Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Một Câu Chọi Vạn Câu

Lưu Chấn Vân đã phải ấp ủ, thai nghén ba năm mới cho ra đời tiểu thuyết này. Đây cũng là tác phẩm chín nhất, hay nhất của ông từ trước đến nay. Phong cách kể chuyện của tác giả giống với nhật ký dã sử thời Minh, Thanh. Câu chữ chắt lọc, tình tiết rõ ràng, giọng kể mạch lạc, văn phong có dáng dấp như những bậc tiền bối lớn như: Uông Tăng Kỳ, Tôn Lê... Chỉ với ngôn ngữ như vậy, tác giả mới có thể đối ứng và thể hiện được nội hàm tác phẩm: nền văn hóa phương Tây đối thoại với Thánh Thần và nền sinh thái của nhân loại. Để thoát khỏi sự cô độc và mệt mỏi, những nhân vật trong tác phẩm đã cố gắng tạo ra thanh âm và niềm vui riêng. Đọc cuốn tiểu thuyết, chúng ta cảm nhận được sự bền bỉ và ngoan cường của sự sống. Nhận định "Rũ bỏ vẻ hào nhoáng bên ngoài quay về với bản chất mộc mạc bên trong. Ngòi bút tác giả luôn theo sát mảnh đất khổ nạn cùng những con người phận cái rơm cây cỏ thuộc tầng lớp đáy xã hội. Kết cấu chuyện đơn giản mà phong phú, hồi hộp căng thẳng mà xúc động lòng người. Nhân vật chính thường rơi vào bước đường cùng, nhưng vẫn dũng cảm tiến về phía trước. Đây là cuốn tiểu thuyết chính nhất, hay nhất của Lưu chấn Vân kể từ trước tời nay." (Nhà phê bình nổi tiếng Ma La) "Cuốn tiểu thuyết dùng hai câu chuyện ở các thời khác nhau và số phận những con người bình thường có quan hệ máu mủ ở các thời khác nhau để nói về hai chủ đề lớn của đời người. Đó là “Ra Đi” và “Quay Về”… (Nhà phê bình nổi tiếng Trương Di Vũ) "Tác phẩm này của Lưu Chấn Vân vừa là một lời giải thích cá nhân hóa, vừa là một mẫu mực điển hình hóa cho câu hỏi “Vì sao tiểu thuyết lại được coi là nghệ thuật ngôn ngữ.” (Nhà phê bình văn học nổi tiếng Bạch Diệp) *** Một câu hơn cả nghìn năm Lưu Chấn Vân đã phải ấp ủ, thai nghén ba năm mới cho ra đời cuốn tiểu thuyết này. Đây cũng là tác phẩm chín nhất, hay nhất của ông kể từ trước đến nay.. Phong cách kể chuyện của tác giả giống với nhật ký dã sử thời Minh, Thanh. Câu chữ chắt lọc, tình tiết rõ ràng, giọng kể mạch lạc, văn phong có dáng dấp của những bậc tác gia tiền bối như: Uông Tăng Kỳ, Tôn Lê1... Bởi vậy từng câu, từng chữ trong tác phẩm đều mang nghệ thuật biểu đạt, thấm đẫm mồ hôi tác giả. Quan trọng hơn, chỉ với ngôn ngữ như vậy, tác giả mới có thể đối ứng và thể hiện được nội hàm của tác phẩm: nền văn hóa phương Tây đối thoại với Thánh Thần và nền sinh thái của nhân loại, bởi sự hiện hữu mọi nơi của Thánh Thần mà người ta vui vẻ, tự tại. Người với người tuy quan hệ, qua lại không nhiều, nhưng không bị cô độc. Tiếp nữa, văn hóa Trung Quốc đối thoại với con người và kiếp người phù du lại vì sự chú trọng cực đoan đến hiện thực và truyền thống Nho gia, vì sự khác nhau về quần xã, địa vị và lợi ích, vì sự trắc trở, khó đoán của lòng người và mất mát niềm tin, nên những người bạn có thể dốc bầu tâm sự, sưởi ấm tâm hồn mình không nhiều, vậy nên phải sống trong nỗi cô độc nghìn năm. 1. Uông Tăng Kỳ: sinh năm 1920 tại tỉnh Tô Giang. Là nhân vật tiêu biểu cho thế hệ nhà văn đương đại, nhà viết kịch, tản văn... Cuộc đời ông trải qua nhiều sóng gió, trắc trở, phải chịu đựng nhiều sự đối đãi bất công. Nhưng dù vậy ông vẫn luôn giữ thái độ bình tĩnh, khoáng đạt và sáng tác ra rất nhiều những tác phẩm văn học theo chủ nghĩa lạc quan tích cực. Tôn Lê: sinh năm 1913 tại tỉnh Hà Bắc. Là người đi đầu trong tầng lớp những nhà văn đương đại Trung Quốc. Các tác phẩm của ông nhận được sự đánh giá rất cao của mọi người. Sau khi đọc xong tác phẩm của ông, Mao Trạch Đông từng viết: “Đây là một tác giả rất có phong cách.” Mỗi một người Trung Quốc đều có trải nghiệm về niềm cô độc như vậy. Thế nhưng, kể từ Ngũ Tứ đến nay, đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên nhìn thẳng vào người dân thường, quan tâm đến tâm hồn họ và ca ngợi họ như thế. Nửa đầu cuốn tiểu thuyết nói về quá khứ: Ngô Mô-sê cô độc đánh mất cô con gái nuôi - người duy nhất “nói chuyện được” với gã. Vì sự tìm, gã rời khỏi Diên Tân. Nửa cuối tiểu thuyết nói về hiện tại: Con trai con gái nuôi của Ngô Mô-sê là Ngưu Ái Gia cũng vì để thoát khỏi sự cô độc, muốn tìm một người bạn “nói chuyện được”, mà đi tới Diên Tân. Rời và Tới ròng rã mất trăm năm. Trong tác phẩm này, mọi mối quan hệ tình tiết và kết cấu nhân vật, mọi sự hài hòa trong tổ chức quần xã và gia đình, thậm chí đến ngay cả nhục dục và tình yêu cũng đều liên quan đến chuyện người với người có nói chuyện được với nhau hay không; liên quan đến chuyện lời nói ra có thể chạm đến tâm hồn, mang lại hơi ấm, hóa giải xung đột, kích thích đam mê hay không. Lời nói, một khi đã trở thành thứ duy nhất để tương thông giữa con người với con người, thì sự tìm kiếm và cô độc liền đi kèm theo nhau suốt đời. Sự đuối sức của tâm hồn và sự rệu rã của sự sống, và cả sự mịt mù, mệt mỏi vô bờ bến liền sản sinh, gắn với nhau như hình với bóng. Từ đó, chúng ta chợt nhận ra, người Trung Quốc sao lại phải sống mệt mỏi đến vậy! Sự mệt mỏi ấy, giống như đêm dài đằng đẵng, mài cứa vào thần kinh chúng ta, hết đời này sang đời khác. Để thoát khỏi sự cô độc và mệt mỏi ấy, những con người trong tác phẩm đã cố gắng tạo ra những thanh âm và niềm vui riêng. Thế là, hô tang liền trở thành nghề mà nhân vật chính Dương Bách Thuận tôn thờ. Thủ đàm với con hát trở thành sở thích cá nhân của huyện trưởng... Nhưng điều ấy vẫn không thể thay đổi được số phận của nhân vật trong truyện. Bởi vậy, đọc cuốn tiểu thuyết này, ta thấy nặng nề, đau đớn. Tâm trạng ấy khiến chúng ta không ngừng bị quẩn quanh giữa “Luận Ngữ” và “Kinh Thánh”, quanh quẩn trong mối trăn trở nghìn năm là đối thoại với Thánh Thần hay đối thoại với con người... Đương nhiên, đọc cuốn tiểu thuyết này, chúng ta cũng cảm nhận được sự bền bỉ và ngoan cường của sự sống. Để có được một chỗ dựa và an ủi về tinh thần, con người bất giác lại theo đuổi bóng dáng trong “Một câu chọi vạn câu”, rất giống với tấm lưng còng của tổ tiên và vòm trời được ghép bởi vô vàn những tấm lưng ấy. -An Ba Thuấn *** Bố Dương Bách Thuận bán đậu phụ, người ta gọi lão là lão Dương bán đậu phụ. Ngoài đậu phụ, mùa hè, lão còn bán cả mỳ nguội. Lão Dương bán đậu phụ và lão Mã đánh xe ngựa ơ Mã Gia Trang là bạn thân với nhau. Thật ra hai người vốn không nên là bạn, bởi lão Mã thường bắt nạt lão Dương. Bắt nạt ở đây không phải ý bảo lão ta đánh, hay mắng chửi, hay bắt chẹt lão Dương về khoản tiền bạc, mà là coi khinh từ trong trứng nước. Khi đã coi khinh một ai đó thì có thể không cần phải đi lại, quan hệ với người ấy, nhưng lão Mã hễ nói chuyện tếu táo là lại không thể thiếu được lão Dương. Lão Dương khi kể với mọi người về bạn mình, người đầu tiên lão nhắc đến là lão Mã. Còn lão Mã khi kể về bạn mình, kể đây là kể sau lưng, thì cấm có lần nào lão ta đả động đến lão Dương bán đậu phụ và mỳ nguội ở Dương Gia Trang. Nhưng người ngoài không biết nội tình bên trong lại cứ tưởng hai người là bạn thân. Năm Dương Bách Thuận 11 tuổi, lão Lý thợ rèn ngoài thị trấn làm tiệc mừng thọ mẹ. Lò rèn của lão Lý tên là “Lò rèn Đới Vượng”, chuyên làm mấy thứ như: thìa, dao thái, lưỡi rìu, lưỡi cuốc, lưỡi liềm, răng bừa, lưỡi xẻng, chốt cửa... Cánh thợ rèn, mười người thì có đến tám chín người tính tình nôn nóng. Nhưng lão Lý lại đủng đỉnh. Một cái đinh bừa thôi mà lão ta cũng phải làm hai canh giờ mới xong. Chậm đây, nhưng là chậm chắc, chậm tinh xảo, cái đinh bừa ấy thể nào cũng góc cạnh sắc nét. Trước khi đem tôi, những thứ: thìa, dao thái, lưỡi rìu, lưỡi cuốc, lưỡi liềm, lưỡi dao, chốt cửa... đều được lão in lên hai chữ “Đới Vượng”. Trong bán kính vài chục dặm, tuyệt nhiên không có một gã thợ rèn nào hành nghề. Không phải vì tay nghề họ kém lão Lý, mà vì chẳng ai có thế lọ mọ, tẩn mẩn được như lão. Người đủng đỉnh thường kỹ tính. Người kỹ tính dễ thù dai. Lão Lý là dần làm ăn, lò rèn ngày nào cũng có người qua lại, chắc chắn không tránh khỏi có câu này câu kia đắc tội với lão. Ấy thế nhưng lão không thù người ngoài, chỉ thù mỗi mẹ. Mẹ lão là người nóng tính, cái tính đủng đỉnh của lão là do bị tính nóng nảy của bà mẹ đè nén mà ra. Hồi tám tuổi, Lý ăn