Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lời Thú Tội

Sau cuộc phiêu lưu ly kỳ khám phá bí mật Cây Kim Rỗng, tưởng đâu gã đạo chích Arsène Lupin sẽ lui về ở ẩn một thời gian. Nhưng không, với bản tính ưa mạo hiểm, thích khám phá, Lupin sao có thể chịu ngồi yên nhìn cuộc đời trôi qua trong bình lặng. Những phi vụ của “Tên trộm quốc dân” đã được tái hiện đầy đủ và sống động trong Lời thú tội. Đan xen trong tập truyện là những vụ trộm vừa phải, những món lợi khiêm tốn hơn, Lupin đều đặn làm việc xấu và cũng làm cả chút việc tốt nữa, bởi bản tính tự nhiên và vì hắn thích thế, như một Don Quichotte dị thường và đầy trắc ẩn. *** “Siêu trộm hào hoa”, “Hoàng tử đạo chích”, “Robin Hood của giới tội phạm”, đó là những mỹ danh được dành tặng cho một trong những nhân vật tiếng tăm nhất của dòng văn học trinh thám phiêu lưu nước Pháp: Arsène Lupin. Ra mắt độc giả vào năm 1905 dưới dạng truyện ngắn dài kỳ trên tạp chí Je sais tout, gã đạo chích thông minh, quyến rũ nhưng không kém phần hài hước và láu cá ấy đã khiến cảnh sát khốn khổ vò đầu bứt tai, cánh nhà giàu ngày đêm lo ngay ngáy vì mất của, còn công chúng thì thích thú tán thưởng và hồi hộp dõi theo những màn trình diễn đầy hấp dẫn và không thể đoán trước kết cục. *** Arsène Lupin là một nhân vật hư cấu xuất hiện trong loạt truyện thám tử, tiểu thuyết trinh thám của nhà văn Pháp Maurice Leblanc, cũng như một số phần tiếp theo và rất nhiều phim truyền hình, phim điện ảnh như Night Hood, Arsène Lupin, các vở kịch và truyện tranh phỏng theo.   Cùng thời với Arthur Conan Doyle, Maurice Leblanc (1864-1941) đã sáng tạo ra nhân vật Arsène Lupin, một nhân vật có tầm phổ biến rộng khắp và lâu dài ở các nước nói tiếng Pháp, giống như Sherlock Holmes (tải eBook) ở các nước nói tiếng Anh. Serie Arsène Lupin gồm hai mươi tập truyện được viết bởi chính Leblanc cộng thêm năm phần tiếp đã được ủy quyền cho nhóm viết của Boileau-Narcejac thực hiện, cũng như nhiều tác phẩm khác phỏng theo. Nhân vật Lupin được giới thiệu lần đầu trên tạp chí Je Sais Tout qua một loạt truyện ngắn, bắt đầu từ số thứ 6, ngày 15 tháng 7 năm 1905. Ban đầu nhân vật mang tên Arsène Lopin, nhưng vấp phải sự phản đối từ một chính trị gia trùng tên, kết quả là "Lopin" đã bị đổi thành "Lupin". Arsène Lupin là một siêu đạo chích có tài hóa trang, một tên trộm quý tộc chuyên trộm đồ của nhà giàu trong khi núp bóng quý ông lịch thiệp. Nhân vật Lupin giống với Marius Jacob nên có khi được cho là dựa trên hình mẫu này.xuất hiện trong 12 tập truyện ngắn đã cho thấy đây là một nhân vật có thể sánh ngang cùng với các nhân vật khác như Holmes cua Conan Doyle, Hercule Poirot cuả Agatha. Hình tượng Lupin đã được nhiều bộ phim nổi tiếng lấy làm mẫu nhân vật như Kaito Kid trong bộ manga nổi tiếng Thám tử lừng danh Conan (tải eBook). *** Maurice Leblanc sinh năm 1864 tại Rouen, Pháp. Tên tuổi của ông thực sự được biết tới và để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả suốt hơn một thế kỷ qua nhờ series truyện dài kỳ cho tạp chí Je sais tout về nhân vật siêu đạo chích Arsène Lupin. Nhờ những cống hiến không ngừng nghỉ của