cười quá” - thầy Đạo cười - “Thôi ăn cơm đi các cô các chú.” Chúng tôi ăn cơm chay. Đây cũng là lần đầu tiên tôi ăn cơm chay chùa. Tôi không ăn hết được cả đĩa lớn mà học viên lấy nên bỏ lại gần nửa. “Cô chưa ăn cơm chay bao giờ phải không cô?” - một học viên thì thầm với tôi sau khi bữa cơm được dọn đi. “Chưa.” “Ăn cơm chay ở chùa không được bỏ thừa đâu cô ạ” - học viên cười - “một hạt cơm chùa là 72 công đức đấy.” “Thế à? Chết, tôi không biết.” Quá nhiều thứ ở Việt Nam, thuộc về văn hóa bình dân của người Việt Nam mà tôi không hề biết. Lần đầu tiên tôi cảm nhận rõ mình là người Việt, sinh ra và lớn lên ở Việt Nam mà chẳng hiểu gì về lịch sử, văn hóa, tâm lý đích thực của dân tộc mình, về hành vi của những người gọi là “đồng bào mình”. Tức là hiểu họ như họ đang-là chứ không phải như tôi nghĩ hoặc muốn họ là. Tôi thực sự đã lớn lên, đã tuần tự đi học đến hết đại học, rồi ở Mỹ suốt mười năm qua; chủ yếu chỉ có hiểu biết giáo khoa, bó hẹp trong thế giới gồm toàn trí thức đô thị, trong khi đến hơn bảy mươi phần trăm người Việt Nam vẫn ở nông thôn và vận hành một cách có ý thức hoặc vô thức trên các nền tảng văn hóa nông thôn này. Sau bữa ăn, chúng tôi uống trà rồi đi dạo tản mát quanh chùa. Mặt trời đã xuống, gió thổi nhẹ, không gian vẳng tiếng chim và tiếng gà lên chuồng. Rồi trời bắt đầu tối. Thầy Đạo bảo một chú tiểu mở cửa “Tổ Đường” cho chúng tôi vào ngắm “xá lợi”. Lại một từ nữa lần đầu tiên tôi được nghe. “Xá lợi là gì ạ?” “À, khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn thì kim thân của Ngài được các đệ tử hỏa thiêu; sau khi thiêu thì còn lại các hạt xá lợi này. Mỗi bộ phận trên nhục thân của Phật sẽ để lại các loại xá lợi khác nhau; có xá lợi răng, xá lợi tóc, xá lợi xương... mỗi thứ một màu. Rồi còn có xá lợi của các Bồ Tát, thánh tăng, các tổ. Nếu mình tu tập tinh tiến, giữ gìn giới luật nghiêm cẩn, thì xá lợi sẽ tự sinh sôi...” “Cái gì ạ?” “Cô giáo không tin phải không?” - thầy Đạo cười - “người nào thờ xá lợi, kể cả tu sĩ hay cư sĩ tại gia, mà nghiêm trì giới luật, tinh tiến tu hành thì xá lợi từ một viên sẽ nhân hai, nhân bốn, nở đầy ra. Còn nếu không tu hành thì xá lợi sẽ tiêu dần, tiêu dần, rồi biến mất... vi diệu không?” Vâng, “vi diệu” ạ - tôi nghĩ. Nhưng nhất định phải có một cách giải thích khoa học nào đó. Có thể các nhà sư quen ăn một số thực phẩm nhiều canxi hay chất gì đó nên hóa chất đọng lại trong cơ thể thành “xá lợi” giống như sỏi thận. Hoặc Đức Phật là người ở Ấn Độ, xứ đó nóng, thực phẩm dễ hỏng, mà ngày xưa không có tủ lạnh nên người ta quen bảo quản thực phẩm bằng cách tẩm ướp trong các loại gia vị nóng, cay thì có thể lâu dần các vi chất đọng lại và nóng chảy trong quá trình hỏa thiêu. Khi các viên “xá lợi” này gặp xúc tác trong môi trường bình thường thì giãn nở hoặc co lại. Chứ một thứ vô tri vô giác làm sao có thể tự sinh sôi nảy nở? “Chà, không