Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trở Thành Người Lãnh Đạo Hiệu Quả

Những quản trị viên thành công quan tâm nhiều hơn tới việc đạt được những mục tiêu đề ra, hay là tới việc lãnh đạo nhân viên dưới quyền? Các quản trị viên hiệu quả biết rằng để đạt được những mục tiêu đó, họ phải là những người lãnh đạo đích thực, biết dẫn dắt, động viên, huấn luyện, và chăm chút nhân viên của mình. Tất cả những ai khao khát thành công trong công việc nên tập trung vào việc cân bằng giữa kỹ năng lãnh đạo và quản lý. Điều quan trọng là phải biết tìm kiếm sự cân bằng giữa những việc chúng ta đang làm với những việc chúng ta lãnh đạo người khác làm. Bằng cách nào chúng ta có thể nhận diện và cải thiện phong cách lãnh đạo của mình tới mức cao nhất có thể để gặt hái được những kết quả tốt nhất cho chính mình và công ty? Cách chúng ta nhìn người khác và những giả định chúng ta đưa ra về mọi người và thế giới chung quanh giúp định hình thực tế và môi trường trong đó chúng ta làm việc. Qua cuốn sách này, chúng ta sẽ nghiên cứu những bài học chúng ta đã biết về nghệ thuật lãnh đạo và những niềm tin hình thành nên từ những trải nghiệm đó. Vai trò ngày càng thay đổi của người trưởng phòng/người lãnh đạo Thế giới đang thay đổi nhanh chóng, đòi hỏi những người đang ở vị trí lãnh đạo và quản lý cần phải luôn đảm nhiệm những vai trò, trách nhiệm ngày một thay đổi. Dù chúng ta ở châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, hay là ở Vành đai Thái Bình Dương, sự cạnh tranh luôn đòi hỏi chúng ta phải tìm ra những cách tốt hơn, hiệu quả hơn, năng suất cao hơn, đồng thời, đem lại nhiều lợi nhuận hơn để tạo ra sản phẩm và dịch vụ. Những đòi hỏi này không chỉ giới hạn ở sự cạnh tranh giữa các công ty. Những kỳ vọng của nhân viên, khách hàng trong và ngoài công ty, các nhà cung cấp, nhà phân phối, và đối tác kinh doanh cũng ngày càng tăng. Để duy trì sức cạnh tranh trong thế giới đang ngày càng thay đổi nhanh chóng này, chúng ta cần lãnh đạo và quản lý công ty của mình bước vào kỷ nguyên mới. Tạo ra và chia sẻ một tầm nhìn Chúng ta phải sáng tạo và có khả năng tạo ra một tầm nhìn chung, đồng thời truyền đạt nó một cách hiệu quả trong toàn công ty. Chúng ta phải động viên tất cả nhân viên tư duy sáng tạo vượt ra khỏi khuôn khổ của những công việc được giao, của một cách tiếp cận công việc quá đơn giản, nhằm đưa công ty phát triển và trở nên thành công trong thế giới ngày nay. Quan trọng là chúng ta phải tuyển dụng và bồi dưỡng những nhân viên có khả năng giúp đưa công ty lên tầm cao mới. Chúng ta không thể một mình làm được điều này, nhân viên của chúng ta cũng không thể đưa chúng ta lên tầm cao mới, trừ phi trước tiên chúng ta xác định những mục tiêu của mình, tạo ra một tầm nhìn rõ ràng, rồi truyền đạt nó tới mọi người. Một khi tầm nhìn này được đề ra và phổ biến rộng khắp công ty thì nó sẽ dẫn tới việc chúng ta giao phó và trao quyền cho nhân viên, để rồi từ đó sẽ đưa chúng ta lên một tầm cao mới. Mọi nhân viên sẽ không còn nghĩ vai trò của mình là tập trung thực hiện những công việc được giao, mà thay vào đó là hướng đến thành quả. Nhìn thấy rõ thành quả sẽ truyền cho chúng ta và mọi nhân viên nguồn cảm hứng để dám chấp nhận rủi ro và nhận lãnh trách nhiệm; từ đó, ban lãnh đạo sẽ tìm được vị trí xứng đáng trong công ty. Việc xác định rõ ràng những thành quả cần đạt được cho phép mọi người trở thành những nhân viên tự giác hơn và biết cách sử dụng những nguồn lực mà không cần đến sự trợ giúp của cấp trên. Hành vi trao quyền được thúc đẩy bởi một tầm nhìn chung, nhưng sẽ không thể khả thi nếu tầm nhìn này không được truyền đạt rõ ràng xuyên suốt trong công ty. Sự truyền đạt hiệu quả là kỹ năng nền tảng của việc xây dựng những đội ngũ hiệu quả, tạo ra một ý thức thống nhất về mục đích, và đưa công ty lên một tầm cao mới. Cân bằng giữa con người và qui trình Khi được yêu cầu xác định đức tính cá nhân nào đáng chú ý nhất mà ban giám đốc cần tới thì hầu hết các quản trị viên cấp cao trả lời: “khả năng làm việc với người khác”. Các lãnh đạo công ty nhận ra tầm quan trọng của việc sản xuất, phân phối, kỹ thuật, bán hàng, nghiên cứu và phát triển, và họ có sẵn những hệ thống quản trị để tổ chức, hướng dẫn, và kiểm soát các hoạt động trong từng lĩnh vực. Tuy nhiên, khi cần phải thực hiện những quyết định của ban giám đốc thì chúng phải do con người thực hiện. Con người là khoản chi phí tác nghiệp duy nhất và lớn nhất trong bất kỳ một khoản ngân sách nào. Hoạch định, dù là chức năng hay chiến lược, được thực hiện và xây dựng chung quanh con người. Tài sản quí báu nhất một công ty có được là nhân viên của nó. Trên thực tế, hầu hết các quản trị viên dành ra khoảng 3/4 thời gian mỗi ngày làm việc để quan hệ với nhân viên. Điều này có nghĩa là chúng ta tạo ra hệ thống quản trị mà theo đó công ty hoạt động và không ngừng chứng minh rằng năng lực lãnh đạo là yếu tố cho phép những hệ thống đó đạt được những mục tiêu của chúng. Một trong những lý do chính khiến một nhân viên được đề bạt vào những chức vụ quản trị hoặc lãnh đạo là vì họ hiệu quả trong những công việc họ làm. Hiện nay, công việc của một quản trị viên là giúp cho người khác có thể làm tốt hoặc tốt hơn công việc chúng ta từng làm. Điều này đòi hỏi một khối kỹ năng hoàn toàn khác. Sự thành công của chúng ta đòi hỏi bước quá độ từ thực hiện sang lãnh đạo để tận dụng những kỹ năng và thời gian của mình. Để trở thành người trưởng phòng làm việc hiệu quả, chúng ta phải giữ cân bằng giữa con người và qui trình. Tập trung quá vào con người có nghĩa là nếu một nhân viên chủ chốt nghỉ việc thì mọi việc sẽ ngưng trệ; còn nếu tập trung quá nhiều vào qui trình đồng nghĩa với việc có những hệ thống tuyệt hảo hiện đang vận hành đó, nhưng không ai hiểu rõ chúng hoặc muốn làm việc trong những hệ thống như vậy. Tập trung vào qui trình có nghĩa là bảo mọi người: “Đây là kế hoạch còn đây là cách chúng ta thực hiện”. Tập trung vào con người là muốn phát biểu: “Chúng ta hãy cùng thảo luận về kế hoạch này và lý do tại sao chúng ta làm những việc đó”. Nếu giữ được sự cân bằng giữa hai yếu tố này thì cả năng suất lẫn sự tận tâm trong công việc đều được duy trì ở những mức cao nhất. Cân bằng giữa sự động viên và tính trách nhiệm Không có sự động viên khích lệ, không gì có thể hoàn thành được, và có phải mỗi khi chúng ta cố ràng buộc người khác vào trách nhiệm thì họ không còn hăng hái nữa? Không nhất thiết là như vậy! Có những cách ràng buộc người khác vào trách nhiệm đối với những mục tiêu, mục đích, và cam kết nhưng cùng lúc vẫn duy trì động lực. Với sự cân bằng giữa hai yếu tố này, chúng ta càng có nhiều sự kiểm soát lên những thành quả cho chính mình và cho đội ngũ. Ngày nay, hơn bao giờ hết, công việc của một quản trị viên là xây dựng nhân viên. Khi chúng ta có thể tạo ra một môi trường mà trong đó các nhân viên gặt hái được kết quả, phát triển được những kỹ năng mới và đạt được thành công, chúng ta đang hoàn thành bổn phận cao nhất của một quản trị viên và người lãnh đạo của mọi nhân viên. Giao tiếp với sức mạnh và sự nhạy cảm, trở thành một huấn luyện viên, và xây dựng con người là ưu tiên cao nhất của một người lãnh đạo. Xử trí xung đột và sự tiêu cực Dù chúng ta làm gì đi chăng nữa, chúng ta sẽ luôn gặp những thách thức từ các nhân viên tiêu cực và từ nhiệm vụ quản lý hiệu quả công tác của mình. Những thành quả của chúng ta và của đội ngũ phụ thuộc vào cách chúng ta xử trí những hoàn cảnh đó. Sự công bằng, tính nhất quán, và sức mạnh nên được đặt đúng chỗ, đúng lúc, và theo đúng cách. Không có những điều trên, tinh thần làm việc của mọi người có thể đi xuống, ảnh hưởng tới năng suất, lòng trung thành của khách hàng cũng như của nhân viên – những đòi hỏi bắt buộc phải có trong điều kiện lực lượng lao động đầy cạnh tranh như hiện nay. Trong cuốn sách này, chúng ta sẽ giải quyết những vấn đề trên và cả những vấn đề khác mà những người lãnh đạo đối mặt, đồng thời cung cấp những cách tiếp cận giúp chúng ta và đồng nghiệp cải thiện năng suất làm việc và cùng lúc phát triển những kỹ năng, thái độ và năng lực giúp tất cả chúng ta thăng tiến trong công việc của mình. Để có thể tiếp thu tốt nội dung, hãy đọc toàn bộ cuốn sách trước để nắm bắt khái niệm chung về việc thực hiện vai trò lãnh đạo của mình. Sau đó, đọc lại mỗi chương và bắt tay vào áp dụng những nguyên tắc hướng dẫn cho từng khía cạnh được nêu ra trong sách. Tiến sĩ  Arthur R. Pell Biên tập viên *** Peter Drucker, một trong những nhà tư duy quản trị kiêm nhà văn nổi tiếng, từng viết: “Hầu hết những gì mà chúng ta gọi là quản lý bao gồm việc làm cho nhân viên khó hoàn thành công việc”. Những trưởng phòng đó đã làm gì khiến Drucker viết ra nhận định trên? Nhiều người trong vai trò quản lý hoặc giám sát đối xử với nhân viên của mình như thể họ là người máy – kỳ vọng họ làm chính xác theo những qui trình và không cần sử dụng bất kỳ sáng kiến, óc sáng tạo và tư duy của họ khi làm việc. Họ rất quan tâm tới việc theo sát những nguyên tắc, qui định, trình tự và thủ tục đến độ bỏ qua tiềm năng ở mỗi nhân viên làm việc dưới sự giám sát của họ. Các trưởng phòng – những người thực sự lãnh đạo nhân viên của mình thay vì chỉ cách cho họ làm việc – không chỉ gặt hái được những kết quả tốt hơn cho công ty mà còn phát triển được những đội ngũ cam kết làm việc hướng tới thành công trong mọi khía cạnh của công việc và cuộc sống. Bạn có biết phẩm chất quan trọng nhất một người lãnh đạo có thể có được là gì không? Không phải là khả năng thực hiện; không phải là một tư duy vĩ đại; không phải là sự tử tế, lòng can đảm hay óc khôi hài, dù mỗi một đặc tính trên đều rất quan trọng. Điều quan trọng là khả năng kết bạn, mà suy cho cùng có nghĩa là khả năng nhìn thấy điều tốt đẹp nhất ở người khác. Dale Carnegie Những người lãnh đạo phụng sự Người lãnh đạo đích thực phục vụ nhân viên của mình – không thể khác đi được. Hình tam giác là hình học đặc trưng mà chúng ta thường sử dụng để liên hệ tới hầu hết các tổ chức. Trên cùng là ông chủ, người ra lệnh cho cấp quản lý trung gian, và những người này sẽ ra lệnh cho nhân viên. Ở đáy của hình tam giác này là khách hàng, những người chúng ta hy vọng sẽ hài lòng với những gì chúng ta cung cấp. Mục đích của mỗi tầng trên hình tam giác đó là để phục vụ cho tầng bên trên. Trong cách tiếp cận truyền thống, nhân viên phục vụ người giám sát, các giám sát và trưởng phòng cuối cùng sẽ phục vụ cho ông chủ lớn. Khách hàng – ở tận đáy của hình tam giác – gần như bị bỏ quên. Hình tam giác đó nên được đảo ngược. Ban quản trị cấp cao nên phục vụ các quản trị viên cấp trung gian, những người này sẽ phục vụ những người giám sát để rồi họ phục vụ nhân viên – và tất cả họ sẽ phục vụ khách hàng. Những người lãnh đạo phục vụ nhân viên của mình J. Willard Mariott, một ông chủ nhà hàng khách sạn, tóm tắt cô đọng điều trên như sau: “Công việc của tôi là động viên, khích lệ nhân viên của mình, dạy họ, giúp họ và  chăm chút họ”. Hãy chú ý điều sau cùng – chăm chút họ. Những lãnh đạo giỏi thực sự chăm chút cho nhân viên của mình. Họ tìm hiểu kỹ những điểm mạnh và điểm yếu của nhân viên, những gì họ thích và không thích, cách họ hành động và phản ứng ra sao. Họ dành thời gian ra để làm việc với nhân viên, đem lại nhiều nguồn lực, công cụ, bí quyết để nhân viên làm việc hiệu quả. Họ không can dự vào việc của nhân viên bằng cách tỏ ra lo lắng liệu có cần thêm dấu chấm trên đầu chữ “i”, hoặc thêm dấu gạch ngang cho chữ “t” hay không. Khi tiến hành khảo sát về những gì nhân viên muốn ở một người sếp, hầu như điều được nhắc tới nhiều nhất là một người sếp luôn hiện diện vì tôi. Đây là người sếp mà mọi nhân viên có thể tìm tới hỏi ý kiến và không sợ bị xem là ngớ ngẩn, một người sếp mà ai cũng có thể tin cậy tìm đến khi muốn được chỉ bảo, hỏi thêm thông tin và xin lời khuyên, thay vì một người sếp chỉ biết đòi hỏi và ra mệnh lệnh. Đó là người sếp giúp phát triển tiềm năng của con người – không chỉ sử dụng họ như một phương tiện để hoàn thành một công việc. Trao quyền cho người của mình Những người lãnh đạo đích thực “trao quyền” cho nhân viên của mình. Từ “trao quyền” đã trở thành một từ làm khuấy động giới quản trị ngày nay, nhưng những từ như thế thường thể hiện cô đọng một ý niệm đang được chấp nhận. Nó xuất phát từ một thuật ngữ pháp lý, có nghĩa là chuyển quyền pháp lý nào đó từ một người này sang một người khác. Tuy nhiên, trong biệt ngữ quản trị ngày nay, nó được sử dụng với nghĩa rộng hơn – chia sẻ một số quyền hành và sự kiểm soát mà một vị trưởng phòng có được với những nhân viên họ quản lý. Thay vì người trưởng phòng đưa ra mọi quyết định về cách thức tiến hành một công việc, những nhân viên thực hiện nhiệm vụ sẽ góp phần đưa ra quyết định. Khi nhân viên có tiếng nói trong những quyết định này, chúng ta không chỉ gặt hái được nhiều thông tin đa dạng hơn về cách thực hiện một công việc, mà các nhân viên, nhờ được tham gia vào việc ra quyết định, sẽ trở nên tận hiến vì sự thành công của công việc. Quản lý và lãnh đạo Quản lý nhấn mạnh rằng người ta làm theo mệnh lệnh – thường là làm theo răm rắp, không một chút thắc mắc. “Đây là cách việc này sẽ được hoàn thành”. Còn lãnh đạo thì khích lệ óc sáng tạo ở nhân viên bằng cách thu hút ý tưởng của họ cả trong giao tiếp hàng ngày lẫn trong các cuộc họp chính thức, những chương trình đóng góp ý kiến và những hoạt động tương tự. Quản lý là nói cho nhân viên biết họ sẽ chịu trách nhiệm về những gì. Trong khi đó, lãnh đạo trao quyền cho nhân viên – trao cho họ những công cụ để tự đưa ra những quyết định trong phạm vi những nguyên tắc chỉ đạo mà các bên liên quan đều có thể chấp nhận được. Quản lý chú ý hơn tới việc những chính sách được tuân thủ ra sao, giải thích qui tắc, chính sách và làm cho chúng có hiệu lực thi hành. Lãnh đạo khích lệ mọi người và dạy họ làm thế nào để hoàn thành công việc. Nếu nó không hiệu quả như mong đợi, cần phải nỗ lực để cải thiện hiệu quả công việc thông qua nhiều bài huấn luyện tốt hơn. Giúp người khác học hỏi là công cụ chính để đạt được hiệu quả công việc cao. Quản lý tập trung những nỗ lực vào làm việc một cách đúng đắn; lãnh đạo nhấn mạnh làm những việc đúng. Có những lúc người ta cần quản lý – vì những lý do pháp lý hoặc tương tự, quan trọng hơn cả là phải làm thật đúng theo bài bản. Dĩ nhiên là những người trong vị trí quản lý phải đảm bảo rằng mọi việc được thực hiện một cách đúng đắn. Nhưng đây không phải là công việc chính. Đảm bảo nhân viên tuân thủ các nguyên tắc là điều cần thiết trong những trường hợp như thế, nhưng quan trọng hơn là huấn luyện mọi người thạo việc và khích lệ họ khao khát làm hết sức mình để hoàn thành những mục tiêu của phòng ban và công ty. Để đạt được điều này với những nhân viên của mình là một ví dụ hoàn hảo về năng lực lãnh đạo đích thực. Người sếp tốt – người sếp tệ Harry là kiểu sếp thích được người khác ưa thích. Anh nghĩ mình là một người sếp tốt vì mọi người trong phòng của anh thích anh. Anh không muốn làm suy giảm lòng mến mộ này, vì thế anh đã do dự không ép buộc nhân viên phải thi hành những qui định tối thiểu hoặc sửa chữa những lỗi nhỏ trong công việc. Khi cần khiển trách, anh thường im lặng thật lâu đến độ quên luôn cả lý do của việc khiển trách. Tuy nhiên, anh thường khen quá nhiều đến độ lời khen mất đi ý nghĩa. Teresa rất khó chịu. Chị tin rằng người ta phải sử dụng tới quyền hành thì mới khiến công việc được hoàn thành. Chị cộc cằn, giáo điều, và câu nói chị ưa sử dụng là: “Tôi là sếp. Anh được trả lương để làm việc, vì vậy, tốt hơn hết anh nên làm việc, nếu không thì…” Chị hiếm khi khen nhân viên và thường la rầy họ trước mặt người khác trong phòng. Cả Harry và Teresa đều có những vấn đề nghiêm trọng vì cả hai thái cực như thế không thể mang lại hiệu quả. Chúng ta hãy xem điều gì đã xảy ra trong từng tình huống sau. Người sếp xuề xòa Khi một người trưởng phòng không kiểm soát phòng ban mình, công việc sẽ bị ảnh hưởng. Sản xuất sẽ không theo đúng lịch, chất lượng bị ảnh hưởng, mọi nhân viên sẽ lợi dụng sự dễ dãi này, nhiều người xin nghỉ mà không có lý do chính đáng, và sự trễ nải sẽ làm hại tới công ty. Nhân viên của Harry cảm thấy không được lãnh đạo và lấn lướt anh. Tại sao một người trưởng phòng trở nên hiền lành và xuề xòa đến mức khiến cả phòng phải gánh chịu hậu quả? Thường thì nguyên nhân sâu xa có thể là cảm giác bất an trong khả năng cống hiến của họ. Những người bất an đòi hỏi sự chấp thuận từ những người khác để bênh vực cho cái tôi ích kỷ của mình. Những người như thế muốn được người khác yêu mến, muốn có “đồng bọn”. Họ tin sự hiền lành và lòng khoan dung với thuộc cấp sẽ dẫn tới sự chấp thuận của nhân viên. Khi sếp của Harry khám phá ra rằng phòng ban này đang bị rơi lại phía sau, Harry sẽ bị qui trách nhiệm. Bây giờ, Harry hồi hộp và biết mình phải mau chóng thay đổi hoàn toàn. Một phản ứng tự nhiên là thay đổi ngay thái độ. Anh bắt đầu cứng rắn và đòi hỏi khắt khe hơn. Anh phê phán nhân viên mình, thường xuyên la hét và quát tháo. Anh bắt đầu quở trách họ vì những lỗi vụn vặt và phạt họ vì những chuyện mà cách đó một tuần anh từng phớt lờ. Điều này gây ra sự oán giận và bất ổn trong nhân viên. Công việc của toàn phòng có thể khá hơn trong một thời gian, nhưng về bản chất, những hành động này trái với tính tình của Harry nên một khi mọi việc được tháo gỡ, anh ta lại quay trở lại bản tính cũ của mình. Những thay đổi thường xuyên trong cách quản lý thường khiến người ta thoái chí hơn là giữ nguyên một phong cách – dù là tốt hay xấu. Nhân viên của chúng ta không thể tiên lượng chúng ta sẽ hành xử ra sao. Sự không chắc chắn này dẫn tới tinh thần làm việc tệ hại và tỷ lệ biến động nhân sự cao. Nguyên nhân của thái độ xuề xòa, dễ dãi của Harry bắt nguồn từ cảm giác bất an của chính anh. Anh cần phải xây dựng sự tự tin của mình. Một cách để làm được điều này là trở thành chuyên gia trong công việc anh làm. Khi một người có kiến thức sâu về công việc, người đó sẽ có cảm giác an toàn trong công việc, từ đó trở nên tự tin trong mọi vấn đề liên quan tới công việc. Harry cũng nên tìm hiểu thêm về các mối quan hệ con người và áp dụng những gì mình vừa học được vào công việc của mình. Người giám sát khô khan Teresa có một vấn đề tương tự. Mặc dù phong cách của cô khác nhiều với phong cách của Harry, nhưng hậu quả cũng rất giống. Cô gây ra oán giận trong nhân viên và, vô tình hay cố ý, họ từ chối cộng tác. Năng suất thấp hơn, tỷ lệ biến động nhân sự cao hơn, nhiều người xin nghỉ làm không có lý do chính đáng, nhiều mối bất bình, và tinh thần làm việc thường giảm sút đều là những chứng cứ thông thường của sự thiếu cộng tác như thế. Nguyên nhân của cách tiếp cận cứng rắn cũng như khoan dung nêu trên là sự thiếu tự tin. Tuy nhiên, thái độ “khao khát muốn làm vừa lòng” lại được thế chỗ bởi một tính cách cộc cằn và vẻ bề ngoài độc đoán. Khiến cho một người lãnh đạo khô khan thay đổi là việc khó khăn hơn, có lẽ vì họ có một cảm giác khó lay chuyển là cứ cho rằng cách của mình là cách duy nhất. Sự cố chấp là một phần không thể thiếu trong mẫu hành vi của họ. Một lần nữa, giải pháp cho vấn đề này đòi hỏi sự hiểu biết rõ về mối quan