Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tây Xuất Ngọc Môn

"Phàm là người từng trải, nào có ai tránh được đôi chút nuối tiếc, có ai không ôm nuối tiếc mà tiếp tục sống (...) Những điều nuối tiếc này, giống như từng bậc thang, người sáng suốt sẽ giẫm lên đó, tìm con đường tốt đẹp hơn phía trước. Còn như đôi mắt thiển cận, chỉ chăm chăm phóng đại nuối tiếc cỏn con này, thì đừng mong có thể nhấc chân bước qua được nó." Đây là câu chuyện về một cô gái sau khi gặp ác mộng tỉnh dậy thấy mình bị treo cổ ở nơi hoang vu, cùng một chàng trai gánh trên lưng 18 sinh mạng, về hai kẻ vốn phải là hai đường thẳng song song, lại vì cõi u minh an bài mà gặp gỡ. Đây cũng là câu chuyện xoay quanh sa mạc mênh mông cát vàng, quanh Ngọc Môn quan cô quạnh trong truyền thuyết, là câu chuyện nồng ấm tiếng cười, cũng thấm đẫm nước mắt, mỗi sinh vật ở đó đều phải vật lộn với số mệnh của riêng mình. Một nam, một nữ, cùng một tòa thành, tưởng chừng hoàn toàn xa lạ, lại tựa như có ngàn vạn ràng buộc vào nhau. *** Lần này A Tử quay về với các với một bộ truyện vô cùng đặc sắc mang màu sắc huyền bí. Nếu như bạn là một mọt truyện, đặc biệt là một fan của thể loại huyền bí linh dị thì chắc chắn bạn không thể bỏ qua Vĩ Ngư và các tác phẩm của cô. Và đặc biệt là Tây Xuất Ngọc Môn này đây. Câu chuyện lần này Vĩ Ngư mang đến cho chúng là một câu chuyện về một chàng trai gánh trên vai 18 mạng người và một cô gái bị mất đi kí ức và tỉnh dậy lúc đang bị treo cổ trên một thân cây. Câu chuyện bắt đầu từ một rạp hát múa rối bóng trong một con hẻm nhỏ ở Tây An tấp nập khách tứ phương. Đó là một chàng trai trẻ trung phải ẩn mình sau lốt già nua yếu ớt của ông cậu mình, tiếp nối nghề múa rối bóng truyền thống của gia đình và tiếp tục chuỗi ngày sống chán ngán buồn thương và cô độc. Có lẽ mọi người đều thắc mắc, tại sao một người con trai đang ở độ tuổi nhiệt huyết nhất của trẻ, đáng lẽ phải sống rực rỡ chói chong đầy năng lượng như ánh mặt trời lại giả trang thành ông cậu gần đất xa trời của mình rồi chui vào góc tối tăm sau sân khấu để làm người điều khiển rối bóng. Đã từng, Xương Đông đã từng chói chang rực rỡ và nóng bỏng như ánh mặt trời trên các vùng đất sa mạc đầy nắng gió và cát vàng mênh mông. Trước kia người ta gọi anh là “Nanh Sa”, chiếc răng nanh cắm xuyên qua sa mạc, nhưng thú thật mình thích gọi anh ấy là “Vua Sa Mạc” hơn, bởi vì không vùng sa mạc nguy hiểm nào anh ấy không vượt qua, với sự hiểu biết sâu rộng về sa mạc, cường tráng bản lĩnh, cộng thêm máu liều táo bạo của tuổi trẻ anh trở thành một người dẫn đường hàng đầu mà bất cứ một đoàn thám hiểm sa mạc nào cũng mong được anh là người dẫn đường. Nhưng cái danh Nanh Sa hẳn như 1 cái răng nanh xuyên qua tim anh, giết chết 19 mạng người, 17 người là đoàn thám hiểm cuối cùng mà anh nhận dẫn đoàn, 1 người là người vợ sắp cưới mà anh yêu thương nhất, và người còn lại chính là bản thân Xương Đông, sau biến cố này, anh giống như một cái xác không hồn, chỉ vì quyết định hướng đi bị lệch, dẫn đến một kết cục thảm cảnh, cả đoàn không một ai sống sót, người yêu mất, sự nghiệp của tan thành mây khói, bị người đời sỉ vả. Sau khi bán hết gia sản của mình, bồi thường cho gia đình của các nạn nhân, anh đến Tây An nương nhờ người cậu của mình, sau khi ông mất, anh tiếp tục chui vào góc tối dẫn dắt các linh hồn rối bóng như một cách cho bản thân một động lực để sống tiếp, sống không phải vì tương lai tốt đẹp hơn đang chờ anh, mà là sống để chuộc tội, sống để tự trừng phạt chính mình. Cho đến một ngày, một cô gái