Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thói Quen Làm Nên Sáng Tạo

Cảm hứng là có thật, nhưng nó chỉ đến khi ta làm việc. - Pablo Picasso Pablo Picasso là một trong những họa sĩ vĩ đại nhất thế kỉ XX với nhiều tác phẩm đắt giá. Theo các nhà thống kê, ông có tới 26.075 tác phẩm được trưng bày, xuất hiện trước công chúng (chưa tính tới những tác phẩm chưa được tìm thấy hoặc công bố). Thử thực hiện một phép tính đơn giản, Picasso sống đến 91 tuổi, vị chi là 33.403 ngày. Nếu so sánh với số tác phẩm được công chúng biết tới ở trên thì trung bình mỗi ngày ông lại sáng tạo thêm được một tác phẩm mới, tính từ khi ông 20 tuổi cho đến tận lúc qua đời. Nói một cách đơn giản thì Picasso đã sáng tạo không ngừng nghỉ mỗi ngày, trong liên tục 71 năm. Picasso chính là ví dụ sinh động cho thấy khả năng sáng tạo vô hạn của con người, cùng nỗ lực không ngừng để vượt qua giới hạn của bản thân. Bạn có biết ngọn nguồn của mọi sự sáng tạo đều nằm trong chính con người chúng ta, nó vẫn ở yên đó chờ được chúng ta thức tỉnh? Trong cuốn sách Thói quen làm nên sáng tạo, tác giả Twyla Tharp, một biên đạo múa tài năng bậc nhất nước Mỹ, đã cho chúng ta thấy tiềm lực phi thường của con người trong việc đánh thức khả năng sáng tạo. Thông qua những câu chuyện làm nghề, quan điểm triết học sâu sắc và hiểu biết rút ra từ cuộc sống hằng ngày, bà đã chứng minh được rằng sáng tạo không phải là năng lực do Chúa trời ban tặng mà nó là cốt tủy được hình thành từ sự kỷ luật, gian khổ rèn luyện để hình thành những thói quen làm nên sáng tạo. Hãy đọc sách để thấy thành công luôn bắt đầu từ những điều nhỏ nhặt nhất và sáng tạo chỉ đến khi được đầu tư công sức và thời gian theo đúng nghĩa. Trân trọng giới thiệu đến bạn cuốn sách vô cùng hữu ích này!   ** Twyla Tharp, một trong những biên đạo múa vĩ đại nhất nước Mỹ, bắt đầu sự nghiệp từ năm 1965 và đến nay, bà đã dàn dựng hơn 130 vở múa cho vũ đoàn của mình, cũng như cho Vũ đoàn Ba lê Joffrey, Vũ đoàn Ba lê New York, Vũ đoàn Ba lê Opera Paris, Vũ đoàn Ba lê Hoàng gia London và Nhà hát Ba lê Mỹ. Sử dụng âm nhạc của tất cả tác giả từ Bach, Beethoven và Mozart đến Jelly Roll Morton, Frank Sinatra và Bruce Springteen, bà là người tiên phong trong việc kết hợp múa hiện đại và ba lê với âm nhạc đại chúng. Trong lĩnh vực điện ảnh, bà từng cộng tác với Milos Forman trong phim Hair, Ragtime và Amadeus. Trong lĩnh vực truyền hình, bà chỉ đạo chương trình Baryshnikov by Tharp từng giành được hai giải Emmy. Trên sân khấu Broadway, bà đã đạo diễn phiên bản nhà hát của vở Singin’ in the Rainvà đến năm 2003, bà giành giải Tony cho vở Movin’ Out, tác phẩm bà tự tay dàn dựng, đạo diễn và biên đạo trên nền các bài hát của Billy Joel. Bà cũng từng nhận giải thưởng MacArthur Fellowship. Năm 1993, bà được kết nạp vào Viện Nghệ thuật và Khoa học Mỹ. Năm 1997, bà trở thành thành viên danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Bà đã nhận được 18 học vị tiến sĩ danh dự. Bà sống và làm việc ở thành phố New York. Mark Reiter đã cộng tác để cho ra đời 12 cuốn sách, tính cả Thói quen làm nên sáng tạo. Ông cũng là đại diện cho các tác giả tại Bronxville, New York. *** Tôi bước vào một căn phòng trắng Tôi bước vào một phòng tập nhảy nằm ở trung tâm Manhattan. Đó là căn phòng trắng rộng lớn. Tôi mặc một chiếc áo nỉ cùng cái quần jeans bạc phếch và đi đôi giày thể thao Nike. Bao quanh bốn bức tường là những tấm gương cao gần hai mét rưỡi. Một chiếc đài nằm trong góc. Sàn nhà sạch trơn, không vương tì vết, nếu không tính hàng nghìn vệt miết cùng dấu chân còn lưu lại sau những buổi tập của các vũ công. Ngoài mấy tấm gương, chiếc đài, những vệt miết và tôi, căn phòng hoàn toàn trống trải. Năm tuần nữa, tôi sẽ bay tới Los Angeles cùng một nhóm sáu vũ công để tham gia sô diễn kéo dài tám đêm liên tiếp trước 1.200 khán giả mỗi tối. Đó là nhóm nhảy của tôi. Tôi là một biên đạo múa. Tôi đã có trong tay một nửa chương trình – một vở ba lê kéo dài 50 phút cho toàn bộ sáu vũ công trên nền bản xô-nát số 9 của Beethoven dành cho đàn piano, bản “Hammerklavier”. Tôi đã sáng tác tiết mục này từ hơn một năm trước và đã dành mấy tuần vừa qua để luyện tập với cả nhóm. Nửa còn lại của chương trình vẫn còn là một ẩn số. Tôi không biết mình sẽ sử dụng bản nhạc nào. Tôi không biết mình sẽ làm việc với vũ công nào. Tôi còn chưa có ý tưởng về trang phục, thiết kế ánh sáng, hay nhạc công. Tôi cũng chưa nắm được thông tin về thời lượng của tiết mục, dù nó phải đủ dài để lấp đầy nửa còn lại của chương trình và mang đến cho khán giả thứ họ xứng đáng được nhận. Thời lượng của tiết mục sẽ quyết định khoảng thời gian tập luyện mà tôi cần. Thời gian này bao gồm việc liên lạc với vũ công, lên thời gian biểu tại phòng tập và khởi động quá trình luyện tập – tất cả đều dựa trên sự sáng tạo của tôi ở căn phòng trắng trống trơn này trong vài tuần tới. Các vũ công mong mỏi tôi sẽ thành công vì vũ đạo của tôi chính là sinh kế của họ. Các đại diện ở Los Angeles cũng kỳ vọng điều tương tự vì họ đã bán ra rất nhiều vé cùng lời hứa hẹn rằng khán giả sẽ được chứng kiến điều mới lạ và lý thú từ bàn tay tôi. Chủ rạp cũng mong như thế; vì nếu tôi không tới, rạp hát của ông ấy sẽ trống trơn suốt cả tuần. Như vậy là có rất nhiều người, bao gồm cả những người tôi còn chưa gặp bao giờ, đang gửi gắm niềm tin vào khả năng sáng tạo của tôi. Nhưng ngay lúc này, tôi không hề nghĩ tới những chuyện ấy. Tôi đứng trong một căn phòng với nghĩa vụ phải sáng tác ra tiết mục múa thật đặc sắc. Các vũ công sẽ có mặt ở đây chỉ trong vài phút nữa. Chúng tôi sẽ phải làm gì? Đối với một số người, căn phòng trống biểu trưng cho thứ gì đó sâu sắc, huyền bí và đáng sợ: Nhiệm vụ khởi đầu từ hai bàn tay trắng và nỗ lực để kiến tạo nên cái gì đó trọn vẹn, đẹp đẽ và viên mãn. Nó cũng không khác gì việc một nhà văn mở ra một trang soạn thảo trắng trên máy tính của mình; hay một họa sĩ đối mặt với tấm toan trống trơn; một nghệ sĩ điêu khắc trân mắt nhìn một tảng đá thô; một nhạc sĩ ngồi trước cây đàn piano, ngón tay bâng quơ lướt trên những phím đàn. Một số người cảm thấy khoảnh khắc này – khoảnh khắc trước khi sự sáng tạo khởi phát – quá đỗi đau đớn tới độ họ không tài nào đối mặt nổi với nó. Họ đứng dậy và rời bỏ chiếc máy tính, tấm toan, cây đàn; họ đánh một giấc, đi mua sắm, nấu bữa trưa hoặc làm đủ mọi việc lặt vặt trong nhà. Họ trì hoãn. Trong hình thái cực đoan nhất, nỗi kinh hoàng ấy khiến con người ta tê liệt hoàn toàn. Khoảng không trống vắng có lẽ chỉ tầm thường vậy thôi. Nhưng tôi đã đối mặt với nó trong suốt cuộc đời làm nghệ thuật. Đó là công việc của tôi. Đó cũng là sự nghiệp của tôi. Nói tóm lại: Việc lấp đầy khoảng không trống trơn đó đã giúp tôi tạo dựng được tên tuổi cho mình. Tôi là một vũ công kiêm biên đạo múa. Trong 35 năm qua, tôi đã sáng tác 130 vở múa và ba lê. Một số vở tốt, số khác lại dở tệ. Tôi đã làm việc với các vũ công ở hầu hết mọi không gian và môi trường mà các bạn có thể tưởng tượng ra. Tôi đã tập dượt trên đồng cỏ. Tôi đã kinh qua hàng trăm phòng tập, một số phòng rất xa hoa bởi chính sự mộc mạc chân phương và rộng lớn của nó; nhiều phòng thì bẩn thỉu, đầy sỏi sạn rác rưởi, chuột chạy rầm rập quanh bốn chân tường. Tôi đã làm việc tám tháng trời tại một phim trường ở Prague, biên đạo các bài múa và chỉ đạo các cảnh opera cho bộ phim Amadeus (tạm dịch: Sự đố kỵ của thiên tài) của Milos Forman. Tôi đã tổ chức dàn dựng các