hệ con người. Người giám sát phải học cách khen ngợi thường xuyên hơn, học cách làm thế nào để đưa ra lời khiển trách đem lại hiệu quả mà không gây oán giận và hiềm thù. Teresa phải học làm dịu bớt tính cách và ngôn từ của mình để tránh cãi vã và để làm việc thân thiện hơn với đồng nghiệp và nhân viên của mình. Người giám sát tuyệt nhất Phong cách giám sát hiệu quả nhất là ở giữa hai thái cực trên. Nó dựa trên nền tảng là sự hiểu biết hành vi con người và áp dụng kiến thức này vào việc cư xử với những người dưới quyền của mình. Anh hoặc chị ta khen người khác vì làm tốt công việc, nhưng không vung vãi lời khen một cách hời hợt. Harry khen quá mức tới độ không một nhân viên nào của anh cảm thấy công việc họ làm tốt thực sự được đánh giá cao. Teresa không bao giờ khen nhân viên của cô, khiến họ cảm thấy chẳng cần gì phải cố gắng để hoàn thành xuất sắc công việc của mình. Việc quở mắng, khi cần thiết, nên được thực hiện một cách kín đáo và với thái độ điềm đạm. Không bao giờ lên giọng và luôn cho nhân viên mình cơ hội để kể câu chuyện của chính họ. Hãy chú ý lắng nghe và đừng ngắt lời. Hãy đưa ra lời phê bình mang tính xây dựng và phải càng cụ thể bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Đừng quở mắng khi giận dữ hoặc lúc tâm trạng đang khó chịu. Đừng biến nó thành một trận cãi vã. Tránh châm biếm hoặc cằn nhằn. Hãy chỉ nói tới những vấn đề liên quan mà thôi. Nên nhớ mục đích của một lời quở trách là sửa chữa một việc sai. Một người trưởng phòng tốt không muốn làm phức tạp thêm sai sót bằng việc tạo ra sự oán giận. Hãy luôn nhấn mạnh lên công việc hơn là người làm công việc. Những lời khuyên về cách đưa ra lời khiển trách hiệu quả sẽ được thảo luận ở Chương 9. Những người lãnh đạo giỏi không phải là những người mơ hồ, thân mật giả tạo, cũng không phải là những kẻ độc tài. Nhân viên của họ không phớt lờ, cũng không khiến họ lo sợ. Những người giám sát có năng lực luôn có sự tự tin cộng với sự tôn trọng của nhân viên. Chúng ta hãy xem xét một sự so sánh đơn giản giữa cách một người sếp quản lý và một người sếp lãnh đạo: Chuyện hoang đường và những nhận thức sai lầm Thật khó vượt qua những chuyện hoang đường và nhận thức sai lầm chi phối suy nghĩ của con người trong nhiều năm hoặc trong suốt cuộc đời. Tuy nhiên, là một nhà quản lý, chúng ta phải đánh đổ chúng nếu muốn mình có thể tiến lên phía trước. Một số người miễn cưỡng đảm nhận vai trò lãnh đạo. Để làm được việc này, họ tin mình sẽ phải có tài lãnh đạo bẩm sinh, chẳng hạn như có uy tín, hoặc một tính cách vô hình khiến họ có khả năng ảnh hưởng tới người khác. Đúng là một số người lãnh đạo tài giỏi nhất trên thế giới được sinh ra theo cách đó – họ có sức thu hút đặc biệt làm say mê công chúng. Nhưng họ là trường hợp ngoại lệ. Đa số những người lãnh đạo thành công là những người đàn ông và phụ nữ bình thường, đã và đang lao động cật lực để tới được nơi họ đang đứng. Quản lý con người dễ dàng hơn nếu chúng ta có tài năng thiên phú, nhưng không nhất thiết phải như vậy. Mỗi người chúng ta chắc chắn học được những kỹ năng cần để quản lý và lãnh đạo người khác. Lãnh đạo là một nghệ thuật có thể học hỏi được. Với một chút nỗ lực, bất kỳ ai mong muốn đều có thể học cách hướng dẫn người khác thông qua việc thu hút được sự tôn trọng, lòng tin, và sự hợp tác toàn diện của họ. Nhiều người trưởng phòng thích tự gán cho mình là những “chuyên gia”, nhưng liệu quản lý có thực sự là một nghề nghiệp hay không? Những chuyên gia ở các lĩnh vực khác (như bác sĩ, luật sư, chuyên gia tâm lý, và kỹ sư) cần phải hoàn tất nghiên cứu chuyên sâu và vượt qua nhiều kỳ thi để lấy bằng cấp. Người ta không yêu cầu những điều như thế ở một người trưởng phòng. Một vài người trưởng phòng có thể được huấn luyện chuyên biệt, nhận được những bằng cấp về quản trị kinh doanh, nhưng hầu hết những trưởng phòng như vậy được thăng chức từ những cấp dưới và từng qua ít hoặc không qua huấn luyện về quản lý. Hầu hết các trưởng phòng chủ yếu học từ chính công việc họ làm. Ngày càng có nhiều trưởng phòng cố gắng học hỏi kỹ năng thông qua những khóa nghiên cứu có cấu trúc, nhưng hầu hết các trưởng phòng vẫn học hỏi thông qua việc quan sát những phương pháp kỹ thuật từ sếp của họ. Mô hình họ theo có thể là hay, là tốt. Tuy nhiên, thường thì những trưởng phòng mới mẻ học được những triết lý cổ lỗ sĩ và không có cơ sở từ những người sếp của họ. Vài ý tưởng được nêu ra dưới đây có thể đúng trong quá khứ nhưng bây giờ không còn hiệu quả nữa; những ý tưởng khác thì không bao giờ đúng cả. Chúng ta hãy xem xét một số trong nhiều chuyện hoang đường và nhận thức sai lầm về quản lý. Quản lý không là gì ngoài lẽ thường Khi một người trưởng phòng được hỏi về công tác huấn luyện của anh ta lúc bắt đầu vai trò quản lý của mình, anh nói: “Khi tôi được đề bạt vào vị trí quản lý đầu tiên của mình, tôi hỏi xin một người trưởng phòng lâu năm một số lời khuyên về cách đối xử với nhân viên thuộc quyền. Ông bảo tôi: ‘Hãy làm theo lẽ thường, em sẽ không gặp rắc rối.’” “Lẽ thường” chính xác là gì? Những gì tỏ ra hợp lý với một người có thể là vô lý với một người khác. Định nghĩa về “lẽ thường” thường được dựa trên nền tảng văn hóa. Chẳng hạn như ở Nhật, “lẽ thường” được xem là chờ để có được sự đồng thuận chung trước khi đưa ra bất kỳ một quyết định nào; ở Hoa Kỳ, việc chờ đợi như thế thường được chế giễu là không hiệu quả và lãng phí thời gian. Những tập quán văn hóa không phải là nguyên nhân duy nhất để lý giải cho sự khác biệt giữa những ý niệm tạo nên lẽ thường. Không ai có quan điểm giống ai về điều gì là tốt và điều gì là xấu, điều gì hiệu quả và điều gì lãng phí, điều gì có tác dụng và điều gì không. Chúng ta có khuynh hướng sử dụng chính những trải nghiệm cá nhân để phát triển những giá trị, cách hành xử phù hợp với lẽ thường của chính mình. Vấn đề là trải nghiệm cá nhân của một người chỉ đưa tới quan điểm hạn chế. Mặc dù những gì chúng ta xem như lẽ thường đã được phát triển từ chính những trải nghiệm riêng của mình, nhưng trải nghiệm cá nhân thì không bao giờ đủ để cung cấp bất kỳ điều gì khác hơn là những quan điểm hạn chế. Năng lực lãnh đạo cần nhiều hơn mức kinh nghiệm mà một cá nhân có thể có. Để trở thành một người lãnh đạo đích thực, chúng ta phải nhìn vượt lên trên lẽ thường. Chúng ta thường không chỉ dựa trên lẽ thường để giúp giải quyết những vấn đề về tài chính hoặc sản xuất. Chúng ta thường nhờ tới tay nghề chuyên môn tốt nhất có thể trong những lĩnh vực này để xin lời khuyên và thông tin. Nếu thế thì tại sao chúng ta lại đi dựa trên một cơ sở ít thực dụng hơn để giải quyết những vấn đề quan hệ con người? Chúng ta có thể học hỏi nhiều về nghệ thuật và khoa học quản lý này bằng cách đọc những sách và tạp chí về ngành nghề của mình, tham dự những khóa học và seminar, và tham gia tích cực vào những hội đoàn của ngành. Trưởng phòng là người biết mọi thứ Các trưởng phòng không biết được mọi thứ. Không ai có thể. Hãy chấp nhận rằng chúng ta không có mọi câu trả lời, nhưng biết rằng mình cần những kỹ năng để có được câu trả lời. Một cách hữu hiệu là phát triển quan hệ bạn bè với nhân viên ở những công ty khác từng có kinh nghiệm trong những hoàn cảnh tương tự. Chúng ta có thể học nhiều điều từ họ. Sinh hoạt mạng lưới – tiếp xúc với người ở những công ty khác mà mình có thể nhờ tới để xin lời khuyên, ý tưởng, và các chiến lược giải quyết vấn đề – giúp chúng ta tiếp cận với những người này khi cần thông tin và ý tưởng mới, và không ngừng cung cấp cho chúng ta một nguồn trợ giúp quí báu để giải quyết vấn đề. Không phải bạn tin vào những ý tưởng mà mình tự khám phá ra hơn là những ý tưởng được người khác trao cho mình hay sao? Nếu bạn tin vào những ý tưởng của mình, thì việc bắt người khác thừa nhận ý tưởng của bạn không phải là ý kiến tồi hay sao? Liệu đưa ra lời khuyên và để cho người ta nghĩ ra kết luận cho chính họ không phải là khôn ngoan sao? Mời các bạn đón đọc Trở Thành Người Lãnh Đạo Hiệu Quả của tác giả Dale Carnegie.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Cuộc Phiêu Lưu Trong Kinh Doanh
“Không lâu sau lần đầu gặp Warren Buffet vào năm 1991, tôi có hỏi về cuốn sách quản trị kinh doanh yêu thích nhất của ông. Không mất đến nửa giây suy nghĩ, ông trả lời: ‘Đó là Những cuộc phiêu lưu trong kinh doanh của John Brooks, tôi sẽ gửi cho cậu cuốn của mình.’ Đến nay đã hơn hai mươi năm kể từ ngày Warren cho tôi mượn cuốn sách đó ‒ và hơn bốn mươi năm kể từ khi nó được xuất bản lần đầu tiên ‒ Những cuộc phiêu lưu trong kinh doanh vẫn là cuốn sách quản trị kinh doanh hay nhất mà tôi từng đọc.”  Bill Gates Những cuộc phiêu lưu trong kinh doanh với 12 câu chuyện thú vị và không kém phần kịch tính về những sự kiện nổi tiếng tại Phố Wall này sẽ vén màn những âm mưu cũng như bộc lộ bản chất thất thường của thế giới tài chính. Xuyên suốt cuốn sách là những báo cáo chi tiết và sắc sảo của John Brooks, dù đó là sự kiện thị trường chứng khoán sụp đổ năm 1962, thất bại của một công ty môi giới danh tiếng, hay nỗ lực táo bạo của các ngân hàng Mỹ nhằm cứu vãn đồng bảng Anh. Sau tất cả, những câu chuyện này vẫn còn nguyên giá trị và tính thời sự để giúp chúng ta nắm bắt được tính phức tạp của đời sống kinh doanh. Những cuộc phiêu lưu trong kinh doanh thực sự là những phân tích tài chính sống động và xuất sắc nhất từ trước đến nay. *** THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN - một thước phim phiêu lưu dài tập chiếu ban ngày của giới thượng lưu - sẽ không phải là thị trường chứng khoán nếu không có những thăng trầm trong đó. Bất kỳ ai trên ngồi ghế lãnh đạo từng say mê truyền thuyết về Phố Wall hẳn đã nghe đoạn đối đáp mà người ta đồn là của J. P. Morgan1 (lớn) khi một người bạn ngây thơ của ông đã mạo muội hỏi nhân vật vĩ đại này về việc liệu thị trường sẽ diễn biến như thế nào. Morgan trả lời tỉnh queo: “Lên-xuống rồi lại xuống-lên!”