vụng một miếng bánh táo, liền bị mẹ giơ chiếc muôi sắt lên giáng thẳng vào đầu. Chậc... một hố sâu hoắm hiện ra, máu chảy ròng ròng. Người khác, khi vết thương đã lành thường quên đau, còn lão bắt đầu từ tám tuổi đã thù mẹ. Cái sự thù của lão không phải vì vết thương sâu hoắm, mà vì bà mẹ lão, sau khi làm ra vết thương ấy vẫn cười cười nói nói, tung tẩy đi cùng mọi người tới phố huyện xem tuồng. Cũng chẳng phải vì thù cái sự xem tuồng, mà vì sau khi lão trưởng thành, một người tính đủng đỉnh, một người tính nôn nóng, cách nhìn nhận về mỗi sự việc đều khác nhau. Mẹ lão bị viêm vành mắt. Năm lão 40 tuổi, bố lão mất. Năm lão 45 tuổi, mẹ lão bị mù. Sau khi bà mẹ bị mù, lão Lý trở thành ông chủ của Lò rèn Đới Vượng . Sau khi thành ông chủ rồi, lão Lý cũng vẫn chẳng hề này kia với bà mẹ. Chuyện ăn, chuyện mặc của bà vẫn giống như lúc trước, có điều bà mẹ nói gì, lão đều bỏ ngoài tai. Làm nghề rèn, bữa ăn ngày thường rất đạm bạc, nhưng bà mẹ lão vẫn lớn tiếng: - Nhạt miệng quá đi mất! Mau đi làm miếng thịt bò về đây cho tôi nhai tạm. Lão Lý: - Hẵng cứ đợi đấy. Đợi cũng chỉ là đợi suông thế. Mẹ lão: - Buồn quá đi mất. Mau dắt con lừa ra đây để tôi ra phố huyện chơi một lát. - Hẵng cứ đợi đấy. Đợi cũng chỉ là đợi suông thế. Không phải lão cố ý chọc giận mẹ, mà là để hãm dần cái tính nôn nóng của bà. Mẹ lão nôn nóng đã nửa đời người, giờ đã đến lúc phải thong thả lại. Nhưng lão cũng sợ, làm như thế phiền phức e sẽ ngày càng nhiều. Năm mẹ lão 70 tuổi, lão Lý muốn làm lễ mừng thọ cho mẹ. Bà mẹ: - Sắp xuống lỗ đến nơi rồi, khỏi phải thọ thiếc gì cả. Ngày thường, cứ tử tế với tôi thêm một chút là được. Rồi lại gõ chiếc gậy xuống đất: - Anh định làm lễ mừng thọ cho tôi à? Hay lại âm mưu gì cũng không biết chừng. Lão Lý: - Bà chỉ nghĩ lẩn thẩn. Nhưng lão Lý vẫn làm lễ mừng thọ cho mẹ, thật ra không phải vì mẹ lão. Tháng trước, có một thợ rèn họ Đoàn, người An Huy, đến thị trấn và cũng mở một lò rèn. Lão Đoàn béo mập. Lò rèn của lão có tên là “Lò rèn Đoàn béo”. Nếu lão Đoàn cũng tính tình nôn nóng, thì lão Lý chẳng sợ. Ai dè, lão Đoàn béo cũng là một tay đủng đỉnh. Một chiếc đinh bừa mà cũng phải làm mất hai canh giờ đồng hồ. Lão Lý phát hoảng. Muốn nhân dịp mừng thọ mẹ tổ chức một bữa tiệc thật linh đình để dằn mặt lão béo. Mượn cái sự đông khách khứa để lão béo phải hiểu rằng: đất có thổ công, sông có hà bá. Nhưng mọi người chẳng ai hiểu cái nội tình ấy. Chỉ biết, trước đầy, lão Lý chẳng hiếu đễ gì với mẹ, giờ đột nhiên lại có hiếu, bèn đoán chắc lão ta đã hiểu ra bổn phận làm con. Trưa hôm ấy, mọi người đều mang quà đến dự tiệc mừng thọ mẹ lão Lý. Lão Dương và lão Mã đều là bạn của lão Lý, nên hôm ấy cũng đến. Lão Dương phải dậy sớm đi bán đậu phụ ở xa, nên đến hơi muộn. Mã Gia Trang gần thị trấn, nên lão Mã có mặt rất chuẩn giờ. Lão Lý biết lão Dương bán đậu phụ và lão Mã đánh xe ngựa chơi thân với nhau, nên dành một chỗ cho lão Dương ngay cạnh lão Mã. Lão Lý những tưởng mình sắp đặt thế là chu toàn lắm, nào ngờ lão Mă có vẻ bực mình: - Ấy chớ! Bác đổi lão ta ra chỗ khác ngồi đi. Lão Lý: - Hai bác ngồi cạnh nhau nói chuyện tếu cho không khí nó rôm rả. Lão Mã hỏi: - Hôm nay có chất cay không? Lão Lý: - Mỗi bàn ba chai. Không chơi rượu can, nhá. Lão Mã: - Thì thế. Không uống rượu, nói chuyện vui với lão ta còn được. Chứ hễ cứ nốc rượu vào, là lão ta toàn móc ruột móc gan. Móc xong, hể hả lắm, nhưng lại khổ cái thân tôi. Lại tiếp: - Cũng chẳng phải một đôi bận đâu. Lúc ấy, lão Lý mới biết, đôi bạn này không phải là tri kỷ. Hoặc giả, lão Dương coi lão Mã là tri kỷ, nhưng lão Mã lại không thế. Lão Lý đành bèn chuyển chỗ lão Dương tới bàn khác, cạnh lão Đỗ làm nghề môi giới buôn bán gia súc. Dương Bách Thuận bị bố sai sang quẩy nước giúp nhà lão Lý từ hôm trước, nên đã nghe hết câu chuyện. Ngay sau hôm tiệc mừng thọ, lão Dương bán đậu phụ ngồi nhà ca cẩm cỗ nhà lão Lý ăn chán quá, mất quà oan. Chán ở đây không phải vì cỗ bàn không thịnh soạn, mà vì nói chuyện với cái tay Đỗ không hợp. Đầu tay Đỗ đã hói, lại còn bốc mùi, gàu rụng đầy vai. Lão Dương tưởng vì mình tới muộn, nên chẳng may phải ngồi cạnh lão Đỗ. Dương Bách Thuận liên đem câu chuyện nghe được hôm qua kể với bố. Nghe xong, lão Dương giáng ngay cho thằng con một cái bạt tai: - Bác Mã đời nào nói thế. Mày chỉ tầm bậy tầm bạ! Dương Bách Thuận tức tưởi. Còn bố nó ôm đầu ngồi sụp xuống cửa quầy đậu phụ, chẳng nói chẳng rằng. Suốt nửa tháng sau đó, lão Dương cũng chẳng hề đả động đến lão Mã nữa. Thê nhưng, sau nửa tháng, lão Dương lại qua lại với lão Mã, lại nói chuyện tếu táo, có việc lại tìm đến lão Mã trao đổi, bàn bạc. Bán hàng thường phải rao, nhưng lão Dương lại chẳng thích rao gì cả. Rao hàng chia làm hai loại: thô và tinh. Rao thô nghĩa là: bán gì rao nấy, chẳng hạn đã là đậu phụ thì cứ đậu phụ mà rao “Đậu phụ đêêêê...” “Đậu phụ Dương Gia Trang đêêêê..” Còn rao tinh nghĩa là rao có nhạc có điệu hẳn hoi, tâng đậu phụ của mình lên mấy bậc: “Bạn rằng là, đậu phụ này ý a, có phải là đậu phụ? Xin thưa rằng là, đậu phụ này ý a, là đậu phụ. Nhưng không thể ý a coi là đậu phụ...” Thế thì coi là gì? Là bạch ngọc, là mã não chứ còn gì nữa! Lão Dương mồm miệng vụng về, không biết ngân nga thành giai điệu, nhưng lại không muốn rao thô. Thật ra, lão đã từng rao thô, nhưng cũng đặc sắc đáo đế ra phết: “Đậu phụ mới làm, không phải lăn tăn về chất lượng đâyyyyy...” Lão biết đánh trống, dùi trống nện vào mặt trống, gõ vào thành trống, tạo ra nhiều âm thanh khác nhau, vui tai đáo để. Lão ta liến chơi độc , lúc bán đậu phụ, không rao, mà gõ trống. Đánh trống bán đậu phụ, mới mẻ, sáng tạo quá còn gì! Người trong làng hễ nghe tiếng trống là biết ngay lão Dương bán đậu phụ ở Dương Gia Trang đã tới. Ngoài những lúc bán đậu phụ ở làng, vào dịp chợ phiên trên thị trấn, lão cũng lên đó bán. Vừa bán đậu phụ, vừa bán mỳ nguội. Lão ta lấy nan tre cắt mỳ nguội thành từng sợi, cho vào bát, rắc hành, cho thêm mấy nhánh kinh giới, rồi trộn với tương vừng. Bán bát nào, làm bát ấy. Bên trái hàng lão Dương là lão Khổng ở Khổng Gia Trang bán bánh nướng nhân thịt lừa. Bên phải là lão Đậu ở Đậu Gia Trang bán súp cay và thuốc lá sợi. Ở làng, lão Dương đánh trống để bán đậu phụ và mỳ nguội. Ở chợ phiên trên thị trấn, lão cũng giở chiêu ấy. Tiếng trống liên hồi kỳ trận, suốt từ sáng đến tối. Lúc đầu, mọi người thấy mới lạ, nhưng sau độ một tháng, đám lão Khổng, lão Đậu đều phát ngấy. Lão Khổng: - Chốc lại “tùng tùng”, chốc lại “cắc cắc”. Bác Dương này, cái đầu tôi bị bác gõ thành mỳ nguội nhà bác rồi đấy. Buôn bán cỏn con mà cứ làm như xuất quân đánh trận không bằng. Có cần phải ầm ĩ đến thế không? Lão Đậu tính nóng. Chẳng nói chẳng rằng, mặt hằm hằm sấn đến, đá một phát rách trống của lão Dương. 40 năm sau, lão Dương bị trúng gió, nằm liệt giường. Mọi việc trong nhà giao cho con trai cả là Dương Bách Nghiệp cầm trịch. Người khác hễ bị trúng gió là không điều khiển được trí não, mồm miệng cũng vượt khỏi tầm kiểm soát, lắp ba lắp bắp không thành câu. Nhưng lão Dương lại khác, chỉ bị liệt người, trí não và mồm miệng đều không sao. Hồi chưa bị liệt, mồm miệng vụng về, nói chuyện nọ xọ chuyện kia, hoặc gộp hai chuyện thành một. Nhưng sau khi bị liệt, đầu óc tự dưng minh mẫn, mồm miệng lại hóa trôi chảy. Gặp chuyện đều xử lý rất bình tĩnh, đâu ra đấy. Sau khi bị liệt, cả ngày phải nằm trên giường, hơi tí lại phải nhờ vả người khác. Về khoản này, rõ là không bằng lúc trước được, đã thế lại còn thiệt mắt, thiệt mồm. Hễ có bóng người vào, là lão vội đánh ánh mắt nghênh đón, lấy lòng. Sau đấy, người ta hỏi gì, lão đáp nấy. Hồi chưa bị liệt, lão thường nói dối, nhưng sau khi bị liệt, câu nào cũng móc ruột móc gan. Uống nước nhiều, đêm cũng sẽ trở dậy nhiều, nên bắt đầu từ chiều là lão không uống nữa. Sau 40 năm, bạn bè trước của lão, người thì mất, người còn sống thì mỗi người một việc. Sau khi lão bị liệt, chẳng có ma nào đến thăm lão. Ngày Rằm tháng Tám năm ấy, lão Đoàn khi đó bán hành ở chợ xách hai phong bánh đến thăm lão. Lâu không gặp cố nhân, lão Dương cầm tay lão Đoàn rưng rưng. Thấy người nhà đi vào, lão vội lấy tay áo lau