cảnh quay dùng ngựa trong Công viên Trung tâm của thành phố New York cho phim Hair (tạm dịch: Mái tóc). Tôi đã làm việc với các vũ công đến từ các nhà hát ở London, Paris, Stockholm, Sydney và Berlin. Tôi đã điều hành công ty của riêng mình suốt ba thập kỷ. Tôi đã sáng tác và đạo diễn một sô diễn rất thành công ở Broadway. Tôi đã làm việc chăm chỉ trong nhiều năm và không ngừng sáng tạo đến mức tới thời điểm này, tôi không chỉ thấy thách thức và lo lắng, mà còn có cảm giác bình yên và hứa hẹn khi đứng trước một căn phòng trắng trống trải. Nó đã trở thành mái nhà của tôi. Sau rất nhiều năm, tôi đã học được rằng sáng tạo là một công việc toàn thời gian với những mô thức thường nhật của riêng nó. Đó là lý do tại sao các nhà văn, chẳng hạn, thích thiết lập các nền nếp cho chính mình. Những người làm việc năng suất nhất bắt đầu công việc từ sáng sớm, khi không gian yên ắng, chuông điện thoại chưa reo và tâm trí họ đang tĩnh tại, tỉnh táo, chưa bị vẩn đục vì lời ra tiếng vào của mọi người. Có thể họ sẽ đặt cho mình một mục tiêu – viết 1.500 chữ, hoặc ngồi trước bàn làm việc cho tới trưa – nhưng bí mật thực sự nằm ở chỗ họ làm việc đó hằng ngày. Nói cách khác, họ có kỷ luật. Theo thời gian, khi nền nếp thường nhật dần biến thành bản năng thứ hai, kỷ luật cũng thay hình đổi dạng thành thói quen. Thực tế này đúng với mọi cá nhân hoạt động sáng tạo, dù đó là một họa sĩ bước tới trước giá vẽ vào mỗi sáng, hay một nhà nghiên cứu y khoa đến phòng thí nghiệm hằng ngày. Nền nếp cũng đóng vai trò ngang ngửa như tia chớp cảm hứng lóe lên trong quá trình sáng tạo, thậm chí còn lớn hơn. Và ai cũng có thể tự thiết lập nền nếp. Sáng tạo không chỉ là đặc sản của riêng các nghệ sĩ. Nó cũng cần thiết với các doanh nhân đang tìm kiếm những phương thức mới để hoàn tất thương vụ; nó là liều thuốc hữu hiệu cho các kỹ sư đang cố gắng giải quyết vấn đề; nó là yếu tố giúp các bậc cha mẹ muốn con cái mình nhìn nhận thế giới theo nhiều phương diện khác nhau. Trong bốn thập kỷ vừa qua, ngày nào tôi cũng bận bịu với một cuộc rượt đuổi sáng tạo đủ hình đủ dạng, trong cả công việc lẫn đời sống cá nhân. Tôi đã trăn trở rất nhiều về vấn đề thế nào là sáng tạo và làm thế nào để sáng tạo hiệu quả. Tôi cũng học được từ những kinh nghiệm đau thương, qua những lần sáng tạo theo cách tồi tệ nhất. Tôi sẽ tiết lộ cho các bạn cả hai điều nói trên. Và tôi sẽ đưa ra bài tập thách thức một số giả định về sáng tạo của bạn – để buộc các bạn cố gắng thêm, mạnh mẽ lên, bền bỉ hơn. Nói cho cùng, bạn luôn tập giãn cơ trước khi chạy bộ, khởi động trước khi tập thể hình, tập luyện trước khi chơi. Các hoạt động trí não cũng tương tự như vậy. Tôi sẽ nhấn mạnh luận điểm cho rằng khả năng sáng tạo được bồi đắp từ nền nếp và thói quen. Hãy tập làm quen với nó. Trong cuốn sách này, bạn sẽ thấy sự mâu thuẫn mang tính triết học liên tục xuất hiện. Đó là cuộc tranh cãi bất tận, có từ thời kỳ Lãng mạn,1 giữa hai đức tin cho rằng mọi hoạt động sáng tạo đều xuất phát từ (a) một tác động ngẫu nhiên cao siêu, vô phương biện giải của cảm hứng, một nụ hôn Chúa Trời đặt lên trán bạn, cho phép bạn trao tặng Cây sáo thần cho thế giới này, hoặc (b) lao động chăm chỉ. 1 Ý chỉ giai đoạn sau năm 1789, sau khi Cách mạng tư sản Pháp đánh đổ chế độ phong kiến (Mọi chú thích trong tác phẩm đều là của người dịch). Nếu ý tứ còn chưa đủ rõ ràng, tôi xin nói tôi thiên về hướng lao động chăm chỉ. Đó là lý do tại sao cuốn sách này có tựa đề Thói quen làm nên sáng tạo. Sáng tạo là một thói quen, và sự sáng tạo đỉnh cao là kết quả của những thói quen lao động tích cực. Nói tóm lại là thế. Bộ phim Amadeus (và vở kịch của Peter Shaffer, nền tảng của bộ phim) đã kịch tính hóa và lãng mạn hóa căn nguyên siêu phàm của các thiên tài sáng tạo. Antonio Salieri, trong vai nhà soạn nhạc tài năng chuyên nghề viết mướn, bị trời đày phải sống cùng thời với Mozart, người có tài năng thiên bẩm cùng tính tình vô tổ chức, luôn sáng tác như thể có bàn tay của Chúa Trời chạm vào. Salieri nhận thức rõ tầm vóc thiên tư của Mozart, và vô cùng đau khổ vì nghĩ Chúa đã chọn một kẻ khốn nạn làm nơi ký thác sức sáng tạo thần thánh của Người.   Mời các bạn đón đọc Thói Quen Làm Nên Sáng Tạo của tác giả Twyla Tharp.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ngày Tâm Ta An, Sóng Gió Sẽ Tan
PHIỀN NÃO trong đời được gói gọn trong 12 chữ: “BUÔNG KHÔNG NỠ, NGHĨ KHÔNG THÔNG, NHÌN KHÔNG THẤU, QUÊN KHÔNG N­ỔI! “ Bởi vậy mà, biết bao sóng gió ngày ngày vẫn kéo đến bên ta. Chúng ta thường nhìn vào kẻ khác để so sánh, để dao động, để hơn thua, cũng có nghĩa ta đã tự đặt mình vào một cuộc đua khốc liệt. Có mệt mỏi không? Ừ Có! Khi đã mệt mỏi, đi qua những nông sâu chốn hồng trần, ta chỉ mong mỗi sớm thức giấc thấy lòng xanh như lá, bỏ lại những phù phiếm xa hoa, đón lấy niềm an lạc. Liệu ta có làm được không? Khó đấy, vì ta khao khát muốn được bình yên mà không nhận ra rằng: Ngày tâm ta an, sóng gió sẽ tan. Ta không thể đòi hỏi sự tự do từ bên ngoài trong khi thâm tâm chưa tự tại. Chỉ khi BUÔNG ĐƯỢC, NGHĨ THÔNG, NHÌN THẤU, QUÊN NỔI, ta mới thấy tâm mình bình an. Những trang sách bảo ta rằng: Cuộc đời này, như một đám mây, mỗi kẻ nhìn vào mà hình dung một hình dáng cho mình. Cuộc đời này, như một câu hỏi mở, mỗi kẻ đều có đáp án của riêng mình. Cuộc đời này, như một tách trà, mỗi kẻ sẽ có cách thưởng thức riêng. Cuộc sống chính là sự thảnh thơi, vui vẻ. Thay vì gồng mình lên cố gắng, hãy để mọi chuyện trở nên tự nhiên, thong dong. Nếu quá mệt mỏi, hãy ngồi xuống, thưởng một ngụm trà, ngắm một nhành hoa, an yên sống. Nếu lòng người quá rộng như hư không, thì hãy để tâm ta lắng lại. Cuốn sách chữa lành bán chạy nhất Trung Quốc năm 2017 nay đã được ra mắt bạn đọc Việt với tên gọi “Ngày tâm ta an, sóng gió sẽ tan”. Hy vọng cuốn sách là người đồng hành thân thiết với bạn trên hành trình đạt đến sự an vui từ nội tâm. Để ai có duyên đọc nó sẽ nhẹ nhàng đi qua nỗi mênh mông của kiếp người. *** Tác giả   Thẩm Gia Kha (Nhà văn nổi tiếng)   - Tác phẩm của anh được đăng trên các tờ báo và tạp chí quan trọng của Trung Quốc như Nhân Dân nhật báo, Quang Minh nhật báo, Báo Thanh niên Trung Quốc…, lọt vào các Top Sách bán chạy Top Sách hay của Trung Quốc. Anh là đệ tử Thiền tông tại gia, có chuyên mục Hỏi Đáp trên Chính Tín, chuyên mục Văn Hóa trên Sina, chuyên mục Bình luận điện ảnh trên Nam Phương Cuối Tuần. - Tản văn, tùy bút của anh ấm áp, mang tính chữa lành, sắc sảo nhưng không kém phần ôn hòa khoáng hậu, được hàng triệu độc giả trẻ yêu thích, được các hãng truyền thông lớn chuyển đăng rộng rãi, là bạn với nhiều độc giả trẻ.   