. Và còn nhiều những đặc thù đặc trưng khác. Bên cạnh những lợi thế và bất lợi kinh tế của những giao dịch chứng khoán - lợi thế: tạo ra một dòng chảy tự do về vốn để trang trải cho việc mở rộng sản xuất; bất lợi: tạo ra một con đường quá đỗi dễ dàng để cho những người cả tin, thiếu thận trọng và kém may mắn vuột mất đi số tiền của mình - sự phát triển những giao dịch này đã tạo ra một hệ thống hành vi xã hội, toàn diện với các tập quán, ngôn ngữ cùng những phản ứng có thể dự đoán được trước từng sự kiện cụ thể. Ngoạn mục nhất là ở tốc độ bung nở hết cỡ của hệ thống hành vi này sau sự kiện Sở giao dịch chứng khoán trọng yếu đầu tiên trên thế giới được thành lập năm 1611, trên một khoảng sân không mái che ở Amsterdam và mức độ mà hệ thống này duy trì (tất nhiên, cùng với những biến thể của nó) trên Sở giao dịch chứng khoán New York vào thập niên 1960. Chứng khoán Mỹ ngày nay là một tổ chức khổng lồ liên quan tới hàng triệu km đường dây điện báo riêng, các máy tính có thể đọc và sao chép niêm giám điện thoại thành phố Manhattan trong ba phút và hơn 20 triệu cổ đông, dường như đối lập hoàn toàn với cảnh tượng một nhúm người Hà Lan đội mưa cò kè mua bán với nhau hồi thế kỷ XVII. Nhưng những biểu hiện trên hiện trường thì vẫn giống nhau. Thật trùng hợp là sàn chứng khoán đầu tiên là một phòng thí nghiệm, nơi người ta khám phá ra những phản ứng mới của con người và Sở giao dịch chứng khoán New York cũng giống như vậy, một “ống nghiệm” xã hội học, muôn đời đóng góp vào quá trình tự giác ngộ về bản thân của loài người. Hành vi của những người Hà Lan tiên phong trong kinh doanh chứng khoán được khéo léo ghi chép lại trong cuốn sách có tựa đề Confusion of Confusions (Rắc rối của những rắc rối của tác giả Joseph de la Vega, một nhà đầu cơ tại thị trường Amsterdam, được xuất bản lần đầu năm 1688 và vài năm trở lại đây được trường Kinh doanh Harvard dịch và tái bản bằng tiếng Anh. Về phần những nhà đầu tư và môi giới chứng khoán của Mỹ ngày nay, với những đặc tính giống như tất cả những nhà kinh doanh chứng khoán khác song thường bị thổi phồng trong những giai đoạn khủng hoảng, ta có thể làm sáng tỏ hành vi của họ bằng việc xem xét những hoạt động của họ trong suốt tuần cuối cùng của tháng 5 năm 1962, thời điểm mà thị trường chứng khoán trải qua những biến động mạnh. Vào thứ Hai, ngày 28 tháng 5, chỉ số Dow-Jones trung bình của 30 cổ phiếu công nghiệp hàng đầu (từ năm 1897, từng giao dịch cổ phiếu mới bắt đầu được tính toán cụ thể) giảm tới 34,95 điểm hay nói cách khác, giảm kỷ lục nhất so với bất kỳ ngày giao dịch nào khác (trừ ngày 28 tháng 10 năm 1929 với mức sụt giảm 38,33 điểm). Khối lượng giao dịch ngày 28 tháng 5 là 9.350.000 cổ phiếu, đạt mức doanh thu trong ngày lớn thứ bảy trong lịch sử thị trường chứng khoán. Vào thứ Ba ngày 29 tháng 5, sau một buổi sáng đáng báo động khi hầu hết các cổ phiếu tụt giảm xuống mức thấp hơn nhiều so với mức giá lúc đóng cửa của buổi chiều thứ Hai, thị trường bất ngờ đổi hướng, tăng vọt đến mức kinh ngạc, và kết thúc ngày giao dịch, chỉ số Dow-Jones tăng khá cao, tận 27,03 điểm, tuy chưa phải là mức phá kỷ lục. Mức tăng gần chạm kỷ lục của ngày thứ Ba này nằm ở khối lượng giao dịch: 14.750.000 cổ phiếu được trao tay, bổ sung thêm vào kỷ lục doanh-số-một-ngày lớn nhất từng có, chỉ đứng sau ngày 29 tháng 10 năm 1929 với hơn 16 triệu cổ phiếu được giao dịch. (Sau này, vào những năm 1960, 10 triệu, 12 triệu, hay thậm chí 14 triệu cổ phiếu được giao dịch mỗi ngày là phổ biến. Kỷ lục năm 1929 bị phá vỡ vào ngày 1 tháng 4 năm 1968 và trong mấy tháng tiếp sau đó, kỷ lục mới liên tiếp được thiết lập). Sau đó, vào thứ Năm ngày 31 tháng 5 (trước đó là thứ Tư, cả nước Mỹ nghỉ làm việc vì lễ Tưởng niệm chiến sĩ hi sinh nơi chiến trận) là vừa hoàn tất chu trình ấy; chỉ số Dow-Jones trung bình tăng 9,40 điểm trên tổng số 10.710.000 cổ phiếu được giao dịch (khối lượng lớn thứ năm trong lịch sử chứng khoán), nhỉnh hơn số điểm trước khi bắt đầu xảy ra toàn bộ tình trạng kích động. Cuộc khủng hoảng chỉ kéo dài ba ngày nhưng ai cũng biết, phần “khám nghiệm tử thi2” sẽ còn kéo dài mãi sau đó. Một trong những quan sát mà de la Vega đúc rút về các thương nhân Amsterdam là: Họ “rất khôn khéo bịa ra lý do” để lý giải cho sự tăng hay giảm giá đột ngột của cổ phiếu và chắc chắn các chuyên gia Phố Wall cần vận hết trí tuệ mới có thể lý giải vì sao ngay giữa một năm thịnh vượng như thế, thị trường đột nhiên tụt dốc thảm hại tới mức lập kỷ lục thứ hai trong lịch sử tính tới thời điểm đó. Bên cạnh những giải thích này, mà đứng đầu là việc Tổng thống Kennedy thẳng tay dập tắt kế hoạch tăng giá của ngành thép - thì không thể tránh khỏi việc các cuộc “khám nghiệm tử thi” thường so sánh ngày 28 tháng 5 năm 1962 với ngày 29 tháng 10 năm 1929. Riêng con số về biến động giá cả và khối lượng giao dịch cũng đủ để người ta đi đến sự so sánh này, cho dù hai ngày kinh hoàng tồi tệ nhất trong hai tháng ấy không hề trùng nhau theo lối ma mị hay có điềm báo trước như một số người nghĩ. Nhưng thật ra phải thừa nhận, nếu so sánh hai ngày này, người ta sẽ thấy thuyết phục trước những điểm tương phản hơn là những điểm tương đồng. Trong thời kỳ từ năm 1929 đến năm 1962, những quy định về phương thức giao dịch và những hạn chế về vay tín dụng đối với khách mua cổ phiếu đã khiến cho người ta khó lòng - nếu không nói là không thể - nướng sạch tiền vào chứng khoán. Tóm lại, hình dung của de la Vega về thị trường chứng khoán Amsterdam vào những năm 1680 - ông gọi nó là “ổ cờ bạc” mặc dù rõ ràng là ông yêu nó - gần như không mấy phù hợp với thị trường New York trong thời kỳ 33 năm giữa hai lần sụp đổ. Vụ sụp đổ năm 1962 không phải đến mà không báo trước, dù rất ít nhà quan sát đọc được chính xác những cảnh báo ấy. Ngay thềm năm mới, cổ phiếu đã bắt đầu sụt giảm dần đều và tốc độ này leo thang đến đỉnh điểm: tuần giao dịch trước đó - từ ngày 21 tháng 5 đến ngày 25 tháng 5 - trở thành tuần tồi tệ nhất của Sở giao dịch kể từ tháng 6 năm 1950. Vào sáng thứ Hai ngày 28 tháng 5, các nhà môi giới và nhà buôn chứng khoán đã có lý do để suy tư. Cổ phiếu đã chạm đáy chưa? Hay sắp chạm? Nhìn lại thì thấy có rất nhiều luồng ý kiến khác nhau. Tờ tin Dow-Jones (cung cấp tin tức tài chính tâm điểm cho người đặt báo dài hạn qua máy telex) phản ánh sự lo ngại nhất định trong khoảng thời gian từ lúc tờ này bắt đầu phát tin lúc 9 giờ cho tới khi Sàn giao dịch bắt đầu mở cửa lúc 10 giờ. Băng tin rộng ‒ cách người ta thường gọi bản tin Dow-Jones in theo chiều dọc giấy khổ 15×0,6cm để phân biệt với băng tin báo giá của Sở giao dịch được in theo chiều ngang và chỉ dài 1,9cm) ‒ bình luận rằng, nhiều nhà kinh doanh chứng khoán cuối tuần bận rộn với việc gửi yêu cầu đến các khách hàng mua chịu, hiện sở hữu những cổ phiếu đang xuống giá, cần bổ sung thế chấp ngay. Bản tin này nhận xét, việc bán tống bán tháo vội vã giống tuần trước đó là “hành động đã nhiều năm nay xa lạ với Phố Wall”. Bản tin này tiếp tục đưa ra một số tin thương mại đáng khích lệ như công ty Westinghouse mới nhận được một hợp đồng Hải quân mới. Tuy nhiên, như de la Vega đã nói, “trong thị trường chứng khoán, những tin tức [kiểu như vậy] thường chẳng mang lại ý nghĩa gì cả”; trong tình thế hiện tại, tâm trạng nhà đầu tư mới là điều đáng nói. Tâm trạng này càng trở nên rõ nét chỉ trong vài phút sau khi thị trường mở cửa. Lúc 10 giờ 11 phút, băng tin thông báo “lúc mở cửa, giá cổ phiếu hỗn hợp và giao dịch nhộn nhịp vừa phải”. Đây là một thông tin mang tính chấn an vì “hỗn hợp” có nghĩa là vừa có tăng vừa có giảm và nói chung một thị trường sụt giá, sẽ ít rủi ro hơn khi khối lượng giao dịch chỉ ở mức vừa phải chứ không quá lớn. Nhưng niềm an ủi này chỉ kéo dài chớp nhoáng vì đến 10 giờ 30 phút, băng tin của Sở giao dịch (đăng tin tức về giá và khối lượng cổ phiếu của mỗi giao dịch diễn ra trên sàn) không những đăng các mức giá cũ, thấp hơn, với tốc độ tối đa 500 ký tự/phút mà còn đăng trễ tận sáu phút. Sự chậm trễ của băng tin cho thấy rõ ràng, chiếc máy đã không thể bắt kịp với những giao dịch đang diễn ra tít mù. Thường thì khi một giao dịch trên sàn của Sở giao dịch hoàn tất, một nhân viên của Sở sẽ ghi lại chi tiết lên một mẩu giấy và gửi nó qua một ống khí nén tới một căn phòng trên tầng 5 của tòa nhà; từ đây, một nhân viên nữ sẽ đánh máy mẩu giấy vào máy điện báo để truyền đi. Quãng thời gian chờ hai đến ba phút từ khi có giao dịch trên sàn và khi giao dịch xuất hiện trên băng tin được Sở giao dịch xem là bình thường; khái niệm “trễ” chỉ được sử dụng để mô tả bất kỳ một sự trì hoãn nào khác ngoài hai đến ba phút đấy tính từ khi tờ phiếu bán hàng lên được đến tầng 5 và được chiếc máy điện báo dung nạp được nó (de la Vega phàn nàn là Sở giao dịch không cẩn thận khi dùng từ “trễ”). Băng tin thường xuyên xảy ra tình trạng “trễ” một vài phút vào những ngày giao dịch tấp nập nhưng từ năm 1930, khi loại máy điện báo thịnh hành vào năm 1962 được lắp đặt, những vụ trễ lớn cực kỳ hiếm khi xảy ra. Ngày 24 tháng 10 năm 1929, khi băng tin bị trễ 246 phút, máy đang in với tốc độ 285 ký tự/phút; từ tháng 5 năm 1962 trở về trước, khoảng trễ lớn nhất từng xảy ra trên chiếc máy mới là 34 phút. Mời các bạn đón đọc Những Cuộc Phiêu Lưu Trong Kinh Doanh của tác giả John Brooks.
