Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cô Dâu Đen

Cô Dâu Đen (The Bride Wore Black) được xuất bản lần đầu năm 1940, là mốc son trong sự nghiệp cầm bút của Cornell Woolrich, khởi đầu cho danh tiếng tác giả “trinh thám đen” bậc thầy. Câu chuyện xoay quanh một phụ nữ xinh đẹp và bí ẩn ra tay mưu sát những đàn ông theo nhiều cách thức. Đâu đó trong thành phố, một gã đàn ông trước đấy hãy còn cảm thán về tương lai tươi sáng của mình thì ngay sau đó, cuộc đời gã kết thúc trong bi thảm. Bỏ lại kẻ xấu số sau lưng, CÔ DÂU ĐEN tiếp tục hành trình trả thù đẫm máu của mình, vẫn còn những cái tên phải gạch bỏ, vẫn còn những kẻ thù cần trừng phạt. Woolrich đưa nội tâm nhạy cảm và xu hướng bi quan của chính mình vào trong tác phẩm. Đêm đen, bóng tối và cái chết bao trùm khắp câu chuyện tạo nên không khí bất an và hồi hộp. Những câu văn mềm mại dẫn lối câu chuyện đến một kết cục đầy ngỡ ngàng. Phải chăng mọi sai lầm đều có thể sửa chữa và những mối hận thù có thể hoàn trả đầy đủ? *** Review Nguyễn Ngoc Nam: Cô Dâu Đen thuộc thể loại trinh thám đen, một thể loại mà lần đầu tiên tôi đọc, với bố cục sách khá là vừa tầm và dung lượng sách không quá nhiều thì việc ngốn nó trong khoảng thời gian ngắn là điều dễ dàng. Câu truyện bắt đầu bằng cái chết của nạn nhân đầu tiên khi anh ta đang trong một buổi tiệc với người vợ tương lai của mình. Tiếp theo đó là hàng loạt những cái chết đầy bí ẩn của những người đàn ông khác. Điểm chung của những vụ án mày mà đều liên quan đến một người phụ nữ xinh đẹp mặc đồ đen. Tác giả đã xây dựng nên hình ảnh hung thủ thực sự thú vị với sự biến hóa ngoại hình tài tình, cách nói chuyện đầy mê hoặc, quyến rũ. Nó tạo cho người đọc cảm giác chân thực đến nỗi nếu đặt chính tôi vào vị trí các nạn nhân thì có lẽ tôi sẽ cùng chung số phận với họ. Xuyên suốt quá trình đọc tôi thấy ấn tượng với cái chất hài mà tác giả mang lại, 1 cái hài rất đặc trưng của nền văn học thế kỷ trước. Điều làm nên sức cuốn hút, điểm nhấn, giá trị cho toàn bộ tác phẩm chính là cái cách mà hung thủ tiếp cận con mồi của mình: Công phu - Kiên nhẫn - Tàn độc. Như cách mà phụ nữ trừng phạt những kẻ làm tổn thương mình vậy. Và điều cuối cùng mà tôi muốn nói chính là truyện có nhiều lỗi chính tả và đánh máy làm người đọc cảm thấy khó chịu. Nxb và đv phát hành cần phải xem xét lại vấn đề này cho những tác phẩm xb tiếp theo. Qua truyện này tôi rút ra 6 điều: Thứ nhất, nấm đẹp là nấm độc. Đừng để nhan sắc đàn bà giết chết sự kiêu hãnh của người đàn ông. Thứ hai, đ' có cái gì là tự nhiên cả, tất cả đều có nguyên do của nó. Thứ ba, phụ nữ là những diễn viên xuất sắc. Thứ tư, đừng bao giờ chọc điên hay gây thù với phụ nữ vì bạn không biết họ sẽ làm gì sau đấy đâu ???? Thứ năm, phụ nữ là những người giỏi chịu đựng và rất chung thủy một khi đã yêu thật sự. Thứ sáu, trái tim của người phụ nữ thật sự rất mong manh. *** Cornell Woolrich (1903-1968) - cha đẻ của tiểu thuyết trinh thám đen, bậc thầy của sự hồi hộp. Với cách kể và dẫn dắt đầy lôi cuốn, mỗi tác phẩm của ông không hẳn là cuộc kiếm tìm chân dung kẻ sát nhân mà còn đưa lên sân khấu những nghịch lý về sự thật bị che giấu và những bất ngờ không đoán trước. Cornell Woolrich được coi là một trong những nhà văn có sức ảnh hưởng lớn, đưa thể loại