Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tư Duy Marketing Trong Thời Đại Mới

Cách mạng 4.0, đã buộc hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề phải thay đổi để có thể thích ứng – và ngành marketing cũng không phải ngoại lệ. Việc tiếp cận thị trường và tìm hiểu về khách hàng khác biệt rất nhiều so với thời gian trước kia. Trong cuốn sách này sẽ cung cấp cho bạn đọc một cách tiếp cận mới mẻ đến với cách làm kinh doanh mạnh mẽ và lâu dài hơn, bao gồm một sự thay đổi tinh tế nhưng luôn luôn mạnh mẽ trong tư duy. Không quan trọng bạn là một nhà tư vấn quản trị hay là ông chủ của một nhà hàng vơi thứ bánh quy và nước sốt ngon nhất thị trấn, khả năng để suy nghĩ như một nhà tiếp thị đem đến cho bạn lợi thế cạnh tranh, và bạn không cần một tấm bằng chuyên ngành tiếp thị để đạt được điều đó. Hãy để tư duy thanh đổi bạn, và tư duy sẽ thay đổi doanh nghiệp của bạn.   *** Bạn có phải là những người trẻ tuổi mới chập chững bước chân vào “ngành”? Hay bạn đang là chủ của một doanh nghiệp nhưng lại thiếu đi những kiến thức cơ bản về tiếp thị? Hoặc có thể bạn là một chuyên gia kinh doanh của những công ty có quy mô từ vừa và nhỏ đến những công ty được liệt vào danh sách Fortune 1000? Có lẽ bạn là một nhà tư vấn, một doanh nhân đơn độc, nhà sáng lập của một công ty nhỏ và vừa, một bác sĩ, một luật sư hay kế toán tư nhân,.... Dù làm ở lĩnh vực nào, bạn đều có những “khách hàng” của riêng mình. Trong cuốn sách Tư duy Marketing trong thời đại mới của nhà tiếp thị tài năng Kate Colbert sẽ cho các bạn những góc nhìn, những cách tư duy về tiếp thị trong thời đại ngày nay, tạo ra những cơ hội mới để thắp lên ngọn lửa tăng trưởng lợi nhuận. Bạn có thể hình dung về cuốn sách qua những đoạn trích nhỏ dưới đây để biết chắc rằng bạn cần cuốn sách này. Bạn chưa từng (chưa bao giờ) có ý định trở thành nhà tiếp thị. Bạn chỉ muốn thành công trong công việc của mình. Tôi nghĩ rằng các bạn đều như vậy. Giống như mọi nhiệm vụ quan trọng trong kinh doanh, tất cả chúng ta đều cần biết một chút về tiếp thị nếu chúng ta muốn thành công về lâu về dài.  Đôi khi có những lúc bạn cảm thấy cần một agency tiếp thị, một công ty tư vấn tiếp thị tuyệt vời và/ hoặc một nhân viên tiếp thị giỏi, nhưng điều bạn cần đầu tiên, và cần nhất là một tư duy tiếp thị đúng. Tôi dám chắc rằng điều đó có thể và sẽ thay đổi mọi thứ về doanh nghiệp của bạn. Không quan trọng bạn là một nhà tư vấn quản trị hay là ông chủ của một nhà hàng với thứ bánh quy và nước sốt ngon nhất thị trấn, khả năng để suy nghĩ như một nhà tiếp thị đem đến cho bạn lợi thế cạnh tranh, và bạn không cần một tấm bằng chuyên ngành tiếp thị để đạt được điều đó.  NGHĨ “NHƯ MỘT…” LÀM TẤT CẢ CHÚNG TA TRỞ NÊN MẠNH HƠN. Không quan trọng chúng ta giỏi như thế nào trong công việc của mình, luôn có những rủi ro cố hữu liên quan đến việc không hiểu hết được hệ sinh thái doanh nghiệp một cách đầy đủ và không đánh giá cao cách thức trao đổi và làm việc với những người ở lĩnh vực khác.  Điều hành bộ phận IT sẽ giúp bạn biết một chút về kế toán và vật liệu máy chủ được coi là nguồn vốn hay máy tính để bàn bị khấu hao theo thời gian hay tính vào trong năm tài chính hiện tại.  Việc trở thành một bác sĩ chuyên khoa ung thư sẽ giúp bạn dành thời gian với các bác sĩ phẫu thuật tại bệnh viện để hiểu được thực tiễn của việc lên phác đồ điều trị cần thời gian phục hồi cho bệnh nhân nội trú. Điều đó còn giúp bạn hiểu được trách nhiệm của các nhóm quản lý rủi ro và pháp lý vì nó liên quan đến thử nghiệm lâm sàng mà bạn muốn thực hiện Làm một kế toán giúp bạn hiểu con người, những dự án và chiến lược đằng sau những con số. Biết được vì sao đầu tư dự kiến giảm 30% chi phí dịch vụ khách hàng bởi đó là yếu tố rất quan trọng khi đặt trong tầm nhìn rộng hơn của tổ chức.  Cùng nhau, chúng ta thành công. Nhưng rất khó để thành công trong kinh doanh - dù bạn là chủ doanh nghiệp hay là nhà quản lý, giám đốc hay nhân viên - bởi vì chúng ta đều được dạy theo cách tách biệt (theo các chuyên ngành) và chúng ta hầu hết làm việc theo cấu trúc silo. Chúng ta đã dành cả sự nghiệp của mình có thêm nhiều kinh nghiệm và phát triển chuyên môn (hội thảo, giấy chứng nhận,...) trong lĩnh vực của chính mình. Chúng ta thường đi sâu vào các lĩnh vực chuyên môn mà không bao giờ chú trọng nâng cao bản thân. Quan điểm hạn hẹp trong ngành kinh doanh là điều thúc đẩy tôi phải đi học MBA trong độ tuổi 30. Tôi không muốn chứng chỉ MBA; tôi cần góc nhìn mà chương trình MBA có thể đem lại. Tôi cần phải “nghĩ như một…” (hãy điền một chức danh vào đây như là: chuyên gia tài chính, luật sư, quản lý vận hành, CEO, chuyên gia IT,...). Bạn thấy đấy, khi tôi vừa nhận ra rằng quan điểm hạn chế này là một điểm đi xuống của sự nghiệp, tôi đang là giám đốc truyền thông của một trường đại học y tại vùng Chicago. Không ai ở trong trường nghi ngờ về khả năng của tôi khi đánh giá một cuốn brochure hấp dẫn hay viết kịch bản cho quảng cáo radio. Họ nghĩ rằng tôi là một nhà tiếp thị giỏi. Nhưng họ không đánh giá tôi như một người đứng đầu. “NGHĨ NHƯ MỘT NHÀ TIẾP THỊ” CÓ NGHĨA LÀ GÌ? - 5 QUY TẮC HƯỚNG DẪN. Đã có hàng nghìn cuốn sách viết về khả năng lãnh đạo hiệu quả và không có cuốn sách nào, kể cả cuốn sách này có một công thức kỳ diệu cho sự thành công. Tiếp thị không phải là một hành động có thể áp dụng cho tất cả mọi thứ. Nhưng kinh nghiệm nghề nghiệp khi làm việc với chủ doanh nghiệp và những người đứng đầu các cấp đã giúp tôi nhận ra một sự thật đáng được chia sẻ: Những người đứng đầu phát triển tư duy tiếp thị mà sự hiểu biết về sự cống hiến cho những giá trị của quan hệ khách hàng và thương hiệu lâu đời luôn in sâu vào suy nghĩ và quá trình đưa ra quyết định của họ - tạo ra nhiều giá trị (về tài chính và những điều khác) cho tổ chức và những bên liên quan. Họ cũng nhận được nhiều sự thỏa mãn trong công việc hơn là những đồng nghiệp không biết gì về tiếp thị. Những chuyên gia kinh tế với tư duy tiếp thị sẽ tạo nên kết quả tốt hơn. Tư duy như một nhà tiếp thị yêu cầu bạn phải: Giao tiếp để kết nối và nâng tầm ý nghĩa, không phải chỉ để thay đổi doanh số. Sống và chết với hành vi và suy nghĩ của khách hàng. Tiếp thị theo cách tin tưởng vào chiến lược và linh hoạt trong chiến thuật. Kiến tạo văn hóa và quy trình làm việc phù hợp và song song với thương hiệu. Làm mọi thứ để duy trì chu kỳ tạo ra giá trị cho khách hàng trong khi nắm bắt giá trị cho bạn.  