có khoa học thì người ta dễ mê tín thật” - tôi thầm nghĩ - “Thế kỷ 21 rồi mà vẫn còn tin rằng sấm chớp mây mưa là do thần sấm thần sét tạo ra; giàu nghèo, sướng khổ do ai đó ban ơn cho mình. Vậy nên Việt Nam cứ nghèo mãi.” Chúng tôi ở lại uống trà, nói chuyện với thầy Đạo đến khuya mới về. Buổi tối, chùa lộng gió, ếch nhái, côn trùng râm ran. Khung cảnh làng quê thanh bình này đã hàng chục năm rồi tôi không thấy. Từ chùa về, tôi ghi trong nhật ký của mình: “Đây có thể là một trong những ngày quan trọng nhất của đời tôi”. Một cách lờ mờ, tôi nghĩ rằng tôi hoàn toàn mất gốc, tôi không hiểu gì về văn hóa Việt Nam, nhất là cái gốc văn hóa nông thôn, văn hóa tâm linh ăn sâu vào người Việt. Tôi lại cũng nghĩ giờ tôi đã hoàn thành việc học hành của đời mình, nếu tôi muốn trở lại Việt Nam làm công tác xã hội, thì không có cách nào khác là tôi phải hiểu rõ cái làm nên tâm lý, hành vi các cá thể cũng như tâm lý tập thể của người Việt Nam. Nhưng hóa ra tâm thức của chúng ta thường biết những điều mà lý trí có thể phải mất một thời gian dài mới theo kịp. Không lâu sau buổi đến chùa này, tôi trở lại San Jose và mọi việc trôi dần trong những lo toan hằng ngày, cho đến khi một việc xảy ra với tôi: tôi gặp ma. Mời các bạn đón đọc Về Nhà của tác giả Phan Việt.
Trịnh Công Sơn Và Cây Đàn Lya Của Hoàng Tử Bé
Là cuốn sách viềt về Trịnh Công Sơn, do một người bạn từ thời thiếu niên của nhạc sĩ họ Trịnh viết. Thông qua tập sách, người đọc sẽ được biết về Trịnh Công Sơn tuổi ấu thơ, những tư tưởng ảnh hưởng đến quan niệm triết học của nhạc sĩ họ Trịnh, tuổi thanh niên với nghề gõ đầu trẻ ở Bảo Lộc và những năm tháng trốn lính lao đao hết Huế đến Sài Gòn, những nghi ngại đến từ hai phía và con người Trịnh Công Sơn trong những năm tháng hòa bình. Cuốn sách được viết dưới nhiều thể loại văn học như truyện ngắn, tản văn, hồi ức, chuyện kể… hình thành nên một tác phẩm về một con người – con người Trịnh Công Sơn. *** Cuốn sách được chia thành ba chương, như một cuốn phim quay chậm từng khoảnh khắc trong cuộc đời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, từ ấu thơ cho đến những lối rẽ trong đời, từ những bài tình ca đến những ca khúc phản chiến. Trong chương đầu Dấu chân địa đàng, những ngày tháng còn thơ ấu, những ảnh hưởng đến Trịnh Công Sơn được miêu tả chân thực và sinh động. Âm nhạc của ông được nuôi dưỡng từ những nỗi buồn, từ những xúc cảm về một miền xa xăm, từ tình yêu của mẹ và từ tư tưởng Phật Giáo. “...thế giới Trịnh Công Sơn là một vòng khép kín, giống như một lâu đài bằng đá ngày xưa, tĩnh mịch trong rừng, trong đó bằng sự nhạy cảm của một nghệ sĩ, Sơn thu nhận mọi thông tin về kiếp người và Sơn lơ đãng ngồi ký tên vào từng viên đá. Gần như quán xuyến tất cả, âm nhạc của Trịnh Công Sơn diễn ra trong cung la thứ, chuyển tải hết cả biến cố của một đời người.” Chương 2 Tuổi đá buồn đưa người đọc đến