mình, Leblanc đã được trao tặng Huân chương Bắc Đẩu bội tinh. Ông mất năm 1941 tại Perpignan. Dưới đây là một số tác phẩm của Maurice Leblanc được dịch và xuất bản tại Việt Nam: - Cái chết rình rập - Đối đầu Sherlock Holmes - Sa bẫy địa ngục - Những cú siêu lừa của Arsène Lupin - Những cuộc phiêu lưu của Arsène Lupin - Tám vụ phá án của Arsène Lupin - Ngôi nhà bí ẩn - Báo Thù - Nữ bá tước Cagliostro - Hòn Đảo 13 chiếc quan tài - Hai Nữ Tướng Cướp - Tam giác vàng ma quỷ - Arsene Lupin và Hồi Ức Bí Mật - Vụ Chơi Khăm Ngài Triệu Phú - Cây Kim Rỗng - Lời Thú Tội - ... *** Lupin này!” Tôi gạ. “Kể tôi nghe chuyện gì của anh đi.” “Ái chà! Chuyện gì là chuyện gì cơ chứ? Đời tôi – ai cũng biết hết rồi mà!” Lupin đang ngồi mơ màng trên chiếc trường kỷ trong phòng làm việc của tôi, đáp lại như thế. “Nào có ai biết rõ đời anh!” Tôi nói. “Đọc mấy lá thư anh gửi đăng báo, người ta biết đại khái anh dính vào vụ này, anh động vào việc kia… Chứ vai trò của anh, nội tình câu chuyện, diễn biến thế nào, kết thúc ra sao, những cái đó thì đố ai biết được!” “Xi! Toàn mấy chuyện linh tinh chứ có gì hay đâu!” “Ô này! Thế chuyện anh gửi năm mươi nghìn franc cho bà góa phụ Nicolas Dugrival thì sao? Anh bảo đấy là chuyện linh tinh không hay á? Còn chuyện anh giải mã câu đố bí ẩn của ba bức tranh đó nữa?” Lupin phá lên cười. “Đúng, đó là một bí ẩn lạ lùng, hẳn nhiên rồi. Tôi đề xuất một tiêu đề thế này, anh xem có thích không nhé: Mật hiệu bóng kim đồng hồ?” “Và cả những thành công tuyệt vời của anh trong xã hội và… với phái đẹp?” Tôi nói thêm. “Những cuộc tình chớp nhoáng của Arsène!… Rồi bí mật đằng sau những việc tốt anh đã làm? Mấy câu chuyện mà anh thường bóng gió với tôi bằng những cái tên: Chiếc nhẫn cưới, Tử thần rình rập… đó! Sao phải chậm trễ giãi bày những tâm sự và những thầm kín ấy, hả Lupin tội nghiệp của tôi?… Nào, hãy mạnh dạn lên một chút, làm như tôi bảo đi nào!…” Hồi đó, Lupin đã nức tiếng giang hồ, nhưng vẫn chưa thực hiện những phi vụ siêu khủng, chưa lao vào mấy trận chiến nảy lửa; là hồi trước các cuộc phiêu lưu để đời Cây Kim Rỗng và 813.Không mơ tới việc chiếm hữu kho báu cổ xưa mà những nhà vua nước Pháp⦾ tích lũy suốt mấy trăm năm, hay thay đổi bản đồ châu Âu ngay dưới mũi hoàng đế Đức, anh hài lòng với những vụ trộm vừa phải hơn và những món lợi khiêm tốn hơn. Hàng ngày, anh đều đặn làm việc xấu và cũng làm cả chút việc tốt nữa, bởi bản tính tự nhiên và vì anh thích thế, như một Don Quichotte dị thường và đầy trắc ẩn. Thấy anh im lặng, tôi lại nhắc: “Nào Lupin, mời anh kể…” Những lời anh đáp làm tôi ngạc nhiên: “Lấy giấy ra đi, anh bạn thân mến, cả bút nữa!” Tôi sốt sắng làm theo ngay, lòng khấp khởi mừng thầm với ý nghĩ: Cuối cùng, anh cũng chịu đọc cho đôi trang. Anh luôn biết cách kể chuyện. Những câu chuyện của anh bao giờ cũng lý thú và hấp dẫn, đầy khí lực và lôi cuốn, trong khi tôi cứ mải miết sa đà vào những giải thích rườm rà và trình bày nhàm chán. “Đã xong chưa?” Anh hỏi tôi. “Giấy bút sẵn sàng cả rồi đây!” “Anh viết nhé: 20 – 18 – 5 – 14; 8 – 5 – 20.” “Cái gì đây?” “Tôi bảo thì anh cứ viết đi.” Anh ngồi dậy, mắt