Ví dụ hãy thử nghĩ về những người có “tư duy kinh tế học”. Mặc dù không trở thành người làm kinh doanh nhưng họ biết mọi người (bao gồm cả người tiêu dùng, nhân viên, trẻ em và những người khác) phản ứng thế nào với các ưu đãi. Họ không áp lực về việc loại bỏ các chi phí chìm. Cá nhân tôi thấy rằng “nghĩ như một nhà kinh tế” đã giúp tôi đưa ra những quyết định hiệu quả, phù hợp với tâm lý khách hàng trong kinh doanh. Nó cũng giúp tôi thoát khỏi cảm giác tội lỗi và áp lực khi tôi cần làm những điều khó nghĩ trước đây như hủy một kì nghỉ đông (không được hoàn tiền) trị giá 2.000 đô la. Sự thay đổi trong tư duy có thể thay đổi cuộc sống của bạn… Nó có thể thay đổi trò chơi. Nó có thể đem lại sự thoải mái trong tâm hồn và suy nghĩ của bạn. Vậy thì, điều gì xảy ra với nhữn người và những công ty nếu chuyên gia không bao giờ học cách nghĩ như những nhà tiếp thị? Rất nhiều, rất nhiều điều không đúng có thể xảy ra. Những doanh nghiệp đóng cửa. Sự nghiệp trì trệ. Cá nhân phải gánh chịu những hậu quả. BẠN MUỐN ĐƯỢC BIẾT ĐẾN NHƯ THẾ NÀO? NỀN TẢNG ĐỂ TRỞ THÀNH KHÁC BIỆT CÓ Ý NGHĨA.  Một số chuyên gia kinh doanh nghĩ rằng thành công trong tiếp thị là trở nên tốt hơn - có những sản phẩm và dịch vụ có chất lượng cao hơn với giá tốt hơn. Những người khác sẽ tranh cãi về việc trở nên khác biệt - đưa ra những sản phẩm hoặc dịch vụ mà bạn không thể tìm được ở bất cứ nơi nào khác. Tôi nghĩ rằng khía cạnh “tốt hơn và khác biệt” đều đúng một phần, và chủ đề này đối với tôi rất thú vị. Tôi đã xây dựng kinh nghiệm tiếp thị của mình với lời hứa thương hiệu là Hãy trở nên khác biệt có ý nghĩa. Hãy tự hỏi mình: Liệu công ty của bạn có thật sự khác biệt có ý nghĩa? Các sản phẩm của bạn có khác biệt với các đối thủ cạnh tranh và chúng có mang lại một chức năng hay lợi ích gì có ý nghĩa đối với thị trường? Nếu câu trả lời của bạn có chút chần chừ thì đây chính là lúc cần tư duy nghiêm túc về điều có thể khiến công ty của bạn hoặc/ và sản phẩm và dịch vụ của bạn trở nên khác biệt hơn, ý nghĩa hơn hay cả hai điều trên. Đôi khi một điều chỉnh nhỏ có thể tạo ra một khác biệt lớn. AI LÀ NGƯỜI QUYẾT ĐỊNH BẠN CÓ Ý NGHĨA GÌ? Khách hàng là người quyết định. Xét cho cùng, thị trường sở hữu thương hiệu của bạn. Họ (không phải bạn) quyết định liệu bạn uy tín hay nhàm chán, liệu sản phẩm của bạn đáng giá 5 đô la hay 45 đô la (hay thời gian tư vấn của bạn đáng giá 75 đô la hay 250 đô la một giờ), và liệu những điều bạn làm cho họ là đáng giá khiến họ phải kể cho bạn bè và đồng nghiệp về nó hay không. HIỂU RÕ KHÁCH HÀNG CỦA BẠN. Sống chết với hành vi và suy nghĩ của khách hàng (Quy tắc #2 Nghĩ như một nhà tiếp thị) không chỉ có nghĩa là thu thập các kết quả khảo sát từng kỳ để hiểu rõ khách hàng của mình. Thực sự hiểu rõ khách hàng là kết quả của sự cam kết không ngừng nghỉ với việc chú trọng - đến những điều mà họ làm và nói (và ngược lại). Hãy say mê khách hàng. Hãy si đắm, yêu quý và luôn tò mò. Đừng bao giờ để đánh mất sự quan tâm của bạn về những điều mà khách hàng đang nghĩ, muốn và quan tâm đến điều gì. Dù chủng loại và mẫu mã sản phẩm hay dịch vụ của bạn không thực sự đa dạng, khách hàng luôn phức tạp và đa sắc thái hơn những gì bạn cho là đúng. Chắc chắn có nhiều hơn một “phân khúc” khách hàng để suy nghĩ. Lấy ví dụ, hãy xem bạn là một luật sư ly hôn. Đa phần đối tượng khách hàng mà bạn có chỉ là một loại - các cặp vợ chồng hợp pháp đang muốn ly hôn hoặc không biết cách để tiến hành và bảo vệ lợi ích cho riêng mình. Dù vậy trong một “phân khúc” khách hàng lớn như vậy sẽ là các phân khúc phụ - chính là khách hàng với nhu cầu, thái độ và phương thức thực hiện khác biệt. Có những cặp đôi có con và những cặp không; cặp vợ chồng muốn bảo vệ lợi ích kinh doanh của riêng mình; những người có công việc toàn hoặc bán thời gian và những người làm việc tại nhà; bên cạnh đó chúng ta có đối tượng khách hàng phân loại theo giới tính: nam, nữ, đồng tính; khách hàng luôn tức giận và chỉ muốn tìm một luật sư “đô con” để giúp họ “đánh” và khách hàng chấp nhận ly thân trong hòa bình, sẵn sàng từ bỏ quyền sở hữu tài sản và các mối hận thù tình cảm, họ chỉ cần sự trợ giúp của bạn để tiến lên phía trước. Ví dụ về luật sư ly hôn liên quan đến mọi nghề nghiệp. Dù công việc của bạn là gì, sẽ luôn có những đối tượng khách hàng không tương thích với quy trình, văn hóa và phương pháp tiếp thị đã được đưa ra. BẠN THAY ĐỔI, HỌ CŨNG VẬY. Không chỉ mỗi khách hàng đổi thay. Doanh nghiệp của bạn cũng luôn luôn ở trạng thái phát triển. Khi bạn phát triển và lớn mạnh như một công ty (và khi bạn tung ra sản phẩm và dịch vụ mới), bạn cần phải luôn luôn xác định đối tượng khách hàng của bạn, bạn biết gì về họ, họ làm thế nào để phục vụ khách hàng tốt nhất. MỘT VỊ KHÁCH HÀNG CŨNG VẪN LÀ ĐỐI TƯỢNG LẮNG NGHE. Có thể bạn làm việc với mỗi đối tượng khách hàng hoặc đối tác khác nhau trong từng khoảng thời gian. Đừng bao giờ quên rằng một khách hàng cũng vẫn là một người nghe quan trọng. Luôn luôn nỗ lực tìm cách để hiểu họ kỹ hơn, cách tiếp cận, cách liên kết nhu cầu người mua đến sản phẩm của mình và làm thế nào để giúp họ đạt được mục đích. TRong khi câu chuyện thương hiệu thì lại ổn định và đầy nội lực, sản phẩm đại diện cho doanh nghiệp, các vận chuyển, quan điểm và chiến lược cho truyền thông có thể thay đổi theo từng đối tượng khách hàng. Bạn có biết cách sửa đổi giao tiếp trên nền tảng một một? Lúc tôi thực hiện buổi chụp ảnh tại công ty luật ở Chicago thì một trong những người luật sư, với lịch trình dày đặc và rõ ràng là không muốn tham gia buổi chụp hình, từ chối lời thỉnh cầu của đồng nghiệp để chụp ảnh. Tôi được thông báo rằng ho từ bỏ việc cố gắng mời anh ấy và chấp nhận sự thiếu đi một thành viên trong gia đình. Tuy nhiên tôi lại đồng cảm cho sự kháng cự đó và không muốn từ bỏ ngay lúc đó. Tôi thay đổi cách tiếp cận để liên kết với anh ấy, đưa ra một vài giá trị đặc biệt (một vài bức ảnh chân dung mới mà nhìn như bìa sách của GQ), và thái độ cũng thay đổi. Những bức ảnh của anh ấy từ ngày hôm đó luôn là những bức mà tôi ưa thích, và anh ấy và tôi đã có một mối quan hệ chuyên nghiệp tuyệt vời từ đó. TƯƠNG LAI CỦA NHẬN THỨC KHÁCH HÀNG.  