xinh đẹp bí ẩn mang theo 1 tấm hình chụp lại thi thể của người yêu anh, đến xé tan cái bức màn đêm tối và lô anh đi tìm kiếm sự thật về thảm án 2 năm về trước. Còn về Diệp Lưu Tây, một cô gái bí ẩn, mất trí nhớ, tỉnh dậy trên một cái cây và đang bị treo cổ, trong túi tùy thân chỉ có một vài tấm ảnh, và 1 chiếc cốc Đầu thú mã não là hàng cổ hàng hiếm. Nếu như gọi Xương Đông là nguyên nhân trực tiếp của chuyến hành trình đi vào Ngọc Môn Quan thì Diệp Lưu Tây chính là nguyên nhân sâu xa của chuyến hành trình này và cả thảm án Sơn Trà Đen nữa. Ấn tượng đầu tiên về Diệp Lưu Tây là một cô gái xinh đẹp, tiếp theo là bản lĩnh không thua kém cánh đàn ông, và tổng xuyên suốt bộ truyện, ấn tượng cuối cùng là một Diệp Lưu Tây lòng dạ bao la nhưng tàn nhẫn đến đau nhói lòng. Thực ra nếu mà để nói về Lưu Tây thì không thể nói gì nhiều được, cũng không biết nói nhiều. Diệp Lưu Tây trước và sau khi mất trí nhớ giống như tách ra thành hai phân thân như trong truyện Bán Yêu Tư Đằng cùng tác giả. Diệp Lưu Tây sau khi mất trí nhớ mềm lòng nhẹ dạ hơn rất nhiều so với trước kia, dù cho bản chất tính cách không thay đổi mấy, chẳng hạn như cách cô xử lý tên dê xồm ở Tây An, hay cách cô tự đối với bản thân để tìm lại trí nhớ, thật sự đến đoạn đó, ruột mình quặn thắt lại, tay lạnh toát không cầm nổi quyển sách mà phải đặt xuống bàn để đọc tiếp. Nhưng cô đối xử với đồng đội mình rất khác xưa, những đồng đội bây giờ, cô dành cho họ tình cảm nhiều hơn rất nhiều so với người lúc trước. Dạy võ một cách cực tấu hài cho bạn Đường Mập, chăm sóc tận tình cho cái đầu bé nhỏ bị thương của bạn Đinh Liễu, quan tâm đến tình cảm yêu đương của bạn Liễu và bạn Cao Thâm, và hơn hết tình yêu bỗng dưng nảy nở với Xương Đông, nói thật mọi đừng cười, A Tử đọc hết hai tập truyện không bỏ sót một chữ nhưng không thể nhớ được hai người này bắt đầu yêu nhau từ lúc nào, tình yêu của hai người rất tự nhiên, không màu mè, cũng không gượng gạo, và cũng không mờ nhạt như trong một số truyện khác của Vĩ Ngư, A Tử đọc Bán Yêu Tư Đằng và Chuông gió của Vĩ Ngư rồi, cảm thấy hai truyện trên khá hay nhưng đào sâu các chi tiết kì bí linh di, xen lẫn âm mưu, ân oán cổ kim, thật sự không hề chú ý đến tình cảm nam nữ của hai nhân vật chính như trong Tây Xuất Ngọc Môn. Trong Tây Xuất Ngọc Môn lần này, Vĩ Ngư đã cho người đọc cực kì thỏa mãn khi nêm nếm các gia vị một cách vừa đủ để làm dậy lên mùi hương của tình yêu nhưng vẫn giữ trọn vẹn được vị ngon của nguyên liệu chính là kì bí linh dị và thêm một chút không khí lữ hành, đó là cách nấu rất riêng của Vĩ Ngư mà không ai có thể bắt chước được. Tây Xuất Ngọc Môn lần này thật ra thiên về âm mưu ẩn dấu, đo đếm nhân tâm, cuộc chiến giai cấp nhiều hơn là kinh dị, các yêu quái dù có loài hung ác, có loài hiền lành nhưng trong truyện này chúng hiện lên dưới ngòi bút của Vĩ Ngư một cách rất gần gũi, khi bạn đọc truyện có thể đọc xong về 1 loài yêu quái nào đó và nhìn quanh quất xung quanh mình xem có gì kì lạ không, rất kích thích . Suýt tí nữa mà quên một điều A Tử hơi bị thích trong Tây Xuất Ngọc Môn, đó là khả năm làm việc teamwork của team Đông Tây cực mạnh, từ khi bước vào trong quan nội, có rất nhiều phe kinh hiểm tưởng suýt chết nhưng với khả năng phối hợp ăn ý đến khó tin giúp cả 5 người trong team thoát chết 1 cách thần kì, có hai cảnh mà A Tử ấn tượng nhất trong truyện, cảnh đầu tiên là lúc mới vào Ngọc Môn Quan, chiến đấu với xác sống ở gò yardang, đó là lần đầu tiên cả đội phối hợp với nhau, tình cảm gắn kết mọi người bắt đầu từ đó, và cảnh