nước mắt. Lão Đoàn: - Ông còn liệt kê được những người buôn bán ở chợ phiên năm xưa, từ đầu đông sang đầu tây không? Đành rằng đầu óc lão Dượng còn tỉnh táo, nhưng đã 40 năm trôi qua, lão cũng đã quên hơn nửa những người bạn cùng buôn bán với lão dạo ấy. Lão xòe bàn tay đếm, đến người thứ năm là chịu. Nhưng lão vẫn nhớ đến lão Khổng bản bánh nướng nhân thịt lừa và lão Đậu bán súp cay và thuốc lá sợi lắm, bèn nhảy cóc qua rất nhiều người, đến thẳng đến hai lão ấy. - Lão Khổng nói năng nhỏ nhẹ. Lão Đậu thì tính tình nóng nảy. Hồi ấy, lão ta còn đá rách cả trống của tôi. Nhưng đời nào tôi chịu thua, tôi cũng đạp một phát vào quầy hàng của lão, làm súp cay đổ lênh láng xuống đất. Lão Đoàn: - Ông còn nhớ lão Đổng ở Đổng Gia Trang làm nghề thiến lợn không? Ngoài thiến lợn ra, lão ta còn vá nồi thuê ấy. Lão Dương chau mày nghĩ ngợi, không nhớ ra lão Đổng vừa thiến lợn, vừa và nổi thuê. Lão Đoàn: - Thế còn lão Ngụy ở Ngụy Gia Trang? Ở mé ngoài cùng phía tây chợ phiên, bán gừng tươi, hay cười tủm ấy. Chốc lão ta lại tủm tỉm, chốc lại tủm tỉm. Chẳng biết cười cái gì. Lão Dương vẫn chẳng nhớ ra nổi. Lão Đoàn: - Thế còn lão Mã ở Mã Gia Trang làm nghề đánh xe ngựa, chắc ông vẫn nhớ chứ hả? Lão Dương thở phào: - Lão ấy thì tôi nhớ chứ sao không. Chết hơn hai năm rồi. Lão Đoàn cười: - Năm xưa, lúc nào ông cũng chỉ có lão Mã, chẳng thèm để ý đến ai. Nhưng ông đâu biết rằng, ông coi người ta là bạn, nhưng người ta toàn bỡn cợt ông đằng sau lưng. Lão Dương vội chuyển đề tài: - Chuyện bao năm rồi, mà ông vẫn nhớ à. Lão Đoàn: - Tôi không nói đến chuyện ấy, mà nói đến cái lý. Kẻ chẳng coi ông là bạn, thì ông cứ săn đón người ta cả đời, còn người coi ông là bạn, thì ông lại chẳng xem vào đầu. Hồi ấy, người trên chợ đều bực mình chuyện ông gõ trống, mỗi tôi là thích nghe. Để được nghe tiếng trống, tôi đã mua không biết bao nhiêu là mỳ nguội của ông. Có bận, muốn lân la đôi ba câu với ông, nhưng ông có thèm bắt chuyện đâu. Lão Dương vội nói: - Làm gì có chuyện ấy. Lão Đoàn phẩy tay: - Đấy, ông xem. Đến bây giờ ông vẫn còn chưa coi tôi là bạn. Hôm nay tôi đến đây là muốn hỏi ông một câu. - Ông hỏi gì? - Sống cả đời rồi. Ông có được một người nào đáng tấm bạn không? Lại nói: - Trước đây chưa nghĩ ra. Nhưng bây giờ, nằm trên giường thế này, chắc hẳn ông đã thông rồi chứ hả? Lúc ấy, lão Dương mới hiểu. Thì ra, sau 40 năm, tay Đoàn thấy mình nằm liệt giường, còn chân tay hắn vẫn nhanh nhẹn, nên tìm đến để trả thù. Lão Dương nhổ nước miếng: - Ông Đoàn, khi xưa tôi đã không nhìn lầm ông. Ông là đồ tồi. Lão Đoàn cười, bỏ đi. Lão ta đi rồi, lão Dương vẫn còn nằm trên giường mắng chửi lão. Con trai cả Dương Bách Nghiệp đi vào, ông ta là anh của Dương Bách Thuận, tuổi đã ngoài 50. Hồi nhỏ, Dương Bách Nghiệp đần độn, toàn bị lão Dương đánh. Sau hơn 40 năm, lão Dương nằm liệt giường, ông ta trở thành chủ gia đinh. Lão Dương giờ có muốn động chân động tay, cũng phải nhìn sắc mặt ông con cả. Bách Nghiệp tiếp tục đề tài của lão Đoàn, hỏi: - Lão Mã đánh xe ngựa. Ông bán đậu phụ. Hai người chẳng dây mơ rễ má gì với nhau. Hồi ấy, người ta chẳng coi ông là người, cớ sao ông lại cứ phải săn đón làm bạn với lão ta? Không hiểu ông có lý do gì? Lão Dương dám nổi nóng với lão Đoàn, nhưng không dám nổi nóng với Bách Nghiệp. Ông ta hỏi câu gì, lão phải trả lời câu ấy. Đành thôi chửi lão Đoàn, than: - Có chứ. Nếu không, bố cũng cóc sợ cái lão ấy. Bách Nghiệp: - Ông ăn chặn của lão ta thứ gì à? Hay có quả phốt nào bị lão ta bắt thóp? Lão Dương: “Giả có ăn chặn hay bị phốt thì lão ấy cũng chẳng bắt thóp được bố. Kiếp sau, không chơi bời, qua lại với lão ấy là được chứ gì. Chẳng là, ngay lần đầu tiên chạm nhau, bố đã bị lão ấy át vía. Bách Nghiệp: - Át thế nào? Lão Dương: - Lần đầu bố gặp lão ấy là ở phiên chợ bán gia súc. Lão ấy đi chợ mua ngựa, còn bố bán lừa. Cả bọn tán gẫu với nhau. Cùng một câu chuyện, nhưng bố chỉ có thể nhìn được một dặm, còn lão ấy thì nhìn được mười dặm. Bố chỉ nhìn được một tháng, nhưng lão ấy có thể nhìn được tới mười năm. Cuối cùng, bố không bán được lừa. Về khoản lời lẽ, bố bị lão Mã át vía. Lại lắc đầu: - Việc không bắt người, nhưng lời bắt người. Lại nói: - Sau này, hễ gặp việc gì, bố đều tìm lão ấy để bàn bạc. Bách Nghiệp: - Con hiểu rồi, vẫn là ông muốn ăn chặn người khác. Gặp việc, không tự mình quyết định được, muốn mượn thêm đôi mắt của người khác cho tinh tường. Nhưng con vẫn không hiểu, lão ấy đã không coi ông ra gì, nhưng sao vẫn cứ qua lại với ông nhỉ? Lão Dương: - Trong chu vi trăm dặm, tìm đâu ra người có thể nhìn được mười dặm, nhìn thấu một năm? Lão Mã cả đời cũng chẳng có bạn. Lại cảm thán: - Đời lão Mã không nên đánh xe ngựa. Bách Nghiệp: - Không đánh xe ngựa thì làm gì? Lão Dương: - Lão Giả mù thầy bói đã xem cho lão ấy, bảo đáng ra lão ấy phải là đám Trần Thắng, Ngô Quảng ấy, nhưng lão không có gan, trời vừa tối là đố dám ra khỏi nhà. Thực ra, cả đời lão ấy đánh xe ngựa, nhưng cũng chẳng đâu vào đâu. Đánh xe ngựa mà không dám đánh xe đi ban đêm, để lỡ biết bao nhiêu là việc! Rồi nổi giận: - Nhát như chuột nhắt mà dám coi thường tao à? Mẹ kiếp, có tao coi thường lão ấy thì có! Cả đời không coi tao là bạn à? Có mà tao không coi lão ấy là bạn thì có! Bách Nghiệp gật gù. Gã hiểu rằng, hai lão ấy phải là bạn của nhau suốt đời. Đã đến giờ ăn trưa. Hôm ấy là ngày Rằm tháng Tám, bữa trưa ăn bánh bột mỳ rán, canh rau hầm thịt. Bánh bột mỳ rán là món lão Dương khoái khẩu nhất. Nhưng hơn 60 tuổi, răng rụng quá nửa, không nhai nổi, phải có thêm món canh rau hầm thịt. Rau và thịt được đun lâu, rau nhừ, thịt cũng nhừ, nước canh nóng bỏng. Xé bánh thả vào nước rau hầm thịt, ngâm đến độ bánh vừa cho vào miệng là đã tan ra. Hồi lão Dương còn trẻ, vào dịp lễ tết đều ăn bánh bột mỳ rán. Nhưng sau khi lão bị liệt giường, chuyện có được ăn hay không, lão không quyết được. Vốn dĩ, Bách Nghiệp đã quyết định bữa trưa sẽ ăn món bánh bột mỳ rán và canh rau hầm thịt. Nhưng lão Dương lại tưởng vì vừa rồi mình nói thật, nên Bách Nghiệp mới cho ăn, coi như phần thưởng. Ăn một bữa bánh mà lão Dương mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Trong hơi nóng của bát canh rau hầm thịt, lão ngẩng mặt lên, cười lấy lòng cậu con cả, ý bảo: - Lần sau anh hỏi gì, bố cũng sẽ nói thật. Mời các bạn đón đọc Một Câu Chọi Vạn Câu của tác giả Lưu Chấn Vân.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhân Dân Bất Diệt - Va-xi-li Gơ-rô-xman
Năm 1934 trong Tập san văn nghệ Xô-viết, người ta thấy đăng truyện  "Trong thành phố Béc-đi-sép" của một cây bút mới lạ: Va-xi-li Gơ-rô-xman. Truyện đó nổi bật ngay trong vô số những tiểu thuyết và truyện ngắn của các nhà văn quen thuộc. Các độc giả, các nhà văn nhất trí chào mừng ở Gơ-rô- xman một tài năng mới có nhiều triển vọng. Va-xi-li Gơ-rô-xman sinh ngày 12-12-1905 ở thành phố Béc-đi-sép, con một ông kỹ sư hóa học và một bà giáo dạy tiếng Pháp. Năm 1914, Gơ-rô-xman học ở Ki-ép, rồi về Béc-đi-sép học ở một trường phổ thông lao động, vừa học vừa lao động và dạy học thêm. Năm 1923, Gơ-rô-xman vào học khoa hóa của trường đại học Mát-xcơ-va, đến năm 1929 thì tốt nghiệp và làm việc ở vùng Đôn-bát. Ông đã làm việc ở nhiều viện nghiên cứu khoa học tại địa phương và tham gia một công trình nghiên cứu về thuốc nổ và hơi độc. Năm 1932, bị lao nhẹ, ông phải dời Đôn-bát về Mát-xcơ-va, làm việc ở một xí nghiệp chì. Sáu bảy năm trước chiến tranh, Gơ-rô-xman đã viết một truyện ngắn và tiểu thuyết, trong đó có hai tập "Hạnh phúc" và "Bốn ngày”. Tháng 7 năm 1936, Gơ-rô-xman bắt tay vào viết cuốn tiểu thuyết "Xtê-pan Côn-sư-ghin" gồm 3 tập nhưng vì chiến tranh nổ ra nên không hoàn thành được, và đã xuất bản được hai tập. Tháng 8 năm 1941, Gơ-rô-xman gia nhập Hồng quân, được cử ra mặt trận trung tâm dưới danh nghĩa phóng viên chiến tranh của báo Sao đỏ, cơ quan ngôn luận của Hồng quân, và đến năm I943, ông được phong cấp trung tá.   