Khách hàng chính là doanh nghiệp. Không có họ, bạn không là gì cả. Đối với những công ty nắm bắt được điều này thì tương lai của họ hoặc là ảm đạm hoặc đầy ắp những cơ hội mới. Tôi đoán những chuyên gia kinh doanh - vượt qua sự cản trở của bộ phận tiếp thị - sẽ học được cách xem mọi phút giây của cuộc đối thoại (từ giới thiệu, phát biểu trên các phương tiện truyền thông như một cơ hội để kết nối với khán giả sâu sắc hơn và nhận thức được điều mà đối tượng mong muốn. Như đã gợi ý trong các chương khác, big data và nội dung audience vẫn luôn là ngành quan trọng (với nguồn vốn lớn). Cho nên, hy vọng rằng ngày càng có nhiều quản lý và điều hành cấp cao đặt từ “khách hàng” trong công việc của mình. ĐỪNG THEO ĐUỔI TẤT CẢ CHIẾN LƯỢC TIẾP THỊ.  (Rất nhiều trong số đó chỉ làm bạn lãng phí thời gian mà thôi!)  NHƯNG HÃY LUÔN RỘNG MỞ ĐÓN NHỮNG ĐIỀU MỚI Đối với nhà tiếp thị và cả những người không chuyên, xác định được chiến lược tiếp thị nào để theo đuổi và ngược lại có thể chính là khó khăn mỗi ngày mà họ đang gặp phải, nhất là khi bao nhiêu người đều hỏi đi hỏi lại chúng tôi với những câu hỏi “Bạn nên cho ra nhiều video hơn!” và “Công ty bạn có ứng dụng di động hay không?” Tôi rất tin tưởng vào việc luôn luôn phải cởi mở, nhanh nhạy và không hề hối hận khi thử nghiệm các chiến thuật tiếp thị khác nhau - nếu một trong số đó phù hợp với chiến thuật và đặc điểm của thương hiệu bạn, và bạn có đủ khả năng để chi trả cho cho việc thử nghiệm này, thì hãy làm thử. Nhưng nếu chiến thuật này không phù hợp (Hoặc bạn không thể đo lường được liệu nó có hiệu quả hay không), hãy sẵn sàng để phân bổ lại các nguồn lực để thử điều mới.  Hãy luôn sẵn sàng sản xuất các video và trang web kể cả khi nó khiến bạn hoảng sợ. Sẵn sàng tiếp nhận thử thách về việc xuất hiện trước cộng đồng và phát biểu, cho dù bạn không giỏi việc đó. Hãy thử bắt tay vào quan hệ công chúng (chẳng hạn như kể câu chuyện thương hiệu trên các tạp chí thương mại hay xuất hiện trên sóng truyền hình địa phương vào chương trình buổi sáng), kể cả khi bạn chưa bao giờ làm việc với cánh báo chí lúc trước. Và cuối cùng ngay lập tức tham gia vào nền tảng mạng xã hội không một chút đắn đo cho dù bạn không phân biệt được Instagram và Twitter. Linh hoạt trong chiến thuật là trở nên sắc sảo nhưng luôn sẵn sàng thử những điều mới và thay đổi suy nghĩ của bạn như dữ liệu bán hàng và cách nhìn của khách hàng chứng minh cái gì hiệu quả và cái gì không. Nhưng chiến thuật mà tôi muốn nói đến là gì? Trong tiếp thị, đầu tiên chúng ta nên bám vào chiến lược. Hãy tưởng tượng rằng chiến lược tiếp thị của bạn trong năm là chú trọng phần lớn năng lượng và chi phí vào khách hàng, những người chi tiêu cao hơn một mức tiền nhất định cho doanh nghiệp của bạn hàng năm (hoặc cho những người có mức mua hàng trung bình lớn hơn 30% so với mức mua hàng trung bình chung của khách hàng tại công ty bạn). Chiến lược của bạn có thể liên quan đến sự cam kết để phân bổ sự chú ý và nguồn lực đáng kể để tạo ra sự giao tiếp có ý nghĩa, cá nhân hóa, 1-1, tiếp thị trực tiếp cho những khách hàng VIP này vì bạn tin rằng nếu bạn thành công với những khách hàng này, doanh nghiệp của bạn sẽ phát triển. Sự cam kết của bạn càng liên quan đến quyết định xếp các khách hàng khác (không phải VIP) vào một danh sách tiếp thị mà họ chỉ biết đến bạn thường xuyên qua những thông điệp đại trà (không cá nhân hóa hay 1-1). Có thể những khách hàng VIP  nhận được những món quà hào nhoáng trong thư, cuộc gọi cá nhân, thư mời sự kiện và những ưu đãi đặc biệt trong khi những khách hàng còn lại của bạn được liên lạc bằng những email đại trà, được thông báo về bán hàng hay khuyến mãi, và họ bắt gặp những bài đăng thường xuyên và ý nghĩa trên các kênh mạng xã hội (nơi họ theo dõi bạn và vẫn cảm thấy kết nối mặc dù sự thật là bạn không cần dành quá nhiều sự quan tâm trong việc giao tiếp với họ).   Mời các bạn đón đọc Tư Duy Marketing Trong Thời Đại Mới của tác giả Kate Colbert.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Hiệu Ứng Chim Mồi Tập 3
Thông thường, khi mua hàng ở một số trang thương mại điện tử, ta thường rất khó phát hiện ô điền mã khuyến mãi trong quá trình mua hàng. Thậm chí, ở trang chuyên bán các sản phẩm tên miền, máy chủ Godaddy, nơi điền mã khuyến mãi được “ngụy trang” chỉ bằng dòng chữ “Have a promo code?” Tại sao Godaddy phải làm như vậy, khi mà họ luôn có các chương trình khuyến mãi hàng tuần? Thuyết so sánh xã hội (Social comparison theory) của Festinger (1954) và nghiên cứu về công bằng giá của nhóm tác giả Xia, Monroe và Cox (2004) là nguyên nhân của hiện tượng này. Theo các nhà tâm lý học trên, con người luôn có xu hướng so sánh bản thân mình với người khác, trong trường hợp này là so sánh giá mình phải trả với các khách hàng khác. Theo nhóm nghiên cứu của Xia, ngoài việc xem xét mối thân tình giữa mình và công ty, cũng như tính toán mức chi phí thực của sản phẩm, thì người tiêu dùng còn tự suy đoán xem liệu mức giá mình phải trả so với những người khác có công bằng hay không. Nếu họ cho rằng mình phải trả mức giá bất công, họ có thể ngừng mua hoặc thậm chí nói xấu công ty với bạn bè! Như đã trình bày ở trên, khách hàng luôn so sánh mức giá bản thân mình phải trả với người khác. Một trong những cơ sở để họ lấy thông tin chính