Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Làm Giàu Trong Nền Kinh Tế Tri Thức (Lester C. Thurow)

Lester C. Thurow là Giáo sư Khoa quản trị và kinh tế của Học viện kỹ thuật Massachusetts ( MIT) từ nǎm 1968. Từ nǎm 1987 đến nǎm 1993 ông là Trưởng khoa Quản trị của MIT. Các tác phẩm tiêu biểu của ông như: The Zero - Sum Society, Head to head và The Future of Capitalisme đều thuộc loại " bestsellers"

Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng ta đang ở trong thời kỳ quá độ của nền kinh tế tri thức...

Những cá nhân, những tập đoàn và tất cả các quốc gia phải làm gì để có thể thành công trong nền kinh tế mới mẻ này của thế kỷ 21? Thay vì chú ý đến những vấn đề tiêu thụ, Lester C. Thurow thuyết phục chúng ta phải đẩy mạnh đầu tư cho lĩnh vực kiến thức cơ bản, giáo dục và cơ sơ hạ tầng. Chỉ bằng cách công khai xây dựng sự giàu có cho cộng đồng, chúng ta mới có thể tối đa hoá các vận hội để làm giàu cho cá nhân.***

Ở mặt trái của tờ giấy bạc một đô la có hình một kim tự tháp chưa hoàn tất, trên đỉnh có một con mắt sáng long lanh, lấy từ mặt trái đã bị quên lãng của đại huy hiệu Hiệp Chủng Quốc và do Tổng thống Roosevelt cho đặt lên tờ đô la vào năm 1935, giữa cuộc đại khủng hoảng khi mà sự giàu có của Hoa Kỳ đang giảm mạnh. Kim tự tháp được sử dụng làm biểu tượng cho sức mạnh và sự trường tồn kinh tế và chính đặc điểm chưa hoàn tất cũng nhằm biểu hiện cho sự giàu có ở Hoa Kỳ ngày càng tăng. Người Mỹ cần đặt hy vọng vào một nền kinh tế đang sụp đổ sẽ được thay thế bằng một nền kinh tế sẽ tồn tại mãi mãi, những ngày tốt đẹp nhất đối với Hoa Kỳ đang ở phía trước, không phải ở sau lưng. Một câu ghi bằng tiếng La tinh (Annuit Coeptis) cho dân Hoa Kỳ biết rằng Thượng đế ủng hộ công việc của họ. Một câu thứ hai (Novos Ordo Seclorum) tiên đoán một trật tự giàu có mới của Hoa Kỳ. Như vậy, trong những ngày đen tối nhất về mặt kinh tế, người Mỹ vừa mượn biểu tượng thành công bền vững của nhân loại, vừa cầu nguyện Thượng đế hỗ trợ. Đằng sau con mắt long lanh, một biểu tượng của sự hướng dẫn thiêng liêng, là chóp chưa hoàn tất của kim tự tháp cần phải xây dựng. Người Mỹ có thể nhìn thấy cần phải làm gì để gặt hái thành công. Họ cần phải khẳng định mình là những người kiến tạo.

Ngày nay, người châu Á nhìn thấy thế giới cũng giống như người Mỹ thấy vào những năm 1930. Sự phát triển kinh tế nhanh đã bị phá vỡ. Sự giàu có của cá nhân, của doanh nghiệp và của xã hội nhanh chóng biến mất. Thị trường chứng khoán của Indonesia giảm trên 80%. Điều mà mới đó tưởng chừng như một sức mạnh kinh tế không gì ngăn chặn nổi và sẽ khống chế thế kỷ 21 lại giống như một sự đổ vỡ vĩnh viễn. Sự phát triển kinh tế có vẻ vững như đá bây giờ lại như băng tuyết đang tan chảy. Tìm mua: Làm Giàu Trong Nền Kinh Tế Tri Thức TiKi Lazada Shopee

Mô hình tăng trưởng kinh tế châu Á bằng con đường xuất khẩu đã đem hy vọng lại cho hầu hết thế giới thứ ba là sẽ thu ngắn cách biệt kinh tế với các nước đã phát triển, nay đang tả tơi. Những nước thành công đã sụp đổ. Sự tan rã tài chính châu Á đe dọa nền tảng thành công tại các nước trong thế giới thứ ba như Brasil. Vốn và công nghệ từ các nước thuộc thế giới thứ nhất đổ vào nay lại ra đi và các nhà dự báo đánh giá thấp viễn cảnh kinh tế trong tương lai. Con đường cũ đã bế tắc, đâu là con đường đúng để tích tụ giàu có?

Lục địa châu Âu nhìn thế giới trong đó mô hình ưa chuộng - nền kinh tế thị trường xã hội - nơi mà phúc lợi được trả cao và nhà nước can thiệp mạnh để phân phối rộng rãi sự giàu có không còn thích hợp. Trong khi có những biến động lên xuống mang tính chu kỳ nhưng xu hướng lâu dài về thất nghiệp ở châu Âu không ngừng tăng lên. Tỷ lệ thất nghiệp 2 chỉ số chưa bao giờ thấy từ những năm 1930 nay được xem như tình trạng thường xuyên. Một châu lục nghĩ rằng có thể đảm bảo việc làm cho công dân của mình nay mới thấy là không thể làm điều đó. Các nhà chính trị đều hứa là sẽ làm điều gì đó nhưng mọi người biết là sẽ chẳng làm gì.

Trong nền kinh tế tri thức nhân tạo mới của thế kỷ 21, toàn châu Âu gần như không có lãnh đạo công nghiệp thành công. Công ty sản xuất máy tính địa phương cuối cùng đã bán cho Đài Loan năm 1998. Châu Âu nói đến việc đuổi theo nhưng biết rằng khoảng cách công nghệ giữa họ và Hoa Kỳ ngày càng tăng. Châu lục đã từng sản sinh ra văn hóa nay phải nhập từ Hoa Kỳ. Biểu tượng tương tự như “Intel Inside” có thể được in trên hầu hết những gì mới tại châu Âu. Việc tái cấu trúc, thu gọn và đưa sản xuất ra ngoại biên được xem là mô hình kinh tế tư bản kiểu Hoa Kỳ cần phải tránh xa lại đến.

Tại châu Âu, châu Á và phần còn lại của thế giới thứ ba, nỗi băn khoăn kinh tế lên cao. Tất cả đều mong muốn sức mạnh và sự bền vững của kim tự tháp thể hiện trên tờ một đôla của Hoa Kỳ.