Lý Lê (Nhà văn, nhiếp ảnh gia)   - Đệ tử Tam bảo nhà Phật, là người theo chủ nghĩa lạc quan, thích áo vải cơm chay, ưa trồng hoa, yêu cuộc sống đơn giản dễ chịu. - Cô đi khắp các nơi trong cả nước, để ý những cảnh đẹp của nhân gian, tin rằng cuộc sống cần một trái tim Thiền để phát hiện những điều tốt đẹp. - Cô nhiều lần giữ chức Chủ biên tạp chí Du Lịch, Chủ Nhiệm Biên tập tạp chí của Hiệp Hội Phật giáo tỉnh, từng sáng lập tạp chí về sống Thiền, chuyên mục Du Lịch, chuyên mục Ăn chay trên nhiều họa báo và tạp chí. *** Tu hành một cách vui vẻ và thông minh Tôi vốn không am hiểu về trà, nhưng tôi có một người bạn đặc biệt thích uống trà, cũng có sở trường phân biệt các loại trà. Cô giống như một bậc thầy, lấy được nước sạch từ miệng suối phun trên núi ở Giang Tây, mua được trà ngon từ làng trà ở Phúc Kiến, khó tránh ngứa nghề, thường mời chúng tôi họp mặt, lấy trà ngon ra khoản đãi, yêu cầu chúng tôi tỉ mỉ thưởng thức, chẳng khác nào hiến dâng báu vật. Nói thật, tôi vốn không hiểu một tí gì, song theo cô uống trà nhiều rồi, nhìn lá trà, ngắm màu nước, nếm vị ngửi hương, dần dần đã có chút hiểu biết. Sau khi uống trà gần hai năm, cô cho tôi biết, ban đầu chỉ dùng loại trà bình thường mời tôi, rồi mới từng bước cho tôi nếm trà ngon. Từ trà đỏ khẩu vị hơi thanh đạm đến trà đen, từ trà hoa đến Phổ Nhĩ lên men sâu, như vậy mới có thể phân rõ mùi vị tuyệt vời. Uống trà phải tiến dần theo trình tự, đạo lý này giống như ăn hoa quả, ăn quả quýt chua chua ngọt ngọt trước, ăn dưa hấu ngọt lịm sau. Cuối cùng tôi đã hiểu được nguyên nhân người xưa thèm một ngụm trà ngon. Trà ngon thượng hạng, phối hợp với nước tinh khiết, do một người sành trà pha, thật sự là hương thơm thanh thuần cứ quẩn quanh bên cánh mũi, vị ngọt êm dịu đọng lại mãi trong miệng y hệt giữa mùa hè đứng trước biển, lắng nghe tiếng gió ngân. Rồi sau đó, tôi thấy những bộ đồ trà mà cô dùng đều xinh xắn mới lạ, mỗi lần đãi khách đều khác nhau, bèn hỏi cô mua ở đâu, bao nhiêu tiền. Cô cười vang, đâu phải mua chứ! Khi đến thôn xóm cổ xưa sưu tầm tài liệu văn học dân gian, hoặc đến chùa trong núi dự thiền thất, trong lúc nhàn rỗi đi dạo một vòng, liền nhặt được rất nhiều mảnh sành sứ vỡ. Cô căn cứ hình dạng, có mảnh dùng làm miếng lót cốc, có mảnh dùng để đựng quà vặt, có mảnh dùng để đặt túi hương, còn có mảnh dùng để đựng hoa lá. Cô dạy tôi, đừng mua những bộ đồ trà trông có vẻ quý giá kia, vì đó đều là thứ hoa hòe mà không thực dụng. Uống trà là chuyện nhàn tản, dùng bộ đồ trà bình thường là đủ rồi, bản lĩnh trà đạo thật sự dựa vào việc bỏ thời gian luyện tập, đọc nhiều sách vở liên quan và thưởng thức thường xuyên. Một số loại trà trên thị trường được thổi phồng lên là có niên đại bao nhiêu, được gọi là quý hơn vàng. Đó đều là đánh lừa người ta thôi, bởi trà không như rượu, dù bảo quản ở nơi thông thoáng râm mát thế nào thì sinh mệnh cũng có hạn, để lâu năm sẽ sinh nấm mốc, không cần uống thoáng ngửi là ngửi ra. Còn có ấm trà bằng sắt đen của Nhật Bản từng thịnh hành một dạo, nhìn từ góc độ khoa học, rất dễ bị hòa vào những chất gỉ sét, không có lợi cho sức khỏe con người. Những lời này của cô khiến tôi nghe mà không nhịn được cười. Người bạn này của tôi chính là Lý Lê. Cô thật lòng yêu thích trà ngon và cảnh đẹp, tập thiền tu tâm một cách thực sự. Cô thích lễ bái tụng kinh, nghiên cứu sự vật thấu đáo. Cô thích làm rõ bản chất, không bị lừa gạt. Chúng ta theo đuổi niềm vui, trước tiên phải học cách trở nên thông minh hơn. Lau đi bụi bặm trong lòng, nhận thức bộ mặt vốn có của cuộc sống. Giống như cô vậy, thiền tâm thiền ý sống một đời. Xưa nay ý nghĩa tinh hoa của Thiền không phải là khuyên người ta không gắng sức làm một việc gì, mà nên cố gắng tự tỉnh ngộ, sống tốt cuộc đời của mình. Nếu chúng ta học được cách làm phép trừ một chút, khiến phiền não và dục vọng giảm bớt, thì kể cả ở chốn sâu thẳm hồng trần, thể xác và tinh thần vẫn thanh tịnh dễ chịu, yên vui với hiện tại. Thiền tâm không phải là ba phải, cũng không phải là nhút nhát yếu kém. Bồ tát cũng có khi hiền hòa, có lúc tức giận. Kỳ thực, bất kể nam nữ, có thể dịu dàng, có thể kiên cường, là sức hấp dẫn lớn, cũng là thiền ý chân chính. Không sợ chuyện, không nhát gan, nghênh đón khó khăn mà tiến lên, là sự lớn mạnh thật sự. Một con người càng để tâm đến cảm nhận của người khác thì càng hèn mọn, càng yếu thể. Thật ra, chỉ cần bạn muốn, bất cứ lúc nào bạn cũng có thể trở về thản nhiên, tìm thấy tia sáng của bình minh trong tăm tối, tự tin là chính mình. Khi bạn thay đổi lối suy nghĩ của mình, không bị trói buộc bởi ám ảnh kỳ thị giới tính, bối cảnh xuất thân, khởi điểm cuộc đời, thoát ra khỏi cái lồng của quan niệm, thế giới cũng thay đổi theo bạn. Một người có thể chung sống ôn hòa với nỗi cô đơn và chính mình, không còn lấy lòng người khác, thì cũng có thể sống đẹp, cũng có thể chung sống hòa hợp với người khác. Chúng ta tìm kiếm người bạn đời, là để được yêu người ấy, đó mới là bản tâm. Chúng ta có thể thật lòng thật dạ, tôn trọng đối phương, dịu dàng tự nhiên, không cần phải kiêu ngạo, cũng không cần phải xu nịnh. Khi bạn dịu dàng, tự nhiên sẽ có sức mạnh, mềm mại bao dung, nuôi dưỡng vạn vật như nước vậy. *** Lùi Bước Hóa Ra Là Tiến Tới Trong lúc không hay không biết, tiết trời đã ấm lên, núi non tràn trề hơi thở mùa xuân. Tôi và đồng nghiệp ngồi trong phòng tranh ở tầng hai gác Từ Vân chùa Hoàng Mai Tứ Tổ*, đợi pháp sư Minh Giám. Căn phòng cực kỳ yên tĩnh, chậu mai trắng lặng lẽ tỏa ra mùi thơm thoang thoảng, đậm nhạt vừa phải, đẹp đẽ đúng mực. Ngay lúc này, có người đẩy cửa bước vào. Thầy mặc chiếc áo sư bằng vải bố màu xám sẫm, vẻ mặt ung dung. Lúc này, thầy là nhà sư trong núi Minh Giám. Trước kia, pháp sư Minh Giám là tiên y nộ mã, thích uống rượu ca hát, tinh thông thư pháp, hội họa và khắc dấu, cũng có nghiên cứu qua về khúc nghệ* và hí kịch. Thầy còn là hiệp khách diễn cuồng không chịu gò bó, ngâm nga chậm bước*, một khi linh cảm sáng tác chợt đến thì cho dù hai giờ sáng cũng ngồi dậy vẽ tranh. Cuối cùng, thầy nhẹ nhàng buông xuống tất cả. Năm 2006, pháp sư Minh Giám xuống tóc xuất gia làm đệ tử của Hòa thượng Tịnh Tuệ, rời đô thị vào rừng núi ở ẩn. Hôm trước khi quyết định xuất gia, thầy cất công đến nhà cũ ở Thiên Tân của pháp sư Hoằng Nhất* để tưởng niệm, thề rằng mình nguyện học tập tinh thần từ bi “Độ chúng sinh nào tiếc xẻ tim gan” của đại sư. Trong tiếng chuông sớm trống chiều ngày lại qua ngày, thầy chống gậy đi giữa núi rừng, nhặt nhạnh lá rụng, chụp ảnh cây cối hoa lệ giữa thế giới băng tuyết, hoặc nằm trên bãi cỏ sau núi chăm chú quan sát cội mai già hoa nở hoa tàn. Trước khi xuất gia, thầy từng thích nét phóng khoáng tự nhiên đẹp đẽ của thư pháp Vương Hi Chi*, cũng rất tôn sùng vẻ cổ kính chất phác cứng cáp của thư pháp Phó Thanh Chủ*. Giờ đây, phong cách thư pháp của thầy đã phát sinh thay đổi vi diệu, dần dần rộng mở trong sáng, mùi trần tục ngày càng ít, mùi rừng núi ngày càng nhiều. Dưới núi Song Phong, bên cầu Linh Nhuận, pháp sư Minh Giám dùng bút mực ghi lại vẻ đẹp của trời đất, dùng thiền tâm cảm nhận mùi vị của trà trong, thăm khắp nghìn núi muôn sông, chẳng qua là: “Mải ngắm Hoàng Sơn cảnh đẹp tươi, Trở về bên giậu cúc dài rồi. Đình bên khe suối trông sơn cốc, Nấu trà, chấm mực, bỗng biếng lười.” Cuộc sống hiện nay đúng như pháp sư Minh Giám yêu thích: Đơn giản tự do, không làm bộ làm tịch. Mỗi người sống ở thành phố đều gánh chịu áp lực sinh tồn khắc nghiệt, lúc cảm thấy mệt mỏi và lo lắng cũng cần đến nơi xa hít thở không khí thông thoáng một chút, thoát khỏi cuộc sống phẳng lặng trật tự. Nhưng chúng ta không cần ngưỡng vọng cuộc sống của người khác. Bởi vì, thâm tâm mỗi người đều có một ngọn Linh Sơn, nơi đó: “Hoa đón xuân về khoe đỏ rực, Tùng cao mưa gội tán xanh om. Hoa thắm quả thơm chịu chít quanh năm, Linh thiêng phượng múa ôi tuyệt đẹp…”* Nơi đó không có lừa dối và tranh đấu mà giấu kín tâm tình chân thực nhất, dịu dàng nhất. Thay vì chỉ đứng bên vực nhìn ngó mà mong có cá, chi bằng về nhà dệt lưới. Cứ cách một quãng thời gian, tôi lại chọn một dịp cuối tuần mang theo bộ đồ trà, ngồi tàu cao tốc đi du lịch. Có lẽ đó là nơi cả nhà cư sĩ Bàng Uẩn* tự cày cấy giữa núi rừng vào sinh ra tử mà vẫn bình thản nói