là ô điền mã giảm giá. Khi thấy ô điền mã giảm giá, khách hàng sẽ nhận ra rằng hiện đang có chính sách giảm giá và hoặc là mình không biết, hoặc là mình không nằm trong nhóm được giảm giá. Điều này khiến họ (1) ngưng mua và quay lại tìm thông tin giảm giá, và/hoặc (2) ngưng mua và tìm thông tin về đối tượng được giảm giá. Nếu phát hiện ra rằng mình không được giảm (hoặc tệ hơn là vừa mới có chương trình giảm giá xong), họ hẳn sẽ chẳng vui! Mà dù chuyện gì có xảy ra, thì ta cũng đã khiến họ đi lệch khỏi điều mà họ vốn đã định làm: đặt hàng! Như vậy, cho khách hàng dễ thấy ô điền mã khuyến mãi đồng nghĩa với việc kích thích thói quen so sánh của khách hàng trong lúc mà lẽ ra họ đã đặt hàng xong rồi! *** LỜI NÓI ĐẦU LỜI NÓI ĐẦU   Người ta hay coi lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn là hai thứ hoàn toàn đối nghịch nhau. Người đi theo hướng lý thuyết thường coi kiến thức kinh nghiệm là một thứ thiếu bền vững và không phổ quát, còn kẻ đi theo hướng thực hành thường gọi sách vở là lý thuyết suông, không dùng được. Thế nhưng, kể từ năm 2014, sau khi bắt đầu vừa tham gia nghiên cứu lý thuyết bậc sau đại học và viết các công trình khoa học, vừa tham gia bán hàng thực tiễn và ngã sấp mặt không biết bao nhiêu lần, chúng tôi phát hiện ra rằng lý thuyết và thực tiễn luôn song hành, gắn bó đến độ không thể tách rời: Người nắm lý thuyết nhưng không thực hành sẽ không thể biết những kiến thức của mình liệu có thể ứng dụng được trong thực tế hay không; ngược lại, người thực hành nhưng không có lý thuyết chống lưng sẽ không thể biết rằng liệu thành công của mình có cơ sở hay không, hay chỉ là may mắn và không thể áp dụng cho lần tiếp theo. Do vậy, quyển sách được cấu trúc thành các phần nhỏ với lý thuyết và ứng dụng đan xen. Mỗi hiện tượng hay kỹ thuật bán hàng đều được giải thích bằng lý thuyết, và mỗi lý thuyết đều có các ứng dụng minh họa, nhằm giúp các bạn độc giả có thể có kiến thức vững chắc và linh hoạt. Để thể hiện sự tôn trọng với các tác giả đi trước, mọi thông tin và số liệu lấy từ các nghiên cứu của các nhà khoa học khác đều được trích dẫn cụ thể, chính xác và ghi nguồn đầy đủ ở phần Tài liệu tham khảo. Một số thủ thuật ứng dụng là không chính thống và có thể không đúng chuẩn mực về đạo đức kinh doanh (thường gọi là thủ thuật "tà đạo"). Tuy nhiên, chúng tôi vẫn sẽ trình bày đê các bạn độc giả có thể né tránh khi gặp phải — dưới vai trò người mua hàng. Chúng tôi viết sách này không nhằm biến bạn thành giáo sư, mà nhằm kích thích sự hứng thú của bạn với tâm lý học, một ngành khoa học có quá nhiều ứng dụng vào kinh doanh. Do vậy, các kiến thức phức tạp, chi tiết hơn mang tính hàn lâm được đưa vào các phần phụ lục để phục vụ các bạn có nhu cầu tìm hiểu để ứng dụng sâu. Nhờ đó, các kiến thức ở phần nội dung chính sẽ vẫn giữ được sự đơn giản, dễ hiểu và hấp dẫn của riêng mình. Hi vọng những kiến thức lý thuyết tích lũy trong quá trình nghiên cứu hàn lâm cùng với các ứng dụng tự suy từ kinh nghiệm tự doanh thực chiến của nhóm tác giả sẽ giúp cho công việc của bạn hiệu quả hon. Chúc bạn có những phút giây thư giãn có ích cùng Hiệu ứng chim mồi Sài Gòn, 16 tháng 4 năm 2016 Nhóm tác giả *** VÀI GHI CHÚ VỀ CÁC THUẬT NGỮ VÀI GHI CHÚ VỀ CÁC THUẬT NGỮ   Quý độc giả sẽ thấy trong sách sử dụng nhiều thuật ngữ. Có phần thì gọi là suy nghiêm, có lúc là thiên kiến, hiệu ứng, hay thủ thuật. Ở đây, các tác giả sẽ diễn giải ý nghĩa từng từ và quan điểm được sử dụng trong sách này. Suy nghiệm, thiên kiến, hiệu ứng, thủ thuật, công cụ, và học thuyết Suy nghiệm (heuristic) là các phương pháp giải quyết vấn đề nhanh, cho kết quả tốt (nhưng không hẳn là tối ưu). Có thể xem suy nghiệm là các "lối tắt" trong tư duy. Ví dụ, suy nghiệm đánh giá nỗ lực (cái gì càng mất nhiều thời gian để hoàn thành thì càng có giá trị) thường đúng với đa số sản phẩm. Một bức tranh vẽ trong 10 ngày thường có giá trị hơn bức tranh vẽ nhanh trong 10 phút. Suy nghiệm thường đúng, nhưng không phải lúc nào cũng đúng. Nó giúp giải quyết nhanh vấn đề, nhưng tạo sự thiên lệch trong nhiều trường hợp. Trong sách này, những đánh giá thiên lệch được gọi là thiên kiến (bias). Các thiên kiến phối hợp cùng nhiều yếu tố tạo ra các hiện tượng đặc biệt, trong sách này gọi là hiệu ứng (effect). (Nói thêm: Suy nghiệm có thể tạo thiên kiến, tuy nhiên, nó cũng giúp ra quyết định hợp lý phần lớn thời gian. Do vậy, ở một số phần ta cũng sẽ nghiên cứu cách ứng dụng suy nghiệm để ra quyết định.) Tận dụng hiểu biết về các suy nghiệm, thiên kiến, hiệu ứng, kết hợp với những kiến thức ngành khác (đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh), các tác giả chỉ ra các thủ thuật. Mỗi thủ thuật thường là kết quả của sự phối hợp nhiều hiệu ứng, và mỗi hiệu ứng thường tạo ra được nhiều thủ thuật khác nhau. Để ứng dụng, đôi khi ta không thể làm thủ công, mà phải sử dụng một số công cụ để tăng tốc độ và sự chính xác. Ví dụ, để tính lãi suất một khoản vay, hàm Excel sẽ hiệu quả hơn rất nhiều việc nghiên cứu công thức và bấm máy tính. Khi nói về công cụ, các tác giả sẽ không giải thích quá nhiều cách vận hành của nó, chỉ tập trung trình bày cách sử dụng công cụ nhanh chóng và hiệu quả. Ví dụ, chúng tôi không giải thích cách Excel tính lãi suất theo công thức toán học, chỉ hướng dẫn cách điền đúng và hiệu quả hàm IRR để độc giả ứng dụng nhanh mà thôi. Trong sách này cũng xuất hiện các thuyết (theory). Các tác giả thường sử dụng thuyết làm công cụ suy luận và giải thích các hiện tượng. Ví dụ, hiện tượng con người thường bị thu hút bởi tình dục có nhiều hướng giải thích khác nhau. Tuy nhiên, các tác giả đã sử dụng thuyết tâm lý học tiến hóa để giải thích: "Những đặc điểm tâm lý còn tồn tại ngày nay chính là kết quả của quá trình tiến hóa và chọn lọc tự nhiên." Những người không bị thu hút bởi tình dục đã tuyệt chủng và không truyền được vốn gene lại cho đời sau. Dựa trên cách lý luận này, ta cũng có thể diễn giải về việc con người