Hoa Kỳ không nằm trong những nước có mối lo lắng cao độ này. Hoa Kỳ đã phục hồi! Trong những năm 1990, Hoa Kỳ thành công nhất trong thế giới các nước công nghiệp. Khoảng cách kinh tế giữa Hoa Kỳ và các nước còn lại của thế giới lại gia tăng. Mức gia tăng 2.000 tỷ đô la tổng sản phẩm nội địa trong thập kỷ 1990 của Hoa Kỳ cao hơn tổng sản phẩm nội địa của tất cả các nước trừ Nhật Bản. Thay vì chựng lại hay sụt giảm trước tình hình khủng hoảng ở châu Á, thành tích kinh tế của Hoa Kỳ trong năm 1998 lại đạt tỷ lệ tăng trưởng 4,3%. Thất nghiệp ở mức thấp nhất trong lịch sử và không có lạm phát.

Người giàu nhất hành tinh một lần nữa lại là người Mỹ. Sự giàu có của các vua dầu lửa (Trung Đông) đã bị lu mờ. Số tỷ phú người Mỹ đã có hàng trăm.

Các doanh nghiệp Mỹ đã chiếm lại vị trí hàng đầu. Trong năm 1990, chỉ có hai doanh nghiệp Mỹ trong số 10 doanh nghiệp lớn nhất thế giới, con số này là 9 vào năm 1998. Tương tự, vào đầu thập kỷ 1990, không có một ngân hàng Mỹ nào trong số 15 ngân hàng lớn nhất, nhưng vào cuối năm 1998 đã có 9 ngân hàng Mỹ lọt vào danh sách. Ưu thế bên dưới đỉnh cao cũng rất lớn. Hai mươi trong số 25 doanh nghiệp to nhất hiện nay là của Mỹ. Nếu không có xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ đang tăng trưởng, một sự suy thoái toàn cầu có thể xảy ra trong năm 1999. Sức mạnh kinh tế của Hoa Kỳ đã được phục hồi và tái thống nhất với quyền bá chủ quân sự của họ.

Đây là thời kỳ vàng son của Hoa Kỳ.

Nhưng ngay bên trong Hoa Kỳ cũng có những ưu tư. Một nền kinh tế đang tăng trưởng nhưng cũng có những dấu hiệu đi xuống mạnh mẽ đối với nhiều người. Rất nhiều người Mỹ tin rằng con cháu của họ sẽ có mức sống thấp hơn họ - cũng chẳng có gì ngạc nhiên khi mà 2/3 lực lượng lao động có mức lương thực tế thấp hơn mức lương vào năm 1973. Những gì mà họ tin rằng sẽ xảy đến cho con cháu họ cũng đang đến với họ.

Thành phần trung lưu đang giảm sụt. Một ít giàu lên nhưng phần lớn đi xuống. Cũng không đáng ngạc nhiên khi nhìn thấy những gì đang xảy ra đối với lương của thành phần thợ trung cấp nhưng cũng rất đáng ngại. Các trang thông tin tài chính hàng ngày đều cho thấy thị trường chứng khoán tăng mạnh nhưng thu nhập bình quân của các hộ gia đình lại giảm thay vì tăng lên và tài sản tài chính của họ dưới mức 10.000 đô la. Số 20% người nghèo nhất có số nợ cao hơn tài sản của họ.

Trong khi kinh tế đang tăng trưởng mạnh, hàng năm có đến 500.000 đến 700.000 công nhân bị các công ty đang làm ăn có lãi cho nghỉ việc - trong năm 1998 có đến 680.000 công nhân. Những công nhân bị cho nghỉ việc trên 55 tuổi sẽ khó tìm được việc làm tốt. Những công nhân dưới 55 tuổi phải chấp nhận mức lương thấp hơn để được thu dụng lại. Dự kiến cho một nghề đem lại cuộc sống thoải mái suốt đời đã trở thành một bí ẩn lớn - ngay cả đối với sinh viên tốt nghiệp đại học. Làm thế nào để có sự thành đạt bền vững? Tìm đâu ra sự an toàn về mặt kinh tế? Chúng ta rất thích thú nhìn những nghệ sĩ biểu diễn đi dây trên cao nhưng thật sự không thích thú chút nào nếu mình là người đi trên sợi dây đó. Cũng như trong thời kỳ Đại khủng hoảng, tốt hơn chúng ta nên ở vị trí đỉnh cao của kim tự tháp biểu hiện sự giàu có và sẽ mãi mãi bền vững.

Đáng lo ngại nhất là năng suất giảm gấp ba lần kể từ những năm 1960. Vì sau cùng, chính sự gia tăng năng suất (khả năng tạo nhiều sản phẩm hơn trong khi sử dụng ít nguyên liệu hơn) sẽ thúc đẩy việc tạo giàu có thật sự. Những biến động tạm thời trên thị trường chứng khoán có thể đem lại giàu có theo thị trường trong ngắn hạn nhưng nếu không có sự gia tăng mạnh về năng suất sẽ không tìm được của cải của sự giàu có về lâu về dài.

Con mắt long lanh trên đỉnh của kim tự tháp trên tờ 1 đôla làm người ta không quan tâm đến phần đáy của nó. Cũng thế, sự sáng chói của mức độ giàu có nằm ở nấc cao nhất trên thang phân bổ giàu có - những tỷ phú mới - làm lu mờ phần đáy của kim tự tháp, là nền tảng của chính sự giàu có. Nhưng cho dù được nằm ở đỉnh là cả một sự hấp dẫn, kim tự tháp thật được xây dựng từ đáy lên chứ không phải từ đỉnh xuống.

Vào cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, sáu công nghệ mới - vi điện tử, máy tính điện tử, viễn thông, nguyên liệu nhân tạo mới, rô bốt và công nghệ sinh học - đang tác động qua lại tạo ra một thế giới kinh tế mới và rất khác biệt. Những tiến bộ trong khoa học cơ bản làm nền tảng cho 6 lãnh vực này đã tạo ra những công nghệ đột phá làm nẩy sinh hàng loạt công nghiệp vừa to lớn, vừa mới mẻ: máy tính điện tử, mạch bán dẫn, tia la de... Những công nghệ này tạo cơ hội để cải tiến nhiều ngành công nghiệp cũ: Mua bán qua mạng thay thế mua bán thông thường; điện thoại di động rải khắp nơi. Nhiều sự việc mới có thể thực hiện được: cây và con biến đổi gien xuất hiện; một nền kinh tế toàn cầu hóa lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại trở thành hiện thực. Nói một cách tượng hình, đây là thời kỳ công nghiệp nhân tạo từ tri thức.