cười; có lẽ đó là chốn ngày xưa đại văn hào Tô Đông Pha ngâm thơ xướng họa với nhà sư; có lẽ đó là chỗ có thể cùng người nhà bạn bè uống chén thiền trà, nếm bát cháo trắng; có lẽ đó là điểm dừng bước ngẩng đầu là nhìn thấy ngay, tiếp đó một ý nghĩ thanh tịnh sẽ khiến ô nhiễm tự động rơi rớt cả; có lẽ đó là rừng sâu nơi cao tăng lớp lớp xuất hiện nên danh tiếng lan xa, khói xanh bảng lảng, tiếng tụng kinh rì rầm; có lẽ đó chỉ là một ngôi miếu cổ thanh nhàn ẩn giữa thôn quê chẳng ai hỏi tới. Khi đi đến nóng người, bèn ngồi dưới gốc thông thắp một cây hương ngải, nhấp vài ngụm trà trắng lâu năm, mọi thứ đều vừa khéo. Thật ra, từ mấy năm trước, Huệ - cô bạn tôi đã trở thành người được lợi của cuộc sống phép trừ*. Đã chăm sóc con gái, cô từ bỏ công việc Giám đốc Đầu tư ở công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, về nhà làm bà nội trợ. Nhằm giảm nhẹ áp lực kinh tế, cô bán đi căn nhà lớn ở khu thương mại trung tâm của thành phố, đổi căn hộ hai phòng ngủ ở khu trường học. Lúc chuyển nhà, cô bỏ một lần hết mười mấy thùng giấy đựng đồ linh tinh, lập tức thấy nhẹ cả người. Mời các bạn đón đọc Ngày Tâm Ta An, Sóng Gió Sẽ Tan của tác giả Thẩm Gia Kha & Lý Lê.
Không Giới Hạn - Khám Phá Ho'oponopono
"KHÔNG GIỚI HẠN là câu chuyện về sự trở về trạng thái zero, nơi không một thứ gì tồn tại nhưng mọi thứ đều khả dĩ. Ở trạng thái zero, không còn tư tưởng, ngôn từ, hành vi, ký ức, chương trình, niềm tin hoặc bất kỳ điều gì khác. Chẳng có gì cả." (Bí mật của vũ trụ) Có phải bạn đang làm việc quá sức và quá căng thẳng? Có phải bạn đang làm hết sức nhưng vẫn chẳng thành công trong sự nghiệp và cuộc sống cá nhân? Nếu bạn đang cố gắng vất vả nhưng chưa đạt được kết quả như ý thì có lẽ vấn để nằm ở bên trong bạn. Có lẽ điều đang cản trở bạn nằm bên trong bạn chứ không phải ở bên ngoài. Không giới hạn đưa đến cho bạn một phương pháp đột phá để vượt qua những giới hạn nội tại và đạt được những mục tiêu mơ ước. Ho'oponopono là một hệ thống bí quyết tâm linh cổ xưa của người Hawaii, một phương pháp trị liệu vô cùng hiệu quả để giải phóng tâm thức, loại bỏ những trở ngại tinh thần, giúp bạn đạt đến mục tiêu không giới hạn trong công việc lẫn cuộc sống. Joe Vitale và Ihaleakala Hew Len, những bậc thầy về Ho'oponopono hiện đại, sẽ từng bước hướng dẫn bạn áp dụng phương pháp này để gặt hái thành công về vật chất, sức khỏe, tinh thần và hạnh phúc. *** Tôi vẫn chưa nắm được trọn vẹn câu chuyện về những gì ông đã làm ở bệnh viện tâm thần. “Ông chưa bao giờ gặp bệnh nhân?” một hôm tôi hỏi lại ông một lần nữa. “Chưa bao giờ?” “Tôi có gặp họ trong hành lang nhưng chưa bao giờ tiếp bệnh nhân trong văn phòng của tôi”, ông nói. “Có lần tôi gặp một bệnh nhân và anh ta lên tiếng, “Tôi có thể giết ông, ông biết rồi đó.” Tôi đáp, “Tôi dám cược rằng anh cũng có thể làm việc giỏi giang.” Tiến sĩ Hew Len kể tiếp, “Khi tôi bắt đầu về bệnh viện tiểu bang để phụ trách các bệnh nhân tâm thần hình sự, mỗi ngày có ba, bốn vụ tấn công nghiêm trọng giữa các bệnh nhân. Lúc ấy có chừng 30 bệnh nhân. Họ bị xiềng, nhốt vào buồng cách ly, hoặc bị hạn chế trong phân khoa. Các bác sĩ và y tá đi lại trong hành lang đều dán lưng vào tường vì sợ bị tấn công. Sau một vài tháng thanh tẩy, chúng tôi thấy một sự thay đổi hoàn toàn theo chiều hướng tốt đẹp hơn: không cần xiếng nữa, không cách ly nữa, và người ta được phép ra ngoài để làm việc hoặc chơi thể thao.” Nhưng chính xác thì ông ấy đã làm gì để kích phát sự chuyển hóa này? “Tôi phải nhận hoàn toàn trách nhiệm bên trong chính mình về việc đã hiện thực hóa các vấn đề bên ngoài bản thân tôi”, ông đáp. “Tôi phải thanh tẩy những ý nghi độc hại của chính mình và thay thế bằng tình yêu thương. Chăng có bất kỳ điều gì bất ổn với các bệnh nhân. Lôi làm nằm ở tôi.” Theo lời Tiến sĩ Hew Len giải thích, các bệnh nhân và thậm chí cả nhân viên cũng không cảm nhận được tình thương. Và ông đã yêu thương tất cả. “Tôi nhìn các bức tường và thấy rằng tường cần được sơn lại”, ông bảo tôi. “Nhưng chẳng có lớp sơn mới nào ăn cả. Sơn cứ tróc ra ngay. Thế là tôi bảo các bức tường rằng tôi yêu thương chúng. Rồi một ngày kia có người quyết định lại tiếp tục sơn tường và lần này thì tường ăn sơn.” Câu chuyện nghe thật lạ tai, nhưng tôi đã quen với những câu chuyện thế này từ ông. Rốt cục tôi buộc phải đặt ra câu hỏi lâu nay làm tôi bận tâm nhiều nhất. “Có phải tất cả bệnh nhân đã được xuất viện?” “Có hai người không được xuất viện”, ông nói. “Cả hai đều được chuyển đi nơi khác. Còn lại thì cả phân khoa đều lành bệnh.” Rồi ông gợi ý một chuyện mà thật sự đã giúp tôi hiểu được sức mạnh của việc ông đã làm. “Nếu anh muốn tìm hiểu diễn tiến của sự việc trong thời gian đó thì hãy viết thư cho Omaka-O-Kala Hamaguchi. Cô ấy làm công tác xã hội trong thời gian tôi làm việc tại đó.” Tôi đã viết thư. Cô ta viết lại cho tôi như sau: Thân gửi Joe, Cám ơn anh về cơ hội này. Xin nói để anh biết rằng tôi viết thư này cùng với Emory Lance Oliveira, một người cũng làm công tác xã hội trong phân khoa của Tiến sĩ Hew Len. Lúc ấy tôi nhận ra mình được điều đến làm công tác xã hội tại phân khoa hình sự mới mở tại bệnh viện tâm thần tiểu bang Hawaii. Phân khoa này mang tên là Phân khoa Cách ly An ninh Đặc biệt (CISU). Nơi đây giữ các bệnh nhân-phạm nhân đã phạm các trọng tôi tàn bạo như giết người, hãm hiếp, hành hung, cướp, xâm hại. có người phạm nhiều tội danh cùng lúc, và được chấn đoán đã mắc phải hoặc có khả năng bị rối loạn tâm thần nghiêm trọng. Một số bệnh nhân-phạm nhân này trước đó đã được kết luận vô tội vì lý do tâm thần và được phán quyết đưa về đây; một số người thì loạn tâm thần rõ nét và cần được điều trị, còn một số thì được giữ ở đó để làm xét nghiệm và lượng giá để xác định tình trạng hầu có hướng xử lý (thí dụ, xem họ có khả năng hiểu được các cáo buộc đối với họ và tham gia vào quá trình bào chữa cho bản thân hay không). Một số bị tâm thần phân liệt, một số thì rối loạn lưỡng cực và một số thì thiểu năng trí tuệ, trong khi đó một số khác được chẩn đoán thuộc dạng thái nhân cách hoặc rối loạn nhân cách chống xã hội. Cũng có những người muốn tìm cách thuyết phục tòa án rằng họ thuộc một hoặc tất cả các dạng kể trên. Tất cả đều được nhốt trong phân khoa 24/7 và chí dược phép ra ngoài vì mục đích y tế hoặc theo yêu cầu của tòa án khi có hộ tống và xiêng cổ chân, cố tay. Hầu hết thời gian họ phải ở trong 1 căn phòng cách ly, tức một căn phòng bị khóa, với tường và trần bằng bê tông. một buồng vệ sinh có khóa và không có cửa sổ. Nhiều người phải dùng thuốc liều cao. Các hoạt động của họ đều ít ỏi hoặc thưa thớt. “Sự cố” là tên gọi những vụ việc chúng tôi dự trù xảy ra hằng ngày – bệnh nhân tấn công nhân viên, bệnh nhân tấn công bệnh nhân khác, bệnh nhân tự tấn công chính mình, bệnh nhân âm mưu đào tẩu. Các “sự cổ” về phía nhân viên cũng là một vấn đề – nhân viên thao túng bệnh nhân; các vấn đề về ma túy, cáo ốm và chế độ lương bổng; bất hòa trong nội bộ; liên tục phải tìm người mới cho các vị trí bác sĩ tâm lý, bác sĩ tâm thần và các vị trí hành chính mà họ xin nghỉ việc; các vấn đề về điện và nước; và đại loại, không thể kể hết. Đó là một nơi căng thẳng, bất ổn, rất dễ nản lòng và đây không khí hung tợn. Thậm chí cỏ cây còn không chịu mọc. Và khi phân khoa được dọn đến một cơ sở mới vừa được trùng tu, an toàn hơn nhiều, với khu giải trí có rào, cũng chẳng ai nghĩ sẽ có một sự thay đổi gì. Cho nên khi xuất