Sách Lược Đầu Tư Của W. Buffett
NHÀ ĐẦU TƯ VĨ ĐẠI NHẤT THẾ GIỚI Warren Buffett được xem là nhân vật huyền thoại trong thị trường chứng khoán đương đại, ngay cả những người ngoài ngành chứng khoán cũng biết đến cái tên Buffett. Người trong giới đầu tư rất khâm phục ông, và coi những lời phát biểu của ông là "Kinh Thánh trong sách lược đầu tư”. Bởi lẽ, nhiều người cho rằng, để được lắng nghe những lời nói đầy trí tuệ về sách lược đầu tư của ông, người ta có thể bỏ ra hàng chục, thậm chí hàng mấy trăm nghìn đô-la Mỹ để mua một vài cổ phiếu của Công ty Berkshire Hathaway, rồi không ngại gian khổ, vượt ngàn dặm xa xôi để đến Omaha tham dự Đại hội cổ đông được tổ chức hàng năm của công ty Berkshire Hathaway, hành trình này gian nan không kém gì so với việc hành hương của những tín đồ tôn giáo. Những năm gần đây, muốn cùng Buffet ăn một bữa trưa để được nghe "Chân kinh” về thế giới cổ phiếu cũng phải tiêu tốn hàng triệu đô-la. Vì sao Buffett lại được sùng bái đến vậy? Chỉ cần nhìn vào thành tích đầu tư cổ phiếu của ông thì chúng ta sẽ hiểu. Khi bắt đầu đầu tư vào cổ phiếu, trong tay ông chỉ có 100 đô-la. Trong danh sách những người giàu có nhất thế giới được công bố năm 2008 thì ông đứng ở vị trí đầu bảng với tài sản 62 tỉ đô-la. Từ năm 2008 đến nay, thị trường cổ phiếu trên thế giới xuống dốc rõ rệt, nên cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đối với tài sản của ông hoàng cổ phiếu này. Trong danh sách công bố mới nhất năm 2009, tài sản của ông đã sụt giảm khoảng 25 tỉ đôla xuống còn 37 tỉ, nhưng vẫn xếp vị trí thứ hai. So với các tỉ phú khác, đây được xem là một thành tích đáng nể, bởi trải qua nhiều sóng gió của cơn bão tiền tệ, có những tỉ phú đã sớm phải rời khỏi danh sách mười tỉ phú dẫn đầu. Vị trí đứng đầu bảng xếp hạng, 10 năm trở lại đây luân phiên nhau thuộc về Buffett và Bill Gates. Chỉ riêng trong thành phố Omaha, Buffett đã tạo ra gần 200 tỉ phú. Thành tích làm giàu đó, khó có trường hợp thứ hai trên thế giới. Tuy nhiên, bí quyết gì đã đem đến cho Buffet thành tích đầu tư lớn như vậy? Nhiều người sau khi nghe xong Lí thuyết về đầu tư của ông thì cảm thấy rất ngạc nhiên vì những điều ấy đều rất đơn giản mà lại chính xác, hoàn toàn không phức tạp như mọi người vẫn tưởng tượng. Buffet chỉ làm giàu nhờ đầu tư chứng khoán, hơn nữa phần lớn là thông qua đầu tư vào cổ phiếu của các công ty niêm yết mà tất cả giới đầu tư đều có thể mua được. Điểm đáng chú ý trong cách đầu tư của Buffett là ông làm mọi việc một cách trung thực. Mỗi tư duy logic của ông đều rất đơn giản, nhưng khi tổng hợp lại có thể trở thành một phương thức đầu tư theo phong cách riêng của Buffett. Trong khi hầu như các nhà đầu tư đều trung thành với những doanh nghiệp có công nghệ kĩ thuật cao và tăng trưởng mạnh thì Buffett lại thích mua số lượng lớn cổ phiếu của những công ty lớn có lịch sử lâu đời như American Express, Walt Disney, Coca-Cola, Gillette... và những cổ phiếu này đều là cổ phiếu phổ thông. Đa số mọi người đều mơ tưởng đến chiến thắng, thu được nhiều lợi nhuận, vì thế mà thích mua rẻ bán đắt, tiến hành giao dịch ngay trong ngày, cuối cùng phải thất bại vì tổn thất nặng nề. Buffett thì trái lại, ông kiên trì tìm những cổ phiếu bị thị trường bỏ lại phía sau, sau khi mua thì nắm giữ vài năm, thậm chí để đó không bao giờ bán; nếu không tìm được công ty đáng để đầu tư, thì cách làm của ông cũng rất đơn giản, đó là quyết không hành động. Không ít người ngày nào cũng chú ý đến thị trường cổ phiếu, tâm trạng vui buồn theo sự lên xuống của cổ phiếu. Thế nhưng Buffett lại không hề bị ảnh hưởng bởi những điều đó, thậm chí ông còn thoát ra khỏi đám người ấy để đến sống tại Omaha - nơi tập trung sản xuất ngô và nuôi nhiều gia súc; đa số thời gian của ông đều dùng để đọc sách, suy ngẫm và "Phân bổ tài sản”. Triết lý đầu tư và triết lý cuộc sống của Buffett có thể miêu tả bằng hai từ "Đơn giản”. Nếu đem so sánh với Lí thuyết bước đi ngẫu nhiên (Random Walk Theory), Giả thuyết thị trường hiệu quả (Efficient Markets Hypothesis) hay Lí thuyết Gann (Gann Theory) thì có thể thấy lí thuyết của ông thực sự là những tuyệt chiêu, vừa đơn giản lại vừa rất hiệu quả. Nói tóm lại, điều cốt lõi trong lí thuyết đầu tư của Buffett là: Bất kể thị trường cổ phiếu tăng hay giảm, thông qua việc phân tích nguyên lí cơ bản của doanh nghiệp để chọn lọc những cổ phiếu có tính cạnh tranh, đợi lúc thị trường không chú ý đến thì mua vào, và nắm giữ nó trong thời gian dài. Đạo lý "biết thì dễ, làm thì khó" này thực ra rất đơn giản, phải biết chấp nhận sự lùi bước, thua thiệt trước mắt mới có thể kiên định theo đuổi mục tiêu đến cùng. Trong Binh pháp Tôn Tử có nói: "Làm việc phải đặt ra tiêu chuẩn và mục đích cao thì mới có thể thu được hiệu quả tốt, còn nếu ban đầu đã đặt mục tiêu thấp thì hiệu quả thu được cũng không cao”. Nói cách khác, đã học thì phải học theo thứ ưu việt nhất. Nếu muốn có được thành quả đầu tư khiến người khác khâm phục thì biện pháp tốt nhất là học theo "Sách lược đầu tư của Buffett". Con người hiện đại phải sinh tồn trong một xã hội cạnh tranh khốc liệt, nếu sớm hiểu được nguyên tắc đầu tư của Buffett thì sẽ sớm bước chân được vào giới đầu tư, mức thu nhập cũng sẽ lớn dần lên. Vì thế, tác giả đã biên soạn cuốn sách về sách lược đầu tư của Buffett với rất nhiều tâm huyết, ngoài những triết lí, bí quyết thành công, còn có hình ảnh minh họa sinh động, thể hiện một cách cụ thể, rõ ràng những điều bí ẩn trong sự nghiệp đầu tư của ông. Quyển sách là một hành trình đưa bạn từ những bước đi đầu tiên đến khi đạt được thành công. Mở đầu cuốn sách giới thiệu về quá trình trưởng thành của Buffett, sau đó tiến hành phân tích triết lí đầu tư của ông; tiếp theo là cách Buffett lựa chọn cổ phiếu, phương pháp đánh giá giá trị nội tại của doanh nghiệp và phương thức đầu tư; sau đó là đưa ra năm ví dụ thực tế phân tích làm thế nào mà Buffett có thể đạt được thành công trong những vụ đầu tư của mình; cuối cùng tác giả chia sẻ với bạn đọc làm thế nào để áp dụng phương thức đầu tư của Buffett tại chính nơi mình sinh sống. Cuốn sách đi sâu lí giải các vấn đề một cách đơn giản, dễ hiểu, đồng thời sử dùng nhiều hình ảnh, bảng biểu và tư liệu minh họa cụ thể, nhằm làm rõ sách lược và triết lí đầu tư của Buffet. Do vậy, chỉ cần một thời gian ngắn, bạn cũng có thể nắm vững được giá trị của nó, biết cách làm thế nào để noi gương Buffett trong sự nghiệp đầu tư của mình, và sớm thực hiện được ước mơ trở thành người giàu có. *** BUFFETT LÀ NHÀ ĐẦU TƯ NHƯ THẾ NÀO? Đầu tư vào cổ phiếu đã kích thích ham muốn làm giàu của rất nhiều người, nhưng đồng thời nó cũng biến hóa khôn lường khiến các nhà đầu tư khó lòng ứng phó kịp. Sự đầu tư này có thể khiến bạn trở thành tỉ phú chỉ sau một đêm, và cũng có thể làm bạn trở nên tay trắng trong chốc lát. Sự biến đổi nhanh chóng của thị trường cổ phiếu thực sự làm cho các nhà đầu tư phải đau đầu. Nói đến đầu tư cổ phiếu, mọi người sẽ nghĩ ngay đến Warren Buffett - một người tài ba về đầu tư cổ phiếu đến từ Omaha - thành phố miền Tây nước Mỹ, ý tưởng và sự trải nghiệm trong đầu tư của ông được giới chứng khoán truyền tụng rộng rãi. Năm đó, Buffett khởi nghiệp với 100 đô-la. Ý tưởng đầu tư đơn giản, rõ ràng mà đầy hiệu quả đã giúp ông bắt đầu hành trình trở thành tỉ phú. Thực tế cho thấy, Buffett đã thu được những thành tựu nổi bật trong việc đầu tư cổ phiếu. Trong bảng xếp hạng những người giàu nhất thế giới, Buffett nhiều lần bị xếp ở vị trí thứ 2 sau Bill Gates của Microsoft. Năm 2007, giá trị cổ phiếu của Công ty Berkshire Hathaway mà Buffett nắm trong tay tăng mạnh, nâng giá trị tài sản của ông lên 62 tỉ đô-la, giúp Buffett đưa tên mình lên đứng đầu danh sách những tỉ phú giàu nhất thế giới năm 2008; năm 2008, nền kinh tế thế giới đi vào suy thoái, cổ phiếu giảm mạnh, cũng vì thế mà ông bị tổn thất nặng nề, giá trị tài sản cá nhân giảm xuống chỉ còn 37 tỉ đô-la, nhưng vẫn xếp vị trí thứ 2 trong bảng xếp hạng. Không có gì phải nghi ngờ về việc Buffett là nhà đầu tư vĩ đại nhất thế giới, ông nổi tiếng với khả năng nhạy bén và chiến lược đầu tư vững vàng. Trong những tỉ phú trên thế giới như Ông vua dầu mỏ - Rockefeller, Ông vua sắt thép - Carnegie hay thiên tài phần mềm máy tính - Bill Gates, thành công của họ đều nhờ vào những sản phẩm nổi tiếng hoặc phát minh vĩ đại, đằng sau đó là cả một đội ngũ kĩ thuật và dây chuyền sản xuất khổng lồ, nhưng thành công của Buffett lại chỉ đơn thuần dựa vào đầu tư, nhờ sự tìm hiểu kĩ lưỡng tình hình tài chính của các công ty có cổ phiếu niêm yết mà trở thành nhà đầu tư vĩ đại trong thế kỷ 20. Trong hành trình đầu tư mấy chục năm, cho dù cổ phiếu tăng hay giảm, dù kinh tế thịnh vượng hay suy thoái thì Buffett cũng vẫn luôn vững vàng. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ở Mỹ, lợi nhuận bình quân hàng năm của cổ phiếu là khoảng 10%, trong khi đó thu nhập bình quân hàng năm của Buffett lại hơn 20%, cao hơn mức bình quân trên thị trường. Tuy nhiên, việc đầu tư vào cổ phiếu không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, Buffett cũng hiểu điều ấy. Trong thời kì kinh tế suy thoái từ năm 1973 đến năm 1974, công ty Berkshire bị ảnh hưởng nặng nề, giá trị mỗi cổ phiếu từ 90 đô-la giảm xuống còn 40 đô-la; năm 1987 - năm khốn đốn của thị trường chứng khoán, giá trị mỗi cổ phiếu từ 4.000 đô-la giảm xuống còn 3.000 đô-la; thời kì Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1990-1991, cổ phiếu của Berkshire lại một lần nữa từ 8.900 đô-la giảm xuống còn 5.500 đô-la; thời kì năm 1998 đến 2000, giá mỗi cổ phiếu từ 80.000 đô-la giảm xuống còn 40.000 đô-la, nhưng những điều này hoàn toàn không lay chuyển được niềm tin vào việc nắm giữ cổ phiếu của Buffett. Thực tế đã chứng minh, chính sự kiên định đó đã tạo nên sự nghiệp vĩ đại của ông ngày hôm nay, cũng vì thế mà ông được mệnh danh là nhà đầu tư vĩ đại nhất trên thế giới, được tạp chí Forbes bình chọn đứng đầu danh sách "8 nhà đầu tư nổi tiếng nhất thế kỷ 20”. Sự từng trải và nhân cách của Buffett, cùng với triết lí đầu tư đơn giản mà uyên thâm của ông đã thu hút rất nhiều nhà đầu tư noi theo. Họ chẳng khác nào các tín đồ tôn giáo, hàng năm đổ xô đến Omaha để nghe Buffett thuyết trình trong Đại hội cổ đông của công ty Berkshire Hathaway, còn giới tài chính thì xem những lời nói và hành động của Buffett như những "Thánh kinh” về đầu tư và rất sùng bái nó. Sự gia tăng liên tục của lợi nhuận và phí giao dịch cùng với việc tránh phải nộp thuế sẽ giúp nhà đầu tư thu được hiệu quả. (Chú thích: Luật thuế quan của Mỹ quy định, khi vẫn chưa tạo ra được lợi nhuận thì chưa phải nộp thuế).   Mời các bạn đón đọc Sách Lược Đầu Tư Của W. Buffett của tác giả Lý Thành Tư & Hạ Dịch Ân.
