Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tiếng Sóng - Yukio Mishima

Yukio Mishima (1925-1970) được đánh giá là một trong những tác giả quan trọng nhất trong nền văn học Nhật Bản thế kỷ 20. Trước tác của ông bao gồm 40 cuốn tiểu thuyết, 20 tuyển tập truyện ngắn và khoảng vài chục vở kịch cùng với một số bài thơ. Ông là nhà văn 3 lần được coi là ứng cử viên sáng giá cho giải Nobel Văn học. Những tác phẩm xuất sắc của Mishima có The Temple of the Golden Pavilion (Ngôi đình tạ bằng vàng -1956), bộ bốn tác phẩm The Sea of Fertility (Biển cả muôn màu - 1965-70)... Mishima sinh năm 1925, con trai của một quan chức chính phủ. Tên thật của ông là Kimitaka Hiraoka. Bố ông vốn không muốn con trai mình đi theo nghiệp văn chương chữ nghĩa nên ông phải đổi tên để viết trộm. Hiraoka được nuôi nấng và trưởng thành dưới sự giám sát chặt chẽ của bà nội. Trong thế chiến II, nhà văn được miễn nghĩa vụ quân sự, ông làm việc trong một nhà máy. Đây là điều khiến Mishima day dứt suốt cuộc đời. Nhà văn cho rằng mình đã sống sót một cách đáng xấu hổ trong khi rất nhiều người khác phải đổ máu ngoài chiến trường. Sau chiến tranh thế giới II, Mishima học luật tại Đại học Hoàng gia Tokyo. Trước khi dấn thân vào sự nghiệp văn chương, ông làm việc một năm trong Bộ Tài chính. Năm 1946, ông gặp gỡ Kawabata Yasunari, người sau đó đã giới thiệu những truyện ngắn đầu tay của ông với một vài tạp chí văn học uy tín. Confessions of a Mask (Lời thú nhận của người đeo mặt nạ - 1949) là tác phẩm đầu tiên ghi lại dấu ấn tên tuổi của Mishima trên văn đàn. Cuốn sách chính là một lối thoát giúp nhà văn giải tỏa những cảm xúc của chính mình khi phát hiện bản thân là người đồng tính. Trong truyện, nhân vật người kể chuyện thú nhận, ông đã phải tự trang bị cho mình một chiếc mặt nạ "bình thường" để tránh sự xoi mói của xã hội. Mishima chịu ảnh hưởng lớn của chủ nghĩa yêu nước trung quân truyền thống và tinh thần võ sĩ đạo samurai của Nhật Bản, tuy ông vẫn diện đồ tây và ở nhà tây. Năm 1968, ông thành lập Hiệp hội Shield (Tate no Kai - Hội lá chắn) - một tổ chức bán quân sự tập hợp khoảng 100 thanh niên trai tráng với mục đích chấn hưng tinh thần võ sĩ đạo Bushido, tán dương chủ nghĩa quốc gia và bảo vệ Hoàng đế Nhật. Không biết do đâu, Hội lá chắn cũng được quyền tham gia huấn luyện cùng quân đội Nhật. Ngày 25/11/1970, ông cùng những người bạn bao vây Cục Phòng vệ Nhật Bản ở Tokyo, bắt giam Tướng Kanetoshi Mashita và xúi giục quân sĩ tiến hành chính biến. Lời thỉnh cầu này của ông gặp sự phản ứng dữ dội của quân đội. Thất bại, tuân thủ tinh thần võ sĩ đạo, ngày 25/11/1970, ông đã tự sát bằng cách tự mổ bụng moi gan theo nghi thức seppuku. Trước khi chết nhà văn còn hô to: "Hoàng đế muôn năm". Cũng trong ngày cuối cùng của cuộc đời mình, ông giao nốt cho nhà xuất bản những trang viết còn lại của bộ cuốn tiểu thuyết The Sea of Fertility. Cái chết của Mishima được tác giả Christopher Ross miêu tả trong cuốn sách Mishima's Sword (Lưỡi kiếm của Mishima) như sau: "Lưỡi kiếm đã ngập sâu vào khoang bụng cỡ 10 cm, ông ấn lưỡi kiếm chầm chậm từ trái qua phải, từ trên xuống dưới, mở toác từng lớp da. Máu tràn ra lênh láng