dõi ra ô cửa sổ mở toang, còn ngón tay về một điếu thuốc lá Thổ Nhĩ Kỳ thượng hạng. Anh đọc tiếp: “Tiếp này: 6 – 1 – 9…” Ngừng một chút, anh lại đọc: “20 – 18 – 1 – 14 – 8.” Và sau một lúc im lặng. “24 – 5.” Anh điên rồi ư? Tôi chăm chú nhìn anh, chẳng mấy chốc đã nhận ra đôi mắt anh không còn lơ đãng như trước nữa, mà sắc sảo và rất tập trung, như thể đang theo dõi đâu đó trong không gian một cảnh tượng khiến anh bị thu hút. Nhưng, trong lúc đó, anh vẫn đọc và ngắt nghỉ giữa từng con số: “14 – 7 – 21 – 25…” Chẳng có gì để nhìn ngắm qua khung cửa sổ kia, ngoài mảnh trời màu lam ở phía bên phải và mặt tiền ngôi nhà cũ đối diện, cửa lúc nào cũng đóng im ỉm. Ngoài đó, chẳng có gì đặc biệt, cũng chẳng có gì mới giữa những thứ tôi luôn nhìn thấy suốt bao năm qua. “8 – 9…” Rồi tôi chợt hiểu… hay đúng hơn, tôi tưởng mình đã hiểu. Bởi làm sao tôi có thể thừa nhận một người bản chất điềm đạm giấu sau chiếc mặt nạ ngông nghênh phớt đời như Lupin lại có thể phí thời gian vào những trò trẻ con vớ vẩn như thế được? Không nghi ngờ gì nữa: Anh đang đếm những tia nắng mặt trời thoắt ẩn thoắt hiện vui đùa trên mặt tiền xám xịt của ngôi nhà đối diện, cao ngang lầu hai⦾. “5…” Lupin đọc. Vệt nắng biến mất mấy giây, rồi lại hiện ra trên mặt tiền ngôi nhà, rồi lại biến mất. Những lần hiện ra rồi biến mất ấy cách nhau đều đặn từng quãng. Tôi vô thức cũng đếm những vệt nắng trên tường và hô to: “13…” “Đã nắm được rồi à? Khá lắm! Chúc mừng nhé!” Anh cười, có chút giễu cợt. Anh bước tới khung cửa và nhoài người ra, như muốn tìm xem tia nắng rọi từ hướng nào. Rồi anh quay trở vào và lại nằm dài lên chiếc trường kỷ, nói: “Giờ đến lượt anh. Đếm đi!” Tôi nghe theo, có vẻ như gã tinh quái này biết chuyện gì đang xảy ra. Với lại, tôi cũng không thể phủ nhận, cách những vệt nắng kia ẩn hiện theo tần số trên mặt tiền ngôi nhà đối diện có gì đó bất thường, khiến ta phải tò mò. Chúng nhấp nháy đều đặn, nối tiếp nhau như tín hiệu đèn pin. Vệt nắng rõ ràng được chiếu ra từ ngôi nhà cùng dãy với nhà tôi, vì mặt trời chiếu xiên qua cửa sổ nhà tôi. Hình như có ai đó đang đóng – mở cửa kính hay đúng hơn là đang bày trò tiêu khiển bằng cách dùng chiếc gương bỏ túi hắt ánh mặt trời phản chiếu lên tường nhà người khác. “Là đứa trẻ nào nghịch gương chơi thôi mà!” Tôi gào lên, trong lòng thấy bực bội không nhịn được, sau một lúc căng mắt theo dõi và ghi chép. “Anh cứ tiếp tục đi!” Thế là tôi lại đếm… Thế là tôi lại viết những con số thành hàng… Và những tia nắng mặt trời lại tiếp tục nô đùa trước mặt tôi, với sự chính xác toán học. “Sao rồi?” Lupin hỏi, sau một lúc lâu không thấy những vệt nắng xuất hiện nữa. “Sao à? Hình như hết rồi đấy… Mấy phút trôi qua rồi mà chẳng thấy gì nữa…” Hai chúng tôi cùng đợi, do không thấy vệt nắng nào xuất hiện trên mặt tiền ngôi nhà cũ kia nữa, tôi mới đùa: “Theo tôi thấy, chúng ta vừa phí mất hơn chục phút cuộc đời. Chỉ ghi được có mấy con số trên giấy: Thành quả kém ghê!” Lupin, vẫn nằm yên trên ghế, cãi: “Ông bạn già, ông làm ơn chịu khó thay những con số bằng những chữ cái có thứ tự tương ứng trong bảng chữ cái đi tôi xem nào! Ví như chữ A thay vào số 1, chữ B vào số 2, chữ C vào số 3… cứ lần lượt thế. Làm thử tôi xem!” “Nhưng làm thế ngốc lắm!” “Quá ngốc! Nhưng trên đời có ai không làm chuyện ngốc nghếch đâu cơ chứ? Chỉ có người ít, người nhiều mà thôi!” Tôi đành ngồi xuống và làm cái chuyện ngớ ngẩn đó. Tôi bắt đầu viết những chữ đầu tiên: “T – R – E – N – H – E – T…” Tôi dừng bút, ngạc nhiên. “Được hẳn một từ có nghĩa đây này!” Tôi kêu lên. “Là từ TRÊN HẾT…” “Nốt đi, ông bạn già!” Tôi lại tiếp tục thay các con số bằng chữ cái tương ứng, lần lượt tách các nhóm ký tự ra thành từng tiếng, kinh ngạc hết sức khi chúng tạo thành những từ có nghĩa và một vế câu hoàn chỉnh hiện ra ngay trước mắt tôi. “Xong chưa?” Một lát sau, Lupin hỏi. “Xong rồi… À nhưng mà viết không dấu, lại có chỗ sai chính tả…” “Để ý đến cái đấy làm gì! Ông bạn làm ơn đọc to lên tôi nghe xem nào… Đọc chậm thôi.” Vậy là tôi đọc lên cho anh câu văn chưa hoàn chỉnh đó, nguyên văn như thế này: Trên hết, phải tránh xe nguy hiểm, chớ ttấn công, thận trọg tối đa khi tiếp cận đối phưang và…” Mời các bạn đón đọc Lời Thú Tội của tác giả Maurice Leblanc.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Theo Đuổi - Phạm Thanh Thuý
Phạm Thanh Thúy là cây bút nữ có lối viết già dặn, không xa lạ với độc giả yêu văn chương. Tác phẩm của cô thường đăng trên các báo, tạp chí văn uy tín trong nước. Nhân vật chính của Theo đuổi là Hàm Yên - một nhà văn trẻ. Suốt thời thanh xuân, Hàm Yên ôm ấp mối tình từ thuở thơ bé với người bạn thiếu thời tên Phố. Tình cảm đó trở thành một nỗi nhức nhối, ám ảnh cô trên mỗi bước đường đời. Duyên phận đưa Hàm Yên và Phố đến những cuộc gặp gỡ tình cờ. Hết lần này đến lần khác, họ để lỡ nhau. Hàm Yên luôn muốn gợi cho Phố nhớ về những ký ức thời thơ bé, trong đó có cả ký ức đau buồn về cái chết của bố mẹ anh. Ngược lại, Phố tìm cách quên đi. Họ cứ thế đi tìm bóng hình nhau. Khi đã ở bên nhau, họ lại làm tổn thương nhau bằng ký ức. *** Tôi đến Cẩm Xuyên vào giữa mùa mưa. Mưa suốt ngày suốt đêm, mưa gối ngày này sang ngày khác. Bầu trời gần như lúc nào cũng sũng nước. Vào những khi mưa ngớt, từ trên cung đường quanh co uốn lượn theo dáng núi, thấy phía xa xa những thác nước huyền ảo như những áng tóc buông dài của nữ chúa thượng ngàn. Rồi thình lình, hàng trăm con thác ấy đột ngột băng qua đường, tuyệt đẹp và hung hãn, dường như muốn ngốn ngấu lấy tất cả những vật thể bé nhỏ đang trườn trên lằn chỉ vắt ngang núi kia. Con đường nhỏ chìm lút trong làn mưa trắng xóa. Vượt qua hàng trăm con thác trữ tình ấy thì đến Cẩm Xuyên. Cẩm Xuyên nằm trên độ cao 1500 mét so với mực nước biển. Cảm nhận đầu tiên chính là lạnh. Cái lạnh của gió, của hơi nước khi những đám mây trườn trên những ngọn núi, luồn sâu vào từng kẽ lá, băng qua những cây cầu treo chênh chao bắc ngang lòng những con suối mùa mưa sục sôi gầm gào bất tận. Ở xứ này, lúc nào người ta cũng có thể nghe thấy tiếng thác nước tuôn ở đâu đó. Khu nhà cũ, tường vôi trắng loang lổ tróc từng mảng thảm hại, rêu xanh phủ dày trên mái ngói. Và căn phòng, vì lâu không có người ở, toát lên một mùi đặc trưng ẩm mốc, sự cô đơn, lạnh lẽo và nỗi