thường bị thu hút bởi kích thước hay thức ăn, từ đó dự đoán được những yếu tố khác bằng cách suy luận dựa trên nguyên lý bên trên. Như vậy, mỗi hiện tượng có nhiều thuyết giải thích. Trong phạm vi sách này, các tác giả ưu tiên sử dụng thuyết dễ hiểu nhất để diễn giải. Các thuật ngữ đa ngành Tâm lý và kinh doanh không tồn tại riêng biệt, mà đa phần đan xen lẫn nhau, và với nhiều lĩnh vực khác nữa. Rất nhiều chiêu trò đánh lừa trong kinh doanh xuất hiện trong mảng thống kê; rất nhiều chỉ số tài chính là nhằm đo lường tâm lý thị trường; rất nhiều công thức thống kê xuất hiện để giải quyết các vấn đề trong nghiên cứu tâm lý. Thậm chí, một số' ngành "lai" cũng đã xuất hiện, như hành vi tổ chức, tài chính hành vi... và xóa mờ ranh giới giữa các ngành. Do đó, các bạn cũng sẽ thấy một số khái niệm không thuộc mảng tâm lý hay kinh doanh, nhưng lại có liên quan mật thiết đến tâm lý kinh doanh. * * * Do thuật ngữ hiện nay chưa thống nhất, nên độc giả sẽ thấy một số thuật ngữ dùng trong sách này không giống với các sách khác. Ví dụ, efficiency được gọi là hiệu suất trong sách này, nhưng nơi khác lại gọi là hiệu quả; heuristic trong sách này gọi là suy nghiệm, nhưng có nơi phiên âm thẳng thành ơ-rít-tíc. Đó là điều không thể tránh khỏi, do vậy, để tránh hiểu nhầm và tiện tra cứu, các tác giả đều cố gắng ghi chú thuật ngữ tiếng Anh. *** GIỚI THIỆU TẬP 3 Trong Tiếu ngạo giang hồ, có đoạn Lệnh Hồ Xung gặp Phong Thanh Dương và được chỉ điểm Độc Cô Cửu Kiếm. Trong quá trình này, khi nhắc đến các hậu bối đương thời trong Ngũ nhạc kiếm phái, Phong Thanh Dương nhận xét: Chúng cho rằng cứ học những chiêu kiếm tinh thục của sư phụ truyền cho là trở thành cao thủ. Hừ! Học thuộc lòng 300 bài thơ Đường thì kẻ không biết làm thơ cũng ngâm được thật. Nhưng chỉ thuộc thơ người ta, thì mình có làm thơ cũng chẳng ra hồn. Nếu tự mình không có óc sáng tác liệu có thành đại thi gia được không? Vốn dĩ các chiêu thức trong các bộ kiếm phổ chỉ là những thành tố căn bản, luyện cho nhuần nhuyễn nhập tâm để rồi quên đi. Để có thể biến thành những đòn đánh có giá trị, cần vận dụng sáng tạo các chiêu thức, tùy cơ ứng biến. Giao đấu võ công không phải là hô to tên từng chiêu thức rồi ra đòn như trong truyện tranh Nhật Bản; giao đấu võ công là tung ra những đòn đánh tối ưu phối hợp vô số chiêu thức để triệt hạ đối thủ. Đến người ra đòn cũng không phân biệt rõ mình đang sử dụng chiêu thức này hay chiêu thức kia. Cũng vì đó, đối thủ không thể tra bất kì sách vở nào để hóa giải. Câu chuyện ứng dụng tâm lý học và các môn khoa học khác trong kinh doanh cũng vậy. Biết tên của từng chiêu thức - hay hiệu ứng - chỉ là bước đầu tiên. Vận dụng nhuần nhuyễn kết hợp các hiệu ứng với nhau và với các chiêu thức khác bên ngoài lĩnh vực tâm lý học để gia tăng hiệu quả kinh doanh mới thực sự là mục đích cuối cùng. Tập 1 và 2 Hiệu ứng chym mồi trình bày các hiệu ứng đơn lẻ để độc giả có thể hiểu sâu từng hiệu ứng, nhưng bấy nhiêu đó là chưa đủ để khai thác tối đa các hiệu ứng tâm lý trong kinh doanh. Nhiều bạn đọc khi áp dụng một số hiệu ứng đơn lẻ chắc cũng thấy rằng, đôi khi hiệu ứng ấy đã quá phổ biến, hầu như ai cũng biết bạn đang áp dụng chiêu nào, nên mức độ hiệu quả giảm đi không ít. Nên nhớ, nếu mọi người biết ta đang áp dụng hiệu ứng này hay hiệu ứng kia, thì điều đó không có nghĩa là ta đã áp dụng hiệu ứng tâm lý “đúng bài”- điều đó chỉ có nghĩa là mức độ vận dụng hiệu ứng tâm lý của ta chưa được nhuần nhuyễn, đòn đánh đang quá lộ liễu ở mức độ “thuộc bài”! Một khi các chiêu thức trong Hiệu ứng chim mồi ngày càng phổ biến, việc ứng dụng máy móc chỉ những hiệu ứng đơn lẻ chắc chắn sẽ ngày càng mất đi hiệu quả. Và đó là lý do Hiệu ứng chym mồi (Tập 3) ra đời. *** Vậy Hiệu ứng chym mồi (Tập 3) có gì mới? Thứ nhất, là hiệu ứng tâm lý mới - hay “chiêu thức” mới -chưa được trình bày trong 2 tập trước. Các hiệu ứng này sẽ bổ sung những hiểu biết mới để bạn phối hợp ứng dụng vào công việc kinh doanh của mình. Thứ hai, là chiêu thức từ những ngành khoa học khác có liên quan đến tâm lý kinh doanh - hay có thể gọi là “trường phái” mới. Ở trong tập 2, hẳn các bạn đã chú ý thấy một số chiêu thức thuộc lĩnh vực toán học (Sự vi diệu của toán học) hay văn học (Thủ thuật rút ruột trong viết nội dung kể chuyện). Trong tập 3 này, một số chiêu thức của các ngành khác cũng sẽ được bổ sung, giúp quá trình vận dụng được linh hoạt và đa dạng hơn. Thứ ba, là tư duy mới - tư duy mở rộng và phối hợp. Trong tập này, sẽ có những phần tập trung vào việc mở rộng hiệu ứng sang các bối cảnh mới, hoặc phối hợp hai hoặc nhiều hiệu ứng lại với nhau. Cách làm này có 2 lợi ích lớn: (1) khiến cho chiêu thức của bạn khó bị người ngoài phát hiện hơn, từ đó hiệu quả hơn; và (2) gia tăng đột biến số lượng “combo” chiêu thức bạn có thể sử dụng. Sẽ có nhiều ví dụ minh họa thực tiễn theo tư duy này. Thứ tư, là công cụ mới. Ở đây, chúng tôi sẽ cung cấp một số hướng ứng dụng các công cụ đơn giản (mà có thể bạn đã quen thuộc) theo những cách mới, giúp bạn tìm phương hướng ứng dụng các hiệu ứng một cách hiệu quả và đỡ tốn thời gian hơn. Thứ năm, là ví dụ mới. Từ khi Tập 1 ra đời đến nay đã 4 năm. Trong quá trình này, nhiều chuyện đã xảy ra, mang đến cho chúng tôi những trải nghiệm mới. Nhờ đó, kinh nghiệm của các tác giả được gia tăng về số lượng và chất lượng trong nhiều lĩnh vực mới. Các hiệu ứng cũng có nhiều cơ hội thử nghiệm trong thực tiễn hơn. Trong Tập 3, các bạn sẽ thấy nhiều ví dụ thực tế trong các mảng ăn uống, bán lẻ... dựa trên các kinh nghiệm này. *** Hy vọng, với những chiêu thức mới, trường phái mới, tư duy mới, công cụ mới, và ví dụ mới, Hiệu ứng chim mồi (Tập 3) sẽ giúp bạn ứng dụng tốt hơn tất cả những nội dung trong chuỗi sách Hiệu ứng chym mồi, để công việc kinh doanh của bạn hiệu quả hơn bội phần. Mọi thứ đã có sẵn trong tay, tất cả chỉ còn phụ thuộc vào chính bạn! Mời các bạn mượn đọc sách Hiệu Ứng Chim Mồi Tập 3 của tác giả Hạo Nhiên & Quốc Khánh.