thứ 2 là đi trộm tài liệu, đó là đoạn thót tim hồi hộp nhất trong truyện, Đinh Liễu gây chú ý đánh lạc hướng, Cao Thâm một mình đóng 2 vai gây nhiễu địch, Đường Mập dẫn gà đi gây hỗn loạn, và tất nhiên Đông Tây kết hợp một màn trộm đồ gay cấn nghẹt thở như Phi vụ thế kỷ luôn. Dành một chút xót xa cho người con trai ở ngoại truyện, A Tử không khóc cho anh ấy mà chỉ thấy lòng buồn xót xa, Lưu Tây gặp anh là “đúng người, sai thời điểm”, lúc anh gặp chị ấy là lúc lòng chị ấy lạnh nhất, là lúc cuộc sống khắc nghiệt là tôi ra một Lưu Tây lạnh lùng tàn nhẫn, lòng cao chí xa. Xương Đông là khoảnh khắc “đúng người, đúng thời điểm” của chị ấy, lúc cả tâm lẫn tình của chị ấy như một tờ giấy trắng, giống như chị đang làm lại cuộc đời mới. Cho nên không có gì phải buồn đâu ạ, số phận khắc nghiệt với anh ở kiếp này, nhưng sẽ đối xử dịu dàng hơn với anh ở kiếp sau, rồi anh sẽ có được cô gái của mình, vậy nên hãy cứ chúc phúc cho cô gái anh yêu ở kiếp này tìm được hạnh phúc nhé. Dành thời gian một chút để nói về chị Hàn Vũ Phi, dịch giả của truyện này, thật tâm mà nói, em chưa đọc truyện chị dịch nhiều lắm, em chỉ đọc vài bộ của Vĩ Ngư và Cửu Nguyệt Hy do chị dịch thôi, và em thấy gu chọn truyện của chị khá tốt, dù các truyện chị chọn chỉ dừng lại ở một vài tác giả, nhưng các cốt truyện không theo lối mòn, mỗi truyện đều có đặc sắc riêng không khiến người đọc nhàm chán. Về văn phong thì em không nhận xét gì nhiều, bởi vì nếu không phải là người hiểu sâu về lĩnh vực ngôn ngữ và văn học thì chẳng dám nhận xét là hay hay dở, chỉ có thể nói là văn phong của chị rất hợp với cách đọc của em. Nói tóm gọn lại đây là một bộ truyện đáng đọc. Hy vọng các bạn yêu ngôn tình đừng bỏ lỡ. – A Tử (Ngôn Tình Review Confession) *** Tây An.   Một dải tường thành cổ bao quanh khu vực trung tâm thành thị, chính giữa khu trung tâm là một cổ lâu, phía sau thành lâu là một khu phố trải dài, cho dù sầm uất hay ế ẩm, bất kể tháng nắng hay ngày mưa, nơi này mỹ thực luôn dồi dào, du khách luôn tụ họp.Read more…   Khu phố này tên gọi phố Hồi Dân, nổi tiếng với danh hiệu “Quảng trường văn hoá mỹ thực”, “Đại biểu cho phong thổ Tây An”, hay là “Nơi nhất định phải đến của Tây An”.   Dân cư đông đúc, tấc đất tấc vàng, các cửa hàng mặt tiền cố gắng chen chúc ra hướng đường chính —— nhưng mặt đường không đủ, đành phải quay mặt vào các hẽm nhỏ, chỉ cần bày ra trên đường mấy tấm biển hiệu, bên trên viết vài chữ như “Đi vào trong 15 mét” là được.   Cách cuối phố khoảng chừng một phần ba chiều dài cả khu phố, có một con hẻm nhỏ, đầu hẻm b*n n**c ô mai, phía trên có treo tấm biểu hiệu “Kịch rối bóng, biểu diễn đúng giờ”   Phía dưới dòng chữ có đính một con rối bóng hình dáng một cô gái, mặt mày yêu mị, vòng eo thon thả, phía sau đầu là mái tóc dài tết đuôi sam, động tác linh hoạt.   Du khách nào hứng thú hay cảm thấy mệt mỏi, liền có thể thuận tay lấy bát ô mai, mua vé biểu diễn 10 đồng, xem được một vở kịch rối 10 phút.   Sân khấu kịch rối không lớn lắm, ở ngoài trời khoảng 10 mét vuông, bày ra 3 cái bàn, trên tường treo các loại con rối đủ sắc màu, khách xem nếu thích, bỏ ra 50 đồng có thể mang về 3 con.   Điều khiển rối bằng tay là một ông lão, tên gọi Đinh Châu, chừng 60 tuổi, tóc hoa râm, đi đứng không tiện lắm, nên không mấy xã giao tiếp khách, phần lớn thời gian lão chỉ ngồi sau bức màn sáng trên sân khấu, hai tay linh hoạt vừa điều khiển mấy con rối, vừa nhịp trống, tưng bừng múa ra vài câu chuyện xưa tích cũ.   