Nền tảng cũ của sự thành công đã biến mất. Đối với hầu hết lịch sử nhân loại, nguồn gốc của sự thành công là sự kiểm soát tài nguyên thiên nhiên - đất đai, vàng bạc và dầu mỏ. Bất chợt lời giải là “tri thức”. Người giàu nhất thế giới, Bill Gates, không sở hữu bất kỳ vật hữu hình nào - không đất đai, không vàng bạc, không dầu mỏ, không nhà máy, không qui trình công nghệ, không quân đội. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại người giàu nhất chỉ sở hữu tri thức.

Tri thức là cơ sở mới của sự giàu có. Điều này chưa bao giờ là một sự thật. Trước đây, khi các nhà tư bản nói về sự giàu có của mình, họ nói về quyền sở hữu nhà máy, máy móc thiết bị và tài nguyên thiên nhiên. Trong tương lai, khi các nhà tư bản nói về sự giàu có, họ sẽ nói về sự kiểm soát tri thức. Ngay cả ngôn ngữ để thể hiện sự giàu có cũng thay đổi. Người ta có thể nói về sở hữu thiết bị hay tài nguyên thiên nhiên. Khái niệm về “sở hữu” ở đây rất rõ ràng. Nhưng người ta không thể nói sở hữu tri thức. Sở hữu tri thức là một khái niệm rất lỏng lẻo. Người có tri thức không thể trở thành nô lệ. Chính xác là làm sao để sở hữu tri thức mới thực sự là vấn đề cốt lõi trong nền kinh tế tri thức.

Sự biến đổi hiện nay thường được mô tả một cách sai lầm là cuộc cách mạng thông tin hay là một xã hội thông tin. Nó còn vượt xa hơn thế nữa. Thông tin nhanh hơn hay rẻ hơn tự nó chẳng có giá trị gì. Thông tin chẳng qua là một trong những yếu tố đầu vào mới sử dụng để xây dựng một nền kinh tế khác biệt trong đó có nhiều sản phẩm và dịch vụ rất khác biệt. Thông tin nhiều hơn cũng chẳng có gì quan trọng hơn những loại nguyên liệu mới, những thực thể sinh học mới, hay những loại rô bốt mới trong việc xây dựng nền kinh tế tri thức mới này. Xã hội cần phải tổ chức lại thế nào để tạo môi trường thúc đẩy làm giàu dựa trên tri thức? Điều gì cần thiết để làm cho các nhà doanh nghiệp thay đổi và làm cho sự giàu có nẩy nở? Làm thế nào để cho sự giàu có dựa trên tri thức phát sinh? Đòi hỏi kỹ năng gì? Tài nguyên thiên nhiên và môi trường tham gia vào nền kinh tế tri thức mới này thế nào? Vai trò của việc chế tạo công cụ trong nền kinh tế tư bản tri thức là gì khi mà các công cụ vật chất không còn chiếm vị trí trung tâm của hệ thống? Qui trình nào để sự giàu có có thể mua bán được của tư nhân xuất hiện? Cơ bản là làm thế nào sử dụng “tri thức” để xây dựng một kim tự tháp giàu có mới cho cá nhân, cho công ty và cho xã hội? Đây là những câu hỏi cần phải trả lời nếu muốn thành công trong nền kinh tế tri thức.

Điều quan trọng về bất kỳ kim tự tháp nào không phải được khám phá bằng cách trèo lên đỉnh mà chính là các đường hầm dẫn đến các kho tàng ẩn giấu bên trong. Làm thế nào để lợi dụng các công nghệ mới để cải tiến sản xuất các sản phẩm cũ và tạo ra các sản phẩm cải tiến mới? Kỹ thuật xây dựng mới là gì để đưa các tảng đá to hơn (năng suất cao hơn) vào vị trí? Làm thế nào chúng ta có thể sử dụng các công nghệ mới này để xây dựng các kim tự tháp giàu có to hơn và cao hơn trong tương lai? Xây dựng một kim tự tháp giàu có bền vững đòi hỏi trước hết chúng ta phải tìm hiểu khung cảnh kinh tế mới đang hình thành. Nằm đâu đó trong khung cảnh này sẽ là một kim tự tháp biểu hiện sự giàu có mới. Một khi đã khám phá ra nó, các tính chất khảo cổ của nó cần phải được thông hiểu tường tận. Nó đã được xây dựng thế nào? Đâu là các lối vào? Thiếu các thông tin này, các nhà săn tìm kho tàng không thể tìm thấy của cải kinh tế chôn vùi bên trong.