Dịch Vụ Khách Hàng 5 Sao
Chào mừng các bạn đến với ấn bản thứ ba của cuốn sách Dịch vụ khách hàng 5 sao. Có thể các bạn sẽ thắc mắc, “Vì sao tôi lại viết thêm ấn bản thứ hai hay thứ ba?” Câu trả lời đơn giản thôi. Kể từ khi ấn bản đầu tiên được phát hành năm 2006, tôi chắc chắn các bạn sẽ đồng ý với tôi rằng, khách hàng của các bạn ngày càng có thêm những đòi hỏi khắt khe hơn. Các bạn cũng sẽ công nhận rằng, việc mang đến cho khách hàng những dịch vụ với chất lượng xuất sắc ngày càng trở nên áp lực. Và đây là cách tôi khắc phục những khó khăn trong việc tạo ra ấn bản thứ ba này. Bước đầu tiên, tôi đọc lại bản gốc của Dịch vụ khách hàng 5 sao, và loại bỏ tất cả những nội dung không quan trọng, không hiệu quả, hoặc đơn giản là không còn thích hợp trong thời đại này. Bước thứ hai, tôi tiếp tục nghiên cứu về việc làm thế nào để tạo ra một dịch vụ khách hàng 5 sao. Việc này khá đơn giản, bởi vì tôi luôn để ý và phát hiện những ví dụ điển hình về dịch vụ khách hàng 5 sao. Trong ấn bản thứ ba này, tôi đã viết thêm 27 chương so với ấn bản đầu tiên, với rất nhiều ý tưởng có thể giúp các bạn xây dựng nên một dịch vụ khách hàng 5 sao cho chính công ty của mình. Bước thứ ba, tôi tập trung vào việc phát triển giá trị thực tiễn của Dịch vụ khách hàng 5 sao. Cũng như tôi, các bạn sẽ đọc rất nhiều cuốn sách khác nữa, được truyền cảm hứng bởi các ý tưởng và rồi… chẳng có gì thay đổi cả. Vì vậy, tôi đã viết thêm một phần với mục đích gợi ý cho các bạn cách áp dụng những ý tưởng từ Dịch vụ khách hàng 5 sao vào chương trình đào tạo dịch vụ khách hàng cho công ty của mình. Một trong những lời phê bình về ấn bản thứ hai là kết cấu thiếu chặt chẽ. Một vài độc giả thấy phiền lòng khi nội dung giữa các chương không có sự kết nối. Mong muốn của tôi là viết một cuốn sách mà các bạn có thể đọc bất cứ khi nào, ở bất kỳ trang nào các bạn mở ra. Vì vậy, tôi đã sắp xếp nội dung trong ấn bản thứ ba của Dịch vụ khách hàng 5 sao thành bảy phần. Ấn bản lần này có cấu trúc rõ ràng hơn một chút, nhưng các bạn vẫn có thể đọc theo bất kỳ trình tự nào mình muốn. Tuy nhiên, tôi vẫn khuyên các bạn bắt đầu với phần Sao Dịch vụTM. Phần này được viết với nội dung hoàn toàn độc lập. Bây giờ, tôi sẽ giới thiệu với các bạn về bảy phần của cuốn sách: Yếu tố tâm lý học của dịch vụ Các bạn sẽ thấy một số nội dung trong phần này dường như là thường thức. Tuy nhiên, tôi đảm bảo rằng không phải tất cả các nội dung đều là như vậy. Một số kiến thức sẽ thực sự mới mẻ với các bạn, trong khi những thông tin khác đem lại cho bạn cảm giác thoải mái, tự tin khi nhận ra rằng mình đã và đang làm những điều đúng đắn. Trong ấn bản thứ ba này, tôi đã viết thêm bốn chương nữa, tất cả đều dựa trên thực tế về những sự thay đổi trong lĩnh vực dịch vụ khách hàng. Vậy, vì sao bạn lại nên dành thời gian để đọc phần này? Lý do là vì bạn không cần phải suy nghĩ, tưởng tượng quá nhiều mà vẫn có thể ngay lập tức vận dụng TẤT CẢ những kiến thức mình đọc. Kỹ nghệ cảm xúc Tất cả các độc giả của cuốn sách này đều có một vài điểm tương đồng nào đó. Các bạn cùng là con người. Khách hàng của các bạn cũng là con người. Và việc các bạn cung cấp dịch vụ cho khách hàng của mình là sự thể hiện của mối tương tác giữa con người với nhau. Và điều đó gây ra một vấn đề. Thế giới con người là một thế giới hỗn độn nhưng đầy thú vị của những sự đối lập, cái tôi nhạy cảm, tâm trạng, cảm xúc và định kiến. Nhiệm vụ của bạn là phải mang đến những dịch vụ cao cấp, chu đáo, với mục đích là để khách hàng yêu thích bạn, trung thành với dịch vụ của bạn, và xa hơn là giữ cho bạn công việc hiện tại. Phần Kỹ nghệ cảm xúc sẽ cung cấp cho bạn những ý tưởng để bạn có thể tạo một tài khoản trong ngân hàng cảm xúc của khách hàng, mà mỗi khi cần, bạn có thể rút ra và không bao giờ lo lắng về trường hợp bị rút quá hạn mức. Khơi nguồn cảm hứng cho những sự tương tác Có rất nhiều thời điểm mà bạn cần phải tương tác thật thông minh với khách hàng của mình, vì vậy nội dung của phần này sẽ được nhắc đến xuyên suốt cuốn sách. Thực tế là, rất nhiều điểm chạm trong quá trình giao tiếp của bạn sẽ khiến khách hàng cảm thấy hoặc là quá buồn tẻ, hoặc là vô cùng ấn tượng. Bạn hãy cứ làm đúng thôi, một sự giao tiếp đơn giản lại có thể trở thành một sự tương tác đầy cảm hứng. Những điều cơ bản của bộ phận bán hàng qua điện thoại Điều gì xảy ra phía sau mỗi tổ chức? Làm thế nào chúng ta có thể thực hiện những việc căn bản, thiết yếu một cách tốt hơn? Phần này trong cuốn Dịch vụ khách hàng 5 sao sẽ giúp bạn lên kế hoạch cho quy trình và đảm bảo cung cấp cho bạn những nền tảng vững chắc và cần thiết cho việc xây dựng tuyệt tác dịch vụ của mình. Bộ phận bán hàng qua điện thoại không phải là mảng đặc biệt thu hút trong kinh doanh, và làm việc ở đó không phải lúc nào cũng thú vị. Nhưng đó là một phần quan trọng trong sự vận hành, và khi nó không còn hoạt động nữa, mọi người sẽ cùng phải chịu đựng hậu quả. Những điều cơ bản của bộ phận bán hàng qua điện thoại này là những điều bắt buộc mà bất kỳ tổ chức nào hướng đến mục đích xây dựng dịch vụ 5 sao đều phải tuân thủ. Định vị những sự tiêu cực Sẽ có lúc sự cố xảy ra. Có thể bạn sẽ phá hỏng những cơ hội của mình. Dịch vụ hoàn hảo không bao giờ tồn tại. Vì vậy, thủ thuật là bạn phải tự tin, phải biết làm gì khi mọi thứ không diễn ra như mong muốn. Việc phát hiện ra những rủi ro tiềm ẩn trước khi chúng xảy ra là một việc đáng để làm, nhờ đó bạn và đội ngũ của mình sẽ có sự chuẩn bị trước. Những bài học trong sự lãnh đạo Chương này được viết không phải để dành cho sếp của bạn. Bất kỳ ai cũng có thể trở thành một nhà lãnh đạo trong dịch vụ. Sự lãnh đạo ở đây được hiểu là khả năng bạn phản ứng và khích lệ người khác học tập những hành động lãnh đạo của bạn. Kế hoạch kinh doanh chi tiết Mục đích cuối cùng của kinh doanh và cũng là mục đích của cuốn sách, đó là làm thế nào để kiếm được tiền. Kể cả những tổ chức phi lợi nhuận cũng cần nguồn thu nhập để không phải theo đuổi lợi nhuận. Vì vậy, phần Kế hoạch kinh doanh chi tiết của Dịch vụ khách hàng 5 sao sẽ mang đến một số suy nghĩ và ý tưởng giúp bạn xây dựng thương hiệu dịch vụ của mình, ứng dụng các ý tưởng vào thực tế, và tận dụng Dịch vụ khách hàng 5 sao như một nguồn tài liệu đào tạo hiệu quả cho công ty của bạn. Nhìn chung, ấn bản Dịch vụ khách hàng 5 sao lần này vô cùng thành công trong việc đưa ra những ý tưởng, câu chuyện, động lực, công cụ và phương pháp để giúp bạn làm chủ dịch vụ chất lượng 5 sao. Yêu thích dịch vụ Chúng ta ai cũng thích được tận hưởng dịch vụ 5 sao. Nó khiến bạn thấy mình thật đặc biệt, được quý mến, thậm chí là được yêu thương. Khi khách hàng của bạn có cảm giác đó, họ sẽ dễ dàng ủng hộ và tha thứ hơn. Và đó cũng chính là chìa khóa. Mọi người thường nói về những dịch vụ với chất lượng thật tuyệt vời hoặc vô cùng tồi tệ, họ hiếm khi nói về những dịch vụ tầm thường. Vì vậy, nếu bạn nghĩ “Mình không nhận được bất cứ lời phàn nàn nào”, thì bạn chắc chắn phải đọc cuốn sách này và kiểm nghiệm những ý tưởng ngay lập tức. Không nhận được bất cứ lời phàn nàn nào, không có nghĩa là dịch vụ của bạn đạt chất lượng tuyệt vời – điều đó chỉ đơn giản là khách hàng không phàn nàn với bạn mà thôi. Và bạn cứ nghĩ mà xem, điều đó khá là đáng sợ đấy. Đã bao nhiêu lần bạn không cảm thấy hài lòng với dịch vụ mà mình nhận được, nhưng thậm chí không buồn phàn nàn về nó. Chúng ta đang sống trong một thế giới với rất nhiều thay đổi, và một trong những thay đổi lớn nhất là việc khách hàng đòi hỏi ngày càng cao, và vấn đề là họ không nói cho bạn biết điều đó. Vậy, những khách hàng nào đòi hỏi dịch vụ với chất lượng cao nhất? Có hai đối tượng khách hàng chính: khách hàng bên ngoài (những người không thuộc về tổ chức của bạn) và khách hàng bên trong (những người nằm trong tổ chức của bạn). Tóm lại, bạn có thể coi khách hàng của mình là “bất kỳ ai ngoại trừ bản thân mình”. Và tất cả những con người đó đều xứng đáng được sử dụng dịch vụ chất lượng 5 sao. Vì sao chúng ta phải bận tâm đến dịch vụ chất