truyện noir fiction (tiểu thuyết đen) đến đỉnh cao của sự thành công. Ông cũng là tác giả trinh thám có số lượng truyện chuyển thể thành phim nhiều nhất thế giới, trên trang IMDB có tới 103 bộ phim được ghi tên ông. Những bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết của Woolrich thường trở thành đề tài nghiên cứu sáng giá liên quan đến “kỷ nguyên của thể loại phim noir”. Tấn công, hoang tưởng, mối đe dọa, cái chết, là những chủ đề xuyên suốt trong tác phẩm của Woolrich. Ngoài ra, khi nói đến tiểu thuyết của tác giả này, hình tượng người phụ nữ với “tính nữ” cũng là một nét tiêu biểu. Trong truyện của ông có những nỗi sợ hãi chẳng rõ ràng, cảm giác luôn bị đe dọa. Các nhân vật thì luôn trong một cuộc chạy đua với thời gian. Theo đó là những nỗi tuyệt vọng ngày càng lấp đầy. Điều đặc biệt trong truyện của Woolrich chính là những “anh hùng” thường là nạn nhân, bị buộc tội về tội ác mà họ không thực hiện, hoặc phạm tội vì những đau buồn, tuyệt vọng và bất công trong cuộc sống. Thế giới Woolrich tạo ra giống như một mê cung, đánh lạc hướng suy luận của người đọc. Tác giả đặt ra những “cái bẫy” cho các nhân vật chính không may mắn của mình và sau đó chờ đợi nhân vật chính sa vào bẫy và độc giả bị đánh lừa. Đầu tiên là tính bất khả thi. Tính “không thể” được sử dụng Woolrich làm cho tình huống trở nên khó hiểu hơn, che giấu sự thật đằng sau. Dường như, trong các tác phẩm của Woolrich các nhân vật ban đầu bao giờ cũng khởi điểm từ tình yêu, sự chung thủy, từ những điều tốt đẹp nhưng sau đó, bởi vì sự "tham lam" mà dần dần đánh mất đi bản ngã của chính bản thân mình. Kết hợp với đó, yếu tố bạo lực cũng được áp dụng triệt để để mang đến cảm xúc mãnh liệt cho người đọc. Với sự khai phá mới cho tiểu thuyết trinh thám, Cornell Woolrich đã cung cấp những ẩn dụ về sinh mệnh con người thật rẻ mạt, cái thứ đạo đức trắng đen lẫn lộn. Bằng lối kể hấp dẫn, luôn giấu kín sự thật, mỗi tác phẩm của ông luôn làm người xem phải tò mò. Ở Việt Nam, nhiều truyện ngắn của Cornell Woolrich đã được dịch và đăng trên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay vào cuối thập niên 1990, Cô Dâu Đen (The Bride Wore Black) được xuất bản năm 2018. Tác phẩm: Cô Dâu Đen Người Đàn Bà Trong Đêm Hạn Chót Lúc Bình Minh Điểm Hẹn Đen Đêm Ngàn Mắt Kết Hôn Với Người Chết Theo Em Vào Bóng Đêm Ám Ảnh Đen ... *** “Julie, Julie ơi!” Tiếng gọi bám theo người phụ nữ suốt bốn đợt cầu thang. Tiếng gọi đó là âm thanh mềm mại nhất mà cũng mạnh mẽ nhất mà đôi môi có thể phát ra được. Nhưng nó không khiến cô do dự, không ngập ngừng một bước. Khuôn mặt cô chỉ trắng bệch khi bước ra đón ánh mặt trời, chỉ thế thôi. Có một thiếu nữ đứng cạnh vali đợi cô ở cửa, dường như không tin vào mắt mình khi thấy cô bước tới, lòng phân vân không biết cô lấy đâu ra sức mạnh để vượt qua chuyện đó. Cô như đọc được suy nghĩ này, liền trả lời câu hỏi chưa thốt ra, “Mình từ biệt họ chẳng dễ dàng gì, họ cũng vậy. Có điều mình đã quen rồi, còn họ thì chưa. Mình đã có nhiều đêm dài khiến bản thân cứng rắn, còn họ mới chỉ một lần. Mình đã trải qua cả nghìn lần rồi.” Không hề đổi ngữ điệu, cô nói tiếp, “Bắt taxi thôi, có một chiếc đằng kia!” Người thiếu nữ nhìn cô dò hỏi khi chiếc xe chạy tới. “Ừ, cậu muốn thì tiễn mình cũng được. Bác