hiện “một bác sĩ tâm lý nữa”, mọi người hình dung rằng ông sẽ khuấy động bầu không khí, tìm cách áp dụng các chương trình tân tiến và rồi rốt cục chưa kịp an vị cũng sẽ nhanh chóng ra đi. Tuy nhiên, lần này đó là Tiến sĩ Hew Len, một người mà ngoài vẻ thân thiện, dường như chẳng làm gì cả. Ông chẳng làm lượng giá bệnh án, đánh giá tình hình hay chẩn đoán; ông chẳng đưa ra liệu pháp nào và chẳng hề làm một xét nghiệm tâm lý nào. Ông thường đến trễ và chẳng tham dự các buổi hội chẩn hoặc các phiên thăm khám bắt buộc. Thay vì vậy, ông thực hành một phương pháp Self I-Dentity Hooponopono (SIH) “quái lạ” mà nội dung là nhằm chịu trách nhiệm 100 phần trăm với chính mình: chỉ quán xét chính mình, và cho phép giải tỏa những năng lượng tiêu cực và ngoài ý muốn bên trong mình. Lạ lùng nhất là nhà tâm lý học này dường như luôn luôn thoải mái và thậm chí còn thật sự thích thú! Ông cười rất nhiều, đùa giỡn với bệnh nhân và nhân viên, và dường như thật sự thích công việc. Đáp lại, mọi người dường như cũng yêu mến và thích ông ấy, cho dù ông có vẻ chẳng làm việc gì nhiều. Và mọi chuyện bắt đầu chuyển biến. Các phòng cách ly bắt đầu trống; bệnh nhân bắt đầu chịu trách nhiệm về các nhu cầu và sinh hoạt của họ; họ cũng bắt đầu tham gia vào việc trù tính và triển khai các chương trình và dự án cho chính họ. Mức độ chỉ định thuốc cũng giảm xuống và bệnh nhân được phép ra khỏi phân khoa mà không cần xiềng. Phân khoa trở nên sống động – yên ổn hơn, sáng sủa hơn, an toàn hơn, sạch sẽ hơn, năng động hơn, vui vẻ hơn và chữa trị hiệu quả hơn. Cây cối bắt đầu mọc, các vấn đề về cấp nước gần như không còn nữa, các vụ bạo hành trong khoa trở nên hiếm hoi, và nhân viên dường như hòa đồng hơn, thư thái hơn và nhiệt tình hơn. Thay cho tình trạng cáo ốm nghi phép và thiếu người, giờ đây quan ngại của mọi người là dư thừa nhân sự và mất chỗ làm. Có hai trường hợp cụ thể đã tác động đến tôi cực ky sâu sắc. Có một bệnh nhân hoang tưởng nghiêm trọng dạng ảo giác, với tiền sử bạo hành và đã từng làm bị thương nặng nhiều người trong bệnh viện và ở chốn công cộng, và cũng đã nhiều lần nhập viện. Anh ta được đưa đến CISU lần này do phạm một vụ giết người. Tôi sợ anh ta chết khiếp. Mỗi lần thấy anh ta ở gần là tôi dựng hết cả tóc gáy. Thế rồi, tôi hết sức ngạc nhiên khi chỉ trong khoảng một, hai năm từ lúc Tiến sĩ Hew Len đến làm việc, một hôm tôi nhận ra anh ta đang đi về phía tôi với người hộ tổng nhưng không bị xiêng và tóc gáy của tôi đã không dựng lên. Cảm giác của tôi lúc ấy như thể nhận ra người quen, mà không chút phán xét, khi chúng tôi đi lướt qua nhau gần như vai chạm vào nhau. Tôi không hề có phản ứng quen thuộc chỉ muốn vắt giò lên cổ mà chạy. Thật ra, tôi nhận thấy anh ta trầm tĩnh. Lúc ấy tôi không còn làm việc ở phân khoa nữa nhưng tôi đã quyết tìm hiểu cho ra chuyện gì đã xảy ra. Tôi biết rằng anh ta đã không còn bị cách ly và bị xiêng một thời gian và lời giải thích duy nhất là một số nhân viên lúc ấy đang thực hành phương pháp Hooponopono mà Tiến sĩ Hew Len chia sẻ với họ. Tình huống thứ hai xảy ra trong khi tôi đang xem tin tức trên TV. Tôi được nghỉ việc một ngày theo chế độ tĩnh dưỡng tinh thần để thư giãn. Bản tin đưa tin về vụ ra tòa của một bệnh nhân CISU trước đó từng phạm tội xâm hại và sát hại một bé gái cỡ ba, bốn tuổi. Bệnh nhân này trước đó đã phải nhập viện vì tỏ ra không đủ tinh táo để tòa thụ lý vụ án. Anh ta đã được nhiều bác sĩ tâm thần và tâm lý xét nghiệm: đánh giá, và trải qua một loạt chẩn đoán mà lúc ấy hầu như đã giúp anh ta vô tôi vì lý do sức khỏe tâm thân. Anh ta lẽ ra không phải đi tù và lẽ ra đã được giam giữ thoải mái hơn trong điều kiện của bệnh viện tiểu bang, với cở nay được phóng thích có điầu kiện. Tiến sĩ Hew Len đã tương tác với bệnh nhân này, để rồi rốt cục anh ta xin được học phương pháp SIH và rất kiên trì thực hành, hệt như bản tính trột cựu sĩ quan thủy quân lục chiễn của anh ta. Đến giờ này thì anh ta đã tỏ ra lành mạnh để ra tòa và đã được tòa lên lịch thụ lý. Trong khi hấu hết các bệnh nhân và luật sư đều hầu như luôn luôn chọn phương án viện lý do sức khỏe tâm thần để không bị kết tội, bệnh nhân này lại không làm thế. Hôm trước ngày ra tòa, anh ta đã truất quyên của luật sư. Chiểu ngày hôm sau, anh đứng trước tòa. đối diện với vị chánh án và tuyên bố với giọng hối tiếc và thành khẩn, “Tôi chịu trách nhiệm và tôi rất tiếc.` Không ai ngờ được điểu này. Phải mất một lúc thì vị chánh án mới hiểu được chuyện gì đang diễn ra. Tôi đã chơi quần vợt với Tiến sĩ Hew Len và anh chàng này khoảng hai, ba lần và, mặc du bệnh nhàn này hết sức lịch sự và chu đáo, tôi vẫn có định kiến của dội Tuy nhiên, vào khoảnh khắc Ấy, trong phòng xử án, t0 chỉ cảm nhận được một sự ân cần và tình thưởng dành cho anh ta và cảm nhận được cả một sự chuyển biển lớn lao trong phòng xử. Giọng của chánh án và các luật sư Trở nên nhẹ nhàng, và tất cả những người xung quanh đều nhìn anh với nụ cười trìu mến. Quá là một khoảnh khác kỳ lạ. Cho nên, một buổi chiều kia, sau một trân quần vợt, khi Tiến sĩ Hew Len hỏi có ai muốn học phương pháp Hooponopono này không, tôi đã nhanh nhảu đồng ý và háo hức mong cho ván đấu kết thúc để được học. Giờ đây đã 20 năm trôi qua và tôi vân còn cảm thấy choáng với những gì được học lúc ấy, nghĩ đến chuyện Siêu nhiên đã tác động thông qua Tiến sĩ Hew Len ở Bệnh viện Tiểu bang Hawaii. Tôi mãi mãi biết ơn Tiến sĩ Hew Len và phương pháp “kỳ quái” mà ông đã mang đến. Còn nếu anh thắc mắc thì tôi xin kể rằng bệnh nhân này đã bị tòa kết án nhưng lại được chánh án chiếu cố phần nào bảng cách đáp ứng nguyện vọng của anh ta được thụ án tại một trại cải tạo liên bang ngay tiểu bang quê nhà, để anh ta được ở gần vợ con. Mặc dù đã gần 20 năm trôi qua, sáng nay tôi nhận được một cú điện thoại của một cựu thư ký phân khoa muốn hỏi thăm xem Tiến sĩ Hew Len có chút thời gian rỗi vào lúc nào đó để họp mặt với các cựu nhân viên hay không, những người mà giờ đây hầu hết đã nghỉ hưu. Chúng tôi sẽ gặp nhau trong một vài tuần nữa. Ai biết được sẽ có gì mới? Tôi sẽ chăm chú đón nghe các câu chuyện. Bình an, O.H. *** Thông tin tác giả Joe Vitale, Ihaleakala Hew Len Tiến sĩ Joe Vitale: chủ tịch Công ty Tiếp thị Hypnotic Inc. kiêm đồng sáng lập viên của Frontier Nutritional Research, một công ty chuyên về các công thức chống lão hóa đã được kiểm nghiệm. Ông là một trong những ngôi sao của bộ phim nổi tiếng Điều bí mật (The Secret). Ông là tác giả của rất nhiều tựa sách bán chạy, tiêu biểu nhất có thể kể đến Hệ số hấp dẫn: Năm bước dễ dàng để tạo ra sự thịnh vượng (hay bất cứ điều gì khác) từ bên trong Cẩm nang cuộc sống bị thất truyền: Kim chỉ nam lẽ ra bạn phải được trao khi chào đời; Sức mạnh của Tiếp thị bức xúc... Tiến sĩ Thaleakala Hew Len: Đã giảng dạy hệ thống Hooponopono cải biên trên khắp thế giới từ năm 1983. Ông đã tham gia các chương trình về giải quyết vấn đề và giải tỏa stress trong bốn thập niên và có ba năm là bác sĩ tâm lý học lâm sàng tại bệnh viện Tiểu bang Hawaii. Hew Len đã làm việc với hàng ngàn người trong nhiều năm, gồm các nhóm công tác tại Liên hợp quốc; UNESCO; Hội nghị Thống nhất Quốc tế về Hòa bình Thế giới, Hội nghị Hòa bình Thế giới, Hội nghị Y học Truyền thống Người da đỏ; Những người chữa lành Hòa bình ở châu  u và Hiệp hội Giáo chức Tiểu bang Hawaii. Mời các bạn đón đọc Không Giới Hạn- Khám Phá Ho'oponopono của tác giả Joe Vitale & Ihaleakala Hew Len.