lượng 5 sao? Dường như để cung cấp được dịch vụ chất lượng 5 sao, bạn cần phải nỗ lực vô cùng. Và bạn tự hỏi liệu điều đó có cần thiết không? Có thể khách sạn của bạn chưa đạt đến chất lượng 5 sao. Có thể đối tượng khách hàng của bạn chỉ có thu nhập tầm trung, vì vậy họ hài lòng với dịch vụ chất lượng 3 sao với giá cả 3 sao tương ứng. Có thể bạn đang làm việc trong khối sản xuất: liệu rằng dịch vụ chất lượng 5 sao có cần thiết với bạn không? Còn nếu bạn đang công tác trong lĩnh vực dịch vụ sức khỏe hay là một cơ quan nhà nước/chính phủ, bạn có cần quan tâm đến dịch vụ chất lượng 5 sao không? Câu trả lời chắc chắn là CÓ. Hơn bao giờ hết, thời điểm này là lúc bạn cần thấy được tầm quan trọng của việc học hỏi và áp dụng những phương pháp này để đạt được mục tiêu công việc, được công nhận (thăng tiến), kiếm được nhiều tiền hơn, gặt hái nhiều thành quả hơn, và hơn thế nữa là phát triển mọi khía cạnh của bản thân tốt hơn. Việc học hỏi và áp dụng những ý tưởng này không yêu cầu bạn phải đầu tư gì hoặc chỉ đầu tư chút ít, mà kết quả lại giúp bạn có một bước tiến vượt hơn hẳn đối thủ, vậy tại sao bạn lại không muốn làm một điều gì đó khiến những khách hàng hiện tại cảm thấy thú vị, ấn tượng và muốn tiếp tục ở lại với dịch vụ của bạn, đồng thời lại có thêm cơ hội thu hút thêm những khách hàng mới? Đã bao giờ bạn trải qua tình huống có quá nhiều khách hàng để phục vụ chưa? Đó thật sự là một vấn đề đáng ngạc nhiên khi có nhiều khách hàng hài lòng với dịch vụ của bạn đến nỗi bạn phải mở rộng kinh doanh hoặc tăng giá dịch vụ. Con đường đơn giản để đạt được kết quả 5 sao Vậy làm thế nào để bạn làm được những điều nói trên? Cuốn sách này rất dễ đọc. Tôi là một người rất đơn giản và tin vào những hình mẫu đơn giản, bởi tôi có niềm tin vào những việc làm đơn giản. Trong quá trình nghiên cứu để viết ấn bản đầu tiên của Dịch vụ khách hàng 5 sao, tôi đã gặp một nhà nghiên cứu, người đã dành ba năm để tìm hiểu về một lĩnh vực rất cụ thể của mảng dịch vụ khách hàng và tác động của nó lên một khu vực cụ thể. Sau ba năm, anh ấy đã hoàn thành đề án nghiên cứu với rất nhiều số liệu chi tiết, những đồ thị xuất sắc và biểu đồ đặc biệt. Nhưng vấn đề là: những người đã trả anh ấy rất nhiều tiền lại không sử dụng bất kỳ một ý tưởng nào từ nghiên cứu này. Anh ấy biết câu trả lời, anh ấy có dẫn chứng, nhưng những điều đó không giúp họ biết được mình cần phải làm gì. Suy nghĩ của tôi hơi khác một chút – nếu bạn không thể nắm bắt được một ý tưởng, hãy ngay lập tức áp dụng vào thực tế và trải nghiệm những lợi ích nó mang lại, như vậy ý tưởng đó sẽ không chỉ nằm lại trong cuốn sách này. Tôi đã đưa vào ấn bản này những ý tưởng đơn giản đến mức bạn có thể thắc mắc tại sao tôi lại dành thời gian viết chúng vào đây. Để trả lời cho thắc mắc đó, phiền bạn nghĩ lại xem mình có thường xuyên được trải nghiệm những ý tưởng dịch vụ đơn giản này không. Tôi thường nhận được những lời nhận xét như “Ý tưởng mà anh nói đến, tôi đã biết rồi.” Câu trả lời của tôi lúc nào cũng vậy: “Thật tuyệt là anh biết – nhưng anh có thực hiện nó không?” Bí quyết không nằm ở điều bạn biết, mà là việc bạn làm. Giá trị của cuốn sách này sẽ được xác nhận khi chúng ta không chỉ dừng lại ở việc thu thập kiến thức, mà biến những kiến thức đó thành hành động thực tế. Tuy nhiên, bạn cũng phải lưu ý về việc chỉ chọn lọc những ý tưởng đơn giản và gạt những ý tưởng khác vào danh sách “quá khó”. Bạn hãy mỉm cười, nói “Vui lòng” và “Cảm ơn”, và nhớ rằng bạn sẽ thất bại nếu như hệ thống của bạn không tiếp cận theo hướng dịch vụ 5 sao. Một thiết kế tuyệt vời sẽ luôn tuyệt vời, còn một dịch vụ cá nhân tuyệt vời sẽ chỉ tồn tại khi bạn không ngừng quan tâm đến nó. Làm thế nào để bạn học hỏi được nhiều nhất từ cuốn sách này? Bạn có thể hình dung rằng, việc viết một cuốn sách với mục đích thu hút người đọc từ những lĩnh vực khác nhau như thế này, thực sự là một thử thách. Khi bắt đầu kết nối những ý tưởng lại với nhau, bản thân tôi đã nhận thấy một vấn đề là, một số ý tưởng, ví dụ như câu chuyện từ một nhà hàng có thể sẽ không phù hợp với những người làm việc văn phòng. Tôi đã dành rất nhiều thời gian vào việc tinh chỉnh các ý tưởng sao cho hữu dụng với tất cả độc giả, cho đến khi một người bạn của tôi, sau khi đọc những chương đầu tiên, nhận xét: “Tôi có thể áp dụng tất cả những ý tưởng đó.” Cô ấy là hiệu trưởng một trường tiểu học. Điểm mấu chốt ở đây là: nếu suy nghĩ một cách “khác biệt”, bạn sẽ đọc ví dụ của một khách sạn và nghĩ rằng: “Vì mình không làm việc trong môi trường khách sạn nên ví dụ này không có giá trị gì với mình.” Hơn thế đó, bạn sẽ trở nên sáng tạo và tự hỏi: “Liệu mình sẽ áp dụng ví dụ này như thế nào nhỉ?” Cách suy nghĩ đó sẽ giúp bạn tận dụng được nhiều nhất những ý tưởng từ cuốn sách này. Bạn sẽ thấy một vài chương sách chỉ có độ dài bằng một vài đoạn văn – đừng đánh giá giá trị của ý tưởng qua độ dài câu chữ. Một vài trong số những đoạn văn đó chứa đựng những ý tưởng xuất sắc nhất về dịch vụ chất lượng 5 sao, và nếu các bạn muốn dịch vụ của mình được ghi nhận, nhớ đến và được giới thiệu, đó phải là những ý tưởng có thể áp dụng ngay tức thì. Liệu dịch vụ chất lượng 5 sao chỉ có thể đạt được khi cả đội ngũ cùng đồng lòng? Thử tưởng tượng rằng bạn đã đọc cuốn sách này và áp dụng những ý tưởng trong đó, nhưng mọi người xung quanh lại nghĩ rằng, khái niệm dịch vụ chất lượng 5 sao chỉ tồn tại trong những khách sạn sang trọng hoặc trên những chuyến bay hạng nhất. Bạn không nên bận tâm về việc bạn là người duy nhất tìm kiếm phép màu dịch vụ 5 sao. Bạn là người quan trọng nhất trên thế giới này, và những giá trị bản thân cuối cùng sẽ tạo ra sự khác biệt về việc bạn thực hiện theo những tiêu chuẩn 5 sao tốt như thế nào. Biết rằng mình đã làm mọi việc có thể để tạo ra dịch vụ chất lượng 5 sao, bạn sẽ có thể ngẩng cao đầu, tự tin rằng mình đã làm điều đúng đắn. Bạn thấy không hài lòng nếu chỉ hoàn thành công việc ở mức “tốt”, và có tham vọng đạt những kết quả xuất sắc hơn nữa. Không phải lúc nào bạn cũng biết được mức độ hài lòng của khách hàng khi mang đến cho họ những dịch vụ với chất lượng tốt hơn, lý do đơn giản là họ hiếm khi đưa ra lời khen, cũng như họ thường không phàn nàn. Nhưng bạn sẽ nhận ra rằng bạn đã tạo ra một sự khác biệt. Điều đó cũng sẽ tạo nên sự khác biệt trong mức độ bạn hài lòng về công việc của mình, cũng như sự nghiệp tương lai của bạn. Trong cuốn sách này, tôi cũng đưa ra một số bài tập cần đến sự hợp tác của 3-4 người. Tuy nhiên, bạn cũng có thể tự nghiên cứu một ý tưởng và trở thành người tiên phong trong lĩnh vực dịch vụ. Bạn có thể đọc cuốn sách một cách tuần tự, hoặc có thể chọn bất kỳ một ý tưởng mỗi ngày. Sự lựa chọn là của bạn. Rất nhiều tổ chức đã gặt hái được thành công bằng việc đầu tư vài cuốn sách cho một nhóm nhân viên và sử dụng Dịch vụ khách hàng 5 sao để bắt đầu các cuộc thảo luận hoặc dùng làm tài liệu đào tạo. Tôi có thể tự tin khẳng định rằng phần lớn các câu chuyện được kể trong cuốn sách này là có thật, vì đó là những gì đã xảy ra với tôi. Những câu chuyện còn lại đã được tôi kiểm chứng, và nếu có sự chứng nhận nào từ những người đã kể chuyện cho tôi, tôi cũng sẽ ghi chú vào đây vì sự nhiệt tình của họ. Hãy tưởng tượng câu chuyện của bạn là một trong số đó, bạn sẽ kỳ vọng mọi người nhận xét gì về mình? Sẽ thật tuyệt khi họ nhận xét theo cách khiến bạn cảm thấy mình được coi trọng, phải không? Điều đó sẽ tạo động lực khiến bạn muốn làm đi làm lại việc đáng tự hào đó. Dịch vụ khách hàng 5 sao được thiết kế để giúp bạn trở thành chuyên gia và sáng tạo nên những khoảnh khắc kỳ diệu, khiến cho dịch vụ của mình được công nhận, nhớ đến và giới thiệu. Những người nắm bắt và áp dụng Dịch vụ khách hàng 5 sao đều đi một con đường khác với những người không đọc và không áp dụng. Vì vậy, các bạn hãy đọc cuốn sách này và nhớ một điều rằng: Khi bạn đã đọc, đừng chỉ để tích lũy kiến thức – hãy áp dụng những kiến thức đó! Mời các bạn đón đọc Dịch Vụ Khách Hàng 5 Sao của tác giả Michael Heppell.