Có khi là vở “Kẻ bán hàng rong hý lộng đại tiểu thư”, hoặc là vở “Na Tra ba lần đáo Thuỷ cung”   Đêm nay, kịch đèn chiếu 7 giờ bắt đầu diễn, mới 6h50 phút, dưới khán đài đã đầy người.   Đinh Châu xốc màn sân khấu lên xem.   Người xem đa số là cha mẹ dẫn theo con nhỏ, mấy đứa bé hầu hết đều ngồi không yên, mông nhấp nhổm, nhốn nháo ỏm tỏi: “Khi nào mới diễn phim hoạt hình vậy?”   Đinh Châu có thể đoán được tiếp theo sẽ xảy ra chuyện gì: Sau khi bắt đầu diễn rối, mấy đứa nhóc này sẽ mất hết hào hứng, nhận ra kịch đèn chiếu khác xa so với phim hoạt hình, toàn là hát mấy câu ê a khó hiểu, thể nào cũng làm loạn một trận đòi về, người lớn sẽ quát mắng, bọn chúng sẽ lại vừa khóc vừa làm ầm lên.   Trong lúc “gà bay chó sủa” như vậy, lão đành phải vận dụng giọng hát già nua của lão, cố gắng diễn cho xong vở kịch.   Ngẫm lại đúng là chán, nhưng hầu hết con người ta sống ở trên đời, vốn hay chán như vậy.   Bảy giờ kém hai phút, một cô gái trẻ ghé đến.   Đinh Châu giật mình. Mời các bạn đón đọc Tây Xuất Ngọc Môn của tác giả Vĩ Ngư.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Điệp Viên Yêu Chúng Ta: Chiến Tranh Việt Nam Và Trò Chơi Nguy Hiểm Của Phạm Xuân Ẩn - Thomas A. Bass
Cuốn này đã được Nhã Nam xuất bản với tựa đề Điệp Viên Z.21 Kẻ Thù Tuyệt Vời Của Nước Mỹ “Đây là câu chuyện xuất sắc về một con người và thời đại của ông. Nó càng củng cố thêm cho cảm giác của tôi khi gặp ông trong giai đoạn cuối đời của ông rằng Phạm Xuân Ẩn là một trong những người ấn tượng nhất mà tôi từng gặp. Ông là con người của trí tuệ, lòng can đảm và tình yêu đất nước nồng nàn. Ông cũng là - mặc dù có vẻ thật trớ trêu khi nói ra điều này trong hoàn cảnh hiện nay - một con người của sự chính trực phi thường. Ông yêu chúng ta ở khía cạnh tốt đẹp nhất trong khi lại đối đầu với chúng ta ở khía cạnh tồi tệ nhất.” - Daniel Ellsberg, tác giả của Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers (Những bí mật: hồi ức về Việt Nam và tài liệu mật của Lầu Năm Góc) “Thomas Bass kể một câu chuyện tuyệt vời về mưu mô[1], nghề gián điệp và tình bạn. Cuốn sách của ông được viết như thể nó đến từ những bến bờ xa xôi nhất của sự hư cấu, và hẳn tôi sẽ không bao giờ tin nổi lấy một từ nào nếu như chính tôi không gặp rất nhiều nhân vật trong đó và không biết câu chuyện để tin rằng nó có thực và không biết câu chuyện đó có thực hay không.” - H. D. S. Greenway, biên tập viên, The Boston Globe, và là phóng viên chiến tranh Việt Nam cho tạp chí Time và báo Washington Post “Mỗi cựu binh, mỗi học giả, mỗi sinh viên, bất kỳ ai từng sống qua cuộc chiến tranh Việt Nam đều được khuyên đọc cuốn sách này và suy ngẫm về thông điệp của nó. Trong cuốn tiểu sử rất sâu sắc và kích thích này về một trong những điệp viên thành công nhất trong lịch sử, Thomas Bass thách thức một vài giả định cơ bản nhất của chúng ta về những gì đã thực sự xảy ra ở Việt Nam và về ý nghĩa của nó đối với chúng ta trong hiện tại.” - John Laurence, phóng viên chiến tranh Việt Nam cho CBS News và là tác giả cuốn The Cat from Huế: A Vietnam War Story (Con mèo Huế: một câu chuyện chiến tranh Việt Nam). * Gã cảm thấy mình đang vĩnh viễn quay lưng lại với sự thanh thản. Mắt mở to, ý thức rõ hậu quả, gã đi vào lãnh địa của sự dối trá không mang theo tấm hộ chiếu cho ngày quay trở lại. GRAHAM GREENE Cốt lõi của vấn đề (The Heart of Matter) *** “Nước Mỹ chỉ giỏi tiến hành những cuộc thập tự chinh,” tướng David Petraeus viết trong luận án tiến sĩ của mình về đề tài “Quân đội Mỹ và những bài học từ chiến tranh Việt Nam”. Được đưa ra bảo vệ tại Đại học Princeton năm 1987, luận án của