Ông đã tham dự cuộc rút lui gian khổ của Hồng quân ra khỏi Biê-lô-rút-xi và U-cơ-ren. Chính trong thời kỳ này, ông đã tích lũy được nhiều tài liệu cho cuốn "Nhân dân bất diệt" nổi tiếng, xuất bản năm 1942. Ông đã tham dự chiến dịch Xta- lin-gơ-rát từ đầu đến cuối và những phóng sự ông viết về chiến dịch này đã được xuất bản thành tập sau khi in trên báo Sao đỏ. Ông cũng đã được tham dự các chiến dịch giải phóng Ki-ép, Ô-đét-xa, Min-xcơ, Vác-sa-va và Bá-linh. Xuân 1943, ông bắt đầu viết một bộ trường ca, ca ngợi cuộc chiến đấu vĩ đại cha quân dân Xta-lin-gơ-rát, và đó là công trình lớn nhất sau thời kỳ chiến tranh của ông. Tập đầu "Vì sự nghiệp chính nghĩa" viết trong bảy năm, đã xuất bản năm 1952 trên báo Thế giới mới. Trong chiến tranh, Gơ-rô-xman đã được tặng thưởng huân chương Cờ đỏ, huân chương Sao đỏ và sáu huy chương. Năm 1955, ông lại được tặng thưởng huân chương Lao động Cờ đỏ. Cuốn "Nhân dân bất diệt” được in lần đầu tiên năm 1942 trên báo Sao đỏ. Sau đó, nó được xuất bản thành sách, được tái bản nhiều lần trong nước và được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài. Nó là một trong những cuốn tiểu thuyết xuất sắc nói về đề tài chiến tranh của nền văn học Xô-viết. Bối cảnh lịch sử của nó là thời kỳ đầu cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của nhân dân Liên-xô. Địch tấn công như vũ bão trên đường đi tới Gô-men, chiếm đóng và cướp bóc nhiều nơi. Bô-ga-rép, cựu giáo sư dạy về chủ nghĩa Mác - Lê-nin ở một trường đại học, được cử về làm chính ủy của trung đoàn do thiếu tá Méc-xa-lốp chỉ huy. Trung đoàn được trao nhiệm vụ hậu vệ và trong khi bảo vệ đường rút cho đại quân, một tiểu đoàn do chính ủy Bô-ga-rép trực tiếp chỉ đạo, đã bị rớt lại trong vòng vây quân Đức. Bác bỏ kế hoạch của tiểu đoàn trưởng đề nghị cho bộ đội bí mật luồn rút ra khỏi vòng vây, Bô-ga-rép đã lợi dụng hoàn cảnh, bắt liên lạc với trung đoàn, tổ chức phối hợp hai bên, trong đánh ra ngoài đánh vào, và giành được thắng lợi lớn. Đó cũng là trận mở màn cho thời kỳ phản công trên mặt trận đó. Đó là nội dung vắn tắt của cuốn truyện. Thực ra "Nhân dân bất diệt” thuộc loại tiểu thuyết khó tóm tắt. Cốt truyện đơn giản trên chỉ là cái nền trên đó tác giả vẽ nên những bức tranh đậm nét về những con người với những suy nghĩ và xúc cảm của họ trong những giờ phút nghiêm trọng đang quyết định vận mệnh của Tổ quốc. Bằng một lối viết nhẹ nhàng, trong sáng, súc tích, và chỉ bằng vài nét đặc sắc, Gơ-rô-xman đã nêu bật lên được những nét điển hình của con người và hoàn cảnh. Trong "Nhân dân bất diệt", cũng như trong các tác phẩm khác của mình, Gơ-rô-xman tỏ ra là một nhà văn có tài thâm nhập cuộc sống, thâm nhập nội tâm của những nhân vật rất khác nhau, hiểu họ như hiểu bản thân mình, dẫn người đọc đi thẳng vào đời sống tinh thần của họ, suy nghĩ về số phận của họ, thông cảm sâu sắc với những nỗi vui buồn của họ, và đó chính là sức lôi cuốn của cuốn sách. *** Vào truyện Chính ủy Bô-ga-rép và chiến sĩ nông dân I-nha-chi-ép là hai nhân vật chính của truyện. Bô-ga-rép là con người mà mỗi hơi thở nói lên tình yêu thắm thiết đối với đất nước Xô-viết của anh, đất nước của nhân dân, "một đất nước giành được trong sự phấn đấu vĩ đại của nội chiến, trong đói rét, một đất nước tất nhiên còn nghèo, sống được nhờ lao động gian khổ, và do những quy luật ngặt nghèo chi phối", nhưng là đất nước ở đó giấc mơ ngàn đời của bao nhiêu thế hệ lần đầu tiên đã được thực hiện. Kẻ thù giày xéo lên đất nước anh, anh hết lòng căm thù và khinh bỉ chúng. Anh coi chủ nghĩa phát xít là một cái gì đê tiện và phản động nhất trên đời, nó không có một chút yếu tố gì sáng tạo, nó tượng trưng cho bùn lầy nước đọng, nó chỉ mang được một yếu tố vào lịch sử và đời sống chính trị là: sự man rợ có tổ chức, sự cướp bóc giết người. Anh đấu tranh quyết liệt với những ai tỏ vẻ sợ sệt nó, khuyên họ chỉ nên khinh bỉ và chế giễu nó mà thôi. Trong người chiến sĩ bình thường, anh nhìn thấy người anh hùng chân chính làm nên thắng lợi. Đây là cảm giác của anh khi anh dẫn đầu chiến sĩ lên xung phong: anh đang lôi cuốn họ theo anh, còn họ thì hợp với anh thành một tổng thể thống nhất, vĩnh viễn, không thể chia cắt, như đang đẩy anh lên phía trước, như nước dâng thuyền. Anh đem chân lý của Đảng ra nhẫn nại thuyết phục quần chúng, đem sự thật không chút tô điểm trình bày một cách trung thực cho quần chúng, vạch cho họ biết những hy sinh nào đang chờ đợi họ bởi vì anh tin quần chúng không sợ hãi sự thật. Anh là người chỉ huy tỉnh táo, trong những giờ phút khó khăn nhất vẫn tin tưởng ở thắng lợi ("nhất định là phải thế, nếu không thì là tôi không trông thấy gì, không hiểu gì hết", anh nói như vậy) và biết tìm ra phương hướng hành động tích cực nhất. Anh phản đối tác phong của người chỉ huy không biết bao quát tình hình và quán xuyến toàn bộ lực lượng của mình, mà chỉ biết cầm cây súng trực tiếp dẫn đầu một bộ phận, xông vào khói lửa, mong lấy hành động dũng cảm không sợ hy sinh để tự lừa dối lương tâm, trốn tránh trách nhiệm trước sự thắng bại. Chiến sĩ nông dân I-nha-chi-ép là con người mà toàn bộ đặc tính được tóm tắt trong câu nhận xét của thượng sĩ Moóc-vi-nốp: "I-nha-chi-ép ạ, cậu có một tâm hồn rất là Nga". Anh là một người lực lưỡng, dẻo dai, có một bàn tay lao động cừ khôi biết sử dụng mọi thứ công cụ một cách khéo léo. Anh yêu cuộc sống, yêu ruộng đồng, quê hương đất nước anh. Anh thích lang thang trên cánh đồng, nghe chim hót, đắm mình trong cảnh thiên nhiên của đất nước, trên vai đeo một khẩu súng chim cà khổ để che mắt thiên hạ — vì anh sợ người ta cho là mình lập dị. Trước giờ chiến đấu anh có thể nằm sấp xuống đất hàng tiếng đồng hồ, hít thở hương rừng, theo dõi đàn kiến đang bận rộn dưới cỏ, suy nghĩ về đất nước anh, về cuộc chiến tranh khốc liệt đang tàn phá khắp nơi và đây là kết luận anh đã rút ra: "Chà ! Các cậu ạ, sống đến là thú! Phải một ngày như hôm nay mới thấy rõ như vậy. Có thể nằm đây hàng triệu năm mà không chán. Nằm mà thở cho đã !". Cuộc sống ấy, thiên nhiên ấy, đất nước ấy, anh là chủ. Ở ngay giữa lòng địch, trong vùng bị chiếm, anh vẫn nghĩ dứt khoát như vậy. Cho nên, khi xe địch sắp tới, anh em giục anh trốn đi, anh đã trả lời với một vẻ ngạc nhiên ranh mãnh: "Các cậu bảo tớ trốn đi đâu? Rừng này là của tớ, tớ là chủ ở đây. Nếu tớ chuồn, người ta sẽ hỏi: Thưa ông chủ, ông chủ chuồn đi đâu vậy?". Anh thuộc rất nhiều dân ca và truyện dân gian mà anh có tài kể lại một cách rất sinh động. Anh láu lỉnh, vui tính có thể uống hàng vò rượu mà không say, cũng có thể "chơi xỏ" người khác những vố khá đau, một cách hồn nhiên, không có ác ý. Nhưng anh chiến đấu cũng rất dũng cảm và mưu trí, với cái mưu trí ranh mãnh của quần chúng. Cho nên, không có gì là khó hiểu nếu ở đại đội, mọi người đều quý anh và nghe theo anh. Chính ủy Bô-ga-rép và chiến sĩ I-nha-chi-ép là như vậy đó. Người thứ nhất là người cán bộ lãnh đạo tiêu biểu cho phẩm chất, trí tuệ, quyết tâm, vai trò tổ chức và lãnh đạo quần chúng của Đảng. Người thứ hai tiêu biểu cho phẩm chất, sức mạnh và tài trí của chính bản thân quần chúng. Họ đại diện cho nhân dân và nhân dân là bất diệt. Đối với Gơ-rô-xman, nhân dân là kẻ sáng tạo nên mọi giá trị tinh thần và vật chất, là tượng trưng cho tất cà những cái gì cao cả nhất: trí tuệ, tinh thần sáng tạo, lòng yêu cuộc sống, yêu tự do, tình đồng chí, lòng nhân nghĩa, lòng dũng cảm... Còn kẻ thù của nhân dân, bọn bóc lột, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa phát-xít, thì mang trong mình nó tất cả những cái gì đê tiện nhất: lòng thù hằn con người, sự man rợ, tính hèn nhát, sự khô cằn về mọi mặt... Cuộc đấu tranh của nhân dân chống kẻ thù, chính là cuộc đấu tranh của con người chiến thắng con vật, của sự sống chiến thắng cái chết, của điều thiện chiến thắng điều ác, của ánh sáng chiến thắng bóng đêm. Trong cuộc chiến đấu ấy cho cuộc sống, Đảng và quần chúng kết thành một khối và điều đó được nêu bật trong hình ảnh kết thúc cuốn truyện: tiếng súng của trận đánh thắng lợi vừa chấm dứt mọi người đang đi tìm chính ủy, thì thấy chính ủy Bô-ga-rép cùng chiến sĩ I-nha-chi-ép, mình mấy đầy thương tích, loạng choạng dìu dắt nhau từ trong khói lửa cùng bước tới, như đi ra với cuộc sống. Người dịch          Mời các bạn đón đọc Nhân Dân Bất Diệt của tác giả Va-xi-li Gơ-rô-xman.