Warren Buffett: 22 Thương Vụ Đầu Tiên Và Bài Học Đắt Giá Từ Những Sai Lầm
Khi nhắc đến Warren Edward Buffett, chúng ta đều biết ông là một trong những nhà đầu tư thành công nhất trên thế giới, được tạp chí Forbes xếp vị trí người giàu thứ hai trên thế giới sau Bill Gates. Không chỉ dừng lại ở đó, ông còn rất nổi tiếng với sự kiên định trong triết lý đầu tư theo giá trị cũng như lối sống tiết kiệm dù sở hữu khối tài sản khổng lổ. Nhưng có một điều không phải ai cũng biết, trên con đường trở nên thành công và giàu có, Warren Buffett cũng mắc rất nhiều sai lầm. Với phong cách kể chuyện chân thực và chi tiết, Nhà đầu tư, Giáo sư Glen Arnold đi sâu tìm hiểu phương pháp luận cùa Buffett qua 22 thương vụ đầu tư đầu tiên. Ông tập trung phân tích cách Warren trẻ tuổi học hỏi từ những sai lầm, biến bại thành thắng và trở thành triệu phú ở tuổi 32. Cuối mỗi chương là những bài học đúc kết về nghệ thuật đầu tư của Warren Buffett, hãy học hỏi từ một doanh nhân bậc thầy để có được những quyết định đầu tư sáng suốt. *** Lời nói đầu của Lawrence Cunningham Bắt đầu với số tiền tiết kiệm 120 đô từ khi còn là một đứa trẻ 11 tuổi vào năm 1941, nhà đầu tư vĩ đại nhất thế giới, Warren Buffett, đã tốn khoảng bốn thập kỷ để kiếm được 100 triệu đô la đầu tiên. Cuốn sách này dõi theo các thương vụ ông đã thực hiện trong 37 năm, lý giải nguyên nhân đằng sau mỗi khoản đầu tư quan trọng và cho ta thấy cách ông đã tích lũy tài sản từ khi bắt đầu sự nghiệp của mình. Không hiểu biết về đầu tư cổ phiếu ngay từ đầu, Buffett đã phải phát triển triết lý đầu tư của mình, và học hỏi thông qua những thành công cũng như thất bại trong việc lựa chọn các công ty có giá trị. Cuốn sách nói về việc triết lý đầu tư của Buffett đã được phát triển như thế nào và điều đó đã mang đến bài học gì cho các nhà đầu tư ngày nay? Không phải mọi chuyện đều xuôi chèo mát mái với Buffett, đã có rất nhiều sai lầm trên đường đi. Có những giai đoạn dài của sự thất vọng trộn lẫn với thành công. Việc trên thực tế Buffett cũng từng sai lầm giúp trấn an các nhà đầu tư khác. Thật an ủi khi biết rằng một người cuối cùng làm nên hàng tỷ đô cũng từng hay mắc lỗi. Nó giúp chúng ta kiên cường trước những thất bại của chính mình. Sai lầm lớn nhất của tất cả chúng ta là mặc định rằng các nhà đầu tư phải luôn hoàn hảo. Về mặt tâm lý, các nhà đầu tư phải chuẩn bị cho rất nhiều những cú ngoặt, những cú đánh sai, để rồi phản công lại. Và sẽ luôn hữu ích khi nhớ rằng chúng ta có thể học hỏi từ những sai lầm của người khác cũng như của chính chúng ta; còn ai tốt hơn để học hỏi ngoài Buffett và nhận định của ông về những sai lầm của chính mình? Trọng tâm của cuốn sách này là để phân tích các giao dịch đầu tư, bởi thế tôi ít chú tâm đến cuộc sống cá nhân của Buffett. Nếu bạn đang tìm kiếm một cuốn tự truyện, cuốn sách này không dành cho bạn. Tuy nhiên, nếu bạn muốn trở thành một nhà đầu tư giỏi hơn và muốn tìm hiểu cách làm thế nào một người có thể kiếm được một khoản tiền lớn bằng cách tuân theo các nguyên tắc đầu tư đúng đắn, thì bạn hãy đọc tiếp. Đối tượng của cuốn sách này Cuốn sách này dành cho các nhà đầu tư muốn học hỏi, hoặc cần được nhắc nhở để luôn ghi nhớ trong đầu các quy tắc quan trọng phục vụ đầu tư thành công. Quá trình học hỏi được thiết lập trong khuôn khổ của một loạt nghiên cứu hấp dẫn về các giao dịch đầu tư của Warren Buffett. Cuốn sách này được cấu trúc như thế nào Cuốn sách này theo đuổi hành trình chinh phục 100 triệu đô la đầu tiên của Buffett. Chúng tôi bắt đầu với thương vụ đầu tư vào thị trường chứng khoán đầu tiên của Buffett khi ông còn là một cậu bé và xem xét lại lịch sử của 22 trong tổng số các khoản đầu tư của ông. Phần 2 được sắp xếp như một loạt các chương tập trung lần lượt vào các giao dịch này. Bạn có thể lướt qua và đọc riêng lẻ các giao dịch bạn đặc biệt quan tâm nếu muốn, nhưng trước tiên tôi khuyến khích bạn đọc theo thứ tự thời gian để thấu hiểu Buffett đã phát triển với tư cách một nhà đầu tư như thế nào. Mỗi câu chuyện trong cuộc hành trình đều có những bài học hữu ích cho chúng ta hôm nay. Tôi sẽ không mô tả toàn bộ các khoản đầu tư Buffett thực hiện trong 37 năm - điều đó sẽ khiến cuốn sách này trở nên quá dài. Chỉ có những nghiên cứu điển hình để lại tác động lớn nhất lên sự giàu có của Buffett và triết lý của ông mới được chọn để phân tích. Trước khi tôi bắt đầu đi vào xem xét một loạt các giao dịch, Phần 1 bao gồm hai chương giới thiệu rất quan trọng giúp đảm bảo cho bạn đọc thu được nhiều giá trị nhất từ cuốn sách này. Chương đầu cung cấp một bản tóm tắt ngắn gọn các thỏa thuận đầu tư được đề cập đến trong Phần 2. Trong chương thứ hai, tôi nghiên cứu về việc Benjamin Graham đã ảnh hưởng đến triết lý đầu tư của Buffett như thế nào. Một lưu ý về các chữ viết tắt thông dụng: Tôi sử dụng chữ viết tắt BPL để chỉ Buffett Partnership Ltd. - Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Hợp tác Buffet, vốn là công ty hợp tác đầu tư của Warren Buffett trong giai đoạn đầu của sự nghiệp. Trong quá trình nghiên cứu và viết cuốn sách này, tôi đã đọc rất nhiều lá thư Buffett viết cho các đối tác của mình trong BPL. Những lá thư này có sẵn trên mạng internet. Tôi cũng sử dụng BH để viết tắt cho Berkshire Hathaway. *** Những điều cuốn sách này chia sẻ Cuốn sách được khởi nguồn từ cách đây khoảng bốn năm khi tôi quyết định ngừng các hoạt động khác để cho phép bản thân tập trung đầy đủ vào đầu tư thị trường chứng khoán. Điều này có nghĩa là từ bỏ nhiệm kỳ giáo sư, ngừng việc giảng dạy đang mang lại tài chính cho tôi ở thành phố London và, mỉa mai thay, rút hẳn về phía sau để viết sách. Là một phần của quá trình đầu tư toàn thời gian mới, để tạo ra một bản ghi nhớ về quá trình logic tôi đã trải qua để lựa chọn các cổ phần, tôi đã viết những bài blog ngắn đưa ra phân tích của mình trên một trang web miễn phí đơn giản. Tôi cảm thấy thật xúc động khi buộc phải thể hiện rõ ràng và công khai những lý do tại sao tôi đã phân bổ vốn một cách cụ thể như vậy. Và bên cạnh đó, trí nhớ của tôi tệ đến nỗi tôi cần một cách để vài tháng sau nhớ lại lý do mình đã thực hiện những khoản đầu tư đó. Sau này, tôi đã được trang web đầu tư ADVFN mời viết bài trên trang bản tin của họ. Tôi chấp nhận và một phần những gì tôi viết đã trở thành một loạt các bài viết về các giao dịch đầu tư của Warren Buffett. Cuốn sách này được tạo nên từ những bài viết đó. Câu hỏi “Tại sao?” Bạn có thể nghĩ rằng Buffett đã được quá nhiều người khai thác và chẳng còn gì mới để nói nữa, nhưng khi đọc những tư liệu đó, tôi đọng lại một cảm giác không thoả mãn. Nhiều tác giả viết về Buffett tập trung vào việc ông đầu tư cái gì và kiếm được bao nhiêu từ những khoản đầu tư đó. Nhưng tôi muốn biết tại sao. Những điểm đặc biệt nào của các công ty Buffett chọn đã khiến chúng trở nên nổi bật? Có phải khác biệt nằm ở những con số trong bảng cân đối kế toán, lịch sử lợi nhuận, chiến lược định vị hay trong những phẩm chất quản lý? Tôi muốn biết chi tiết. Làm thế nào để Buffett đi từ bước này sang bước khác, từ việc gần như không có đồng nào để trở nên vô cùng giàu có? Đối với mỗi bước tiến chính của ông, tôi luôn cố gắng hiểu sâu hơn dưới góc độ tại sao. Đối với mỗi khoản đầu tư, việc này đòi hỏi một sự điều tra từ đầu và việc sử dụng nhiều nguồn thông tin khác nhau. Ưu tiên của tôi là tập trung vào các tài liệu phân tích về các công ty mà Buffett đã lựa chọn và tôi không dành nhiều thời gian cho cuộc sống cá nhân của Buffett, điều vốn đã được đề cập ở những cuốn khác. Bởi lẽ đó, bạn sẽ không tìm thấy nhiều về cuộc sống cá nhân của Buffett trong cuốn sách này. Có hàng chục thỏa thuận đầu tư quan trọng cần được nhắc đến và mỗi thương vụ đều cần một phân tích đầy đủ. Sẽ thật không công bằng nếu chúng bị nhồi nhét vào trong một cuốn sách và vì vậy, tôi nghĩ việc cuốn sách dừng lại tại thời điểm Buffett đạt được mốc quan trọng 100 triệu đô giá trị tài sản ròng, khi ông hợp nhất tất cả các khoản đầu tư vào một công ty cổ phần mang tên Berkshire Hathaway là đúng đắn. Ông làm việc này vào năm 1978, ở độ tuổi 48, và đó là nơi cuốn sách đầu tiên trong loạt sách này kết thúc. Mối liên kết với Buffett Tôi đã được mở mang tầm mắt trước sự phong phú về mặt ý tưởng của Buffett nhiều năm trước đây. Một cách tự nhiên, tôi đã trở thành một cổ đông của Berkshire Hathaway, và thường xuyên tới thăm Omaha trong Đại hội đồng cổ đông của Berkshire Hathaway. Giai thoại yêu thích từ các chuyến viếng thăm Omaha là khi tôi, chỉ mình tôi, đã buộc Buffett phải bỏ ra 40 tỷ đô la. Bạn có thể nghĩ rằng Buffett là một người rất mạnh mẽ và không dễ bị ảnh hưởng chỉ bởi một vị khách người Anh. Nhưng tôi biết những điều khác nữa - và tôi biết mình đã đúng! Việc này xảy ra vào năm 2006 khi Bill Gates (tôi đang nhắc đến cái tên này một cách nghiêm túc đấy) đang ngồi cùng Buffett. Gates là bạn thân của Buffett, đồng thời cũng là giám đốc của Berkshire Hathaway. Tôi cảm ơn Gates vì những việc tuyệt vời mà ông và Melinda - vợ ông đã làm với Tổ chức của họ - tôi đã rất xúc động, có lẽ là hơi quá một chút. Rồi tôi quay sang Buffett, người đang đứng ngay cạnh lắng nghe và nói: “Cảm ơn ông vì tất cả những gì ông đang làm cho cổ đông của Berkshire Hathaway." Tôi không biết tại sao, nhưng giọng nói của tôi có vẻ không hứng khởi về những thành tựu của Buffett như cách tôi đã nói về những nỗ lực của Gates. Bạn có tin không? Chỉ vài tuần sau đó, Buffett đã thông báo rằng ông sẽ chuyển giao cho Quỹ Bill và Melinda Gates phần lớn tài sản của mình, để được sử dụng cho các mục đích từ thiện trên khắp thế giới. Rõ ràng, Buffett đã suy nghĩ sâu sắc về lý do tại sao gã người Anh này lại chẳng mấy ấn tượng bởi Berkshire Hathaway, di sản của ông so với Quỹ Gates, kiến tạo của bạn ông. Ông ấy đã hành động vì điều đó. Đó là của câu chuyện của tôi và tôi sẽ nhất quyết tin vào nó đến ngày tôi chết! Tôi hy vọng bạn sẽ đọc một cách thích thú câu chuyện về cách Buffett đạt được 100 triệu đô la đầu tiên. Glen Arnold, Mùa hè năm 2017 Mời các bạn đón đọc Warren Buffett: 22 Thương Vụ Đầu Tiên Và Bài Học Đắt Giá Từ Những Sai Lầm của tác giả Glen Arnold.