buồn. Nỗi buồn dường như trú ngụ ở đó từ rất lâu, thấm vào từng mi-li-mét không khí. Có hai cửa sổ, tất cả đều sơn xanh, có sẵn một số đồ đạc thiết yếu, hẳn nhiều người đã từng sống ở đó. Phía sau là một đồi thông. Tôi nhận lời viết tự truyện cho một cựu quan chức. Một người đàn bà quyền lực, nay đã nghỉ hưu và hưởng thụ cuộc sống nhàn nhã sau cả một đời lăn lộn với chính trường. Tài liệu đã thu thập đầy đủ từ một năm trước, giờ tôi chỉ cần tìm một nơi gợi cảm xúc để viết thành một cuốn sách. Một thời gian dài chìm trong nỗi buồn sâu thẳm, tôi muốn đến Cẩm Xuyên. Và tôi đã đến, giữa mùa mưa, sẽ ở lại một thời gian nào đó, tùy thuộc vào tôi quyết định. ... Mời các bạn đón đọc Theo Đuổi của tác giả Phạm Thanh Thuý.
Phúc Lành Của Đất
Phúc lành của đất đã đoạt giải Nobel Văn học năm 1920. Tác phẩm đồ sộ này viết về những người nông dân Na Uy gắn bó hàng đời với đất đai, trung thành với những truyền thống cổ xưa. Tác giả kêu gọi con người trở về với đất. Con người cá nhân chủ nghĩa kiêu hãnh trước kia tưởng có thể "làm rung chuyển thế giới bằng sự va chạm của vài tư tưởng phi lý" đã kết thúc đời mình trong chủ nghĩa bi quan và bị cái chết ám ảnh. Với văn phong trong sáng, cách diễn đạt gây bất ngờ, Knut Hamsun được coi là một trong những người cách tân văn xuôi Na Uy. Trong bài phát biểu tại lễ trao giải, đại diện Viện Hàn Lâm Thụy Điển nói: "Những ai muốn tìm trong văn học sự mô tả chân thật hiện thực đều tìm thấy trong Phúc lành của đất câu chuyện về cuộc đời của mỗi một con người, dù anh ta ở nơi đâu, lao động ở nơi đâu". *** Nhà văn Knut Hamsun (4/81859 – 19/2/1952) tên thật là Knud Pederson. Ông chào đời tại xã Lom, huyện Gudbrandsdalen, (nay thuộc tỉnh Oppland) miền Nam Na Uy; là con thứ tư trong một gia đình nghèo đông con (bảy người con). Năm ông lên bốn, cả gia đình chuyển tới sinh sống tại quận Hamarøy, tỉnh Nordland, miền Bắc Na Uy. Từ năm lên chín, ông phải tới giúp việc cho ông chú đang làm việc tại một bưu cục, thường xuyên bị đánh và bỏ đói. Những chấn thương tinh thần và thể xác này đã khắc sâu dấu ấn trong ông và là nguyên nhân của những di chứng thần kinh mãn tính về sau. Năm 1874, ông bỏ trốn trở về Lom, và từ đó bắt đầu một cuộc sống lang thang phiêu bạt khắp đó đây, hai lần sang Mỹ (1882-1884 và 1886-1888); nếm trải đủ mùi khổ ải, làm đủ mọi thứ nghề ngỗng trên đời: thư ký tiệm tạp hóa, bán hàng rong, phụ chữa giày, phụ tá cho quan chức hành chánh xã, giáo viên tiểu học, và hàng chục thứ nghề không tên khác. Từ năm mười bảy tuổi, ông cũng bắt đầu tập tành viết lách. Năm 1890, tác phẩm Sult (Đói) của ông được xuất bản, gây chấn động lớn trong văn giới bấy giờ với một bút pháp lạ lùng sâu thẳm, mô tả rất xác thực, tinh vi, nhưng đôi khi cũng khá hài hước những cảm xúc và ý tưởng của một nhà văn trẻ đang hồi khốn khó. Có lẽ đây là tác phẩm gây ấn tượng sâu sắc nhất cho giới phê bình học giả cũng như bạn đọc toàn cầu kể từ ngày nó ra đời cho tới nay. Tác phẩm này cũng đã được dựng thành phim hai lần. Lần thứ nhất năm 1966, do Henning Carlsen (sinh 1929) nhà sản xuất phim lừng danh người Đan Mạch đạo diễn; lần thứ hai