Người Lữ Hành Kỳ Dị - Harold Robbins
Đọc lại "Người lữ hành kỳ dị" của Harold Robbins, thấy mình cũng kỳ dị chẳng kém. Cuốn truyện dày gần 900 trang, đã được đọc đi, đọc lại trong nhiều năm nay. Mỗi lần đọc lại phát hiện ra những thông điệp mới của cuốn truyện.  Kỳ lạ, cuốn truyện đầy ngập những xác chết, rất nhiều người chết, trai có, gái có, già có, trẻ có, đột tử có, phải nằm liệt trước khi chết có, chết bệnh có, mà tự tử cũng có nữa. Thế mà tuyệt nhiên không ở trang nào có chỗ cho sự bi quan. Bao trùm cả cuốn truyện là sự phấn đấu liên tục, bền bỉ, kiên trì, dũng cảm, khôn ngoan và đầy mưu lược để chiến thắng số phận, giành và giữ lấy những thứ của mình. Càng kỳ lạ hơn, là chỉ đến hôm nay, mình lần đầu tiên chú ý tới triết lý sống rõ ràng ấy. Mình đã từng yêu "Người lữ hành" vì nó là cuốn truyện đậm đặc màu sắc tâm lý, miêu tả tinh tế về mâu thuẫn nội tâm, để rồi lý giải đầy thuyết phục, đầy tính người về bản năng, về đạo đức, về ranh giới thiện ác.  Rồi về cái đẹp nữa chứ. Ca ngợi cái đẹp nhiều đến thế là cùng.  Cuốn truyện sẽ khiến bạn phải đứng trước gương, phải nhìn ngắm bản thân kỹ hơn và cảm ơn tạo hóa nhiều hơn vì đã sinh ra bạn như bạn đang có.  Đọc những dòng này, các bạn chớ có đi tìm mua "Người lữ hành", vì cuốn truyện sẽ nhanh chóng làm bạn thất vọng, bởi rất nhiều lý do: nó quá dày, văn phong của nó khá dài dòng, cốt truyện và nhân vật phức tạp, cách kể truyện không liền mạch, lối viết bất chấp thời gian, thậm chí luôn bỏ rơi nhân vật.  Đừng vội đọc cuốn truyện, cho đến khi bạn có một bản lĩnh đủ kiên cường, một tâm lí đủ bình tĩnh và một trái tim đủ nhân hậu. ANN *** Harold Robbins là một tác giả người Mỹ của tiểu thuyết nổi tiếng. Một trong những nhà văn bán chạy nhất mọi thời đại, ông đã viết hơn 25 cuốn sách bán chạy nhất, bán được hơn 750 triệu bản bằng 32 ngôn ngữ.  *** “Người lữ hành kỳ dị” bản dịch tiếng Việt của Mạnh Hà, Thanh Sơn, theo tôi là một bản dịch dở, người dịch có lẽ chưa từng sống ở Mỹ và cũng ít hiểu biết về văn hóa Mỹ. Ngay cả cái tựa, chỉ nên dịch là “những kẻ lữ hành”, tôi không hiểu sao lại thêm chữ “kỳ dị” vào đây, nghe rất là lá cải. Bản dịch tiếng Việt có lẽ đã làm mất gần hết tính văn học (vốn rất ít ỏi) của tiểu thuyết này, nhưng khổ nỗi, vì câu chuyện mà Harold Robbins kể, nó cực kỳ hấp dẫn, đến nỗi người đọc bị câu chuyện cuốn đi từ những trang đầu tiên cho đến trang cuối cùng mà không thèm quan tâm đến những cái tên chuyển ngữ rất kệch cỡm, kiểu như: Giônơx, hoặc những đoạn tả cảnh được dịch sượng sạo, hay những đối thoại đậm chất Mỹ bị biến dạng khi chuyển ngữ. Harold Robbins không kể một câu chuyện, không có một cốt truyện xuyên suốt như bản dịch “Người lữ hành kỳ dị” muốn ám chỉ. Harold Robbins viết lại một phần lịch sử nước Mỹ, từ sau thế chiến thứ nhất đến hết thế chiến thứ hai, xảy ra trong một vùng đất rộng lớn kéo dài từ NY đến phía tây. Harold Robbins không kể một cuộc đời, ông viết về nhiều cuộc đời, mà từ góc nhìn của họ, lịch sử và những biến động lịch sử được nhìn thấy và tương tác một cách khác nhau: một nhà tư bản thành công, một cô đào nổi danh, một tiểu thư khuê các, một đạo diễn tài năng, một gã da đỏ nổi tiếng, một cô điếm sang trọng, một kẻ cơ hội chuyên nghiệp…. tất cả đều là nhân vật chính, họ đều là “những kẻ lữ hành”, nếu dịch theo tựa của tôi. Lịch sử của Harold Robbins là lịch sử của ngành dầu mỏ, vũ khí, hàng không, điện ảnh…, là người Do Thái và cuộc thế chiến thứ hai, là cuộc khủng hoảng tài chính kinh hoàng… và các nhân vật nổi tiếng trong giai đoạn đó lần lượt xuất hiện đầy ấn tượng trong “những kẻ lữ hành”, vẫn nhắc lại là nếu dịch theo tựa của tôi. Tôi không thích cái tựa, tôi chưa hài lòng bản dịch, tính văn học của tiểu thuyết không cao, lịch sử Mỹ không hấp dẫn tôi, những cuộc đời cũng không làm tôi ngưỡng mộ… vậy tiểu thuyết này có gì khiến tôi lấy cái tựa (rất dở) của nó làm tiêu đề cho blog mình. Tất nhiên là tôi có lý do, một lý do rất cá nhân. Trong suốt câu chuyện lịch sử, xuyên qua và kết nối những cuộc đời, chủ đạo và kết cục cho những biến cố, làm gút thắt mở cho những sự kiện… là một không khí giản đơn và đậm chất miền tây, miền tây nước Mỹ cũng giống miền tây nước Việt: một không khí phóng khoáng, hào sảng, đậm đà tình nghĩa… tôi đã hít thở trong bầu không khí đó, nó cho tôi ô xy, nuôi tôi lớn lên và sống với nó… Tôi muốn mình sẽ luôn như vậy, blog mình sẽ là một chốn như vậy, một lần nữa xin cảm ơn bạn Land đã tặng tôi bản sách cũ, có lẽ là bản in đầu tiên, vô cùng giá trị.  Mời các bạn đón đọc Người Lữ Hành Kỳ Dị của tác giả Harold Robbins.
Nàng Ido - Gárdonyi Géza
Cuốn truyện xoay quanh số phận của hai con người Iđo (Ida) và Trobo (Csaba). Iđo là một cô gái xinh đẹp, trong trắng. Trong trắng đến mức nàng không biết đến những khái niệm rất thường ngày như “trăng hoa”, “ham vui”... Tuy cha nàng là một triệu phú nhưng nàng lại bị nuôi dạy như trẻ con mồ côi trong trường dòng từ bé. Với sự nuôi dạy hết sức khắc nghiệt trong trường dòng, Iđo đã luôn khát khao “tự do và tình yêu”. Sau khi bị đuổi từ trường dòng do bảo vệ chân lý tự do của một người bạn, nàng lại bị người cha gả bán cốt để rảnh tay trong chuyện buôn bán và vui thú của mình. Trobo, người chồng mà nàng bị cha ép cưới cũng là một nạn nhân của xã hội đồng tiền. Là một họa sĩ nhưng chàng thiếu phương tiện làm việc. Không có tiền, chàng không thể phát triển tài năng được. Là một người anh tình cảm, thương yêu em gái, gắn bó vơi quê hương, chàng đã vì em gái của mình mà hy sinh mọi quyền lợi của cá nhân mình. Đứng trước lời kêu cứu của em gái chàng đã phải bắt buộc tìm đên mối hôn nhân chỉ vì tiền. Hai con người mà tâm hồn đều bị thương tổn, đều căm ghét lối sống không tình cảm chỉ biết có đồng tiền của xã hội bây giờ tình cờ phải sống với nhau. Họ đã thỏa thuận sống với nhau như những người xa lạ, hôn thú giữa hai người chỉ là hình thức, và sẽ li dị sau một năm. Cuộc sống chung mang lại cho họ nhiều rắc rối, hiểu lầm, nhưng đồng thời cũng làm họ ngày hiểu nhau hơn. Càng ngày, họ càng phát hiện ra được nhiều nét đẹp trong tính cách, tâm hồn của nhau và ngày càng gắn bó với nhau. Hà nội ngày 17 tháng 10 năm 2009 Nguyễn Ngô Việt *** Quyển này đọc lâu rồi. Nó thuộc thể loại Romance. Quyển này nói về một cuộc sống chung của hai người "xa lạ" giữa nàng Ido và chàng Trobo. Có lẽ câu chuyện sẽ chẳng có gì nếu đây không phải là một cuộc hôn nhân ép buộc mà cha Ido gã nàng đi để dễ bề sống với tình nhân bằng tuổi con gái mình. Hai "kẻ xa lạ" buộc phải sống như vợ chồng đối với xã hội trong vòng một năm. Và cuộc sống chung mang lại cho họ nhiều rắc rối, hiểu lầm, nhưng đồng thời cũng làm họ hiểu nhau hơn và nảy sinh tình cảm với nhau. Giọng văn nhẹ nhàng, nhưng lại có chút gì tự hào về người Hung (Hungary?!). Mình thích quyển này. Nàng Ido là cuốn sách mà mình dùng khoản tiền lần đầu tiên trong đời tự kiếm được để mua. Đó cũng là cuốn sách đầu tiên mà tôi tự tay mua lấy vào ngày sinh nhật mình. Tính ra bây giờ cũng được 7 năm rồi. Lần đầu tiên biết cuốn này cũng qua chương trình đọc truyện đêm khuya của đài tiếng nói Việt Nam. Hồi đó, đêm nào mình cũng ngóng chờ đến 10h30 để nghe truyện, nghe một cách say mê, đến mức thuộc từng từ, rồi sáng hôm sau lại đến lớp kể cho đứa bạn thân. Mình và đứa bạn thân rất thích truyện này. Truyện có giọng văn trầm ấm, nhẹ nhàng, âm hưởng của Hungari in dấu rất rõ. Mình cứ đọc đi đọc lại mãi đoạn Ido và Trobo cùng đi vẽ ở làng quê. Ido dịu dàng ngồi dưới tán cây, ánh nắng le lói chiếu lên mái tóc và làn da và đôi mắt Trobo nhìn nàng ấm áp, yêu thương! Một tình yêu nhẹ nhàng và lãng mạn.Nếu mình nhớ không nhầm thì truyện này đã được chuyển thể thành phim và mình đã xem đâu đó hồi còn rất nhỏ mà không biết phim tên gì nữa. Truyện ngọt ngào như một viên kẹo vậy. Nàng Idơ tuy sinh ra trong một gia đình giàu có nhưng mà số phận cũng ko suông sẽ như ý, nhưng là nhân vật nữ mạnh mẽ đáng nhớ. Thích nhất lúc cả hai cùng nhau đi vẽ, và Trobo tưởng Ido chết, cảnh mô tả khu vườn, nắng,mái tóc , cây dù che, chim chóc ríu rít đẹp như một bức tranh huyền ảo và ko thực, nhưng ở mãi trong lòng khi truyện đã hết.   Mời các bạn đón đọc Nàng Ido của tác giả Gárdonyi Géza.