tài, tới ga trung tâm nhé.” Cô không ngoái nhìn ngôi nhà, không ngoái nhìn con phố đang lùi dần phía sau. Cô cũng chẳng nhìn ra những con phố thân quen kế tiếp vốn là biểu trưng cho thành phố này, nơi cô lớn lên và trưởng thành. Ở quầy vé, họ phải chờ vì có người đã đến trước. Người thiếu nữ đứng bơ vơ một bên. “Cậu định đi đâu?” “Cũng chưa biết nữa. Mình chưa tính toán được gì cả.” Cô mở túi xách tay, chia cuộn tiền nhỏ làm hai phần không đều nhau, cầm lấy phần nhỏ hơn. Cô bước tới cửa bán vé, đẩy tiền vào. “Chỗ này đủ cho tôi đi bao xa, chuyến trong ngày ấy?” “Ngần này đủ cho cô đến Chicago. Còn thừa chín mươi xu.” “Thế thì cho tôi vé một chiều.” Cô quay lại với người thiếu nữ. “Giờ cậu về nói với họ như vậy nhé.” “Nếu cậu không muốn thì mình sẽ không tiết lộ đâu, Julie à.” “Có sao đâu. Tên của một nơi nào đó có quan trọng gì khi mình một đi không trở lại?” Hai người ngồi trong phòng chờ một lúc, rồi đi xuống phía đường tàu, đứng ở cửa ra chờ tiếp. “Hôn tạm biệt nào, như bọn mình thường làm hồi bé ấy.” Môi họ chạm nhẹ. “Đúng rồi.” “Julie ơi, mình biết nói gì bây giờ?” “Cứ nói ‘vĩnh biệt’ thôi. Trong cuộc đời này, người ta còn gì để nói với nhau nữa cơ chứ?” “Julie yêu quý, mình hi vọng sẽ sớm gặp lại cậu.” “Không bao giờ đâu.”   Sân ga lướt về phía sau. Con tàu lao qua một hầm dài rồi lại ngoi lên trong ánh nắng, lăn bánh trên những trụ cầu cao ngang với tầng trên của những tòa chung cư, những con phố lướt qua như những khe hẹp trên hàng rào. Đoàn tàu chạy chậm lại trước cả khi nó đạt vận tốc tối đa. “Phố Hai Lăm”, tiếng người soát vé vang trong toa. Người phụ nữ quyết tâm ra đi này với lấy chiếc vali, đứng lên, bước giữa hai hàng ghế như thể đây là trạm cuối của hành trình chứ không phải điểm khởi đầu. Cô đứng chờ sẵn ở cửa khi tàu dừng. Cô bước ra ngoài, đi dọc sân ga tới cổng, men theo cầu thang ra phố. Cô mua một tờ báo ở quầy tại phòng chờ, chọn một cái ghế ngồi xuống, lật trang cuối ra xem phần rao vặt. Cô cuộn tờ báo lại cho vừa rồi lấy ngón tay dò theo cột có tựa Phòng đủ tiện nghi. Ngón tay dừng ngẫu nhiên ở một cái tên mà cô chả buồn để ý xem những tiện nghi kèm theo là gì. Móng tay cô bấm sâu vào giấy để đánh dấu vị trí. Cô kẹp tờ báo vào nách, nhấc va li rồi ra ngoài gọi taxi. “Đưa tôi tới chỗ này. Đây.” Cô đưa tờ báo cho tài xế.   Bà chủ nhà lặng lẽ đứng chờ cô quyết định, cửa phòng vẫn mở. Cô quay lại nói với bà ta. “Tôi thấy chỗ này phù hợp rồi. Tôi sẽ trả tiền ngay cho hai tuần đầu.” Bà chủ nhà đếm tiền xong mới viết giấy biên nhận. “Cô tên gì?” Bà ta ngước lên hỏi. Mời các bạn đón đọc Cô Dâu Đen của tác giả Cornell Woolrich.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Không Có Gì Mãi Mãi - Sidney Sheldon.
Sách Nói Không Có Gì Mãi Mãi   Câu chuyện là cuộc đời của 3 nữ bác sỹ trẻ cùng làm việc tại một bệnh viện lớn ở San Fancisco, và khát vọng mãnh liệt của họ... Nữ bác sĩ Paige Taylor. Cô đã thề đó là cái chết không đau đớn, nhưng khi Paige được thừa hưởng một triệu đô la từ một bệnh nhân, thẩm phán gọi đó là một vụ giết người. Bác sĩ Kat Hunter. Cô đã thề không bao giờ để cho người đàn ông nào lại quá gần mình - cho đến khi cô chấp nhận thách thức một vụ cá cược chết người. Bác sĩ Honey Taft. Để làm việc trong y khoa, cô biết mình sẽ cần một cái gì đó