Người Nhạy Cảm - Món Quà Hay Lời Nguyền
“NHẠY CẢM” KHÔNG PHẢI LÀ CÁI TỘI! Bạn là người có đời sống nội tâm phức tạp? Đôi khi bạn cảm thấy dường như không ai hiểu được mình? Bạn cũng là kiểu người thường để ý đến cái nhìn của người khác? Luôn cố gắng làm mọi thứ thật tốt, nhưng cũng vì vậy mà khiến bản thân không vui? Vậy rất có thể bạn là kiểu người CỰC KỲ NHẠY CẢM (Highly Sensitive Person), và có đến 15-20% dân số thế giới là người giống bạn cơ, nên đừng lo, cũng đừng sợ, bạn không phải KẺ KỲ LẠ DUY NHẤT. Người nhạy cảm được sinh ra với những xúc cảm tinh tế và mãnh liệt hơn người khác: dễ khóc, dễ cười, dễ đồng cảm với người khác, đôi khi thích thu mình, đôi khi lại muốn hòa nhập cùng mọi người, suy nghĩ về nhiều thứ, dễ cảm thấy lạc lõng, chỉ một kích thích nhỏ cũng khiến tinh thần bất ổn… Bạn sở hữu nhiều ưu điểm vượt trội nhưng cũng gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống thường ngày, nhất là việc kiểm soát cảm xúc. Cũng bởi vậy mà đôi khi người cực kì nhạy cảm (HSP) trở thành những kẻ lập dị trong mắt mọi người, dễ bị người khác hiểu nhầm là kiểu người thái quá, giả tạo, và bị số đông xa lánh. “Người nhạy cảm – món quà hay lời nguyền” là CUỐN SÁCH ĐẦU TIÊN CÔNG NHẬN GIÁ TRỊ CỦA SỰ NHẠY CẢM và xem đó như một điều thiết yếu cho xã hội. Cuốn sách sẽ cho bạn thấy: Bạn không phải kẻ lập dị, càng không phải giả tạo. Bạn đơn chỉ là một người nhạy cảm Thấu hiểu để đồng cảm với bản thân nhiều hơn Bạn khác biệt nhưng bạn có giá trị của riêng mình “Người nhạy cảm – món quà hay lời nguyền” với tên gốc Highly Sensitive Person đã: Tiêu thụ hàng triệu bản trên khắp thế giới, có mặt tại hàng chục quốc gia, trở thành INTERNATONAL BESTSELLER. Mang lại thành công vang dội cho tác giả - tiến sĩ Elaine N Aron với những giải thưởng, sự ghi nhận danh giá Một trong số ít những cuốn sách được nhiều người nổi tiếng trên thế giới đặc biệt đánh giá cao như tác giả John Gray, Riane Eisler, ca sĩ kiêm nhạc sĩ đình đám Alanis Morissette… Ai cũng mang trong mình những giá trị khác biệt từ khi sinh ra và điều đó tạo nên màu sắc cho thế giới này.  Vậy nhạy cảm là món quà hay lời nguyền? Chắc bạn cũng đã có câu trả lời cho riêng mình rồi *** Người nhạy cảm: Món quà hay lời nguyền? – Sách tâm lý nên đọc Dưới đây là ghi chép nhanh của Kin sau khi đã đọc xong lần đầu cuốn sách Người nhạy cảm: Món quà hay lời nguyền?. Bạn xem qua nhé! Cuốn sách với phân mục rõ ràng theo mạch đọc Trích dẫn Người nhạy cảm món quà hay lời nguyền Một vài ý chính mà Kin đã rất say sưa theo dõi cuốn sách này và Kin tin bạn cũng vậy. Dẫn dắt bằng chia sẻ của cá nhân tác giả Những nhận định về sự nhạy cảm Nguồn gốc về những biểu hiện nhạy cảm Các giai đoạn về việc hình thành sự nhạy cảm Các cách để đối diện với sự nhạy cảm Sau mỗi phần mục đều có tóm tắt, nhắc lại khái quát về nội dung chính, cách để luyện tập, áp dụng kiến thức Có những câu hỏi để dẫn dắt người đọc để hiểu hơn về chính mình, chỉ ra cách thức đối diện với sự nhạy cảm của bản thân Tác giả cũng có chia sẻ về những hoàn cảnh mà mình đã gặp phải với vai trò là một người nhạy cảm như những độc giả của mình Học cách chấp nhận bản thân & yêu thương bản thân hơn Người nhạy cảm - Món quà hay lời nguyền Trong cuốn sách thú vị này, tiến sỹ Elaine Aron, một nhà tâm lý học lâm sàng, đồng thời bản thân bà cũng là một người nhạy cảm cao, sẽ chỉ cho bạn cách xác định đặc điểm này ở bản thân và tận dụng tối đa nó trong các tình huống hàng ngày. Dựa trên nhiều năm nghiên cứu và hàng trăm cuộc phỏng vấn, bà sẽ giúp bạn hiểu rõ bản thân và đặc điểm của mình để tạo ra một cuộc sống đầy đủ hơn, phong phú hơn. Và cũng từ những thông tin trong Người nhạy cảm: Món quà hay lời nguyền, bạn sẽ nhìn nhận bản thân một cách tích cực hơn với nhiều đặc điểm tỉnh cách đã được ban tặng từ trong quá trình di truyền. Bạn được sinh ra với những xúc cảm tinh tế và mãnh liệt hơn người khác: dễ khóc, dễ cười, dễ đồng cảm với người khác, đôi khi thích thu mình, đôi khi lại muốn hòa nhập cùng mọi người, suy nghĩ về nhiều thứ, dễ cảm thấy lạc lõng, chỉ một kích thích nhỏ cũng khiến tinh thần bất ổn… Cũng với các ưu điểm đó, bạn cũng dễ ở trong nhiều khó khăn thường ngày, nhất là việc kiểm soát cảm xúc. Bạn dễ lập dị trong mắt mọi người, dễ bị người khác hiểu nhầm là kiểu người thái quá, giả tạo, và bị số đông xa lánh. Và dĩ nhiên, sau tất cả, bạn sẽ là người đầu tiên cảm thông cho những định kiến vây quanh mình để luôn biết cách yêu thương bản thân hơn mỗi ngày. Cuốn sách dành cho chính mình và người thân của mình? Nếu bạn vẫn còn có những thắc mắc về cảm xúc của bản thân thì Kin nghĩ rằng cuốn sách này sẽ giúp bạn có cái nhìn khoa học về sự nhảy cảm cũng như người nhạy cảm. Nếu bạn đang ở trong những mối quan hệ với người nhạy cảm thì đây cũng là lựa chọn sách tâm lý cực kỳ phù hợp. Nội dung của cuốn sách còn hướng đến việc xây dựng mối quan hệ gắn kết của người nhạy cảm với người không nhạy cảm. Từ đó mang đến sự hoà hợp trong tình cảm, công việc của những người nhạy cảm. Dù bạn tiếp cận cuốn sách với vai trò là nhân vật chính, người thân, đồng nghiệp, người bạn thì bạn cũng sẽ có được những trang sách hết sức nhân văn và mang tính ứng dụng cao. Mong bạn cũng yêu thích Người nhạy cảm Món quà hay lời nguyền! Thân ái, Kin *** Bạn đã bao giờ nghĩ rằng mình thật kỳ quặc vì cảm thấy hoàn toàn