năm 2001 do đạo diễn, biên kịch người Mỹ Maria Giese đạo diễn. Từ đó trở đi, bút lực của ông ngày càng dồi dào sung mãn. Về mặt bút pháp, ông là một trong những nhà văn cùng thời khác như James Joyce (1882-1941), Marcel Proust (1871-1922) và Virginia Woolf (1882-1941)… đã khai thác một cách tài tình thủ pháp Dòng ý thức ; hình thành nên trào lưu văn học hiện đại. Tổng cộng ông đã viết trên ba mươi cuốn tiểu thuyết và nhiều tác phẩm kịch, thơ… Trong đó nổi bật nhất là: Đói (Sult-1890); Những điều bí ẩn (Mysterier-1892); Pan (Pan-1894); Victoria (Victoria -1898); Dưới ánh sao thu (Under Høststjærnen -1906); Gã lang thang chơi đàn không dây (En Vandrer spiller med Sordin-1909) ; Niềm vui cuối cùng (Den sidste Glæde-1912); Phúc lành của đất (Markens Grøde-1917); Trên lối mòn hoang (Paa gjengrodde Stier-1949)… Năm 1917, ông mua một điền trang ở Nørholm, miền Nam Na Uy, lui về đó sống một cuộc đời ẩn dật, viết văn và làm việc nông điền. Năm 1920, ông đoạt giải Nobel văn chương nhờ bộ tiểu thuyết Phúc lành của đất . Xuất phát từ chủ nghĩa cá nhân, sự oán ghét chủ nghĩa tư bản hiện đại của bản thân và do hâm mộ truyền thống tư tưởng Nietzche trong chủ nghĩa Phát xít cũng như đã có sẵn cảm tình với Đức do chính nghĩa của nước này trong Thế chiến I, trong lúc đó công luận tại Na Uy lại nghiêng về Anh và Pháp, dần dần trong ông đã hình thành một cảm tình sai lệch với chủ nghĩa xấu xa này. Năm 1932, ông gặp Hitler và Joseph Goebbels – Bộ Trưởng Tuyên truyền của Đức Quốc Xã. Dù không bao giờ gia nhập Đảng Phát xít, ông đã có những hành động và phát ngôn bày tỏ rõ rệt thái độ ủng hộ Đức của mình, chẳng hạn như tuyên bố với những người đồng bào rằng: “Tất cả chúng ta đều là người Đức” trong thời gian Đức chiếm đóng Na Uy, hoặc công khai viết lời ca tụng Hitler khi nghe tin ông này chết rằng: “Ông ấy là một chiến binh, một chiến binh của nhân loại, và một nhà tiên tri của nền công lý đối với mọi quốc gia.” Sau Thế chiến II, ông bị công chúng ghét bỏ; do được coi là bị bệnh tâm thần nên ông không phải ngồi tù mà chỉ bị phạt tiền 80.000 đô la Mỹ (1947). Kể từ đó cho tới khi lìa đời, ông sống trong cảnh lẻ loi nghèo khổ, bị mọi người xung quanh xa lánh. Ngày 19-2-1952, Knut Hamsun qua đời ở thị trấn Grimstad, miền Nam Na Uy, hưởng thọ 92 tuổi. Hồi đầu năm 2009, khi Na Uy phát hành đồng tiền mệnh giá 200 Kroner (khoảng 500.000 đồng VN) in hình ông và tiếp sau đó là những hoạt động trọng thể tưởng niệm 150 năm ngày sinh của Hamsun, đã có nhiều quan điểm gay gắt phản đối từ nhiều nước trên thế giới. Dĩ nhiên, bên cạnh đó cũng có nhiều ý kiến đồng tình, biện minh cho những hoạt động nói trên. Nếu không xét tới quan điểm chính trị của Knut Hamsun – vốn đã trăm phần trăm sai trái, không có gì cần bàn cãi nữa (có lẽ bản thân Knut Hamsun cũng đã nhận ra những sai lầm của ông trong quãng thời gian cuối đời), có thể khẳng định đa phần những di sản văn học mà ông để lại cho nhân loại là vô cùng quý báu. Và người đọc chúng ta có thể tri ân ông ở khía cạnh này. Sài Gòn, 3-2010 Nguyễn Thành Nhân Mời các bạn đón đọc Phúc Lành Của Đất của tác giả Knut Hamsun.