những ngày hoạt động âm nhạc sôi nổi của Trịnh Công Sơn, từ những ngày còn đi học đến khi có những sáng tác đầu tiên cho thiếu nhi, và những thay đổi thời đại khiến âm nhạc của ông trở thành tiếng vang giữa bối cảnh hiện sinh của chiến tranh. Rồi ông tìm thấy Khánh Ly, rồi ông chọn viết tình ca, trở về với chất thơ, chất Huế. “Trịnh Công Sơn bắt đầu viết nhạc phản chiến cùng lúc anh phải tiếp cận với cuộc chiến qua thời gian sống ở B’lao. Từ đó trở đi, tư tưởng phản chiến trở thành một ám ảnh thường trực của tâm hồn anh, một nỗi đau đớn trĩu nặng, héo mòn mà không do một căn bệnh nào hết. Từ đấy, anh trở thành nhạc sĩ phản chiến lừng danh và duy nhất của Việt Nam.” Trong những ngày viết nhạc phản chiến, Trịnh Công Sơn bị sự truy lùng gay gắt của quân đội và chính quyền Sài Gòn. Những bản nhạc ông viết cho ca sĩ Khánh Ly hát dần bị tịch thu và việc in ấn cũng trở nên khó khăn. Thế nhưng, âm nhạc của ông vẫn đến được với công chúng, vẫn gây chấn động và lóe lên thứ ánh sáng mạnh mẽ cho con người trong những ngày chiến tranh loạn lạc. “Thời kì dạy học ở B’lao, Trịnh Công Sơn đã cho ra đời hàng loạt tác phẩm mang tên Phúc âm buồn, Chiều một mình qua phố, Gia tài của mẹ, Người hát bài quê hương, Người già em bé, Người con gái Việt Nam da vàng. Có thể nói, những ngày sống ở B’lao đã đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời sáng tác của Trịnh Công Sơn, đẩy anh chìm sâu vào tận đáy máu lửa của lịch sử, để trở thành nhạc sĩ phản chiến gắn liền với số phận của dân tộc.” Bên cạnh nhạc phản chiến, Trịnh Công Sơn dành thời gian còn lại cho tình ca. “Ở đâu có sự chân thành và tính giản dị thì ở đó có âm nhạc đích thực. Phải thừa nhận rằng, nhạc điệu của Trịnh Công Sơn không có những biến tấu phức tạp, nhưng cực kỳ chân thành và giản dị, dễ đến với mọi người. Những bài hát như Diễm xưa, Hạ trắng, Biển nhớ, Huyền thoại mẹ v.v… đã chứng tỏ phong cách riêng củaTrịnh Công Sơn.” Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường dành nhiều lời khen cho ca từ đậm chất thơ của Trịnh Công Sơn. “Chính ca từ của Trịnh Công Sơn mới khiến người ta lạ lùng, và dành cho Trịnh Công Sơn một vị trí đặc biệt trong nền âm nhạc Việt Nam, một vị trí dành cho nhà thơ, giữa những nhà thơ hàng đầu của Việt Nam thời tiền chiến, cả bây giờ cũng thế.” Chương 3 Để gió cuốn đi là những hoài niệm, ưu tư của ông về âm nhạc, về những mối tình. “Chúng ta hài lòng khi thấy Trịnh Công Sơn đã giành được trong tay định mệnh, cái mà người nghệ sĩ nào cũng thèm muốn: Sự bất tử. Trịnh Công Sơn không có nhà cửa nguy nga, của cải vật chất và không có vợ con riêng. Nhưng Trịnh Công Sơn có một cái tên để lưu truyền cho hậu thế. Và tất cả đó để làm gì? Cũng theo lời bài hát của Sơn, Để gió cuốn đi. “Khát vọng lưu danh là một ý niệm rỗng không về vật chất, và Trịnh Công Sơn đã sống đúng với ý niệm ấy.” Cùng với Trịnh Công Sơn và cây đàn lyre của hoàng tử bé, dịp này NXB Trẻ còn tái bản nhiều tác phẩm khác do chính cố nhạc sĩ viết như: Tôi là ai, là ai; Thư tình gửi một người. Mời các bạn đón đọc Trịnh Công Sơn Và Cây Đàn Lya Của Hoàng Tử Bé của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Cá Tắm Nắng