còn hơn cả là người giỏi nhất mà Chúa Trời đã cho cô. “Không có gì mãi mãi” chạy đua từ những quyết định sống còn của một bệnh viện lớn ở San Francisco cho đến sự nóng hổi đầy căng thẳng của một phiên tòa xét xử vụ giết người. Nó sắp đặt những tham vọng và nỗi sợ hãi của những người chữa bệnh và những kẻ giết người, lòng ti tiện và sự hào hiệp của kẻ phản bội và những người yêu nhau… Khi câu chuyện lên đến cao trào, hướng tới đỉnh điểm không thể đoán trước, Sidney Sheldon lại một lần nữa chứng minh rằng không độc giả nào có thể thắng được một bậc thầy của sự kiện bất ngờ. *** Sidney Sheldon, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết thuộc hàng Best-selling được người đọc Việt Nam yêu thích như "Nếu còn có ngày mai", “Âm mưu ngày tận thế”, "Thiên thần nổi giận"... Warren Cowan, một trong những cố vấn của Sheldon cho biết nhà văn từ trần vào chiều ngày 30/12 tại Bệnh viện Eisenhower ở Rancho Mirage (Mỹ) vì bệnh viêm phổi. Vợ ông, bà Alexandra, con gái Mary Sheldon đồng thời cũng là một nhà văn, đã có mặt bên cạnh Sheldon trong lúc lâm chung. Cowan xúc động nói: “Tôi đã mất một người bạn lâu năm và thân thiết nhất. Trong suốt những năm tháng được làm việc cùng Sheldon, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai đó nói một từ không hay về ông”. Sidney Sheldon từng có thời gian làm việc tại Hollywood và là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa và phim truyền hình nổi tiếng. Tuy nhiên, bước sang 50 tuổi, tức là vào khoảng những năm 1967, ông lại chuyển sang viết tiểu thuyết và nổi tiếng với hàng chục tác phẩm ăn khách nhất hành tinh, được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới. Những cuốn sách của Sheldon, như “Thiên thần nổi giận”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai” đã khiến tên tuổi của nhà văn Mỹ luôn tồn tại trong lòng bạn đọc. Ông là một nhà văn có tài thực thụ. Bằng cách viết và diễn tả tình tiết câu chuyện rất ly kỳ với giọng văn hóm hỉnh nhưng đầy trí tuệ, những tác phẩm của Sheldon thường nói về những nhân vật thành đạt, nổi tiếng nhưng không có thật và thường là phụ nữ. *** Tiểu thuyết The Naked Face (1970) - Lộ mặt The Other Side of Midnight (1973) - Phía bên kia nửa đêm A Stranger in the Mirror (1976) - Người lạ trong gương Bloodline (1977) - Dòng máu Rage of Angels (1980) - Thiên thần nổi giận Master of the Game (1982) - Bậc thầy của trò chơi If Tomorrow Comes (1985) - Nếu còn có ngày mai Windmills of the Gods (1987) - Sứ giả của thần chết The Sands of Time (1988) - Cát bụi thời gian Memories of Midnight (1990) - Ký ức lúc nửa đêm The Doomsday Conspiracy (1991) - Âm mưu ngày tận thế The Stars Shine Down (1992) - Sao chiếu mệnh Nothing Lasts Forever (1994) - Không có gì là mãi mãi Morning, Noon and Night (1995) - Sáng, trưa và đêm The Best Laid Plans (1997) - Kế hoạch hoàn hảo Tell Me Your Dreams (1998) - Hãy kể giấc mơ của em The Sky is Falling (2001) - Bầu trời sụp đổ Are You Afraid of the Dark? (2004) - Bạn có sợ bóng tối? (Bóng tối kinh hoàng) Kịch Rehead (1957) Dream of Jeannie (1967). Phim The Bachelor and the Bobby Soxer Easter Parade Annie Get Your Gun, Jumbo và Anything Goes *** SAN FRANCISCO Mùa xuân - 1995 Chưởng lý quận Carl Andrew đang cáu kỉnh: - Chuyện chết tiệt gì thế này? - ông