trên sàn nhà. Một cuộn nội tạng màu hồng hồng xam xám nhờ nhờ thòi ra từ vết thương. Mùi tanh nồng xông lên khắp căn phòng". Không thanh lịch, không tao nhã, nghi thức chết của Mishima cũng không hề khoa trương. Nhà văn từng gợi ý cho một nhà báo là nên quay lại cảnh ông tự sát. Nhưng họ cũng không chuẩn bị gì trước để đón nhận sự kiện này. Khoảng 2 giờ trước khi tiến hành nghi thức tự sát, ông gọi điện cho hai phóng viên và úp mở với họ rằng: "Có chuyện sắp sửa xảy ra". Cái chết của nhà văn lúc bấy giờ đã gây nên một chấn động dữ dội không chỉ với Nhật Bản mà đặc biệt là đối với người phương Tây. Nhiều học giả phương Tây đã đến Nhật Bản để tìm hiểu ý nghĩa cái chết của ông: Liệu đó là một bức thông điệp chính trị của nhà văn hay là một tác phẩm nghệ thuật cuối cùng của ông theo tinh thần võ sĩ đạo. Cho đến nay, hầu như họ không có được câu trả lời như mong đợi. Người dân Nhật hiện đại ngày nay coi cái chết phi thường của nhà văn là vô nghĩa, là "ngớ ngẩn" và "không đáng". Tác giả của cuốn sách Mishima's Sword - Christopher Ross - kể: Trong một lần Ross đang ngồi đọc các tác phẩm của Mishima trong một hàng cà phê sách, một nhân viên cửa hàng bảo ông: "Mishima là quá khứ, không phải là hiện tại và càng không phải là tương lai". Dẫu vậy, Yukio Mishima vẫn là một tên tuổi quan trọng trên văn đàn Nhật thế kỷ 20. *** Bây giờ thì Shinji đã có thể công nhiên đến chơi gia đình Miyata. Một tối, sau khi đi đánh cá trở về, anh đứng trước cổng réo tên Hatsue mà gọi. Anh chàng mặc cái quần mới giặt, chiếc áo thể thao trắng bong, mỗi tay xách lủng lẳng một con cá điêu to tướng. Hatsue đã sửa soạn sẵn sàng và đang chờ đợi anh chàng. Hai người đã hẹn cùng nhau tới thần xã Yashiro dâng lễ tạ rồi đến ngọn hải đăng báo tin đính hôn. Bóng chiều tăm tối trong căn phòng nền đất chợt rực sáng hẳn lên khi Hatsue bước ra. Nàng mặc tấm áo mỏng mùa hè - may bằng thứ vải mua của ông lão bán hàng rong ngày nọ - in hình lá triêu nhan trên nền trắng - màu vải trắng tinh đến nỗi ban đêm cũng nhìn thấy nổi bật. Dựa lưng vào cổng, Shinji đứng chờ, thế nhưng lúc Hatsue từ trong nhà đi ra, anh chàng lại vội vã cúi mặt nhìn xuống, đưa đẩy một bàn chân đang đi guốc làm như thể đang xua đuổi côn trùng và lẩm bẩm: “Muỗi ghê quá!” “Thế hả?” Hai cô cậu cùng sóng vai đi lên những bậc thềm đá dẫn tới thần xã Yashiro. Họ có thể chạy thẳng một mạch lên tới nơi thực nhẹ nhàng nhưng lòng tràn trề hạnh phúc, họ chậm rãi bước lên từng bậc như để thích thú, say sưa tận hưởng niềm sung sướng của từng bước chân đi. Lên tới bậc thềm thứ một trăm, chàng và nàng dừng lại như tiếc rẻ không muốn lên ngay tới đỉnh. Chàng muốn cầm tay nàng nhưng hai tay vướng hai con cá điêu nên lại đành thôi. Cả thiên nhiên cũng ban ân sủng cho chàng và nàng. Khi lên tới đỉnh rồi, chàng và nàng quay nhìn chung quanh rồi đưa mắt về phía vịnh Ise. Bầu trời ban đêm đầy những sao nhưng chỉ có một vài áng mây thấp vắt ngang chân trời phía bán đảo Chita; những ánh chớp im lìm thỉnh thoảng lại lóe lên, ngoằn ngoèo phía đó. Ngay cả tiếng sóng cũng không ồn ào mà chỉ lùa tới đều đều, êm ả như thể mặt biển đang thở nhẹ trong giấc ngủ ngon lành. Đi qua khu