Petraeus công kích những gì đã trở thành quan niệm được giới nhà binh chấp nhận một cách rộng rãi về những bài học từ Việt Nam. Ông coi đây là một “lối suy nghĩ kiểu được ăn cả ngã về không”, mà chung quy là xuất phát từ học thuyết cho rằng nước Mỹ chỉ nên tiến hành những cuộc chiến tranh thông thường với sự ủng hộ áp đảo của một công chúng mang tinh thần thập tự chinh. Petraeus bác bỏ quan điểm “làm ăn như lối suy nghĩ bình thường” này. Thay vào đó, ông lập luận rằng nước Mỹ có nhiều khả năng là thấy mình sa vào những cuộc chiến tranh phi chính quy khác, đôi khi phải chống trả hai, ba, hay nhiều trận chiến kiểu Việt Nam. Sau này Petraeus tiếp tục biên soạn cẩm nang tác chiến cho lục quân về chống nổi dậy được ban hành ấn hành năm 2006. Năm sau, được trao cơ hội tiến hành công tác thực địa về chuyên ngành học thuật của mình, ông được bổ nhiệm vào vị trí tư lệnh lực lượng Mỹ tại Iraq. Chiến tranh không chỉ là những cuộc thập tự chinh; chúng còn là những cuộc dan díu của con tim. Chiến tranh được phát động vì tình yêu, điều này thì chúng ta đã biết từ thời nàng Helen của thành Troy[2] khiến cho cả nghìn chiến thuyền chở đầy những chàng trai mê mẩn sẵn sàng chết vì nàng xung trận. Nhà văn hài hước người Mỹ P. J. O’Rourke đã nhận ra chân lý này trong một bài tiểu luận ông viết về Việt Nam năm 1992. “Ở Huế, cứ chiều đến, những nữ sinh trung học trở về nhà sau khi tan học, từng đoàn nữ sinh đạp xe trên con phố, tất cả đều tha thướt trong những tà áo dài trắng tinh, một kiểu trang phục gồm áo dài may ôm sát người mặc trùm lên quần rộng. Không phải vô cớ mà những nhà thờ Công giáo còn lại gióng lên hồi chuông cầu kinh Đức Bà vào thời điểm này trong ngày. Tôi không hiểu ở một nơi mà cái đẹp đã trở nên quá đỗi bình dị như thế có thể thay đổi được bản chất của một xã hội hay không.” Sau khi trầm trồ trước “tỷ lệ khổng lồ những mỹ nhân ngư và giai nhân tuyệt sắc” ở cái đất nước Địa đàng này, O’Rourke viết: “Giờ thì tôi hiểu tại sao chúng ta lại can dự vào Việt Nam. Chúng ta đã phải lòng… [Chúng ta] đã ngây ngất bởi nơi này. Tất cả mọi người, từ những cố vấn đầu tiên mà Ike3 gửi tới đây năm 1955 cho đến Henry Kissinger ở bàn đàm phán hòa bình Paris, thảy đều mê mệt đến phát cuồng vì Việt Nam. Nó làm tan vỡ trái tim họ. Họ cứ tiếp tục đến thăm và gửi hoa mãi không thôi. Họ không thể tin nổi rằng đây là lần chia tay cuối cùng.” Trước khi bắt đầu câu chuyện của mình về Việt Nam và nước Mỹ (với đôi nét điểm qua về nước Pháp và những khu vực khác trên thế giới), tôi xin phép được nói rằng cuốn sách này nói về chiến tranh và tình yêu, về những bài học Việt Nam, tác chiến chống nổi dậy và những cuộc xung đột khác bị gọi là phi chính quy. Nó cũng nói về những điệp viên và phóng viên cùng sự lẫn lộn giữa hai nghề này. Một số người sẽ cho rằng các phóng viên góp phần làm cuộc chiến (của chúng ta) tại Việt Nam thất bại. Trong trường hợp này, tôi xin khẳng định rằng có một phóng viên đã góp phần mang đến chiến thắng trong cuộc chiến - cho phía người Việt. Cuốn sách phiền muộn này nói về thông tin và hỏa mù cùng sự mơ hồ không thể tránh khỏi trong việc xác định ranh giới nơi hai yếu tố này hòa nhập vào nhau. Cuốn sách không đưa ra thêm chân lý nào có thể được đúc rút thành những bài học mới về chiến tranh Việt Nam. Nó nói về cuộc sống đơn giản của một con người phức tạp. Sự thật nằm trong các chi tiết. Chúng ta hãy bắt đầu. ... Mời các bạn đón đọc Điệp Viên Yêu Chúng Ta: Chiến Tranh Việt Nam Và Trò Chơi Nguy Hiểm Của Phạm Xuân Ẩn của tác giả Thomas A. Bass.