Mười Ngày - Giovanni Boccaccio
Mười ngày (tiếng Ý: Decameron, [deˈkaːmeron; dekameˈrɔn; dekameˈron] hoặc Decamerone [dekameˈroːne]) là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà văn Ý Giovanni Boccaccio. Mười ngày của ông là một trong những cuốn sách nổi tiếng nhất của văn học Italia và thế giới, với nội dung phong phú, giá trị nghệ thuật cao, được dịch hầu khắp các châu lục. Gồm 100 câu chuyện kể với nhiều màu sắc trào phúng, quái dị, trữ tình, bi xen lẫn hài, hiện thực xen lẫn mộng ảo (mà tình yêu là sợi chỉ xuyên suốt phần lớn các truyện), cùng hàng nghìn nhân vật thuộc đủ các tầng lớp xã hội lúc bấy giờ, đồng thời, phản ánh những nét tiêu biểu của tính người nói chung trở thành di sản quý giá trong kho tàng văn hoá nhân loại. *** Giovanni Boccaccio (Giôvanni Bôcaxiô) là nhà văn xuất sắc Italia thời Phục Hưng, sinh ra trong một gia đình thương nhân ở Thị trấn Xectandô, thuộc Tỉnh Tôxcan. Mẹ là người Pháp. Thuở nhỏ học ở Phlôrăngxơ. Vốn say mê khoa học và văn học, ông không tha thiết với nghiệp kinh doanh mà người cha định hướng. Năm 1330, người cha gọi Boccaccio về và gửi đến Napôli học ngành luật nhưng ông chẳng mấy quan tâm với nghề thày cãi. Sau khi cha mất, ông bỏ học và kết bạn với những người hoạt động văn học nghệ thuật. Nhờ bạn bè giới thiệu, ông được nhận vào làm trong triều đình Rôba Ăngjiu, một nhà Vua yêu thích văn học và có nhiều cảm tình với giới tri thức. Ở đây, ông làm quen với Công chúa Maria Acvinơ, và tình yêu đã thúc đẩy ông sáng tác tập Philoxtơrát với những bài xonnê diễm lệ. Khoảng năm 1340-1341, ông trở lại Phlôrăngxơ và dấn thân tham gia hoạt động xã hội, sau hoàn thành nhiều công vụ ngoại giao và được tin dùng. Từ năm 1351, Boccaccio kết thân với nhà thơ Petrarca (1304-1374), người tiếp nối chí hướng nhà khai sáng Dante, người thực hiện việc đặt nền móng cho cả dòng thơ trữ tình Châu Âu, và quan hệ thân thiện với nhiều nhà tri thức lớn khác. Vào năm 1373, theo yêu cầu của Vương chủ thành Phôrăngxơ, ông giảng thơ Date trước đông đảo công chúng. Ngoài sáng tác văn học, Boccacclo còn quan tâm viết nhiều công trình khảo cứu bằng tiếng La tinh. Các tác phẩm chính của Boccaccio có Philôxtơrát (Tập thơ, 1338), các trường ca Têdêit, Ảo ảnh tình yêu, truyện thơ Philêdôlanô, các tập truyện Philôcôlô Phiamétta, Đêcamêrông; truyện Con quạ,… Trên thực tế, mặc dù sáng tác cả thơ, trường ca, truyện song Truyện mới chính là thể loại đem lại cho Bóccaccio niềm vinh quang chói sáng. Truyện Phiametta (1348) kể về mối tình tuyệt vọng của nàng Phiametta với chàng Păngphilô, gồm một lời mở đầu và chín chương. Truyện được viết theo lối tự thuật. Tác phẩm khơi gợi bi kịch tình yêu của người phụ nữ với nghệ thuật khảo sát, có ý nghĩa đặt nền móng cho dòng tiểu thuyết tâm lý xã hội ở Châu Âu. Đến tập truyện Đêcamêrông - Truyện mười ngày (1350-1353) xuất bản lần đầu tiên năm 1471 gồm tới 100 truyện. Dựa trên cơ sở kho tàng truyện dân gian Italia, Boccaccio đã sáng tạo hệ thống các truyện có màu sắc dân dã, gần với đời sống hàng ngày, thể hiện như là bước chuyển của tư duy văn học Trung cổ tới Phục Hưng, mở đầu cho một thời đại văn học mới. *** Trong tập truyện Mười Ngày (Le Décaméron), của Giovanni Boccaccio (1313 - 1375),[1], ngay ở truyện đầu, Tinh thần gia tô giáo, Ngày thứ nhất, ta gặp tên đại bịp Xrappemenô. Trước khi chết y thêu dệt cuộc đời y bằng những sự kiện hoàn toàn bịa đặt để đánh lừa linh mục và các con chiên. Cuối cùng được phong làm thánh. Ta nhớ đến Trạng Quỳnh coi thường thần thánh, đã cột bò trước bàn thờ để lừa Chúa Liễu ngay trong khi cúng. Anh chàng họa sĩ Calăngđranh bị bạn đùa, khiến anh ta tin rằng mình có thai, cũng phảng phất giống anh ngờ nghệch nọ của một truyện tiếu lâm nào đó (Người bệnh tưởng - Ngày thứ chín). Tác phẩm nổi tiếng thế giới Mười ngày của nhà văn và nhân văn Ý thế kỷ XIV, Boccaccio quả thật rất gắn với những truyện dân gian Việt Nam, đặc biệt là những truyện thuộc chủ đề phản phong, đả kích thói giả đạo đức của những người làm nghề tôn giáo, lên án cái luân lý khắc nghiệt mà họ đề ra, đòi hỏi trần gian với những thú vui tự nhiên của nó. Dĩ nhiên khi nói đến chống phong kiến, chúng ta quan niệm thực trạng phong kiến ở châu Âu khác với phong kiến kiến Việt Nam, và châu Á nói chung, hai loại phong kiến có những nội dung kinh tế - chính trị - xã hội đôi khi ngược hẳn nhau. Truyện dân gian Việt Nam thể hiện phản ứng của giai cấp nông dân chống lại chế độ vua quan, địa chủ và kỳ mục, một chế độ mà khủng hoảng kéo dài từ thế kỷ XVII qua thế kỷ XVIII, XIX. Khổng giáo ngự trị xã hội bị phá từng mảng lớn. Những làng xã vẫn là những đơn vị cơ sở tự cung tự cấp, bất di bất dịch, đa số nghề thủ công nằm trong lũy tre xanh không tiến lên công nghiệp được, thành thị thị trấn thuộc quyền nhà vua, tầng lớp thường dân rất yếu ớt, quan hệ sản xuất nông nghiệp không thay đổi nên không có men tư tưởng mới. Trái lại, những truyện mang tính chất dân gian trong Mười Ngày dậy chất men tư tưởng mới của giai cấp thị dân tư sản đang bước vào vũ đài chính trị. Boccaccio đại diện cho tầng lớp thương nhân ở các thành thị Ý. (Nước tư bản đầu tiên - Ăngghen). Châu Âu tiến lên chủ nghĩa tư bản bằng sự phát triển công thương nghiệp, giai cấp tư sản chống phong kiến thắng lợi, tách được thành thị ra khỏi quyền lực của nhà nước, của vua chúa. Boccaccio và thời đại, hoàng hôn Thời Trung cổ, bình minh Thời Phục hưng. Trước sức lấn công của những bộ tộc rợ Gốt (Goths), đế chế La Mã tan rã vào khoảng nửa sau thế XIX, nước Ý vẫn còn bị chia có thành hàng chục quốc gia nhỏ. Đến thế kỷ VIII, IX, sau khi bình định một bộ phận lớn đất đai thuộc lãnh thổ ngày nay của các nước Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Trung Âu... Saclơmanhơ lập ra chế độ La Mã - Đức Thần thánh. Sau đó là một thời kỳ hỗn loạn liên miên. Mãi đến thế kỷ X, đế chế Thần thánh mới được khẳng định lại. Bắt đầu từ thế kỷ XI, nhờ có cuộc Thập tự chinh, các thành thị ở miền Bắc và miền Trung nước Ý buôn bán phát đạt nhất là các hải cảng Naplơ, Flôrăngx, Giênơ, Vơnidơ... từ đó công nghiệp (dệt, binh khí, kim hoàn...) phát triển đồng thời với kinh doanh tiền tệ cho vay lãi. Những thế kỷ XII và XIII được đóng dấu bởi hai sự kiện lịch sử quan trọng: sự tranh giành quyền lực giữa Giáo Hoàng La Mã và hoàng đế đóng đô trên lãnh thổ Đức, và sự phát triển của các quốc gia thành thị. Nội bộ các quốc gia Ý bị xâu xé bởi cuộc tranh chấp giữa hai phe, một phe ủng hộ Hoàng đế Ý là một bộ phận của đế chế, một phe ủng hộ Giáo Hoàng. Thực chất cuộc tranh chấp là sự vùng lên của các thành thị - công xã Ý đã vững mạnh, muốn thoát khỏi sự cai trị của Hoàng đế bằng cách chấp nhận sự bảo hộ lỏng lẻo hơn của Giáo Hoàng. Bước sang thế kỷ XIV, thế kỷ của Boccaccio, có thể nói là các (quốc gia thành thị ) Ý thống trị nền kinh tế châu Âu qua thương nghiệp và ngân hàng. Dù phục tùng về danh nghĩa Hoàng đế hay Giáo Hoàng, những thành thị ấy đã là những công xã được giải phóng khỏi ách phong kiến, tự trị về mặt chính trị. Ở đó giai cấp tư sản đương lên xây dựng một nền văn nghệ huy hoàng, báo hiệu thời kỳ văn nghệ phục hưng ở châu Âu. Ngay khi văn học Ý ra đời, đã xuất hiện ba thiên tài: Đantê ( 1265- 1321), người sáng tạo ra hùng ca. thơ tự sự và giáo huấn Ý. Pêt'raca (1304-1374), người canh tân thơ trữ tình Ý và Giôvanni Boccaccio ( 1313- 1375), người đặt nền tảng cho văn xuôi nghệ thuật Ý. Ba người là gạch nối giữa thời Trung cổ và thời