Hiệu Ứng Chim Mồi Tập 2
Thông thường, khi mua hàng ở một số trang thương mại điện tử, ta thường rất khó phát hiện ô điền mã khuyến mãi trong quá trình mua hàng. Thậm chí, ở trang chuyên bán các sản phẩm tên miền, máy chủ Godaddy, nơi điền mã khuyến mãi được “ngụy trang” chỉ bằng dòng chữ “Have a promo code?” Tại sao Godaddy phải làm như vậy, khi mà họ luôn có các chương trình khuyến mãi hàng tuần? Thuyết so sánh xã hội (Social comparison theory) của Festinger (1954) và nghiên cứu về công bằng giá của nhóm tác giả Xia, Monroe và Cox (2004) là nguyên nhân của hiện tượng này. Theo các nhà tâm lý học trên, con người luôn có xu hướng so sánh bản thân mình với người khác, trong trường hợp này là so sánh giá mình phải trả với các khách hàng khác. Theo nhóm nghiên cứu của Xia, ngoài việc xem xét mối thân tình giữa mình và công ty, cũng như tính toán mức chi phí thực của sản phẩm, thì người tiêu dùng còn tự suy đoán xem liệu mức giá mình phải trả so với những người khác có công bằng hay không. Nếu họ cho rằng mình phải trả mức giá bất công, họ có thể ngừng mua hoặc thậm chí nói xấu công ty với bạn bè! Như đã trình bày ở trên, khách hàng luôn so sánh mức giá bản thân mình phải trả với người khác. Một trong những cơ sở để họ lấy thông tin chính là ô điền mã giảm giá. Khi thấy ô điền mã giảm giá, khách hàng sẽ nhận ra rằng hiện đang có chính sách giảm giá và hoặc là mình không biết, hoặc là mình không nằm trong nhóm được giảm giá. Điều này khiến họ (1) ngưng mua và quay lại tìm thông tin giảm giá, và/hoặc (2) ngưng mua và tìm thông tin về đối tượng được giảm giá. Nếu phát hiện ra rằng mình không được giảm (hoặc tệ hơn là vừa mới có chương trình giảm giá xong), họ hẳn sẽ chẳng vui! Mà dù chuyện gì có xảy ra, thì ta cũng đã khiến họ đi lệch khỏi điều mà họ vốn đã định làm: đặt hàng! Như vậy, cho khách hàng dễ thấy ô điền mã khuyến mãi đồng nghĩa với việc kích thích thói quen so sánh của khách hàng trong lúc mà lẽ ra họ đã đặt hàng xong rồi! *** LỜI NÓI ĐẦU LỜI NÓI ĐẦU   Người ta hay coi lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn là hai thứ hoàn toàn đối nghịch nhau. Người đi theo hướng lý thuyết thường coi kiến thức kinh nghiệm là một thứ thiếu bền vững và không phổ quát, còn kẻ đi theo hướng thực hành thường gọi sách vở là lý thuyết suông, không dùng được. Thế nhưng, kể từ năm 2014, sau khi bắt đầu vừa tham gia nghiên cứu lý thuyết bậc sau đại học và viết các công trình khoa học, vừa tham gia bán hàng thực tiễn và ngã sấp mặt không biết bao nhiêu lần, chúng tôi phát hiện ra rằng lý thuyết và thực tiễn luôn song hành, gắn bó đến độ không thể tách rời: Người nắm lý thuyết nhưng không thực hành sẽ không thể biết những kiến thức của mình liệu có thể ứng dụng được trong thực tế hay không; ngược lại, người thực hành nhưng không có lý thuyết chống lưng sẽ không thể biết rằng liệu thành công của mình có cơ sở hay không, hay chỉ là may mắn và không thể áp dụng cho lần tiếp theo. Do vậy, quyển sách được cấu trúc thành các phần nhỏ với lý thuyết và ứng dụng đan xen. Mỗi hiện tượng hay kỹ thuật bán hàng đều được giải thích bằng lý thuyết, và mỗi lý thuyết đều có các ứng dụng minh họa, nhằm giúp các bạn độc giả có thể có kiến thức vững chắc và linh hoạt. Để thể hiện sự tôn trọng với các tác giả đi trước, mọi thông tin và số liệu lấy từ các nghiên cứu của các nhà khoa học khác đều được trích dẫn cụ thể, chính xác và ghi nguồn đầy đủ ở phần Tài liệu tham khảo. Một số thủ thuật ứng dụng là không chính thống và có thể không đúng chuẩn mực về đạo đức kinh doanh (thường gọi là thủ thuật "tà đạo"). Tuy nhiên, chúng tôi vẫn sẽ trình bày đê các bạn độc giả có thể né tránh khi gặp phải — dưới vai trò người mua hàng. Chúng tôi viết sách này không nhằm biến bạn thành giáo sư, mà nhằm kích thích sự hứng thú của bạn với tâm lý học, một ngành khoa học có quá nhiều ứng dụng vào kinh doanh. Do vậy, các kiến thức phức tạp, chi tiết hơn mang tính hàn lâm được đưa vào các phần phụ lục để phục vụ các bạn có nhu cầu tìm hiểu để ứng dụng sâu. Nhờ đó, các kiến thức ở phần nội dung chính sẽ vẫn giữ được sự đơn giản, dễ hiểu và hấp dẫn của riêng mình. Hi vọng những kiến thức lý thuyết tích lũy trong quá trình nghiên cứu hàn lâm cùng với các ứng dụng tự suy từ kinh nghiệm tự doanh thực chiến của nhóm tác giả sẽ giúp cho công việc của bạn hiệu quả hon. Chúc bạn có những phút giây thư giãn có ích cùng Hiệu ứng chim mồi Sài Gòn, 16 tháng 4 năm 2016 Nhóm tác giả *** VÀI GHI CHÚ VỀ CÁC THUẬT NGỮ VÀI GHI CHÚ VỀ CÁC THUẬT NGỮ   Quý độc giả sẽ thấy trong sách sử dụng nhiều thuật ngữ. Có phần thì gọi là suy nghiêm, có lúc là thiên kiến, hiệu ứng, hay thủ thuật. Ở đây, các tác giả sẽ diễn giải ý nghĩa từng từ và quan điểm được sử dụng trong sách này. Suy nghiệm, thiên kiến, hiệu ứng, thủ thuật, công cụ, và học thuyết Suy nghiệm (heuristic) là các phương pháp giải quyết vấn đề nhanh, cho kết quả tốt (nhưng không hẳn là tối ưu). Có thể xem suy nghiệm là các "lối tắt" trong tư duy. Ví dụ, suy nghiệm đánh giá nỗ lực (cái gì càng mất nhiều thời gian để hoàn thành thì càng có giá trị) thường đúng với đa số sản phẩm. Một bức tranh vẽ trong 10 ngày thường có giá trị hơn bức tranh vẽ nhanh trong 10 phút. Suy nghiệm thường đúng, nhưng không phải lúc nào cũng đúng. Nó giúp giải quyết nhanh vấn đề, nhưng tạo sự thiên lệch trong nhiều trường hợp. Trong sách này, những đánh giá thiên lệch được gọi là thiên kiến (bias). Các thiên kiến phối hợp cùng nhiều yếu tố tạo ra các hiện tượng đặc biệt, trong sách này gọi là hiệu ứng (effect). (Nói thêm: Suy nghiệm có thể tạo thiên kiến, tuy nhiên, nó cũng giúp ra quyết định hợp lý phần lớn thời gian. Do vậy, ở một số phần ta cũng sẽ nghiên cứu cách ứng dụng suy nghiệm để ra quyết định.) Tận dụng hiểu biết về các suy nghiệm, thiên kiến, hiệu ứng, kết hợp với những kiến thức ngành khác (đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh), các tác giả chỉ ra các thủ thuật. Mỗi thủ thuật thường là kết quả của sự phối hợp nhiều hiệu ứng, và mỗi hiệu ứng thường tạo ra được nhiều thủ thuật khác nhau. Để ứng dụng, đôi khi ta không thể làm thủ công, mà phải sử dụng một số công cụ để tăng tốc độ và sự chính xác. Ví dụ, để tính lãi suất một khoản vay, hàm Excel sẽ hiệu quả hơn rất nhiều việc nghiên cứu công thức và bấm máy tính. Khi nói về công cụ, các tác giả sẽ không giải thích quá nhiều cách vận hành của nó, chỉ tập trung trình bày cách sử dụng công cụ nhanh chóng và hiệu quả. Ví dụ, chúng tôi không giải thích cách Excel tính lãi suất theo công thức toán học, chỉ hướng dẫn cách điền đúng và hiệu quả hàm IRR để độc giả ứng dụng nhanh mà thôi. Trong sách này cũng xuất hiện các thuyết (theory). Các tác giả thường sử dụng thuyết làm công cụ suy luận và giải thích các hiện tượng. Ví dụ, hiện tượng con người thường bị thu hút bởi tình dục có nhiều hướng giải