Chỉ sau khi là những nhà khám phá, nhà khảo cổ và những người săn lùng kho tàng, con người mới có thể trở về với công việc thực của mình - học cách xây dựng cho bản thân, cho công ty và cho xã hội của chúng ta một kim tự tháp biểu tượng cho sự giàu có vĩ đại, mới và bền vững.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Làm Giàu Trong Nền Kinh Tế Tri Thức PDF của tác giả Lester C. Thurow nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Kiếm Tìm Sự Hoàn Hảo - Thomas J. Peters & Robert H. Waterman
Được xuất bản vào năm 1982, ngay lập tức cuốn sách trở thành best-sellers và trở thành “hiện tượng quốc gia” khi Peter đứng ra xây dựng một loạt các chương trình truyền hình dựa trên nội dung của cuốn sách phát của đài FBS. Với ý tưởng chính là giải quyết các vấn đề trong kinh doanh với chi phí thấp, quy trình tốt, đồng thời trao quyền cho các cấp lãnh đạo trong công ty, Đi tìm sự hoàn hảo được nhiều cá nhân, tổ chức uy tín trên thế giới đánh giá là cuốn sách kinh doanh hay nhất mọi thời đại, thực sự là cuốn sách không thể thiếu trong các trường kinh doanh, trên bàn làm việc của các doanh nhân và nhà kinh tế học trên toàn thế giới. Dựa trên nghiên cứu về 43 công ty Mỹ được quản lý tốt nhất trong mọi ngành kinh doanh, các tác giả Thomas J. Peters và Robert H. Waterman, Jr. đã tạo ra Đi tìm sự hoàn hảo, trong đó mô tả 8 đặc điểm cơ bản cần có trong quản lý để trở thành một công ty vượt trội, và tập trung vào bảy yếu tố (7S) trong khung phân tích của McKinsey để đánh giá một tổ chức. Tám nguyên tắc cơ bản trong quản lý để trở thành một công ty vượt trội: 1. Thiên hướng hành động 2. Gần gũi với khách hàng  3. Khả năng tự quản và tinh thần doanh nghiệp  4. Năng suất phụ thuộc vào lực lượng lao động  5. Đi sâu đi sát, đề cao giá trị  6. Bám chặt lấy lĩnh vực sở trường. 7. Hình thức đơn giản, biên chế gọn nhẹ  8. Cách thức quản lý vừa cứng rắn vừa mềm. *** Bảy yếu tố trong khung phân tích của McKinsey bao gồm: Cơ cấu/ Chiến lược/ Kỹ năng/ Nhân sự/ Phong cách/ Hệ thống/ Giá trị chung. Một cuốn sách độc đáo. Không nghi ngờ gì nữa. Đây là cuốn sách hữu ích đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc xác định nhân tố nào khiến các tổ chức hoạt động hiệu quả. _Warren Buffett_ Không nên bỏ qua cuốn sách này _ International Management Magazine_ Một trong những tác phẩm nên đọc, hiếm có và thú vị, đề cập tới lĩnh vực quản lý với lối tư duy gây nhiều tranh cãi._ Wall Street Journal_ *** THÔNG TIN VỀ TÁC GIẢ: THOMAS J. PETERS (sinh ngày 7.12.1942) là cây bút Mỹ viết về sự thực hành quản lý trong kinh doanh. Ông có bằng tiến sĩ của Đại học Kinh doanh Stanford. Năm 1990, Peters đã vinh dự của Bộ Thương mại và Công nghiệp Anh (DTI) công nhận là một trong những guru hàng đầu thế giới.  ROBERT H. WATERMAN, JR là tác giả và chuyên gia về thực hành quản lý trong kinh doanh. MBA của Đại học Stanford , hiện chỉ đạo công ty riêng của mình, Tập đoàn Waterman, Inc, sau 21 năm tại công ty quản lý tư vấn McKinsey & Company. *** Công thức xây dựng một doanh nghiệp hoàn hảo? Không nhiều sách viết về kinh doanh được sử dụng làm giáo trình giảng dạy tại các trường kinh tế trên thế giới nhưng Kiếm tìm sự hoàn hảo lại là một trong những cuốn sách như vậy. Xuất bản lần đầu năm 1982, cuốn sách đã trở thành best-seller với 3 triệu bản trong bốn năm đầu tiên. Đồng thời, chính cuốn sách này cũng là viên gạch mở đường chứng minh rằng các triết lý kinh doanh không chỉ xuất phát từ Nhật Bản mà còn ở Mỹ. Là một trong những cuốn sách quản trị kinh doanh kinh điển trên thế giới, Kiếm tìm sự hoàn hảo được xây dựng theo một cách thức khá lạ lẫm ngày đó, nhưng sau này, cách thức đó đã trở thành hình mẫu cho rất nhiều cuốn sách, và rất nhiều nghiên cứu khác… Từ tốt đến vĩ đại và Xây dựng để trường tồn của Jim Collins cho đến những cuốn khác như Những công ty đột phá và Những người khổng lồ bé nhỏ của Bo Burlingham cũng đã chọn lựa cách thức nghiên cứu này để hình thành lý thuyết và lập luận của mình. Cũng cần hiểu thêm về bối cảnh ra đời cuốn sách này. Năm 1977, Peters và Waterman mới chỉ là hai chuyên gia tư vấn mới vào nghề của hãng tư vấn quản trị danh tiếng McKinsey. Khi đó, giám đốc McKinsey là Ron Daniel khởi xướng hai dự án; dự án lớn nhất nghiên cứu về Chiến lược kinh doanh, giao cho những chuyên gia tư vấn hàng đầu của McKinsey tại văn phòng New York với ngân sách khổng lồ. Không có kết quả nào mang lại từ dự án này. Dự án thứ hai, ít quan trọng hơn, nghiên cứu về tổ chức, cơ cấu và nhân sự, được giao cho Peters và Waterman tại văn phòng McKinsey tại San Francisco. Peters đi khắp thế giới với một ngân sách hạn hẹp, nói chuyện với rất nhiều doanh nhân thú vị mà ông tìm được về tổ chức và nhóm trong kinh doanh. Nhưng ông không có mục đích khi bắt đầu nghiên cứu. Năm 1979, văn phòng Munich của McKinsey yêu cầu Peters đến thuyết trình những phát hiện của ông cho hãng Siemens và Peters đã soạn ra bản thuyết trình dài tới 700 slide trình bày trong suốt hai ngày. Sau đó, văn phòng McKinsey tại Mỹ lại yêu cầu Peters đến thuyết trình cho PepsiCo nhưng trong một định dạng đơn giản hơn. Do đó, Tom Peters phân chia phần thuyết trình trước đây thành tám chủ đề, là tám nguyên nhân chính mang lại sự thành công cho các