rừng thông nhỏ, chàng và nàng tới ngôi thần xã, ghé vào lễ tạ. Chàng thanh niên cảm thấy kiêu hãnh ngập lòng khi nghe tiếng đôi bàn tay người yêu chắp lại, đập vào nhau vang vang ròn rã, ngân xa. Thế rồi chàng cũng chắp tay vái lạy. Hatsue đã cúi đầu lễ bái và đang khấn khứa thì thầm. Nổi bật trên cổ áo trắng bong, phần thịt da sau gáy nàng trông tuy xạm nắng không được trắng trẻo nhưng lại làm Shinji say sưa ngây ngất hơn là bất cứ cái cần cổ nào trắng nhất trên đời. Một lần nữa, chàng thanh niên lại nhắc nhở lại cho lòng mình niềm hạnh phúc tràn trề mà thần linh đã thực sự ban cho theo đúng những lời mình cầu nguyện. Chàng và nàng nguyện cầu, khấn vái một lúc lâu nữa. Vì chưa bao giờ nghi ngờ sự gia hộ của thần linh nên hai người có thể cảm thấy cả sự gia hộ ấy bao trùm quanh khắp thân mình. Phòng việc của thần xã thắp đèn sáng choang. Shinji cất tiếng gọi và ông thủ từ liền thò mặt ra bên khung cửa sổ. Shinji trình bày qua loa mấy nét chính của câu chuyện nhưng vì anh chàng nói năng có vẻ mơ hồ nên trong một lúc, ông thủ từ chẳng hiểu rõ đầu đuôi hai cô cậu định kéo nhau lên đây làm gì. Nhưng cuối cùng nghe mãi cũng hiểu nhất là khi Shinji đưa ông con cá điêu bảo để làm lễ vật dâng lên thần linh. Nhận món quà biếu từ biển cả đưa lên, ông thủ từ còn được nhắc nhở là ông sẽ được mời dự lễ cưới của chàng và nàng; ông tỏ lời chúc tụng nồng nhiệt cho cả hai cô cậu. Vượt con đường mòn qua khu rừng thông nhỏ phía sau ngôi thần xã, chàng và nàng lại đắm mình trong hương đêm mát dịu êm đềm. Tuy mặt trời đã lặn từ lâu nhưng những con ve sầu hãy còn kêu ra rả. Con đường đất nhỏ dẫn lên ngọn hải đăng dốc tuột thực là nguy hiểm, lúc này một tay rảnh rang không còn vướng mắc gì nữa, Shinji mới nắm tay Hatsue trong tay mình và nói: “Anh đang tính sẽ học thi lấy bằng đệ nhất hàng hải phó quan. Mình có thể học để lấy bằng khi trên hai mươi tuổi, Em ạ!” “Ồ! Như vậy thì hay tuyệt!” “Đến lúc lấy được bằng, anh nghĩ chúng mình cưới nhau là vừa đẹp”. Hatsue không đáp, chỉ e thẹn mỉm cười. Họ đi vòng theo Dốc Bà tới nhà ông trưởng đài hải đăng. Chàng thanh niên lên tiếng chào hỏi như thường lệ ngay khi vừa tới khung cửa kính - nơi họ có thể nhìn thấy bóng bà chủ nhà đi qua đi lại trong lúc làm cơm. Bà chủ nhà mở cửa. Đứng trong tối nhìn ra bà thấy chàng thanh niên và vị hôn thê của anh chàng đang đứng dùng dằng nửa vào, nửa không. “Ồ! hai cô cậu đây rồi, vào nhà đi!” Bà vợ lớn tiếng gọi ra rồi đưa cả hai tay đón nhận con cá to mà Shinji chìa về phía mình. Rồi bà gọi vói vào trong nhà: “Bố nó ơi! Chú Shinji lại đem cho mình con cá điêu đẹp quá là đẹp!” Đang ngồi nghỉ thoải mái trong phòng, ông trưởng đài hải đăng nói vọng ra nhưng vẫn chưa đứng dậy: “Cảm ơn vô cùng. Và lần này, có lời chúc mừng nữa đấy. Hãy vào nhà chơi, vào nhà chơi một lúc đã nào”. Bà trưởng đài nói thêm: “Vào một chút đã nào! Ngày mai em Chiyoko nó cũng về thăm nhà nữa đấy!” Chàng thanh niên chẳng hề hay biết chút gì về những cảm động mình đã khơi dậy trong lòng Chiyoko cùng những khắc khoải nội tâm mà nàng đã chịu đựng vì mình, nên anh đã nghe câu nói đột ngột của bà mẹ mà cũng chẳng thấy một ý nghĩa gì đặc biệt. Vì bị giữ lại ăn cơm tối, chàng và nàng đã nấn ná thêm tới hơn một tiếng đồng hồ. Sau đó ông trưởng đài hải đăng lại quyết định dẫn cả hai cô cậu đi một vòng xem ngôi hải đăng trước khi ra về. Vì mới trở về đảo nên Hatsue chưa được thấy bên trong ngôi hải đăng một lần nào cả. Thoạt tiên, ông trưởng đài dẫn họ lên xem căn phòng trực nho nhỏ. Muốn đi từ khu nhà ở tới đây, họ phải đi men theo mảnh vườn rau nhỏ bé, nơi vừa mới gieo hạt thìa là hôm trước, rồi trèo lên những bậc thềm xi-măng. Trên cao là ngọn hải đăng dựa lưng vào vách núi và cái phòng trực ngay mép vách đá dốc tuột, dựng đứng, đâm thẳng xuống mặt biển. Ánh ngọn đèn pha trên ngôi hải đăng trông giống như một cột sương mù óng ánh, quét từ bên phải sang bên trái qua gồi phòng trực, phía trông ra ngoài biển. Người gác mở cửa phòng trực, bật đèn lên. Ba người trông thấy những cây thước tam giác định quy treo lủng lẳng trên khung cửa sổ, cái bàn giấy thu xếp hết sức ngăn nắp với tấm bảng ghi tàu bè qua lại và cái kính viễn vọng đặt trên một cái giá ba chân quay mặt về phía các cửa sổ. Ông trưởng đài hải đăng mở một cửa sổ, điều chỉnh viễn vọng kính rồi hạ xuống cho vừa tầm mắt Hatsue. Nàng nhìn qua kính viễn vọng, dừng lại một lúc, lấy tay áo lau ống kính rồi nhìn lại lần nữa, buột một tiếng kêu vui thích: “Ôi, đẹp quá chừng!” Thế rồi trong khi Hatsue xoay ống kính về các đốm sáng ở nhiều phương giác khác nhau, Shinji dùng ngay đôi mắt thị lực mạnh mẽ, sắc bén của mình mà nhìn theo và giải thích cho nàng nghe. Dán chặt mắt vào kính viễn vọng, Hatsue trước tiên chỉ về hàng chục điểm sáng lốm đốm trên mặt biển về phía Đông nam: Những điểm sáng ấy ư? Đó là ánh đèn trên ngọn đèn trên mặt biển đều tìm thấy một hình ảnh chiếu ứng trong vô số các vì sao ở một nơi nào đó trên bầu trời. Ngay trước mặt là ánh đèn từ ngọn hải đăng trên mỏm Irako. Phía sau ngọn hải đăng ấy là ánh đèn rải rác khắp thành phố trên mỏm Irako và ở phía trái những ánh đèn trên đảo Shino lấp lánh tỏ mờ. Thật xa về phía trái, họ có thể nhìn thấy ngọn hải đăng trên mũi Noma tại bán đảo Chita. Bên phải ngọn hải đăng này là những chùm ánh sáng trên hải cảng Toyohama - ở ngay giữa là ngọn đèn trên cái đê ngăn sóng của hải cảng. Và xa hơn, chếch sang bên phải là ngọn đăng đài hàng không lung linh nhấp nháy trên đỉnh núi Oyama. Hatsue một lần nữa lại buột ra một tiếng kêu thích thú. Một chiếc tầu chở hàng vượt đại dương to lớn vừa đi vào tầm kính viễn vọng. Đối với mắt thường thực khó mà nhìn ra, tuy nhiên trong lúc con tầu hiên ngang tiến vào tầm viễn vọng kính, thì nó ghi vào ống kính một ảnh tượng uyển chuyển, đẹp đẽ, nổi bật đến nỗi chàng thanh niên và nàng thiếu nữ phải thay phiên nhau ghé mắt vào ống kính mà ngắm nhìn. Hình như đó là một chiếc tầu chở cả hàng hóa lẫn hành khách trọng tải đến hai ba ngàn tấn. Trong một căn phòng bên ngoài boong đi dạo mát họ có thể nhìn thấy rõ ràng nhiều chiếc bàn trải khăn trắng và một số ghế ngồi. Không thấy một bóng người ở đó. Căn phòng có vẻ là phòng ăn và trong lúc họ đang ngắm nghía bức vách lát gạch hoa men trắng thì bất thình lình, một người bồi bàn mặc quần áo trắng từ bên phải bước vào rồi đi về phía những khung cửa sổ. Trong khoảnh khắc, con tầu thắp đèn xanh ở đằng mũi cũng như đằng đuôi, vượt ra ngoài tầm viễn vọng kính rồi lướt vào thủy đạo Irako đi ra Thái Bình Dương. ... Mời các bạn đón đọc Tiếng Sóng của tác giả Yukio Mishima.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thời Thơ Ấu Gian Khổ - Iamin Muxtaphin