thích khác nhau. Tuy nhiên, các tác giả đã sử dụng thuyết tâm lý học tiến hóa để giải thích: "Những đặc điểm tâm lý còn tồn tại ngày nay chính là kết quả của quá trình tiến hóa và chọn lọc tự nhiên." Những người không bị thu hút bởi tình dục đã tuyệt chủng và không truyền được vốn gene lại cho đời sau. Dựa trên cách lý luận này, ta cũng có thể diễn giải về việc con người thường bị thu hút bởi kích thước hay thức ăn, từ đó dự đoán được những yếu tố khác bằng cách suy luận dựa trên nguyên lý bên trên. Như vậy, mỗi hiện tượng có nhiều thuyết giải thích. Trong phạm vi sách này, các tác giả ưu tiên sử dụng thuyết dễ hiểu nhất để diễn giải. Các thuật ngữ đa ngành Tâm lý và kinh doanh không tồn tại riêng biệt, mà đa phần đan xen lẫn nhau, và với nhiều lĩnh vực khác nữa. Rất nhiều chiêu trò đánh lừa trong kinh doanh xuất hiện trong mảng thống kê; rất nhiều chỉ số tài chính là nhằm đo lường tâm lý thị trường; rất nhiều công thức thống kê xuất hiện để giải quyết các vấn đề trong nghiên cứu tâm lý. Thậm chí, một số' ngành "lai" cũng đã xuất hiện, như hành vi tổ chức, tài chính hành vi... và xóa mờ ranh giới giữa các ngành. Do đó, các bạn cũng sẽ thấy một số khái niệm không thuộc mảng tâm lý hay kinh doanh, nhưng lại có liên quan mật thiết đến tâm lý kinh doanh. * * * Do thuật ngữ hiện nay chưa thống nhất, nên độc giả sẽ thấy một số thuật ngữ dùng trong sách này không giống với các sách khác. Ví dụ, efficiency được gọi là hiệu suất trong sách này, nhưng nơi khác lại gọi là hiệu quả; heuristic trong sách này gọi là suy nghiệm, nhưng có nơi phiên âm thẳng thành ơ-rít-tíc. Đó là điều không thể tránh khỏi, do vậy, để tránh hiểu nhầm và tiện tra cứu, các tác giả đều cố gắng ghi chú thuật ngữ tiếng Anh. *** Giới Thiệu Tập 2 Kể từ khi xuất bản Hiệu ứng chim mồi, tập 1, nhóm tác giả đã nhận được sự ủng hộ từ quý độc giả trên toàn quốc. Dựa trên nền tảng đó, nhóm xin giới thiệu với các bạn Hiệu ứng chim mồi, tập 2. Trong tập này, chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu các hiệu ứng tâm lý độc đáo cùng những ứng dụng tuyệt vời của các hiệu ứng này trong kinh doanh cũng như đời sống hàng ngày. Ngoài ra, trong tập này, tâm lý học cũng sẽ được phối hợp với các ngành khoa học khác như toán học hay thiết kế, để nâng cao mức độ hiệu quả và tính ứng dụng của từng hiệu ứng tâm lý. Xin chú ý rằng, các hiệu ứng tâm lý sẽ luôn hiệu quả hơn nếu được phối hợp lại với nhau hoặc với các hiểu biết của ngành khác (như chúng tôi đã làm với các chiêu trò định giá khuyến mãi-một sự kết hợp giữa toán học, thủ thuật bán hàng và tâm lý-sẽ được trình bày ở những phần sau trong sách này). Hy vọng những sự phối hợp ban đầu được minh họa trong Hiệu ứng chim mồi sẽ tạo cảm hứng cho quý bạn đọc nghiên cứu kết hợp nhuần nhuyễn các hiệu ứng tâm lý với nhau, với hiểu biết kinh doanh và với ngành riêng của mình. Một số hiệu ứng tâm lý được trình bày trong tập này có mức độ hiệu quả cực kỳ cao, do đó rất nguy hiểm nếu không sử dụng cho mục đích chính đáng nói một cách bình dân thì đó là những hiệu ứng và ứng dụng “tà đạo”). Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, nhóm tác giả quyết định vẫn trình bày những hiệu ứng này, phần là để độc giả biết, hiểu và tránh; phần là để các bạn có thể ứng dụng vào những mục đích tốt. Chúng tôi tin rằng, không có vũ khí tốt hay xấu, sự tốt xấu chỉ tùy thuộc vào người sử dụng. Sức mạnh đáng gờm của các hiệu ứng cũng là lý do vì sao bạn sẽ thấy chúng tôi cứ nhắc đi nhắc lại quý độc giả hãy nên tỉnh táo và thiện tâm để sử dụng các chiêu thức ấy. Không dông dài nữa, xin mời quý độc giả bước vào thế giới của tâm lý học ứng dụng và khám phá sự vô lý của trí não con người... Mời các bạn mượn đọc sách Hiệu Ứng Chim Mồi Tập 2 của tác giả Hạo Nhiên & Quốc Khánh.
Hiệu Ứng Chim Mồi Tập 1
Thông thường, khi mua hàng ở một số trang thương mại điện tử, ta thường rất khó phát hiện ô điền mã khuyến mãi trong quá trình mua hàng. Thậm chí, ở trang chuyên bán các sản phẩm tên miền, máy chủ Godaddy, nơi điền mã khuyến mãi được “ngụy trang” chỉ bằng dòng chữ “Have a promo code?” Tại sao Godaddy phải làm như vậy, khi mà họ luôn có các chương trình khuyến mãi hàng tuần? Thuyết so sánh xã hội (Social comparison theory) của Festinger (1954) và nghiên cứu về công bằng giá của nhóm tác giả Xia, Monroe và Cox (2004) là nguyên nhân của hiện tượng này. Theo các nhà tâm lý học trên, con người luôn có xu hướng so sánh bản thân mình với người khác, trong trường hợp này là so sánh giá mình phải trả với các khách hàng khác. Theo nhóm nghiên cứu của Xia, ngoài việc xem xét mối thân tình giữa mình và công ty, cũng như tính toán mức chi phí thực của sản phẩm, thì người tiêu dùng còn tự suy đoán xem liệu mức giá mình phải trả so với những người khác có công bằng hay không. Nếu họ cho rằng mình phải trả mức giá bất công, họ có thể ngừng mua hoặc thậm chí nói xấu công ty với bạn bè! Như đã trình bày ở trên, khách hàng luôn so sánh mức giá bản thân mình phải trả với người khác. Một trong những cơ sở để họ lấy thông tin chính là ô điền mã giảm giá. Khi thấy ô điền mã giảm giá, khách hàng sẽ nhận ra rằng hiện đang có chính sách giảm giá và hoặc là mình không biết, hoặc là mình không nằm trong nhóm được giảm giá. Điều này khiến họ (1) ngưng mua và quay lại tìm thông tin giảm giá, và/hoặc (2) ngưng mua và tìm thông tin về đối tượng được giảm giá. Nếu phát hiện ra rằng mình không được giảm (hoặc tệ hơn là vừa mới có chương trình giảm giá xong), họ hẳn sẽ chẳng vui! Mà dù chuyện gì có xảy ra, thì ta cũng đã khiến họ đi lệch khỏi điều mà họ vốn đã định làm: đặt hàng! Như vậy, cho khách hàng dễ thấy ô điền mã khuyến mãi đồng nghĩa với việc kích thích thói quen so sánh của khách hàng trong lúc mà lẽ ra họ đã đặt hàng xong rồi! *** LỜI NÓI ĐẦU LỜI NÓI ĐẦU   Người ta hay coi lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn là hai thứ hoàn toàn đối nghịch nhau. Người đi theo hướng lý thuyết thường coi kiến thức kinh nghiệm là một thứ thiếu bền vững và không phổ quát, còn kẻ đi theo hướng thực hành thường gọi sách vở là lý thuyết suông, không dùng được. Thế nhưng, kể từ năm 2014, sau khi bắt đầu vừa tham gia nghiên cứu lý thuyết bậc sau đại học và viết các công trình khoa học, vừa tham gia bán hàng thực tiễn và ngã sấp mặt không biết bao nhiêu lần, chúng tôi phát hiện ra rằng lý thuyết và thực tiễn luôn song hành, gắn bó đến độ không thể tách rời: Người nắm lý thuyết nhưng không thực hành sẽ không thể biết những kiến thức của mình liệu có thể ứng dụng được trong thực tế hay không; ngược lại, người thực hành nhưng không có lý thuyết chống lưng sẽ không thể biết rằng liệu thành công của mình có cơ sở hay không, hay chỉ là may mắn và không thể áp dụng cho lần tiếp theo. Do vậy, quyển sách được cấu trúc thành các phần nhỏ với lý thuyết và ứng dụng đan xen. Mỗi hiện