choáng ngợp khi xung quanh có nhiều tiếng ồn, mùi hương nồng nặc hay ánh sáng chói lóa, đặc biệt là đèn huỳnh quang? Bạn đã bao giờ bị gọi là "quá nhạy cảm" hoặc "quá nhút nhát? Bạn có đặc biệt kích thích với những thay đổi về nhiệt độ, ngôn ngữ cơ thể và môi trường xung quanh? Tâm trạng của người khác có ảnh hưởng đến bạn không? Nếu vậy, bạn có thể rất nhạy cảm, và cuốn sách sau đây sinh ra để dành cho bạn. Tác giả của ấn phẩm Người Nhạy Cảm là Elaine N. Aron - một giáo sư, nhà trị liệu tâm lý và tiểu thuyết gia. Là một người nhạy cảm mạnh, Aron cảm thông cho những con người phải đấu tranh với sự mâu thuẫn trong tâm lý hơn ai khác; cô đã khóc rất nhiều tuyệt vọng tách biệt mình khỏi thế giới hỗn loạn. Tác giả chia sẻ đã phải trải qua một hành trình dài từ trải nghiệm cá nhân đến nghiên cứu thực tiễn để thuyết phục bản thân rằng nhạy cảm không phải một khiếm khuyết, mà đó là một món quà vô cùng độc đáo, và giờ đây cô cảm thấy biết ơn khi trở thành một phần của nhóm người có tính cách thiểu số này. Với niềm tin mang tiếng nói của cộng đồng người nhạy cảm rộng rãi đến với thế giới, Aron ấp ủ đứa con tinh thần của mình từ năm 1992 và sau bốn năm, cuốn sách khoác lên mình tựa đề Người Nhạy Cảm chính thức ra mắt công chúng, không ngừng gây bão trong bảng xếp hạng sách bạn chạy của rất nhiều quốc gia. Cuốn sách được chia làm mười chương: ở hai chương đầu, tác giả chủ yếu phổ cập người đọc những kiến thức lý thuyết căn bản và chuyên sâu của tính cách nhạy cảm; hai chương tiếp theo đề cập tầm ảnh hưởng của đặc điểm tâm lý này tới sức khỏe đời sống của mỗi cá nhân và sự liên hệ với tuổi thơ của từng người; ba chương tiếp theo được sử dụng để thảo luận những tình thế mà người nhạy cảm thường xuyên đối mặt trong các mối quan hệ xã hội, mối quan hệ thân thiết, trong công việc; và những chương cuối cùng là những liều thuốc hàn gắn tâm hồn người nhạy cảm. Ở cuốn sách độc đáo này, nhà tâm lý học nghiên cứu Elaine Aron đã nghiên cứu thành công nền tảng tâm lý học mới bằng cách xác định một đặc điểm tính cách chưa được chú ý nhiều trong quá khứ, một đặc thù mà ước khoảng 15-20% dân số mang trong mình. Vậy nhạy cảm qua quan điểm của tác giả là như thế nào? Nhạy cảm là như thế nào? Tính cách này biểu hiện một hệ thống thần kinh rất nhạy cảm đã hình thành từ khi sinh ra và có thể được di truyền, cũng giống như mọi đặc điểm tâm lý hoặc đặc điểm thể chất khác. Những người nhạy cảm cao phản ứng mạnh mẽ hơn nhiều với hầu hết mọi thứ - từ các đặc điểm giác quan của các đối tượng và sự kiện, đến sự tinh vi của cảm xúc nội tâm và các mối quan hệ giữa con người với nhau. Người nhạy cảm tiếp nhận rất nhiều thông tin, có nghĩa là họ có thể bị choáng ngợp bởi ánh sáng, tiếng ồn lớn, mùi hương và sự lộn xộn, họ cũng gặp phải các triệu chứng căng thẳng về thể chất hơn - cơ thể của họ phản ứng dữ dội hơn với mọi vật; đây có thể là một điều phiền toái bởi vì nó khiến người nhạy cảm phải trăn trở quá nhiều. Nhưng xét về mặt tích cực, họ lại sở hữu trực giác tinh tế mà những người khác không có, điển hình là việc thấu hiểu tâm trạng của người khác, điều này mang lại cho người nhạy cảm một tài năng hứa hẹn về sự sáng tạo, cái nhìn sâu sắc và sự quan tâm — tất cả những đặc điểm mà xã hội của chúng ta cần. Do nhận thức ngày càng cao về mọi sự vật trong môi trường của họ, những người nhạy cảm cao trong nền văn hóa của chúng ta thường bị nghi ngờ về tính kiên định, và được khuyến khích phát triển cứng cáp hơn. Cô Aron chỉ ra rằng những người có đặc điểm này thường bị gán ghép nhầm lẫn với thuật ngữ khác trong quá khứ, các tên gọi khác được các chuyên gia mặc định điển hình là "nhút nhát", "hướng nội" hoặc "loạn thần kinh".  Không bằng lòng với nghiên cứu của các chuyên gia đi trước, tác giả quyết định dành rất nhiều thời gian để xác định và mô tả chuẩn xác đặc điểm của nhạy cảm bằng cách cung cấp tất cả bằng chứng nghiên cứu và giai thoại của những người tham gia phỏng vấn vì vấn đề này ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân; và bằng chứng cho thấy việc trở thành một người có độ nhạy cảm cao vừa là một may mắn vừa là một gánh nặng, tùy thuộc vào các yếu tố khác nhau tác động cuộc đời của nhân vật đó. Mặc dù sở hữu đặc điểm này có thể khiến cuộc sống gặp nhiều thử thách nhưng tác giả, bản thân là một người nhạy cảm, nhấn mạnh rằng bản tính này không phải là một chứng rối loạn tâm lý hay một khiếm khuyết nhân cách cần phải loại bỏ. “Chính sự nhầm lẫn giữa nhạy cảm và tâm lý bất ổn cùng tác động của chấn thương thời thơ ấu là một trong những lý do dẫn tới định kiến tiêu cực về người nhạy cảm.” Đặc điểm nhạy cảm chỉ đơn thuần là một phần tính cách của mỗi cá nhân; một người sinh ra có tính nhạy cảm cao không nhất thiết bị giới hạn khả năng hưởng thụ cuộc sống, nhưng đặc tính ấy sẽ tác động đến mọi thứ, từ các mối quan hệ xã hội đến công việc, sinh hoạt của người đó. Tác giả chỉ ra rằng, xã hội thường không đánh giá cao những người sở hữu dạng tính cách này, đặc biệt là ở trẻ em và nam giới; vì vậy nếu bạn là hoặc biết một người nhạy cảm cao, cuốn sách sẽ này cung cấp những hiểu biết sâu sắc mang tính xây dựng, đem đến cái nhìn mới mẻ hơn, khoan dung hơn về trạng thái tâm lý độc nhất này ở quá khứ, hiện tại và tương lai. Mời các bạn đón đọc Người Nhạy Cảm - Món Quà Hay Lời Nguyền của tác giả Elaine N. Aron.