CUỐN SÁCH VỀ THỜI THƠ ẤU GIAN KHỔ VÀ ANH HÙNG     Đây là truyện ngắn trong tuyển tập "Điều kỳ diệu của Xibêri" xuất bản năm 1972 của Iamin Muxtaphin     Nữ văn sĩ Marieta Saghinhian, người được giải thưởng Lênin, một nghệ sĩ có tên tuổi, một nhà phê bình nghệ thuật rất nghiêm khắc đã viết trong lời tựa cho cuốn sách "Điều kỳ diệu của Xibêri" như sau: "Những truyện ngắn của anh làm say mê lòng người bằng sự tươi mát, sự độc đáo, bằng chủ nghĩa nhân đạo cao cả và sự trong sáng rất hiếm thấy trong cách diễn giải của mình" (Mátxcơva, 1972).     Cuốn truyện "Thời thơ ấu gian khổ" đã kể về những năm tháng khó khăn và ác liệt của cuộc chiến tranh. Ở tiền tuyến cũng như ở hậu phương, toàn dân đều phải chiến đấu chống bọn phát xít xâm lược. Và không những chỉ có người lớn mà cả trẻ em đã lập nên những chiến tích phi thường. Chính tác giả là người đã biết, đã trải qua nhiều sự kiện được mô tả trong cuốn sách "Thời thơ ấu gian khổ". Cũng như Giamin, một thiếu niên mười bốn tuổi, nhân vật chính của cuốn truyện là hiện thân của tác giả. *** Đ ã mấy ngày nay một mùi củi cháy nồng nặc bao trùm lên khu làng nhỏ. Mọi người lo lắng nhìn về phía Đông, ở đấy, đêm đêm, từng đám vừng hồng lại bừng lên trên rừng Taiga, như có một người nào đấy không ngớt vẫy tung một chiếc khăn khổng lồ màu đỏ. Thậm chí cả những con chó trước đây suốt ngày chỉ gầm ghè nhau, bây giờ con nào cũng nằm im cạnh cổng nhà mình, lắng nghe tiếng ầm ì từ xa vọng lại, vẻ sợ sệt lộ ra mặt. Ban ngày, mặt trời như một chiếc đĩa bằng đồng chiếu qua các đám mây khói. Lũ trẻ Tai sét nhìn thẳng lên thiên thể đỏ rực ấy mà không cần nheo mắt, và chúng nhận thấy có vết đen trên đó. - Trông kìa, trên ấy có núi, cậu ạ! - Giamin, một cậu bé mười bốn tuổi, sau khi đã leo hẳn lên mái nhà, sung sướng reo lên như vậy. - Cứ như là không có cậu thì tớ không nhìn thấy đấy! Hừ! - Gô-ga vừa tiếp tục dùng chiếc dao nhíp cũ chăm chú cạo nhựa khô từ một khúc gỗ tùng lá rụng, vừa đáp lại. Rồi cậu ngẩng mái đầu bù xù đã lâu ngày không cắt tóc, dùng lưỡi đảo đi đảo lại cục nhựa thông thơm thơm trong miệng, phều phào nói: - Bà tớ còn nói thế này: sẽ còn lắm chuyện nữa đấy. - Thì hãy nhổ cái cục kia ra đã, rõ đồ tham. Bà cậu nói cái gì? - Giamin vừa thận trọng bước trên mái nhà lợp bằng những thanh gỗ mỏng, vừa hỏi bạn. Gô-ga khó nhọc dùng lưỡi ùn cục nhựa cây màu vàng ra khỏi miệng - Xem này, mình nhai được nhiều! Đủ dùng cho cả ngày nhé - Cậu ta khoái trí cười. Chỗ sún thoáng hiện lên như một hạt bá hương giữa hàng răng đều và trắng muốt. Cậu lấy tay vo tròn cục nhựa, cẩn thận gói lại bằng một chiếc mã đề rộng rồi đút vào chiếc túi rất sâu của mình. Trong túi đó, cậu luôn luôn giữ các mẩu kim loại, các lõi chỉ và các loại diêm khác nhau, những thứ này làm bọn bạn thèm rỏ dãi. ... Mời các bạn đón đọc Thời Thơ Ấu Gian Khổ của tác giả Iamin Muxtaphin.