tập đoàn thành công. Và cuốn sách viết gồm tám chương dựa trên tám chủ đề này đã ra đời từ những nghiên cứu và thuyết trình đó. Thông qua thực tiễn nghiên cứu 43 công ty xuất sắc nhất ở Mỹ cuối những năm 1970, Tom Peters và Robert Waterman đã chỉ ra rằng tất cả các công ty vượt trội đều nắm trong tay từ 3-5 yếu tố trong mô hình 7S (Structure: Cơ cấu, Systems: Hệ thống, Style: Phong cách quản lý, Staff: Con người, Skills: Các kỹ năng, Strategy: Chiến lược, và Shared Values: Giá trị chung) và đưa ra nhận định rằng để vượt trội, các doanh nghiệp cần xây dựng và duy trì ít nhất bốn đến năm yếu tố trên. Tom Peters đồng thời cũng chỉ ra tám đặc điểm nổi bật mà tất cả các công ty cần có để đạt được thành công vượt trội, đó là: Thiên hướng hành động; Gần gũi với khách hàng; Khả năng tự quản và Tinh thần doanh nghiệp; Năng suất phụ thuộc vào lực lượng lao động; Đi sâu, đi sát, đề cao giá trị; Bám chặt lấy lĩnh vực sở trường; Hình thức đơn giản, biên chế gọn nhẹ; Cách thức quản lý vừa cứng rắn, vừa mềm mỏng. Bằng những ví dụ cụ thể, Tom Peters mang đến cho độc giả cách nhìn hoàn toàn mới khi đó về những yếu tố cơ bản của sự vượt trội. Sự thành công của P&G đến từ sự cam kết gắn bó phi thường với chất lượng sản phẩm chứ không phải từ khả năng marketing tuyệt vời đã trở thành huyền thoại của họ. IBM trở nên vượt trội nhờ họ đã hàng ngày thực hiện được một điều mà các nhà kinh tế học thuần lý khẳng định chắc chắn là không thể, đó là khả năng quản lý tình trạng mơ hồ và nghịch lý. Tiêu chí phục vụ 99,5% của Frito-Lay, mang sản phẩm đến tận tay khách hàng dù mưa gió, bão tuyết chính là nền tảng cho thành công ngoài mong đợi của họ. Đặc biệt, tác giả cũng là những người tiên phong trong việc nhấn mạnh đến văn hóa công ty. Kiếm tìm sự hoàn hảo cho rằng: Tính vượt trội và thống nhất của văn hóa là một tính chất căn bản của những công ty có chất lượng cao nhất. Hơn nữa, nếu văn hóa công ty càng mạnh và càng được định hướng tập trung vào thị trường, công ty càng không cần đến những cẩm nang hướng dẫn chính sách, những biểu đồ tổ chức, hay các quy tắc, thủ tục rườm rà. Trong những công ty này, mọi người từ cấp cao nhất đến cấp thấp nhất đều biết rõ mình phải làm gì trong phần lớn mọi tình huống vì các giá trị định hướng của công ty đều hết sức rõ ràng. Là một trong những cuốn sách được đánh giá là “bất hủ qua thời gian”, siêu kinh điển về quản trị và liên tục được xếp vào danh sách 100 cuốn sách kinh doanh kinh điển nhất mọi thời đại, 100 cuốn sách kinh doanh có ảnh hưởng nhất lịch sử, 75 cuốn sách kinh điển về quản lý, 100 cuốn sách vĩ đại nhất về chiến lược. Gần 20 năm đã trôi qua kể từ khi cuốn sách được xuất bản năm 1982, một số công ty trong cuốn sách đã không giữ được sự thành công nhưng Peters và Waterman được xem là những người đầu tiên xác định 8 đặc điểm cơ bản để một doanh nghiệp thành công và đã trình bày nó một cách có hệ thống. Cùng với cuốn sách này, Tom Peters đã trở thành một cây đại thụ về quản trị trên thế giới… và những nguyên lý được đưa ra trong cuốn sách vẫn còn những giá trị hữu ích cho các doanh nghiệp hôm nay. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách Kiếm tìm sự hoàn hảo. Tôi tin rằng, các nhà quản lý sẽ rút ra cho mình nhiều bài học tâm đắc từ tác phẩm kinh doanh kinh điển này. Tiến sĩ NGUYỄN TUẤN QUỲNH Phó Tổng Giám Đốc Công ty CP Vàng Bạc Đá Quý Phú Nhuận – PNJ Mời các bạn đón đọc Kiếm Tìm Sự Hoàn Hảo của hai tác giả Thomas J. Peters & Robert H. Waterman.
Khoảng Cách - Marty Neumeier
The Brand Gap (Khoảng cách) là một cuốn sách kinh điển về thương hiệu của Marty Neumeier, đứng cùng bộ với hai cuốn sách khác là Zag (Đảo chiều) và The Designful Company (Sáng tạo) trong tủ sách thương hiệu quốc gia (VN) được Alpha book xuất bản năm 2010. Brand Gap giúp các nhà quản lý phân biệt rõ ràng các khai niệm thương hiệu với logo và với nhận dạng thương hiệu, sau đó triển khai những chiến lược xây dựng thương hiệu hiệu quả để thu phục khách hàng, xoá đi khoảng cách giữa chiến lược kinh doanh với trạng thái tâm lý mà khách hàng cảm nhận được khi tiêu thu các sản phẩm, dịch vụ của hãng. Đây sẽ là một cuốn sách rất lạ, rất cuốn hút, vì các trang sách không chỉ có hình và chữ. Thay vào đó là một sự kết hợp nghệ thuật giữa hình và chữ, giữa đen và trắng (và chỉ có đen và trắng mà thôi). Phải nói là rất đẹp, rất ấn tượng, vì những thiết kế đó đều có mục đích cụ thể để minh hoạ cho vấn đề tác giả đang đề cập tới chứ không chỉ để làm đẹp. Về nội dung, tác giả diễn tả thành công những khái niệm khó trong marketing bằng những thuật ngữ và ví dụ đơn giản. Đọc xong sẽ cảm thấy bị thuyết phục luôn và nhiều khả năng là sẽ hiểu được cần phải làm gì để xây dựng thương hiệu. *** TÁC GIẢ MARTY NEUMEIER Quản trị thương hiệu đang được tích hợp với nhiều môn khoa học xã hội khác nhau nhằm tìm ra các phương pháp quản trị hiệu quả. Trong sự phát triển mạnh mẽ của các trường phái, quan điểm, tư duy về quản trị thương hiệu, nổi bật lên là các quan điểm thể hiện trong bộ sách của Marty Neumeier, chủ tịch của Neutron LLC, San Francisco. Bộ sách của Marty Neumeier gồm ba cuốn sách do Alpha Books và Chương trình Thương hiệu Quốc gia chọn dịch và xuất bản nằm trong Tủ sách Thương hiệu Quốc gia, bao