Vượn Cáo - Benjamin Black
John Glass sống ở New York. Ông bỏ nghề báo để viết tiểu sử cho bố vợ mình là ngài Bill Mullholland, hay còn gọi là Bill lớn. Vốn là cựu nhân viên CIA, giờ Bill Lớn là trùm tư bản trong lĩnh vực truyền thông. Sáng sáng, John Glass đến làm việc tại văn phòng rộng lớn và sang trọng trong tòa nhà văn phòng Mullholland Tower; tối đến thì về nhà với người vợ giàu có và xuân sắc. Dù thỉnh thoảng có hoài nhớ về quãng đời trước, nhưng nói chung John Glass hài lòng với hiện tại.   Để hoàn thành cuốn tiểu sử, John Glass thuê một tay săn tin trẻ mà ông quen gọi là “Vượn Cáo” thu thập thông tin về người bố vợ. Từ lúc ấy cuộc sống dễ chịu của ông bị đe dọa. Sau đó, “Vượn Cáo” bị sát hại, ông quyết định đi tìm những gì hắn biết và thủ phạm giết hắn chỉ để đào xới thêm nhiều bí mật và cái chết bí ẩn khác. *** Người cung cấp thông tin là một chàng trai trẻ cao lêu đêu và gầy đét. Đầu hắn quá nhỏ so với khung xương, còn cục yết hầu to bằng trái banh gôn. Mắt kính hắn đeo không có gọng viền quanh và gần như vô hình, chỉ làm tăng thêm độ bóng cho đôi mắt đen, tròn, to tướng và hơi bị trố. Một túm râu màu vàng ngắn ngủn, cứng quèo mọc thẳng từ cằm hắn. Cặp lông mày cong, rất xa mắt lấm tấm sẹo mụn trứng cá cũ. Hắn có đôi bàn tay mảnh mai, trắng trẻo, các ngón dài búp măng hệt như tay con gái, hay ít nhất là giống những gì người ta ca ngợi về bàn tay của phụ nữ khuê các. Dù đang ngồi, đũng quần jeans thụng của hắn vẫn thõng xuống ngang đùi. Ngực áo phông màu cháo lòng không của ai ngoài hắn mang dòng chữ: “Đời bi đát tiễn ta về cõi âm”. Thoạt nhìn, hắn mới chỉ mười bảy nhưng John Glass đoán tên này chí ít cũng phải gần ba mươi, cổ dài, đầu nhỏ và cặp mắt tròn đen láy khiến hắn cực kỳ giống một loài gặm nhấm quý hiếm mà nhất thời Glass chưa nhớ ra là con gì. Tên hắn là Dylan Riley. Glass thầm mỉa mai: cái tên Dylan nghe quý phái gớm. Hắn nói: - Vậy ra ông là con rể của Bill Lớn? Hắn ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế xoay bọc da đen trong văn phòng mà bố vợ Glass cho mượn nằm ở mé phía bắc của tòa nhà Mulholland Tower. Sau lưng hắn, bên kia bức tường kính trong suốt là một Manhattan ẩm ướt, ảm đạm dưới màn mưa phùn tháng tư. - Sao? Cậu thấy ngộ nghĩnh lắm ư? Glass vặn vẹo. Ông đặc biệt ghét loại người thích mặc áo phông in đủ thứ triết lý lên đó. Dylan Riley cười khẩy: - Ngộ nghĩnh gì đâu. Tôi chỉ ngạc nhiên thôi. Tôi thấy ông không giống người nhà Bill Lớn chút nào. Glass vờ như không nghe thấy gì. Hơi thở của ông bắt đầu nặng nề, thậm chí phát ra tiếng phì phò. Đó luôn là dấu hiệu cảnh báo sự căng thẳng đang gia tăng. Glass nhấn mạnh như muốn nhắc Riley phải lễ phép hơn: - Ngài Mulholland muốn tôi thu thập mọi dữ liệu và dùng chúng một cách đúng đắn nhất. Riley cười toe toét, gật lia lịa, xoay xoay trên ghế vẻ khoái chí: - Phải, nhất định dữ liệu phải đầy đủ rồi. Glass lạnh lùng nhắc lại: - Điều tiên quyết là phải đủ thông tin chính xác. Chính vì thế tôi mới thuê cậu. Glass đến bên chiếc bàn làm việc vuông vức bằng kim loại cỡ lớn kê trong góc phòng và thận trọng ngồi xuống ghế phía sau nó. Tư thế ngồi luôn giúp Glass bớt bấn loạn. Phòng ông ở tầng ba mươi chín. Trông đợi ông làm ăn được gì ở độ cao như vậy quả là ngớ ngẩn. Hôm đầu tiên vào phòng này, Glass sợ sệt nhích từng chút đến sát tường kính ngó xuống. Dưới chân ông chừng hai tầng nhà, những cụm mây trắng xốp trông như tảng băng lững thững trôi ngang qua, che khuất thành phố phía dưới. Giờ ông bíu hai tay lên mặt bàn trước mặt như người sắp chết đuối cố bám mép chiếc bè nan. Glass thèm thuốc không thể tả. Dylan Riley xoay chiếc ghế quanh bàn. Chắc chắn hắn biết ông chóng mặt, buồn nôn cỡ nào khi ngồi trong cái lồng kính làm bằng thép và thủy tinh ngất ngưởng giữa lưng chừng trời như thế này. Bàn tay Glass vuốt thành hình vòng cung trên mặt bàn, như thể muốn gạt vật gì đó vô hình xuống đất. Động tác ấy khiến ông nhớ đến cái cảnh Tổng thống Richard Nixon khổ sở, toát mồ hôi hột trong một bản tin chiều phát mấy năm trước, cố phân bua rằng mình không phải kẻ dối trá. Trong thời kỳ dân chúng hoang mang vì chứng kiến quá nhiều cáo buộc lẫn nhau ấy, ánh sáng ở trường quay quá gắt khiến ai trông cũng giống nhân vật phản diện trong bộ phim dùng hệ màu Eastmancolor giai đoạn đầu. ... Mời các bạn đón đọc Vượn Cáo của tác giả Benjamin Black.
Truyện Ngắn Trinh Thám
Tập Truyện Ngắn Trinh Thám này gồm có: Kẻ đội lốt Hai chàng thợ săn và một cô gái Chiếc hộp bí mật Không có cánh bay Bà góa Ephese Nhân chứng có ba bộ mặt Cây cầu bằng thủy tinh Một vạn đô-la Được ăn cả, ngã về không Tiếng còi trong sương đêm Không thương tiếc Hai cái chết *** Bốn giờ sáng, hai viên cảnh sát mặc đồng phục áp giải hắn vào văn phòng của nhà giam trung tâm. Ở đây, người ta kiểm tra người hắn, tịch thu mọi đồ dùng cá nhân của hắn, trừ gói thuốc lá, chiếc khăn tay và đưa cho hắn một tờ giấy biên nhận. Sau đó người ta lấy dấu vân tay của hắn và dán vào khẩu súng lục mà người ta tìm thấy trong người hắn một mẩu giấy có chữ “vật chứng”. Viên đội trưởng hỏi tên họ và hắn trả lời mình là George Carter. Với những câu hỏi tiếp theo như tiền án, tiền sự... thì hắn trả lời là không. Cảnh sát còn hỏi trên một chục câu hỏi khác rồi ghi vào sổ nói rõ hắn bị bắt về tội ăn cướp trong tay có vũ khí. Cuối cùng người ta giam hắn trong một xà lim chưa có người. Khi còn lại một mình, việc làm đầu tiên của hắn là châm một điếu thuốc lá rồi nằm dài trên một trong bốn chiếc nệm. Rủi ro làm sao! Hắn cay đắng nghĩ. Số phận mới đen đủi làm sao! Hai tiếng đồng hồ trước đây, theo một kế hoạch đã lập ra một cách tỉ mỉ trong một tuần lễ liền, hắn đã đột nhập vào một quán rượu ở giữa thành phố trước giờ đóng cửa để ăn cướp. Hắn đợi cho chủ quán đóng cửa hàng trong khi hắn vẫn ở trong nơi ẩn nấp, sau đó hắn nhốt ông chủ khốn khổ vào trong toa-lét còn hắn thì đi lục lọi trong quán. Kết quả thật là bất ngờ: hai hoặc ba ngàn đô-la trong két sắt ở văn phòng. Trước khi tẩu thoát, hắn còn nhặt thêm bốn chai úych-ky hảo hạng thêm vào món chiến lợi phẩm ấy. Cho đến lúc ấy, mọi việc diễn ra êm đẹp. Hắn đã nghĩ đến những cuộc đi nghỉ thú vị mà hắn có thể thực hiện được bằng cách tính toán lưng vốn của mình: khoảng trên một ngàn năm trăm đô-la để dành đặt ở một nơi an toàn. Tổng cộng là năm ngàn đô-la đủ để nghỉ ở Mê-hi-cô ba hoặc bốn tháng, nếu hắn không hoang phí. Nhưng hắn sẽ không làm như vậy vì hắn không phải là kẻ không biết sử dụng tiền bạc. Một căn hộ khiêm tốn ở thành phố, một tủ quần áo hiện đại và về mặt giải trí, buổi chiều hắn sẽ đi dạo, nói chuyện về các cuộc chơi bóng pơ-lốt, các cuộc đua chó và đi uống một cốc vào buổi tối; dự những trận đầu bò tót vào ngày Chủ nhật ở Acapulco; thỉnh thoảng cho các cô thu tiền hoặc các cô phục vụ xinh đẹp một khoản tiền boa hào phóng... Đó là tất cả. Những nhu cầu của hắn rất đơn giản, không tốn kém, giống như những người làm công có thu nhập ở mức trung bình trong mỗi kỳ đi nghỉ. Tuy nhiên có sự khác nhau giữa hắn và người những ấy, vì người ăn lương phải tiết kiệm cả một năm trời để đi nghỉ, còn hắn, hắn chỉ cần ba hoặc bốn phi vụ trong một năm, mỗi phi vụ chỉ cần bốn năm phút đồng hồ thôi. Và hai ba năm nay mọi việc đều diễn ra một cách trôi chảy. Nhưng bây giờ tất cả đã kết thúc - hắn nghĩ. Chuyện đó diễn ra một cách khá bất ngờ: khi hắn ra khỏi kho rượu thì va phải người em trai chủ quán đánh xe đến để đón anh về. Nếu cuộc đụng độ ấy không quá đột ngột, nếu trong một hoàn cảnh khác, hắn chỉ cần hạ gục người đàn ông ấy rồi lủi cho nhanh. Nhưng tình hình lại không phải như vậy vì