tượng hay kỹ thuật bán hàng đều được giải thích bằng lý thuyết, và mỗi lý thuyết đều có các ứng dụng minh họa, nhằm giúp các bạn độc giả có thể có kiến thức vững chắc và linh hoạt. Để thể hiện sự tôn trọng với các tác giả đi trước, mọi thông tin và số liệu lấy từ các nghiên cứu của các nhà khoa học khác đều được trích dẫn cụ thể, chính xác và ghi nguồn đầy đủ ở phần Tài liệu tham khảo. Một số thủ thuật ứng dụng là không chính thống và có thể không đúng chuẩn mực về đạo đức kinh doanh (thường gọi là thủ thuật "tà đạo"). Tuy nhiên, chúng tôi vẫn sẽ trình bày đê các bạn độc giả có thể né tránh khi gặp phải — dưới vai trò người mua hàng. Chúng tôi viết sách này không nhằm biến bạn thành giáo sư, mà nhằm kích thích sự hứng thú của bạn với tâm lý học, một ngành khoa học có quá nhiều ứng dụng vào kinh doanh. Do vậy, các kiến thức phức tạp, chi tiết hơn mang tính hàn lâm được đưa vào các phần phụ lục để phục vụ các bạn có nhu cầu tìm hiểu để ứng dụng sâu. Nhờ đó, các kiến thức ở phần nội dung chính sẽ vẫn giữ được sự đơn giản, dễ hiểu và hấp dẫn của riêng mình. Hi vọng những kiến thức lý thuyết tích lũy trong quá trình nghiên cứu hàn lâm cùng với các ứng dụng tự suy từ kinh nghiệm tự doanh thực chiến của nhóm tác giả sẽ giúp cho công việc của bạn hiệu quả hon. Chúc bạn có những phút giây thư giãn có ích cùng Hiệu ứng chim mồi Sài Gòn, 16 tháng 4 năm 2016 Nhóm tác giả *** VÀI GHI CHÚ VỀ CÁC THUẬT NGỮ VÀI GHI CHÚ VỀ CÁC THUẬT NGỮ   Quý độc giả sẽ thấy trong sách sử dụng nhiều thuật ngữ. Có phần thì gọi là suy nghiêm, có lúc là thiên kiến, hiệu ứng, hay thủ thuật. Ở đây, các tác giả sẽ diễn giải ý nghĩa từng từ và quan điểm được sử dụng trong sách này. Suy nghiệm, thiên kiến, hiệu ứng, thủ thuật, công cụ, và học thuyết Suy nghiệm (heuristic) là các phương pháp giải quyết vấn đề nhanh, cho kết quả tốt (nhưng không hẳn là tối ưu). Có thể xem suy nghiệm là các "lối tắt" trong tư duy. Ví dụ, suy nghiệm đánh giá nỗ lực (cái gì càng mất nhiều thời gian để hoàn thành thì càng có giá trị) thường đúng với đa số sản phẩm. Một bức tranh vẽ trong 10 ngày thường có giá trị hơn bức tranh vẽ nhanh trong 10 phút. Suy nghiệm thường đúng, nhưng không phải lúc nào cũng đúng. Nó giúp giải quyết nhanh vấn đề, nhưng tạo sự thiên lệch trong nhiều trường hợp. Trong sách này, những đánh giá thiên lệch được gọi là thiên kiến (bias). Các thiên kiến phối hợp cùng nhiều yếu tố tạo ra các hiện tượng đặc biệt, trong sách này gọi là hiệu ứng (effect). (Nói thêm: Suy nghiệm có thể tạo thiên kiến, tuy nhiên, nó cũng giúp ra quyết định hợp lý phần lớn thời gian. Do vậy, ở một số phần ta cũng sẽ nghiên cứu cách ứng dụng suy nghiệm để ra quyết định.) Tận dụng hiểu biết về các suy nghiệm, thiên kiến, hiệu ứng, kết hợp với những kiến thức ngành khác (đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh), các tác giả chỉ ra các thủ thuật. Mỗi thủ thuật thường là kết quả của sự phối hợp nhiều hiệu ứng, và mỗi hiệu ứng thường tạo ra được nhiều thủ thuật khác nhau. Để ứng dụng, đôi khi ta không thể làm thủ công, mà phải sử dụng một số công cụ để tăng tốc độ và sự chính xác. Ví dụ, để tính lãi suất một khoản vay, hàm Excel sẽ hiệu quả hơn rất nhiều việc nghiên cứu công thức và bấm máy tính. Khi nói về công cụ, các tác giả sẽ không giải thích quá nhiều cách vận hành của nó, chỉ tập trung trình bày cách sử dụng công cụ nhanh chóng và hiệu quả. Ví dụ, chúng tôi không giải thích cách Excel tính lãi suất theo công thức toán học, chỉ hướng dẫn cách điền đúng và hiệu quả hàm IRR để độc giả ứng dụng nhanh mà thôi. Trong sách này cũng xuất hiện các thuyết (theory). Các tác giả thường sử dụng thuyết làm công cụ suy luận và giải thích các hiện tượng. Ví dụ, hiện tượng con người thường bị thu hút bởi tình dục có nhiều hướng giải thích khác nhau. Tuy nhiên, các tác giả đã sử dụng thuyết tâm lý học tiến hóa để giải thích: "Những đặc điểm tâm lý còn tồn tại ngày nay chính là kết quả của quá trình tiến hóa và chọn lọc tự nhiên." Những người không bị thu hút bởi tình dục đã tuyệt chủng và không truyền được vốn gene lại cho đời sau. Dựa trên cách lý luận này, ta cũng có thể diễn giải về việc con người thường bị thu hút bởi kích thước hay thức ăn, từ đó dự đoán được những yếu tố khác bằng cách suy luận dựa trên nguyên lý bên trên. Như vậy, mỗi hiện tượng có nhiều thuyết giải thích. Trong phạm vi sách này, các tác giả ưu tiên sử dụng thuyết dễ hiểu nhất để diễn giải. Các thuật ngữ đa ngành Tâm lý và kinh doanh không tồn tại riêng biệt, mà đa phần đan xen lẫn nhau, và với nhiều lĩnh vực khác nữa. Rất nhiều chiêu trò đánh lừa trong kinh doanh xuất hiện trong mảng thống kê; rất nhiều chỉ số tài chính là nhằm đo lường tâm lý thị trường; rất nhiều công thức thống kê xuất hiện để giải quyết các vấn đề trong nghiên cứu tâm lý. Thậm chí, một số' ngành "lai" cũng đã xuất hiện, như hành vi tổ chức, tài chính hành vi... và xóa mờ ranh giới giữa các ngành. Do đó, các bạn cũng sẽ thấy một số khái niệm không thuộc mảng tâm lý hay kinh doanh, nhưng lại có liên quan mật thiết đến tâm lý kinh doanh. * * * Do thuật ngữ hiện nay chưa thống nhất, nên độc giả sẽ thấy một số thuật ngữ dùng trong sách này không giống với các sách khác. Ví dụ, efficiency được gọi là hiệu suất trong sách này, nhưng nơi khác lại gọi là hiệu quả; heuristic trong sách này gọi là suy nghiệm, nhưng có nơi phiên âm thẳng thành ơ-rít-tíc. Đó là điều không thể tránh khỏi, do vậy, để tránh hiểu nhầm và tiện tra cứu, các tác giả đều cố gắng ghi chú thuật ngữ tiếng Anh. Mời các bạn mượn đọc sách Hiệu Ứng Chim Mồi Tập 1 của tác giả Hạo Nhiên & Quốc Khánh.
Tái Lập Công Ty - Tuyên Ngôn Của Cuộc Cách Mạng Trong Kinh Doanh
Tái Lập Công Ty - vấn đề và giải pháp cho việc xây dựng lại một mô hình tổ chức mới đối với họat động của các doanh nghiệp trong thời đại đầy thách thức ngày nay. Trong hơn hai trăm năm qua, người ta đã thành lập và xây dựng các công ty dựa vào phát minh tuyệt vời của Adam Smith về sự phân chia hoạt động công nghiệp thành các công đoạn đơn giản nhất và cơ bản nhất. Trong thời đại kinh doanh hậu công nghiệp mà chúng ta đang bước vào, các công ty sẽ được thành lập và xây dựng dựa trên tư tưởng thống nhất những công đoạn đó lại vào một quá trình kinh doanh gắn bó với nhau. Trong cuốn sách này, các tác giả sẽ lý giải các công ty hiện đang hoạt động có thể tự đổi mới bản thân mình như thế nào; và các tác giả đã gọi các phương pháp mà các công ty sẽ thực hiện để đạt được mục đích này là sự tái lập doanh nghiệp. Phương pháp này là kỹ thuật đối với cuộc cách mạng mới trong kinh doanh đang diễn ra, cũng giống như sự chuyên môn hoá lao động và kỹ thuật mới đối với cuộc cách mạng công nghiệp hai trăm năm trước đây. Mời các bạn mượn đọc sách Tái Lập Công Ty - Tuyên Ngôn Của Cuộc Cách Mạng Trong Kinh Doanh của tác giả Michael Hammer & James Champy.