gồm: The Brand Gap (Khoảng cách), Zag (Đảo chiều), The Designful Company (Sáng tạo). Bộ sách giới thiệu các công cụ cho việc hoạch định và thực thi chiến lược thương hiệu như: chiến lược khác biệt hóa, phương pháp kết dính các hoạt động, tạo ra các sản phẩm truyền thông sáng tạo, v.v... THE BRAND GAP (KHOẢNG CÁCH) Các chuyên gia quản trị thương thiệu cần quan sát các “khoảng cách” trong quản trị thương hiệu để thấy được những rào cản tự nhiên đối với sự truyền thông và sức cạnh tranh. Các công ty kết nối được những “khoảng cách” này sẽ có nhiều lợi thế hơn đối thủ. Một thông điệp về thương hiệu được truyền trực tiếp vào não bộ con người sẽ giúp rút ngắn “khoảng cách huyền bí” và tạo bước khởi đầu thuận lợi để phát triển mối quan hệ giữa công ty và khách hàng. Những thông điệp kết nối khoảng cách, rút ngắn khoảng cách này là các yếu tố bước đầu quan trọng trong việc xây dựng nên một thương hiệu thành công. Tác giả đã đưa ra năm nguyên tắc chung khuyến nghị nhà quản trị thương hiệu nên xem xét khi đưa ra các quyết định, đó là Khác biệt, Cộng tác, Đổi mới, Công nhận, Trau dồi. ZAG (ĐẢO CHIỀU) Bản chất của sự đảo chiều mặc dù không có gì mới nhưng nó chỉ ra một nguyên tắc căn bản của cạnh tranh là tìm kiếm điểm mạnh trong điểm yếu, sự thành công trong khó khăn, cơ hội trong đe dọa, v.v… Trong Đảo chiều, tác giả đưa ra  17 giai đoạn để giúp các doanh nghiệp tìm ra, thiết kế, xây dựng và sau đó là làm mới sự “đảo chiều” của mình. Trong tiến trình này, tác giả nhấn mạnh đến chiến lược khác biệt hóa là công cụ nổi trội cho việc xây dựng thương hiệu thành công, để hình ảnh thương hiệu chiếm lĩnh vị trí tích cực trong hộp đen nhận thức của khách hàng. THE DESIGNFUL COMPANY (SÁNG TẠO) Nền tảng của năng suất nằm ở sự đổi mới sáng tạo. Sáng tạo bao gồm các kỹ năng để nhận biết những thứ có thể xảy ra trong tương lai, sáng tạo ra những sản phẩm hấp dẫn người tiêu dùng, nối liền khoảng cách với khách hàng, loại bỏ các vấn đề nan giải,... Sáng tạo mang đến sự đổi mới, sự đổi mới thích hợp sẽ tăng cường sức mạnh cho thương hiệu, gây dựng lòng trung thành từ đó giúp công ty đạt được lợi nhuận và phát triển. Nếu bạn muốn có lợi nhuận dài hạn, đừng bắt đầu bằng công nghệ, hãy khởi động với sáng tạo. Trân trọng giới thiệu Bộ sách tới bạn đọc! Hà Nội, tháng 03 năm 2010 TẠ HOÀNG LINH Phó Tổng thư ký Chương trình Thương hiệu Quốc gia Mời các bạn đón đọc Khoảng Cách của tác giả Marty Neumeier.
Khi Rồng Muốn Thức Dậy - Phạm Đỗ Chí
Năm 2000, cuốn sách Đánh thức con Rồng ngủ quên do TS Phạm Đỗ Chí và GS Trần Nam Bình của Đại học New South Wales (Australia) đồng chủ biên, đã ra mắt bạn đọc giữa thời kỳ Đổi mới để góp ý về các chính sách vĩ mô và phát triển kinh tế trên bình diện rộng lớn bao gồm lý thuyết kinh tế và định hướng cơ cấu, thể chế, xã hội, giáo dục, an sinh xã hội, môi trường… Sau 11 năm, cùng với các đồng nghiệp của mình, TS Phạm Đỗ Chí tiếp tục cho ra mắt cuốn sách “Khi rồng muốn thức dậy” nhằm tiếp tục góp ý những chính sách cần thiết để ổn định tình hình kinh tế vĩ mô đang ở biên giới của một cơn khủng hoảng tài chính và thay đổi mô hình kinh tế để thực hiện tăng trưởng bền vững trong 10 năm tới. Các bài viết trong cuốn sách tương đối ngắn gọn và nhấn mạnh đến góc cạnh chính sách và áp dụng thực tiễn, tập trung vào bốn phần chính: - Tổng quan về thực trạng kinh tế Việt Nam năm 2011 và các biện pháp ổn định vĩ mô và phát triển bền vững cho các thập niên tới, cũng như phân định rõ hơn việc áp dụng song hành nền kinh tế thị trường và xã hội chủ nghĩa. - Nhìn lại kinh nghiệm 20 năm qua, nhất là phân tích chính sách 5 năm 2006-2010 vừa qua, đề xuất các chính sách cho năm 2011 và thời gian tới: chính sách tài khóa, tiền tệ, tỷ giá, lãi suất, v.v... - Những tư duy nhằm tìm kiếm một mô hình kinh tế mới, thí dụ: chiến lược đầu tư theo chiều sâu thay vì chiều rộng như từ trước; nâng cao vai trò của doanh nghiệp tư nhân để tăng hiệu quả nền kinh tế (giảm ICOR); và chú trọng nhiều hơn vào thị trường nội địa để tăng mãi lực cho nhu cầu phát triển.. - Các biện pháp nâng cao khu vực nông nghiệp nông thôn, các vấn đề hộ nghèo, giáo dục đại học và đầu tư cơ sở hạ tầng (nhấn mạnh vai trò của việc hợp doanh công - tư), cũng như y tế và an sinh xã hội *** Công chức trẻ cũng có gì hơn! Lê Trường Hai vợ chồng chúng tôi đều là công chức nhà nước, lương hai vợ chồng một tháng cũng được 3,2 triệu đồng. Tổng nguồn thu đơn giản chỉ có một khoản ấy, nhưng thực hiện chi thì phức tạp vô cùng. Tiền mua sữa một tháng cho con 300 nghìn; đóng tiền nuôi (trông giữ) trẻ 600 nghìn; tiền thuê nhà, điện, nước 800 nghìn; nuôi hai chiếc điện thoại di động 200 nghìn; nuôi hai chiếc xe máy (uống xăng) hết 200 nghìn; bình quân một tháng hết 400 nghìn hiếu, hỉ những người liên quan. Tổng cộng các khoản cứng phải chi như trên là 2,5 triệu. Còn lại 700 nghìn là tiền ăn, uống, mua quần áo, chi tiêu sinh hoạt khác của gia đình có ba người ăn; mà tiêu chuẩn của em bé thì chắc chắn không thể cắt giảm được. Một tuần có hai ngày nghỉ (thứ 7, chủ nhật) cũng không tìm được việc gì để làm thêm, gia đình cũng không dám ra khỏi nhà, vì đi ra khỏi nhà là lại liên quan đến tiền. Chỉ mong mọi người trong gia đình được khỏe mạnh, xin đừng ốm