người em chủ quán lại là một cảnh sát trong đội chống nạn mại dâm, tuy không phải đang trong giờ làm việc nhưng anh ta vẫn còn đeo súng bên người. Rất vô ích mà nói rằng viên cảnh sát không nghi ngờ gì khi thấy hắn với hai chiếc túi căng phồng và bốn chai rượu trên tay tuy đèn lúc này chỉ lờ mờ sáng. Anh ta chỉ giơ súng lên và thế là George bị tóm gọn. Đúng hai tiếng đồng hồ sau đó, George bị kết tội ăn cướp có vũ khí và bị tống giam. Việc khai tên giả của hắn cũng sẽ chẳng kết quả gì vì sau đây bốn mươi tám tiếng nữa, với những dấu vân tay, FBI sẽ biết rõ cái tên George Carter mà hắn đã khai là giả mạo mà chính George Maxwell mới là tên thật của hắn. Mà George Maxwell đã bị ngồi tù hai lần vì tội trộm cướp: lần đầu, hai năm vì tội ăn cắp, thời ấy hắn mới vào nghề, và lần thứ hai, năm năm vì tội ăn cướp có vũ khí, việc này xảy ra cách đây ba năm. Như vậy hắn được tự do mới có ba mươi sáu tháng. Lần này, với những tiền án ấy, chắc chắn án hai mươi năm tù sẽ treo trước mũi hắn. Năm nay ba mươi nhăm tuổi... Hai mươi năm ngồi bóc lịch, thế là kết thúc cuộc đời... Thật là đen đủi - hắn lại nghĩ với tiếng thở dài não nề khi thấy giấc mộng đi nghỉ ở Mê-hi-cô đã tan thành mây khói. Hắn ném điếu thuốc đi để mặc nó tiếp tục cháy. Sau đó, quay mặt vào tường, nghĩ đến tương lai ảm đạm của mình. ... Mời các bạn đón đọc Truyện Ngắn Trinh Thám.
Phái Viên Mật - Graham Greene
Đây không phải là cuốn trinh thám dạng "giải trí", không gay cấn, hồi hộp...mà nặng nề, ám ảnh, day dứt, phiền muộn. *** Graham Henry Greene (2 tháng 10, 1904 - 3 tháng 4, 1991) là tiểu thuyết gia người Anh. Ông sinh tại Berkhamsted, Hertfordshire, Anh quốc, là con của một hiệu trưởng, và theo học Đại học Oxford. Ông làm việc cho tờ báo London Times trong giai đoạn 1926-1929 (từng làm tổng biên tập) rồi hành nghề ký giả tự do. Năm 1935, ông nhận chân điểm phim cho tờ Spectator, và đến 1940 nhận chân chủ bút văn học. Trong thời gian 1942-1943, ông phục vụ Bộ Ngoại giao Anh ở miền đông châu Phi. Sau Thế chiến thứ Hai (1939-1945), ông đi đến nhiều nơi. Ông viết nhiều, là một trong các tác giả tiêu biểu của văn học Anh thế kỷ XX. Tác phẩm đầu của ông được xuất bản năm 1925. Graham Greene khởi đầu sự nghiệp văn chương với những sách thuộc loại “giải trí” vì thuộc thể loại hành động, như truyện gián điệp. Dần dà, ông mới chuyển qua thể loại “tiểu thuyết,” nổi tiếng nhất là The quiet American (Người Mỹ trầm lặng - 1955), gần đây được dựng thành phim hợp tác với điện ảnh Việt Nam (15 tiểu thuyết của ông đã được dựng thành phim). Ông cũng viết một kịch bản dành riêng cho phim truyện, và một số tác phẩm cho trẻ em. Graham Greene có xu hướng viết về những đấu tranh tâm linh trong một thế giới đang mục rữa. Tác phẩm của ông có đặc tính đi vào chi tiết sống động, và lấy bối cảnh đa dạng ở nhiều nơi (Mexico, châu Phi, Haiti, Việt Nam), miêu tả nhiều nhân vật sống dưới những áp lực khác nhau về xã hội, chính trị hoặc tâm lý. Tác phẩm cuối cùng, A world of my own: A dream diary (1994), được viết trong những tháng cuối cùng trong cuộc đời của tác giả, có tính nửa hư cấu nửa tự thuật dựa trên 800 trang tác giả ghi lại qua 24 năm.   Mời các bạn đón đọc Phái Viên Mật của tác giả Graham Greene.