Phục Hưng văn nghệ châu Âu. Con hoang của một thương nhân Ý và một phụ nữ Pháp, sinh ở tỉnh Xectanđô, gần Flôrăngx. Boccaccio qua thời thơ ấu ở đây. Năm mười lăm tuổi, ông được cha cho đi Naplơ để học nghề buôn và học luật. Những năm tuổi thanh niên này ở Naplơ có một đời sống văn hóa sôi nổi đã quyết định bước đi của ông, ông học tiếng La Tinh, nghiên cứu văn học cổ La Mã, say mê nhà thơ Vecgiliut. ông tham gia sinh hoạt cung đình vua Rôbe, giao thiệp với những nhà văn, nghệ sĩ, bác học, quý tộc và kinh doanh có tên tuổi. Rất có thể là ông yêu con hoang của vua Rôbe, nàng Nan Đakinô. Hoặc giả một phụ nữ nào khác đến nay vẫn chưa biết tên đã trở thành nàng thơ của Boccaccio dưới cái tên mỹ miều là Fiametta (ngọn lửa xinh). Ông ca ngợi mối tình ấy theo mẫu ước lệ cung đình trong tập Thơ (Rime) gồm 257 bài không có gì đặc sắc lắm; trong Người say mê tình ái (II Filocolo), truyện văn xuôi phân tích tâm lý theo khuôn sáo tiểu thuyết trung cổ Pháp; Flor và Blăngsơflor (Flor et Blancheflor); và trong Khúc bi thương về nàng Fiametta (Elegia di Madonna Fiametta). Thi phẩm Hình ảnh tình yêu (Amorosa visione) sử dụng thể văn phóng dụ để kể những chuyện phiêu lưu tình ái, cũng bắt chước cuốn Tiểu thuyết Hoa Hồng nổi tiếng thời Trung Cổ. Khúc bi thương về nàng Fiametta mãi đến năm l341 - 1345 mới hoàn thành: là một cuốn tiểu thuyết nửa tự truyện đã có những phân tích tâm lý sâu sắc và những rung cảm chân thực về một mối tình tuyệt vọng. Bị người tình ruồng bỏ, Boccaccio đau khổ, hoang mang, may nhờ bạn bè trông nom, an ủi, ông mới lấy lại được tinh thần. Năm 1340, Boccaccio 27 tuổi, thấy ông bỏ học theo con đường văn chương bất trắc, cha ông không gửi tiền trợ cấp cho ông nữa. Ông đành bỏ Naplơ về Flôrăngx với cha. Cuộc đời của Boccaccio gắn với thành phố này, nơi ông ở lâu nhất. Một nhà kinh tế học và xã hội học Đức, Vecnơ Dombac (Wemer Sombart, 1863 - 1941), nhận xét: nếu tôi không nhầm, chính ở Flôrăngx khoảng cuối thế kỷ XIV, mà lần đầu tiên người ta thấy người tư sản hoàn chỉnh. Flôrăngx đã chứng kiến thắng lợi của những người mới phất to, của đầu óc kinh doanh tự do, của một lối suy nghĩ mới, lối ăn tiêu có tính toán, không hào phóng như giai cấp quý tộc[2]. Ở Flôrăngx, Boccaccio đi lại chốn cung đình, hoạt động chính trị, ngoại giao, mấy lần được cử đi công cán. Sau khi cha chết (l349), ông được thừa hưởng một gia tài khiêm tốn nhưng cũng đủ để củng cố tình hình kinh tế bản thân, khiến ông rảnh rang để sáng tác và nghiên cứu văn học cổ La Mã - Hy Lạp. Boccaccio đã trưởng thành trong cuộc sống và trong lĩnh vực văn học. Mặc dù rất thích làm thơ, ông đã quyết định rút lui trước khi Pêtraca, bạn thân ông từ năm l350, người thường xuyên trao đổi thư từ với ông và giúp ông nghiên cứu chủ nghĩa nhân văn cổ đại. Ông đi vào lĩnh vực truyện văn xuôi còn chưa ai khai thác một cách nghệ thuật. Sau trận dịch hạch khủng khiếp năm l343, ông sưu tầm tài liệu chuẩn bị viết tập truyện Mười Ngày, xuất bản năm 1353. Ông còn viết Nữ Thần ở Fixôlơ ( Ninfale Fiesolano, 1345 - l346), thơ tình thôn dã thần thoại kết hợp hiện thực và trữ tình, khẩu vị dân gian và chất liệu cổ điển La Mã, Con quạ[3] (Corbaxiô, 1355 ), truyện một người về già yêu một thiếu phụ, bị nàng hắt hủi nhạo báng, do đó đâm ra hoài nghi phụ nữ nói chung và nhận thấy những khuyết điểm và tật xấu của họ. Trên đây là những tác phẩm viết bằng tiếng Ý đã mang lại vinh quang cho Boccaccio, ông còn sáng tác bằng tiếng La tinh, nhưng sáng tác này không có mấy tiếng vang. Đáng kể có Nỗi gian truân của những nhân vật nói riêng (De Casbus virorumillustrium, 1355), tập tiểu sử Về những phụ nữ nổi tiếng (Declaris mulieribus, l374), tiểu sử của 104 phụ nữ đạo đức hoặc xấu xa. Năm 1362, Boccaccio, khi đó 49 tuổi, qua một cơn khủng hoảng tâm hồn vì những lý do tôn giáo, ông định thiêu hủy tất cả các sách viết bằng tiếng Ý của ông, cho là quá phóng túng và tội lỗi. Nhưng Pêtraca đã kịp thời ngăn chặn ý định đó của bạn. Boccaccio đi Naplơ và Vơnidơ để kiếm một địa vị. Thất vọng, ông về sống chục năm cuối đời ở Xectanđô. Ông sống những năm tháng cô đơn và lặng lẽ, chuyên nghiên cứu văn học cổ La Mã - Hy Lạp cho đến khi chết, năm 62 tuổi. Niềm vui lớn của ông là năm l373, được chính quyền Flôrăngx mời đến đọc và bình luận trước công chúng tác phẩm Thần Khúc (Divina Commedia) của Đantê. Tác Phẩm Mười Ngày Tác phẩm lớn nhất của Boccaccio viết năm ông 37 tuổi. sau khi ông đã có hai chục năm trong nghề văn, lấy tên là Décaméron, tiếng Hy Lạp nghĩa là Mười Ngày vì tập sách gồm một trăm truyện kể trong Mười Ngày, mỗi ngày mười truyện[4]. Theo tác giả giới thiệu năm 1348, trong khi bệnh dịch hạch hoành hành ở Flôrăngx, mười thanh niên thượng lưu (bảy nữ và ba nam) rời bỏ thành thị để lánh nạn ở một biệt thự nông thôn. Để tiêu khiển, họ quyết định mỗi ngày mỗi người kể một truyện. Như vậy là sách chia làm mười chương, mỗi chương gồm truyện của mỗi ngày. Thực ra nhóm thanh niên ở lại nông thôn mười bốn ngày, vì trong hai tuần lễ mỗi tuần có hai ngày (thứ sáu và thứ bảy) ngừng kể chuyện vì lý do tôn giáo. Mỗi ngày lần lượt một người được bầu làm Hoàng Hậu hay vua để điều khiển tổ chức, để ra một chủ đề chung cho các truyện kể ngày hôm đó. Mặc dù phụ thuộc vào chủ đề, mỗi truyện đều độc lập về nội dung, tính chất, bố cục. Sinh hoạt hàng ngày của nhóm ít thay đổi, dạo chơi, đàm luận kể chuyện, kết thúc là một bài ca (canzone) để múa hát nhân đó Boccaccio có dịp giới thiệu một số thơ trữ tình hay của mình. Bước vào ngày thứ nhất, Boccaccio phác họa một bức tranh rùng rợn về bệnh dịch hạch và thần chết ở Flôrăngx, làm nổi bật hình ảnh tương phản cái vui thanh thản của những người đi lánh nạn ở nông thôn, làm sáng tỏ ý nghĩa cuộc sống trần gian qua những câu chuyện kể. Ngoài phần mở đầu, tác giả chỉ phát biểu ý kiến trực tiếp với độc giả hai lần, một lần ở đầu ngày thứ tư và một lần ở phần kết luận, để bác bỏ những ý kiến chỉ trích mình kể chuyện phóng đãng. Ông biện bạch một cách hóm hỉnh là ông viết để phụng sự phụ nữ vì phụ nữ và tình yêu là ý nghĩa cuộc sống trần gian. Ông dẫn chứng câu chuyện (chim cái): một chàng trai cùng tu với bố ở trên núi, xa lánh đời từ năm hai tuổi. Năm anh mười tám tuổi, người bố cho là anh đã đắc đạo, dắt anh xuống thành thị, khiến cái gì anh cũng làm lạ và hỏi tên. Anh đặc biệt choáng váng khi lần đầu tiên trông thấy mấy cô gái. Người bố sợ anh sa ngã, nói: Đừng ngó họ. Không có gì là tốt đâu. Anh gặng hỏi tên gọi họ, người bố nói thác: Người ta gọi họ là những chim cái. Anh nằng nặc đòi mang một con chim cái ấy lên núi. Trong tập sách, mười nhân vật kể chuyện không được miêu tả cụ thể. Họ chỉ là những hình tượng ước lệ: tượng trưng cho những trạng thái tâm hồn, phù hợp với chủ đề các truyện. Ví dụ: Filôxt'rat là hình ảnh mối tình vô vọng, Nêifin là hiện thân của dục tình cuồng nhiệt, v..v.. Thời Trung cổ (từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ XV), chế độ phong kiến phát triển mạnh nhất từ thế kỷ thứ IX. Trong ba thiên tài xuất hiện đầu như đồng thời, Đantê, sinh trước Boccaccio 48 năm thấm nhuần tinh thần Trung cổ hơn và phản ánh đầy đủ nhất, nghệ thuật nhất thế giới Trung cổ, niềm tin tuyệt đối và thần bí vào đạo Gia tô, sự cứu vớt linh hồn ở thế giới bên kia, tình yêu có tính chất lý tưởng, ngoài xác thịt, nâng tâm hồn lên toàn điện toàn mỹ. Ở châu Âu, những cuộc Thập tự chinh đầu tiên vào thế kỷ XI đã góp phần củng cố giai cấp quý tộc và làm