đau, chứ đến bệnh viện lại liên quan đến tiền. Nhiều lúc nghe vợ tính toán chi tiêu, mình cũng tủi thân, chỉ động viên “thì có như thế mới là một gia đình”. Cứ nghĩ hai vợ chồng hết cảnh dè xẻn chi tiêu của thời sinh viên rồi, nhưng bây giờ lại còn tệ hơn. Cũng không biết trong hoàn cảnh như thế này, có khi nào “cái khó ló cái khôn” được nữa không. Mình thật là yếu đuối. Chắc rồi sẽ qua.” Trong tâm tư đó, chúng tôi – các tác giả cuốn sách, đều muốn góp phần nhỏ bé của mình cho ước mơ tăng trưởng bền vững của đất nước và nâng cao đời sống kinh tế cũng như chất lượng sống của người Việt Nam trong một xã hội công bằng hơn. Các bài viết tương đối ngắn gọn và nhấn mạnh đến góc cạnh hàm ý chính sách và áp dụng thực tiễn. Nội dung sách gồm bốn phần chính: A. Dẫn Nhập: Tổng quan về thực trạng kinh tế Việt Nam năm 2011 và các biện pháp ổn định vĩ mô và phát triển bền vững cho các thập niên tới, cũng như phân định rõ hơn việc áp dụng song hành nền kinh tế thị trường và xã hội chủ nghĩa. B. Ổn định kinh tế vĩ mô: Nhìn lại kinh nghiệm 20 năm qua, nhất là phân tích chính sách 5 năm 2006-2010 vừa qua, đề xuất các chính sách cho năm 2011 và thời gian tới: chính sách tài khóa, tiền tệ, tỷ giá, lãi suất, v.v... C. Tư duy và mô hình kinh tế mới?: Những tư duy nhằm tìm kiếm một mô hình kinh tế mới,thí dụ: chiến lược đầu tư theo chiều sâu thay vì chiều rộng như từ trước (chiến lược phát triển đã phần lớn dựa vào vốn đầu tư nhà nước [do hệ thống tín dụng ngân hàng cung cấp và ưu đãi] và FDI – chú trọng quá nhiều vào bất động sản, khai thác tài nguyên khoáng sản… ); nâng cao vai trò của doanh nghiệp tư nhân để tăng hiệu quả nền kinh tế (giảm ICOR); và chú trọng nhiều hơn vào thị trường nội địa để tăng mãi lực cho nhu cầu phát triển. Chính sách này sẽ kêu gọi ít vốn đầu tư hơn trước đây và thích hợp với khả năng tài chính yếu kém của Việt Nam hiện nay. D. Nông nghiệp nông thôn và các khâu đình trệ chính: các biện pháp để thật sự nâng cao khu vực nông nghiệp nông thôn, các vấn đề hộ nghèo, giáo dục đại học và đầu tư cơ sở hạ tầng (nhấn mạnh vai trò của việc hợp doanh công - tư (PPP, public-private partnership)), cũng như y tế và an sinh xã hội. Giống như ĐTCRNQ, cuốn sách này là tập hợp những công trình của một số nhà kinh tế người Việt làm việc trong và ngoài nước. Một số tác giả (khoảng một phần năm) đã từng tham dự vào ĐTCRNQ. Phần còn lại là bài viết của các tác giả mới, tuy rằng tên tuổi của họ đã từ lâu rất quen thuộc với các độc giả thường xuyên theo dõi các bài viết về kinh tế Việt Nam. Mặc dù người viết có thể đếm từ tuổi 30 đến trên 80, đa số các tác giả mới là các bạn đồng nghiệp trong lứa tuổi 30-40, đang công tác tại các đại học, viện nghiên cứu và cơ quan chính quyền hay ngành kinh doanh tư nhân tại Việt Nam. Có thể nói không quá rằng các tác giả này là đại diện nhóm nhà nghiên cứu kinh tế trẻ tuổi với nhiều triển vọng và do đó phản ánh được phần nào tiếng nói của thế hệ trẻ hiện nay. Vì thế, ở khía cạnh tác giả, cuốn sách Khi Rồng muốn thức dậy vừa mang tính liên tục, vừa có tính chuyển tiếp để chuyền tay bó đuốc của thế hệ trước trong sách Đánh thức con Rồng ngủ quên. Giá trị của một cuốn sách là do độc giả quyết định. Chúng tôi hy vọng độc giả sẽ rút ra được một vài lợi ích thực tiễn từ cuốn sách này trong việc tìm hiểu kinh tế Việt Nam hay áp dụng một số đề xuất chính sách cho hoàn cảnh khó khăn của đất nước hiện nay. Tôi xin trân trọng cảm ơn các bạn đồng tác giả, đặc biệt là GS. Trần Nam Bình đã gợi ý cho việc hình thành cuốn sách mới này, vì bận rộn đã không thể góp mặt như một đồng chủ biên nhưng đã tích cực góp ý cho việc sắp xếp bố cục, chuẩn bị kỹ thuật, kêu gọi đóng góp của một số tác giả và có bài góp mặt; như vậy trên tinh thần, GS. Bình đã là đồng chủ biên. Tôi cũng xin ghi nhận và cảm ơn những cảm tình đặc biệt dành cho cuốn sách này của ông Huỳnh Sơn Phước, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Tuổi Trẻ, và ông Dương Thanh Thủy, nguyên biên tập viên Thời báo Kinh tế Sài Gòn. Lời cuối chúng tôi xin đặc biệt dành cho ông Nguyễn Cảnh Bình (Tổng Giám đốc), bà Đào Quế Anh (Phó tổng Biên tập) và Công ty Cổ phần Sách Alpha đã tích cực hỗ trợ trong việc xuất bản và phát hành cuốn sách này. Tháng 4 năm 2011  PHẠM ĐỖ CHÍ Mời các bạn đón đọc Khi Rồng Muốn Thức Dậy của tác giả Phạm Đỗ Chí.
CEO và Hội Đồng Quản Trị - Phạm Trí Hùng & Nguyễn Trung Thắng
Khi Việt Nam chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, cách thức điều hành các thực thể cấu thành và tham gia nền kinh tế cũng phải thay đổi theo. Trong bối cảnh hội nhập và khi nền kinh tế Việt Nam tiếp tục mở cửa, ngày càng nhiều các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá, các doanh nghiệp Việt Nam đang ở một bước ngoặt phát triển quan trọng với cơ hội tự định đoạt mô hình, phương thức hoạt động và những mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài. Cuốn sách này nhằm cung cấp những hướng dẫn thực tế để hỗ trợ cho các chủ sở hữu và các nhà quản lý doanh nghiệp - Giám đốc/Tổng giám đốc (CEO), Chủ tịch, thành viên Hội đồng quản trị (HĐQT) thực hiện quản trị và điều hành công ty một cách tốt nhất; đồng thời đáp ứng được những tiêu chuẩn toàn cầu, hiện đại về quản trị công ty. Trong