Đọc bút ký Cá Tắm Nắng, gặp tấm chân tình ấm áp của một tấm lòng tha thiết mến yêu thiên nhiên. Một làn hương thoảng đưa, một hồi chuông ngân vọng, đôi tiếng chim thánh thót, bóng đêm tĩnh lặng trên đất chết,... tràn đầy tình cảm thân thương. Hòn Đỏ là một cảnh đẹp tâm linh. Xóm Nước Nóng là một làng quê khốn khó. Chùa Linh Sơn như một dáng cổ tự huyền bí xa xưa. Cảnh trí Nha Trang sắc nét tràn đầy tình yêu quê hương. Đi bách bộ theo bãi biển, ngắm biển trời, đón gió lộng trên cầu Trần Phú, chiêm ngưỡng Tháp bà Thiên Y A Na trong buổi bình minh, lúc ban trưa chói chang nång hồng hay thấp thoáng dưới ánh chiều tà. Nhìn từ trên cầu Trần Phú, cửa sông Cái lặng lờ mặt nước hay chập chờn con sóng khi trieu dâng, hòa cùng cảnh thuyền tấp nập về trên cửa sông. Ngồi trên cát trång, ngåm vịnh Nha Trang, ước ao gặp cá tắm nắng, nhìn bướm biển giỡn sóng. Lòng đang lâng lâng bỗng nghe vẳng đến tiếng chuông chùa ngân nga buổi rạng đông. Tiếng chuông ngân thánh thót trên vùng biển rộng lặng yên. Sóng chỉ rung rinh nhẹ như xao động, để tiếp nối nâng đưa tiếng chuông lan xa. Bầu trời trong xanh cao rộng như phảng phất mùi hương trầm từ núi Bà thoảng đến. Tự nhiên lòng thanh tịnh, hồn an nhiên. Hương và sắc của trời đất Khánh Hòa Nha Trang nồng thắm thân thương biết là dường nào! Khởi đầu tác phẩm là một cảnh cá tắm nắng vừa ngộ nghĩnh vừa ký thú. Kết thúc là cảnh chim hót trên một hòn đảo mà thuở trước chỉ toàn đá và nắng còn bây giờ tràn ngập bóng cây xanh, thanh thản một ngôi chùa yên tĩnh đầy tiếng chim ca. Chúng tôi đã từng được chung hưởng những giây phút đăc biệt kỳ thú trước cảnh tượng thiên nhiên trong tập bút ký này. Nha Trang ngày rằm tháng tư năm Nhâm Thìn. (2012) TRẦN THỊ PHONG HƯƠNG *** QUÁCH GIAO Bút hiệu: QUÁCH TÙNG PHONG Sinh năm 1934 Con nhà thơ Quách Tấn Theo học tại các trường Đại hoc Y Dược, Luật khoa và Văn khoa tại Sài Gòn. Năm 1955 khi còn là học sinh trường trung học tư thục Kim Yến ở Nha Trang, Quách Giao đã tham gia đăng thơ trên tờ Gió Mới với biệt hiệu là Vương Kiều Thu. Các bài thơ đăng trên báo Gió Mới số 2, 4, 6 là Hai Em Bé Mồ Côi (Tình Chị) Ông Lão Quét Lá Khuya, Hai Chiều Xa Cách. Tại Huế, Q. Giao có thơ đăng trên Tạp Chí Lành Mạnh. Ở Sài Gòn cộng tác với báo Bách Khoa, Văn Học đến năm 1975. Năm 1988 Quách Giao cùng với phụ thân là nhà thơ Quách Tấn viết và xuất bản tập lịch sử Nhà Tây Sơn. Các sách viết chung với thân phụ ông còn có: Võ Nhân Bình Định (nxb Trẻ năm 2001) và một số lớn các tác phẩm khác. Hiện cư ngụ tại Nha Trang, Việt Nam Mời các bạn đón đọc Cá Tắm Nắng của tác giả Quách Giao.