nẩy nở một lý tưởng mới, lý tưởng hiệp sĩ, đề cao lòng dũng cảm đem gương phụng sự Chúa trời và lãnh chúa của mình, văn học được đánh dấu bởi những bản hùng ca đề cao hiệp sỹ đánh đông dẹp bắc. Qua những thế kỷ sau, lần lần võ nghệ nhường bước cho tình yêu, ở những cung đình lộng lẫy giai cấp quý tộc giàu có một phần nhờ chinh chiến, sống một đời sống xa hoa, lịch thiệp hơn và đòi hỏi những thú vui phong nhã. Lý tưởng cung đình xuất hiện, hiệp sỹ quý tộc không những phải dũng cảm, mà còn phải lịch thiệp, hào hiệp, nhất là biết yêu. Phụng sự vô điều kiện suốt đời một vị phu nhân được suy tôn là hoàng hậu của đời mình. Lý tưởng này đã đề ra những thế lực văn học cung đình như thơ trữ tình và tiểu thuyết tình. Như trên ta đã thấy, Boccaccio cũng không thoát khỏi tình huống của loại văn học này. Mặc dù là thị dân, ngưỡng mộ lý tưởng của quý tộc, ông muốn đưa vào thế giới thị dân tư sản của mình. Những truyện của ngày thứ mười trong Mười Ngày minh họa lý tưởng hiệp sỹ và cung đình. Đáng chú ý là lý tưởng tôn giáo độc tôn thời Trung cổ lại trở lại với Boccaccio khi về già. Đã có những lúc ông ăn năn vì đã tỏ ra quá ư phóng túng trong những sáng tác bằng tiếng Ý, đặc biệt trong tập Mười Ngày. Hình như cuối đời ông đâm ra ghét phụ nữ mà ông đã từng sùng bái. Tuy còn gắn bó với Thời trung cổ về nhiều mặt, tư trang của Bocaxiô đã báo hiệu Thời kỳ Phục hưng: hay có thế nói là đã đóng góp xây dựng sơ kỳ văn nghệ Phục hưng Ý. Trào lưu này xuất phát ở Ý và đến thế kỷ thứ XVI lan ra Tây Âu. Nó chống lại thời Trung cổ, chủ trương phục hưng tinh thần và hình thức văn nghệ thời cổ đại Hy Lạp - La Mã. Giai cấp tư sản đương lên có tư tưởng nhân văn, đề cao cuộc sống trần gian và con người, tin vào khả năng giáo dục cải tạo con người, đưa ra mẫu người hoàn hảo vừa hành động vừa hiểu biết rộng, đề cao tự do tư tưởng, chống phong kiến và thần học. Dĩ nhiên là trong hoàn cảnh Thế kỷ XIV tư tưởng nhân văn của Boccaccio chưa được hoàn chỉnh như thế, nhưng hướng tiến bộ đã rõ nét. Là con một thương nhân và bản thân khi vào đời cũng học kinh doanh, Boccaccio được chứng kiến sự phồn thịnh của các thành thị trở thành quốc gia, quyền lực của các thương nhân và chủ ngân hàng phá vỡ cấu trúc phong kiến. Nói chung Boccaccio hướng về thế giới tư bản mang nảy nở hơn là bâng khuâng về thế giới Trung cổ đương suy tàn, không hoài bão như Đantê làm sống lại một trật tự thế giới lý tưởng bằng sức mạnh của đức tin và lí trí. Mười Ngày là cuốn sách đầu tiên ở châu Âu mà trong đó người kinh doanh xuất hiện với một hào quang mới. Thiên hùng ca về thương nhân này rất được thương nhân thế kỷ XIV tán thưởng. Giai cấp quý tộc đề cao dòng máu, cho huyết thống là phẩm giá cao nhất của con người. Giai cấp tư sản đả phá quan niệm ấy. Trong chuyện Thắng Lợi của Cái Chết ( Ngày thứ tư), cả đến một nữ công tước, Ghixmôngđơ. cũng đương đầu với vua cha, biện hộ cho cuộc tình duyên vụng trộm của mình với Ghixcar, một thanh niên hào hoa phong nhã nhưng xuất thân gia đình thấp kém. Yêu chàng, nàng đã chọn lựa chàng (sau khi suy nghĩ chín chắn) và nàng khẳng định lý, về tài đức, có những người dân thường mà nhân phẩm cao hơn những bậc công hầu. Mười Ngày chứng minh điều ấy và đề cao đạo lý mới của thị dân tư sản đặc biệt là thương nhân. Boccaccio ca ngợi đầu óc thực tế, trí thông minh, tài khéo léo, ý muốn thành công, tính thích phiêu lưu. Không quay lưng vào cuộc sống trần gian với những thú vui của nó, phải chấp nhận cuộc đời cái may và cái rủi, sẵn sàng tìm cách thắng cái rủi ro của số phận. Hạnh phúc là tương đối. Phải biết hạn chế ước vọng, không đòi hỏi tuyệt đối. Tình yêu là sợi chỉ xuyên suốt phần lớn các truyện trong Mười Ngày. Đó là cả một vũ trụ muôn màu sắc, từ tình yêu trong trắng đến tình yêu nặng về xác thịt, từ tình yêu hồn nhiên đến tình yêu phức tạp, từ gian díu đến đá vàng, từ tình yêu tế nhị đến tình yêu tàn bạo. Yêu thương, ghét giận, ghen tuông, nhớ nhung, hơn dỗi, oán thù... tất cả các âm hưởng của tình yêu đều được diễn tả. Phụ nữ là đối tượng của Mười Ngày, như Boccaccio tuyên bố trong phần mở đầu, vì họ cần được an ủi, được tiêu khiển. Họ không được hưởng như nam giới thú vui thành công trong sự nghiệp, không được tự do, không được đi du lịch, không được săn bắn, không được phiêu lưu, không được buôn bán. Họ sống bên lề một xã hội do nam giới quản lý. Họ chỉ còn biết trông vào tình yêu, và Boccaccio đòi cho họ được quyền được tìm hạnh phúc vượt ra khỏi những cấm đoán của xã hội cũ, như cô con gái một thầy lang chiếm được trái tim một hiệp sĩ trong truyện Lấy Lại Được Chồng (Ngày thứ ba). Giai cấp thị dân tư sản không muốn sống một cuộc đời khổ hạnh theo quan niệm đạo gia tô thời Trung cổ. Truyện dân gian của thị dân Trung cổ đã chế giễu tính giả đạo đức của các người tu hành. Mười Ngày cũng có nhiều truyện đả kích rất mạnh nhà thờ. Nhà thương nhân Do Thái Abraham đến tòa thánh La Mã để được nhìn tận mắt đời sống của Giáo Hoàng, các hồng y giáo chủ, và các tu sĩ khác. Từ người lớn nhất đến người nhỏ nhất, tất cả, toàn thể bọn họ đều phạm vào tội nhục dục hết sức vô sỉ... ông nhận thấy tất cả bọn họ đều có tính phàm ăn, nát rượu, say sưa chè chén... họ biển lận, hám tiền... (Trường học La Mã, Ngày thứ nhất ). Phong phú về nội dung. Mười Ngày có giá trị cao về nghệ thuật. Được viết bằng tiếng Ý, nó góp phần xây dựng văn học Thời Phục hưng Ý. Một yêu cầu của trào lưu phục hưng văn nghệ ở châu Âu là tạo lên một nền văn học dân tộc viết bằng ngôn ngữ dân tộc, với những tác phẩm mà tiêu chuẩn nghệ thuật và nhân văn theo mẫu và vươn tới tầm những tác phẩm cổ điển Hy Lạp - La Mã. Tiếng Ý là kết quả quá trình phát triển tự nhiên của tiếng La Tinh cổ điển. Đến thế kỷ X, nó mới được công nhận là một ngôn ngữ thật sự, tuy vẫn bị coi là một thổ ngữ. Trong mấy trăm năm, các nhà văn Ý ngưỡng mộ văn học cổ La Mã vẫn viết bằng tiếng La Tinh là chủ yếu. Mãi tới Đantê Pêt'raca và Boccaccio, tiếng Ý mới được rèn đúc thành một ngôn ngữ văn học và mở đầu văn học Ý nói chung. Tiếng Ý được Boccaccio sử dụng nhuần nhuyễn trong Mười Ngày kể những truyền nhiều màu sắc, khi thì châm biếm, giễu cợt, khi thì hiện thực trắng trợn, thô lỗ, khi thì tình cảm thanh cao. Bi xen lẫn hài, hiện thực xen lẫn với mộng ảo, quái dị, nhưng mộng ảo, quái dị chỉ đóng vai trò phụ, cái chính vẫn là hiện thực. Thực là một bức tranh sống động về xã hội Ý thế kỷ XIV tới hàng nghìn nhân vật thuộc đủ các tầng lớp xã hội (thương nhân, quý tộc thầy tu, thầy lang, thợ thủ công, nông dân trí thức... ), nam có, nữ có, trẻ có, già có. Cốt truyện mượn của kho tàng truyện cổ dân gian phương Đông, Thời Trung cổ, Thời Thượng cổ, truyện đương thời. Do tài kể chuyện của mình Boccaccio biến chất liệu không có gì đặc biệt ấy thành tác phẩm hiện thực, so với những truyện đương thời, ông không mắc ý đồ giáo huấn, thói quen sử dụng phỏng dụ, câu chuyện được xây dựng vững chắc, dẫn dắt và cởi mở tài tình duyên dáng, khiến người đọc luôn hồi hộp. Mười Ngày được coi là "Tấn Tuồng Đời" đầu tiên trong văn học châu Âu và được nhiều nhà văn thế kỷ sau bắt chước. Boccaccio có công xây dựng văn xuôi và văn học Ý, mở đầu truyền thống truyện ngắn hiện thực ở châu Âu. Tác phẩm lớn của ông phản ánh những tư tưởng tiến bộ Thời Phục hưng và được dịch sang hàng chục thứ tiếng trên thế giới. Nó thuộc vào kho tàng văn hóa chung của nhân loại. HỮU NGỌC Hà nội 2-9-1982 Mời các bạn đón đọc Mười Ngày của tác giả Giovanni Boccaccio.