bối cảnh suy thoái kinh tế, bằng cách rà soát lại, giải quyết các vấn đề về quản trị và điều hành công ty một cách có hệ thống, doanh nghiệp có thể cải thiện hoạt động kinh doanh, mở rộng cơ hội tăng trưởng và thu được những lợi ích cụ thể như: nâng cao uy tín và thương hiệu; giảm rủi ro và chi phí; có vị thế cạnh tranh tốt hơn; mở rộng khả năng tiếp cận vốn, tín dụng và đầu tư nước ngoài, gia tăng lợi nhuận, duy trì tăng trưởng dài hạn. Hy vọng rằng người đọc sẽ tìm thấy trong cuốn sách này những thông tin hữu ích phục vụ cho công tác quản trị, điều hành công ty của mình. Chúng tôi mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của quý độc giả để khi tái bản sách sẽ được hoàn thiện hơn. *** Trong những năm gần đây, quản trị công ty (corporate governance) đã trở thành một vấn đề được cả thế giới quan tâm và đánh giá như yếu tố quyết định sự thành công của doanh nghiệp với các yếu tố như tăng hiệu quả hoạt động, tăng giá trị phần vốn góp và nâng cao uy tín đối với nhà đầu tư và cho vay. Quản trị công ty tốt (chứ không phải cơ cấu sở hữu tốt) là nền tảng cho sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp. Trong cuốn sách này, chúng tôi dành sự chú ý thích đáng đến việc phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về cơ cấu tổ chức quản lý công ty, giới thiệu những nguyên tắc và chuẩn mực chủ yếu của quản trị công ty, đưa ra những khuyến cáo thực tế nhằm thúc đẩy việc thực hiện quản trị công ty tốt và minh bạch, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động cho doanh nghiệp. Mục đích của cuốn sách này đồng thời cũng là đưa ra những gợi mở để giúp CEO và HĐQT điều hành và quản trị công ty một cách chuyên nghiệp, bài bản, đồng thời để nhận diện và giải quyết các vấn đề thực tế nảy sinh trong quá trình quản trị công ty đang đặt ra trước CEO và HĐQT các công ty ở Việt nam hiện nay. Cấu trúc của cuốn sách này dựa trên mối quan tâm của độc giả (theo đánh giá của chúng tôi) về các chức danh quản trị và điều hành trong công ty. Chương I dành để nghiên cứu về CEO. Theo quan niệm phổ biến ở Việt Nam, CEO được coi là vị trí quan trọng nhất trong công ty. Trong Chương này, chúng tôi sẽ trình bày tổng quan về những việc CEO cần phải làm và tiêu chuẩn của CEO. Ở Chương II chúng tôi phân tích sâu về Chủ tịch HĐQT và muốn nhấn mạnh rằng khác với quan niệm thông thường, Chủ tịch HĐQT không phải là người “to” nhất trong công ty. Chương III, Chương IV trình bày về HĐQT và thành viên HĐQT từ góc độ những việc mà HĐQT và thành viên HĐQT phải làm, tiêu chuẩn và cách đánh giá thành viên HĐQT. Chương V giới thiệu về Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) dưới góc độ đưa ra những việc Chủ tịch HĐQT, CEO phải làm để tổ chức ĐHĐCĐ và để Ban Kiểm soát (BKS) hoạt động một cách tốt nhất. Ở lần tái bản thứ nhất này, xuất phát từ vai trò quan trọng của BKS trong cơ cấu quản trị công ty hiệu quả, chúng tôi bổ sung thêm nhiều nội dung về BKS với những hướng dẫn cụ thể cho BKS nói chung và thành viên BKS nói riêng. Chương VI của cuốn sách nghiên cứu những vấn đề cấp bách của quản trị công ty như kiểm soát xung đột nội bộ và xây dựng quy chế quản trị công ty. Trong lần tái bản này, chúng tôi bổ sung thêm Chương VII về quản trị công ty ở một số loại hình doanh nghiệp đặc thù như công ty nhà nước chuyển đổi, công ty gia đình, công ty đại chúng… Đặc biệt,đáp ứng ứng đòi hỏi đối với CEO và HĐQT trong bối cảnh kinh tế hậu khủng hoảng, chúng tôi bổ sung thêm Chương VIII về vai trò dẫn dắt sự thay đổi của CEO và Chủ tịch HĐQT. Ở chương này, chúng tôi có đề cập những nội dung mang tính thời sự, thiết thực đối với doanh nghiệp như thay đổi chiến lược, quan hệ với cổ đông, nhà đầu tư (IR)… Các câu hỏi thực tiễn được đưa ra như những đối thoại với người đọc, giúp người đọc vận dụng được vấn đề lý thuyết vào thực tiễn hoạt động. Ở đây cần lưu ý là mỗi doanh nghiệp có những đặc thù riêng nên khó có câu trả lời chung cho tất cả các doanh nghiệp. Các ghi chú thực tiễn chứa đựng các thông tin được rút ra từ thực tiễn cuộc sống để người đọc tham khảo. Một số Phụ lục được đưa ra để giới thiệu các quy định pháp luật về các vấn đề cụ thể . Cuốn sách này được viết dựa trên những kinh nghiệm chúng tôi đã đúc rút được qua quá trình hoạt động và tư vấn, những thông tin thu lượm được trong thực tế và trên mạng Internet kết hợp với tổng quan các kiến thức về luật và quản trị công ty hiện đại. Trong cuốn sách chắc chắn không khỏi có những thiếu sót, mong người đọc lượng thứ và đóng góp ý kiến để sửa chữa, bổ sung trong những lần xuất bản sau. Ý kiến góp ý xin gửi vào email: [email protected] [email protected]. Nhóm tác giả cũng đã xây dựng website: http://ceo-hdqt.com/ để đăng tải một số nội dung như phần tiếp nối của cuốn sách này, với hy vọng tạo một diễn đàn trao đổi về CEO và HĐQT. Để những thông tin đưa ra thực sự mới mẻ và hữu ích, các ý kiến thực tiễn, các trao đổi có giá trị sẽ được cập nhật liên tục trong những lần tái bản tiếp theo của cuốn sách. Rất mong được người đọc ghé qua website http://ceo-hdqt.com/ và để lại những bình luận lý thú. Trân trọng, Phạm Trí Hùng và Nguyễn Trung Thẳng Mời các bạn đón đọc CEO và Hội Đồng Quản Trị của hai tác giả Phạm Trí Hùng & Nguyễn Trung Thắng.