Một Đời Như Kẻ Tìm Đường
Hai cuốn sách trước của GS. Phan Văn Trường, “Một Đời Thương Thuyết” và “Một Đời Quản Trị”, là sự chắt lọc từ những trải nghiệm trong suốt nhiều năm tháng nghề nghiệp của bản thân. Tuy nhiên, đến với cuốn sách này, tác giả lại muốn dành một khoảng không gian riêng để có thể phản ảnh những cảm nhận cá nhân về cuộc sống, với góc nhìn từ những năm tháng tuổi trẻ cho đến độ tuổi xế chiều này. Khoảnh khắc khó chịu nhất có lẽ là khi mình đã lỡ chọn một hướng đi, nhưng ngộ được rằng con đường này nhiều chông gai, lắm rào cản và lại còn không phù hợp. Trong lòng, lúc ấy chỉ muốn được quay trở lại để bắt đầu, để lựa chọn lại một hướng khôn ngoan hơn. Việc lựa chọn tất nhiên đòi hỏi nhiều sáng suốt, nhưng trên hết người lựa chọn phải hiểu rõ thế giới mà mình đang sống và biết rõ chính mình muốn gì, và một mặt khác phải sẵn sàng cáng đáng lấy trách nhiệm trong sự lựa chọn. Nói một cách hoa mỹ hơn, mình chỉ tìm ra hướng đi đúng đắn và phù hợp cho bản thân nếu thấu hiểu rõ bản năng, bản ngã và cả tiềm thức của chính mình. Cùng một tinh thần luôn sẵn sàng đối mặt với những hệ quả tốt và xấu từ sự lựa chọn ấy. *** REVIEW SÁCH: MỘT ĐỜI NHƯ KẺ TÌM ĐƯỜNG – GS. PHAN VĂN TRƯỜNG Gập lại trang sách cuối cùng, tôi đặt bút xuống và bắt đầu viết ngay về nó. Một cuốn sách mà tôi ước mình được đọc vào năm 18, 20 tuổi, cái tuổi còn hoang mang và ngây dại, lao đao đi tìm đường cho chính mình. Một cuốn sách của người thầy mà tôi vô cùng kính trọng, Giáo sư Phan Văn Trường. Và tôi đang viết về “Một đời như kẻ tìm đường”. Cuốn sách này là tác phẩm thứ 3 của thầy trong bộ sách “Kết tinh một đời” xuất bản cách đây một năm. Khác với hai cuốn sách được viết trước là “Một đời quản trị” và “Một đời thương thuyết” thầy dành tặng cho những người làm kinh doanh, những nhà đàm phán, cuốn sách thứ ba này thầy gửi tặng cho tất cả mọi người. “Một đời như kẻ tìm đường” kể lại một cách trầm ấm những câu chuyện trong gần 70 năm sinh sống và làm việc tại hơn 80 quốc gia của thầy Trường, từ khi thầy còn là một cậu du học sinh nghèo trên đất Pháp tới khi đã trở thành một trong những người quyền lực nhất thế giới. Qua mỗi câu chuyện thầy kể, thầy đúc rút những bài học, những sai lầm không nên mắc phải trong chuyện chọn trường, chọn nghề, chuyện đi làm, văn hoá ứng xử, chọn một thái độ sống và làm việc đúng đắn, mà nổi bật nhất là văn hoá “nice and professional” và “hãy thật hồn nhiên”. Theo thầy, đó chính là chìa khoá để thế hệ sau bước đến đỉnh cao của tri thức và nhân loại. Không chỉ chong đèn soi lối cho những ai đang loay hoay với sự nghiệp, thầy còn soi sáng và làm rõ một khía cạnh quan trọng khác của cuộc sống mà nhiều người trong số chúng ta sau đang dần quên lãng đi giá trị đích thực của nó. Đó là tình yêu! Qua từng trang sách, thầy gửi gắm một bài học đắt giá cho thế hệ sau cần phải nhớ. “Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn”. Thầy viết về tầm quan trọng của người đầu ấp tay gối với chúng ta, thầy dặn chúng ta phải biết trân trọng người bạn đời của mình. Vì chỉ khi có một hậu phương vững chắc như thế, mỗi cá nhân mới có thể nghĩ đến việc chinh phục thế giới rộng lớn ngoài kia. Thầy khẳng định, lựa chọn quan trọng nhất trong đời người chính là tìm ra người chồng/người vợ để bước cùng trên hành trình sắp tới.  Như bao người khác thầy cũng đã là một người cha. Thầy dành những trang cuối cùng để gửi tới những các bậc phụ huynh đang hoang mang và cố tìm cho con mình một con đường tốt. Thầy mong các phụ huynh hãy bình tĩnh, hãy tự do với con họ và cũng như tự do với chính mình. Hãy tin tưởng và bên cạnh các con như một “người bạn” để cùng con trải nghiệm và đừng áp đặt bất kỳ một quan điểm nào mà mình cho là đúng lên một đứa trẻ đang trên hành trình khám phá thế giới của riêng nó. Chính “tình bạn” ấy sẽ giúp họ hiểu hơn về con và về chính mình. Mỗi đứa trẻ rồi sẽ là một kỳ tích nếu như các bậc phụ huynh biết cách làm bạn chứ không phải áp đặt khi ở bên cạnh chúng. “Một đời như kẻ tìm đường” không phải là quyển sách để ta đọc một, hai lần. Nó là cuốn cẩm nang cô đọng những gì tinh túy nhất từ 70 năm cuộc đời của một con người đã đi năm châu bốn bể, đã gặp gỡ hàng trăm ngàn người thuộc đủ thể loại màu da sắc tộc, văn hoá, tôn giáo. Từng bài học trong cuốn sách rồi chính chúng ta sẽ trải qua. Với những lời khuyên và bài học triết lý nhân văn sâu sắc từ Giáo sư Phan Văn Trường, tôi tin rằng cuốn sách “Một đời như kẻ tìm đường” sẽ trở thành một người bạn đồng hành đáng tin cậy của mỗi người trong chuyến hành trình cuộc đời còn dài phía trước. ***   Sách: Một đời như kẻ tìm đường của GS. Phan Văn Trường. Đã lâu không đọc sách self-help và cũng đã rất lâu mới đọc được 1 quyển self-help mà chân thành, chân thực, có giá trị đến thế. Đọc xong đặt quyển sách xuống mà vẫn thấy trong lòng lâng lâng. Vẫn là câu truyện tìm đường, trong đời người có biết bao nhiêu lần phải quyết định chọn 1 con đường cho mình. Biết bao lần băn khoăn, lo lắng liệu quyết định của mình có đúng, liệu quyết định đó có mang lại thành công, có mang lại hạnh phúc? Nhưng xét cho cùng chúng ta đâu có được thực sự lựa chọn, hay nếu có lầm tưởng là được chọn thì chẳng qua chúng ta cũng chỉ được chọn trong 1 nhóm nhỏ các lựa chọn mà thôi. Vậy thì phân tích làm gì, khi mà dữ liệu phân tích luôn không đầy đủ, thông tin ngày hôm nay cho là đúng thì ngày mai đã thành sai, và nhất là nếu đợi cho đến lúc đủ thông tin thì người khác đã quyết định trước mình rồi. Như tác giả đã trích dẫn: “Không có đủ thông tin thì những tính toán thiệt hơn hoàn toàn vô ích. Thà để linh tính phán quyết có lẽ tốt hơn. Sau đó tôi phó mặc hết cho ông trời. Muốn ra sao thì ra, kết quả thế nào cũng được, mặc kệ, chết thì thôi. Phương châm phải là chọn nhanh lên rồi tiến bước nhanh hơn nữa. Không một lựa chọn nào tốt cả nếu phần thực hiện ngập ngừng”. Và hơn hết hãy lựa chọn theo mong muốn, theo sở thích, “sướng thì hãy chọn, chứ đừng chọn để sướng”. Suy ra việc chọn nghề, “Sự thành công trong cuộc đời không đơn thuần là chuyện chọn nghề mà phần lớn xuất phát từ những cố gắng trong quá trình hành nghề. Nói một cách khác làm nghề gì bạn cũng có thể thành công, thậm chí có thể nổi tiếng nếu nỗ lực hàng ngày để trau dồi tay nghề của mình”. Cuốn sách không dừng ở phạm vi tìm đường mà hơn thế nữa, dạy học làm người, dạy làm vợ, làm chồng, làm bạn, làm đối tác. “Mỗi chúng ta không thể thất bại nếu mọi người chung quanh thực sự quý mến chúng ta. Được toàn xã hội yêu và trân trọng thì không thể nào thất bại, có phải thế không? Vậy thì mỗi khi chúng ta khoe nhà lầu, phô trường siêu xe, ca tụng con cái đẹp, kiêu ngạo với cuộc sống xa hoa thì chính chúng ra đang vô tình tạo ra những điều kiện để thất bại. Chẳng phải có xe, nhà, con đẹp là một tội, mà chính việc phô trương những thứ này mới là thiếu ý thức. Khoe là tự tách rời một chút khỏi xã hội bình thường. Khoe là tìm hạnh phúc trong sự khoái trá hơn người, và tất nhiên làm vậy cũng có nghĩa mình đang sống vì những gì người khác nghĩ về mình chứ không vì chính cảm nhận của bản thân.” Lại nói về thành công, một trong những tố chất làm nên thành công mà thầy có nhắc đến, là tư duy hệ thống, thứ mà Thị vẫn hay nhắc đi nhắc lại nhưng chưa thể diễn đạt 1 cách trôi chảy. “Khả năng nối liền nhiều hiện tượng có liên quan với nhau trong lý luận là sự thể hiện của tư duy hệ thống. Lộ trình của thành công, hay của thất bại, là khả năng hiểu được các mối tương quan giữa vạn vật, giữa nhiều hiện tượng, mà ban đầu chúng ta có thể tưởng rằng các yếu tố đó hoàn toàn độc lập. Vậy muốn có được lý luận hệ thống thì chúng ta phải làm gì? Phải có nền tảng văn hóa tổng hợp tốt, lịch sử, địa dư, kinh tế, tài chính, khoa học…. Người đã có văn hóa tổng hợp sẽ không thể trở lại những lý luận ấu trĩ. Muốn có văn hóa tổng hợp thì rất cần đọc nhiều, tham khảo tài liệu chuyện môn… Viết về nhịp sống, về thời gian: “Các bạn trẻ Việt Nam thì vội vàng. Họ sống giữa sự tà tà câu giờ và những sự đột xuất, cả 2 thứ lẫn lộn với nhau. Song song với đó, họ bị gia đình hối thúc, giục lập gia đình sớm, giục có con, giục về nhà, giục ăn, giục ngủ. Bao nhiêu chuyện cần phải giục nhưng không có lý do thực. Đến cả khi đi chơi đơn thuần thôi mà rồi cũng phải giục nhau dậy sớm tinh mơ, giục nhau ăn sáng, rồi giục nhau lên đường. Nhưng rút cục, mỗi chúng ta không đi nhanh hơn những người ở xứ khác, thậm chí hầu như mọi người đi đâu cũng tới muộn. Một trong những dân tục đủng đỉnh nhất là Thụy Sĩ. Họ chậm chạp, khoan thai, tà tà, đi chậm rãi, làm việc chậm rãi, ăn uống chậm rãi, nhưng rồi họ chẳng tới muộn hơn ai. Người Canada cũng thế, người Pháp cũng chẳng khác chi. Phải chăng chuyện hấp tấp vội vã là một bản tính chứ không phải một đòi hỏi thực của cuộc sống? Tuổi thọ trung bình  của con người hôm nay đã cao hơn, tuổi lý tưởng để lập gia đình nên là trên 30. Với lứa tuổi đó bạn vẫn còn trẻ chán để sinh ra 2 đứa con. Còn trước đó, dù là con trai hay con gái, hãy cứ chơi vô tư, cứ tận hưởng cái tuổi thanh niên mà cha mẹ muốn bạn chấm dứt sớm. Bạn đừng quên là nếu có lập gia đình sau tuổi 40 đi chăng nữa, bạn vẫn còn phải sống với người vợ hay chồng thêm 30 hay 40 năm nữa. Phải chăng hạn kỳ vẫn còn quá dài” :v :v :v Còn nhiều thứ hay lắm trong cuốn sách của thầy, có những thứ mình đã biết nhưng không sao viết ra được một cách đã đời như vậy. Có lẽ bài viết này còn quá là sơ sài để tóm tắt và nếu được hết cảm nhận về quyển sách. Nếu bạn quan tâm hãy đọc quyển sách nha! Mời các bạn đón đọc Một Đời Như Kẻ Tìm Đường của tác giả Phạm Văn Trường.