Tuổi 17 - German Matveev
Tuổi mười bảy (tiếng Nga: Семнадцатилетние) là một cuốn tiểu thuyết dành cho lứa tuổi mới lớn của nhà văn German Matveyev, ra đời năm 1954. "Tuổi mười bảy” của German Matveev là câu chuyện kể về lớp học nữ sinh ở thành phố Leningrad (thuộc Liên Xô cũ) thời kỳ sau chiến tranh Thế giới thứ hai.  Nhân vật chiếm số đông trong tác phẩm là các cô nữ sinh đang bước vào lứa tuổi đẹp nhất của cuộc đời, tuổi 17 đầy mộng mơ, trong sáng.  Đó là Catia Ivanova – cô bí thư đoàn yêu thích môn hóa học; là cô gái xinh xắn học giỏi nhưng lại thích trở thành công nhân Svetlana; là Lida Versinina –cô gái xinh đẹp có nhiều bạn trai hâm mộ, hay Valia Belova-một nữ sinh học giỏi nhưng lại xấu tính, ích kỷ… Bên cạnh đó còn có cả những nhân vật lớn tuổi như: thầy giáo chủ nhiệm tận tâm Constantin Sergheevich, cô giáo hiệu trưởng Natalia Zakharovna, cô giáo Marina Leopoldovna... Những con người trẻ tuổi,với những tính cách khác nhau lại sống trong cùng môi trường đã tạo nên những câu chuyện về tình bạn, tình yêu với nhiều tình tiết hấp dẫn, bất ngờ. *** Ông Sergei Ivanovich đi dự dạ hội nhân dịp năm mới về và thấy Lida nằm trên giường, hai mắt đỏ hoe. - Lida, con làm sao thế? Con ốm à? - Không, không sao... Ba để con yên... - Lida khó nhọc nói. Ông sờ vào cái trán nóng hổi của con gái và ngồi xuống bên cạnh. - Con có bị đau gì không? Nhiệt độ có cao không? Hay con bị sốt?... Lida? - Ông bảo con gái. - Sao con không trả lời ba? Hay có gì xảy ra với con? Lida... Con có nghe thấy ba hỏi gì không? - Ba ơi, con xin ba, ba để cho con yên... - Cô khẽ nói và quay mặt đi. Ông bố lo lắng, đến đánh thức bà Pasa và nhờ bà giúp cho con gái ông thay áo đi ngủ. Đêm hôm ấy, mấy lần ông vào phòng con gái lắng nghe hơi thở đều đều của đứa con gái đang ngủ. Sáng hôm sau Lida thấy dễ chịu hơn. Cô không còn khóc nữa, tuy rằng cô vẫn cho mình là đứa bất hạnh với “trái tim tan nát”. Cô thấy trong người hơi yếu và nhức đầu nên có lý do để nằm trên giường. Suốt buổi sáng cô nằm trên giường gần như bất động, mắt đăm đăm nhìn bâng quơ vào một khoảng không xa thẳm. Gần mười hai giờ thì bác Vaxili Igomatievich đã đến. Vừa bước vào ông đã kêu lên như mọi lần: - Ồ, thật là mới mẻ! Cháu đã nghĩ ra được cái trò gì vậy! Ốm thật là đúng lúc... Cháu đang nghỉ đông cơ mà, cô gái xinh đẹp của bác. Phải ra ngoài trời để hít thở không khí, phải đi trượt băng! - Ông nói và ngồi xuống cạnh cô gái. - Nào đau ở đâu? Ốm gì? Thè lưỡi bác xem nào! Người ta bảo hôm qua các cháu ăn hàng thùng kem cơ mà... ... Mời các bạn đón đọc Tuổi 17 của tác giả German Matveev.