Cuốn Sổ Màu Xanh - James A. Levine
Tôi tên là Batuk. Năm nay 15 tuổi, tôi có một cái ổ tại Đường Chung ở Mumbai. Tôi đã ở đây 6 năm và được ban tặng một nhan sắc xinh đẹp cùng một cây bút chì. Cuốn Sổ Màu Xanh mở đầu bằng trang đầu tiên nhẹ nhàng như thế. Nhẹ nhàng, nhưng là để che giấu một câu chuyện tàn khốc và gây phẫn nộ khi nhân vật chính của nó, một cô bé, bị biến thành gái điếm khi em mới chỉ 9 tuổi. Một cuốn sách nhỏ, về một cô gái nhỏ sống trong cái ổ của mình cùng những đứa trẻ khác với công việc "làm bánh" đầy tủi hổ và nhục nhã. Cuộc đời Batuk cũng như cuộc đời hàng chục đứa trẻ khác, cả nam lẫn nữ, bị mua bán, bị lạm dụng, bị bóc lột cơ thể vì lợi ích của những người lớn nhẫn tâm chôn vùi các em xuống bùn. Lối thoát của em, cuốn nhật ký, không chỉ là một câu chuyện mà còn là một hiện thực được thể hiện bằng văn chương và những câu chuyện hư cấu. Ở đó em được sống với tâm hồn bay bổng, với bình yên và những hy vọng. Cuốn Sổ Màu Xanh không êm đềm như cái tên nó làm nhiều người lầm tưởng. Những trang sách dễ dàng khiến người đọc bị ám ảnh, vì số phận con người, vì ước vọng chan chứa của một cô bé 15 tuổi không thể thoát khỏi số phận mình, vì những giá trị lớn lao Batuk đã dùng cuộc đời mình trả giá và gửi thông điệp đến nhân loại. "Cuốn sổ màu xanh" là hình ảnh cô đọng về thân phận của những đứa trẻ hành nghề mãi dâm ở Ấn Độ, mà nhân vật chính là cô bé Batuk 15 tuổi bị người cha ruột của mình đem từ miền quê lên bán cho một ổ chứa ở thành phố Mumbai. Ở đó ngoài công việc tủi nhục, cô chỉ còn một cách duy nhất để giải trí, và cũng là để tìm thấy những khao khát sâu thẳm tâm hồn cô, đó là viết nhật ký. Một cách để cô duy trì cuộc sống. Chúng ta nhận được từ cô bé - không chỉ là những lời gởi gắm tuyệt vọng mà còn là sự thức tỉnh của lương tâm. Tác giả James A. Levine là bác sĩ người Anh. Trong chuyến đi thực tế ở thành phố Mumbai, ông đã nhìn thấy một bé gái mại dâm đang viết, và hình ảnh đó đeo đuổi tâm trí khiến ông viết nên tác phẩm này. *** "Cuốn sổ màu xanh là một câu chuyện gây xúc động sâu sắc và lời nhắc nhở đầy nhiệt huyết về tinh thần kiên cường của con người. Nó là một bằng chứng cho thấy việc ghi chép có thể mang đến ý nghĩa cuộc sống và giúp người ta vượt qua những hoàn cảnh đau khổ nhất. Tiếng nói của Batuk, cô bé bán dâm dũng cảm, sẽ lắng đọng mãi trong lòng người đọc." - Khaled Hosseini, tác giả của The Kite Runner và A Thousand Splendid Suns *** Tôi được nghỉ ngơi. Bà Mamaki Briila rất hài lòng. Tôi đã làm việc cật lực suốt buổi sáng nên khi tôi nói với bà là tôi mệt quá, bà mỉm cười: “Nghỉ ngơi đi, bé con Batuk. Hôm nay sẽ là một ngày phát đạt”. Thật ra, tôi không mệt mỏi gì lắm. Tôi tên là Batuk. Năm nay 15 