Nổi Loạn - Đào Hiếu
Dây là một tác phẩm đã bị kết án tử hình. Nó đã bị bắn nhiều loạt đạn, một ngàn mũi tên tẩm thuốc độc, bị chém bởi những lưỡi dao cùn… Trong một thời gian dài, tác phẩm đã bị mấy tờ báo quốc doanh lên án nào là đồi trụy, phản động, nào là nhảm nhí không có chút giá trị văn chương nào. Họ hùa nhau như đám hôi của, đám cơ hội, hò hét, nhảy múa, xỉa xói. Và cuối cùng là chém ngang lưng, tru di tam tộc. Nhưng tác phẩm vẫn sống. Bởi vì nó quá mãnh liệt, nó đầy ắp những chất liệu sống hung hãn và độc đáo. Không một trí tường tượng nào có thể nghĩ ra được các tình huống, các chi tiết đã được người trong cuộc “bứng” từ trong mảnh đất thực tế đời mình đem trồng vào tác phẩm và được nhà văn vun đắp gọt tỉa thành một chuyện tình, một tác phẩm văn học đầy lửa và đầy tro tàn, vừa cháy bỏng vừa lạnh giá, vừa lung linh vừa u ám ngậm ngùi. Nổi Loạn đơn giản chỉ là một chuyện tình. Nổi Loạn không có tham vọng đặt ra những “vấn đề chính trị”, những “phê phán đạo đức” hay những “tố cáo xã hội”. Những thứ vặt vãnh ấy đã bị sức nóng của câu chuyện tình này đẩy lùi ra tận phía sau hậu trường, trở thành những phông màn nám khói, mờ nhạt, cũ kỹ. Đọc Nổi Loạn để xem các nhân vật yêu nhau điên rồ, liều lĩnh như thế nào, và xem họ đã dẫn dắt chuyện tình của mình đến bờ vực nào? Có lẽ đó là điều duy nhất tác giả muốn mô tả trong tác phẩm. NGUYỆT HẠ *** Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Truyện ngắn và tạp văn Bầy chim sẻ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1982. Những bông hồng muộn, Nhà xuất bản Trẻ 1999. Tình địch, Nhà xuất bản Trẻ 2003. Thơ Đường phố và thềm nhà, Nhà xuất bản Trẻ 2004. *** Chung Quanh Tác Phẩm “Nổi Loạn" Cuộc phóng vấn do tác giả Đoàn Giao Thủy, Báo “Diễn Đàn Paris” thực hiện và đăng trên số 28 phát hành tháng 3/1994 tại Pháp. Trong sáu tháng cuối năm 1993, cuốn tiểu thuyết NỔI LOẠN của Ðào Hiếu đã nổi lên như một sự kiện văn học ở Thành Phố Hồ Chí Minh. Trong chừng mực nào đó: có thể gọi “vụ án NỔI LOẠN”, bởi vì đã có lời buộc tội đăng trên báo chí, cuốn sách đã bị tịch thâu và tác giả đã bị bắt giam và truy tố. So với các vụ án văn nghệ trước kia, đây chỉ là một vụ án nhỏ, song nhìn chung không có gì thay đổi về phương pháp của nhà cầm quyền dùng để triệt hạ một tác phẩm: tác phẩm bị kết án, tác giả bị đi tù, song tác giả không được quyền giải thích công khai về tác phẩm của mình. Chỉ có một điều là ở cuối thể kỷ thứhai mươi này việc bỏ tù một nhà văn vì tác phẩm của họ không còn dễ dàng như xưa nữa! Trong lần về thăm Việt Nam vừa qua tôi có dịp nói chuyện với nhà văn Ðào Hiếu cũng như nhiều người có thẩm quyền trong giới văn nghệ sĩ ở Sài Gòn về cuốn sách và các sự kiện chung quanh nó. Khi đó khả năng anh bị bắt giam đã được nêu ra. Trở lại Âu châu được tin anh bị bắt thật, tôi tự thấy có trách nhiệm giới thiệu những lời trao đổi với anh mà tôi ghi được. Như một chứng từ! Như quyền trả lời của một người bị buộc tội. Phải nói ngay rằng đây không phải là một phân tích về nội dung cuốn sách: xin dành phần đó cho bạn đọc hay các nhà chuyên phê bình văn học. Trước khi đi vào phần trao đổi, có lẽ cần nói đôi điều về tác giả cũng như bối cảnh của vụ án.   Mời các bạn đón đọc Nổi Loạn của tác giả Đào Hiếu.