tuổi, tôi có một cái ổ tại Đường Chung ở Mumbai. Tôi đã ở đây 6 năm và được ban tặng một nhan sắc xinh đẹp cùng một cây bút chì. Nhan sắc của tôi là do trời cho, còn cây bút chì thì trước kia bà Mamaki Briila, bà chủ của tôi, thường giắt trên tai. Hai đêm trước, tôi thấy cây bút chì của bà Mamaki bị rơi xuống đất. Lúc đó tôi vừa mới “làm bánh” xong và bà ta lăng xăng đến cái ổ của tôi với một nụ cười rộng hoác. Bà cúi xuống, véo má tôi và hôn lên đầu tôi. Khi bà nghiêng người xuống, bộ ngực đồ sộ của bà như muốn đập vào mặt tôi và tôi có thể nhìn thấy những giọt mồ hôi lấp loáng trên đó. Bà cũng có mùi như chúng tôi, nhưng tệ hơn. Bà phải đưa tay chống lưng và lảo đảo một chút thì mới đứng dậy được. Bộ ngực của bà đung đưa như những con thú con đang bám vào cổ bà nhảy múa. Bà rút cây bút chì sau tai và kéo ra một cuốn sổ tay nhỏ màu vàng từ nếp áo trong của bộ áo sari (hoặc có thể từ nếp da của bà không chừng). Khi mở cuốn sổ ra, bà nhìn xuống tôi và nở một nụ cười làm giãn rộng gương mặt đỏ như một cục gạch khô nhúng nước. Bà ghi chép gì đó vào cuốn sổ với những cái vẫy bay bướm của bàn tay múp míp. Bà ngọt ngào nói: “Bé con Batuk, ta rất mến con. Ta tưởng tối nay con sẽ làm cho ta thất vọng nhưng con đã khiến ta yêu mến con chỉ trong một giờ”. Tôi nghĩ hẳn bà sắp sửa nhắc nhở tôi về sự tử tế ngàn lần của bà, nhưng bà bị cắt ngang bởi một tiếng thét của Puneet. Puneet là bạn thân nhất của tôi và có một cái ổ nằm cách tôi hai gian. Puneet hiếm khi kêu la, không như Công chúa Meera, cô nàng than khóc liên tục mỗi lần “làm bánh”. Puneet chỉ rên khi buộc phải rên và tiếng thét mà anh thốt ra vào lúc đó có thể khiến đá vỡ đôi. Đó là một tiếng thét chói tai và duy nhất, không phải của sự đau đớn thể xác, vì Puneet không cảm thấy đau đớn, mà là sự kinh hoàng. Bà Mamaki cũng biết điều đó. Puneet có giá trị hơn tất cả chúng tôi vì anh là con trai. Tiếng thét của Puneet xé toang màn đêm yên tĩnh của con đường và nụ cười biến mất khỏi gương mặt bà Mamaki như một đồng xu rơi xuống đất. Bà quay đôi mông to như mông bò vào mặt tôi và chạy vụt ra khỏi cái ổ của tôi. Thật ấn tượng khi một sinh vật như bà có thể di chuyển với tốc độ nhanh đến thế. Khi bà chạy đi, chiếc đuôi áo sari bay phần phật khiến tôi nhớ đến những tấm nhựa mà người ta dùng để che chắn cây trồng dưới ánh nắng mặt trời mùa hè. Đó là lúc cây bút chì rớt khỏi tai bà Mamaki, vành tai bóng nhẫy bởi một nhãn hiệu kem xoa người đặc biệt. Bà Mamaki không biết cây bút chì đã rớt xuống sàn cái ổ của tôi, nảy lên vài lần rồi nằm im. Tôi búng người khỏi giường và gieo mình lên nó. Cây bút chì là của tôi, trời ban cho tôi. ... Mời các bạn đón đọc Cuốn Sổ Màu Xanh của tác giả James A. Levine.