Chuyến Thư Miền Nam - Antoine De Saint-Exupéry‎
'Chuyến thư miền Nam' là tự truyện của người phi công (cũng của chính tác giả Antoine de Saint-Exupéry) như những thước phim tài liệu trữ tình chứa đựng những suy tư về chủ nghĩa anh hùng cùng nỗi cô độc luôn đeo bám. Lối văn đầy chất thơ và bút pháp ẩn dụ của tác giả cuốn tiểu thuyết 'Hoàng tử Bé', hẳn sẽ khiến độc giả hài lòng. Chuyến thư miền Nam được xuất bản năm 1929 là tiểu thuyết đầu tay của ông, lấy chất liệu từ truyện ngắn L’Aviateur (Người phi công). Thông qua nhân vật Jacques Bernis, Saint-Exupéry kể về chính cuộc đời mình cùng những suy tư và cảm xúc của người phi công. Cuốn tiểu thuyết là tự truyện của người phi công và thước phim tài liệu trữ tình chứa đựng những suy tư về chủ nghĩa anh hùng, cùng nỗi cô độc hiện lên như người bạn đường trung thành của ông trong những tháng ngày đầu đời làm phi công. Một mình lèo lái cỗ máy bất kham và khó lường, mang theo những cánh thư hướng tới Nam bán cầu, bay qua những vùng trời khắc nghiệt nơi mỗi sự cố đều có thể đồng nghĩa với cái chết, hoặc bởi một cú hạ cánh thất bại hoặc bởi những phát súng trường hay nhát gươm sắc lẹm của bộ lạc du mục chốn sa mạc. Cuộc đời phi công đầy bất trắc và cô đơn ấy chỉ được cứu rỗi bằng ánh sáng của tình yêu, từ mối tình phiêu lưu với những trìu mến xa xôi, tựa nguồn nước mát lành hóa giải cơn khát, tựa kho báu bao năm chôn sâu dưới đất ngầm nay được mở ra. Một lần nữa, chúng ta sẽ gặp lại ở tiểu thuyết đầu tay của Saint-Ex lối văn đầy chất thơ và bút pháp ẩn dụ đã làm nên thành công rực rỡ cho kiệt tác Hoàng tử Bé. Antoine de Saint-Exupéry hay gọi tắt là Saint-Ex (sinh ngày 29 tháng Sáu năm 1900 - mất tích ngày 31 tháng Bảy năm 1944) là một nhà văn và phi công Pháp nổi tiếng. Saint-Exupéry được biết tới nhiều nhất với kiệt tác văn học Hoàng tử Bé (Le Petit Prince). Tác phẩm của Saint-Exupéry tập trung vào đề tài phi công hoặc lấy cảm hứng từ những chuyến bay của chính tác giả. Do mất tích khi mới 44 tuổi và cũng dành rất nhiều thời gian để thực hiện các chuyến bay, số lượng tác phẩm của Saint-Exupéry không nhiều, nhưng đa phần đều đặc sắc. *** Cùng lúc là tự truyện của người phi công và thước phim tài liệu trữ tình chứa đựng những suy tư về chủ nghĩa anh hùng cùng nỗi cô độc hiện lên như người bạn đường trung thành của ông trong những tháng ngày đầu đời phi công. Một mình lèo lái cỗ máy bất kham và khó lường, mang theo những cánh thư hướng tới Nam Bán cầu, bay qua những vùng trời khắc nghiệt nơi mỗi sự cố đều có thể đồng nghĩa với cái chết, hoặc bởi một cú hạ cánh thất bại hoặc bởi những phát súng trường hay nhát gươm sắc lẹm của bộ lạc du mục chốn sa mạc. Cuộc đời phi công đầy bất trắc và cô đơn ấy chỉ được cứu rỗi bằng ánh sáng của tình yêu, từ mối tình phiêu lưu với những trìu mến xa xôi, tựa nguồn nước mát lành hóa giải cơn khát, tựa kho báu bao năm chôn sâu dưới đất ngầm nay được mở ra. Một lần nữa, chúng ta sẽ gặp lại ở tiểu thuyết đầu tay của Saint-Ex lối văn đầy chất thơ và bút pháp ẩn dụ đã làm nên thành công rực rỡ cho kiệt tác Hoàng tử bé. Mời các bạn đón đọc Chuyến Thư Miền Nam của tác giả Antoine De Saint-Exupéry‎.