ta nói. - Ba bác sĩ sống chung phòng và làm việc trong cùng một bệnh viện. Một người khiến cho bệnh viện suýt phải đóng cửa, người thứ hai giết bệnh nhân vì một triệu đô- la, còn người thứ ba thì lại bị giết. Andrew ngừng lại, hít một hơi rõ dài: - Mà lại rất là đàn bà! Ba con mụ bác sĩ trời đánh! Báo chí đãi đằng chúng cứ như những danh nhân. Nào Chương trình 60 phút. Nào thì phóng sự đặc biệt của Barbara Walters. Tôi không thể cầm một tờ báo hay tạp chí nào lên mà không phải nhìn ảnh hay đọc bài viết về chúng. Chẳng mấy đâu, rồi Hollywood sẽ tung ra một bộ phim biến ba con mụ này thành những nữ kiệt? Tôi sẽ chẳng ngạc nhiên nếu Chính phủ trưng mặt các ả lên tem bưu điện như Presley vậy. Ôi, lạy Chúa, thật chịu hết nổi! - Ông ta giáng một quả đấm xuống bức hình người đàn bà in trên bìa tạp chí Time. Dòng tít viết: "Bác sĩ Paige Taylor - Thiên thần từ bi hay đồ đệ của ác quỷ?" - Bác sĩ Paige Taylor, - giọng ông chưởng lý quận đầy ghê tởm. Ông ta quay sang Gus Venable, viên chánh công tố. - Tôi giao vụ này cho anh đấy, Gus. Tôi muốn kết án. Tội sát nhân. Phòng hơi ngạt. - Đừng lo, - Gus Venable trầm giọng, - cứ để nó cho tôi. Ngồi trong phòng xử án nhìn bác sĩ Paige Taylor, Gus Venable nghĩ: Cô ta lẩn tránh toà. Rồi ông ta tự cười mình. Không ai có thể lẩn tránh được toà. Cô ta dáng cao, thon thả, với đôi mắt nâu huyền nổi bật trên gương mặt nhợt nhạt. Một người quan sát thờ ơ chắc chỉ xem cô ta như một loại đàn bà quyến rũ. Người tinh ý hơn mới nhận thấy còn những điều khác. Đó là tất cả những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời cùng tồn tại trong cô ta. Nét hớn hở vui tươi của đứa bé thêm vào vẻ băn khoăn e lệ của tuổi hoa niên và sự khôn ngoan, nỗi đau khổ của đàn bà. Có một vẻ ngây thơ nơi cô ta. Cô ta là cô gái mà một người đàn ông có thể lấy làm hãnh diện dẫn về giới thiệu với cha mẹ mình, Gus nghĩ mỉa mai, nếu cha mẹ anh ta hợp gu với những tên giết người máu lạnh. Có một nét gì xa xăm, gần như huyền bí trong mắt cô ta, một vẻ gì đó nói lên rằng bác sĩ Paige Taylor đã lùi sâu vào nội tâm, tới một thời gian khác, một nơi chốn khác, xa khỏi phòng xử án lạnh lùng, cằn cỗi, nơi cô ta đã bị đẩy vào. Phiên xử diễn ra tại Toà Công lý San Francisco tôn nghiêm, cổ kính trên phố Bryant. Nơi đặt toà án tối cao và nhà tù tiểu bang là một công trình trông đầy hăm doạ, cao bảy tầng, bằng đá vuông, xám xịt. Khách đến dự phiên toà được lùa qua một dãy hành lang kiểm soát điện tử. Trên gác, tầng ba, là phòng xử án. Trong phòng 121, nơi xét xử những vụ giết người, ghế quan toà tựa sát mặt tường chính diện, đằng sau là lá cờ nước Mỹ. Bên trái là chỗ ngồi của bồi thẩm đoàn, chính giữa đặt hai bàn được ngăn bằng lối đi, một bàn dành cho luật sư bên nguyên, bàn kia dành cho luật sư bên bị. Phòng xử án đã chật ních phóng viên và đầy ắp loại khán giả say mê dự các phiên toà xử tai nạn giao thông trên đường cao tốc và tội giết người. Trong các phiên xử tội giết người, đây là vụ hấp dẫn nhất. Chỉ riêng Gus Venable, luật sư công tố, cũng đáng để xem rồi. Ông ta to cao lừng lững, với bờm tóc xám, chòm râu dê, và cung cách lịch lãm của một điền chủ miền Nam, mặc dù ông chưa bao giờ ở miền Nam cả. Ông có vẻ mặt ngơ ngác vô tư và bộ óc của một cỗ máy tính. Nhãn hiệu của ông ta, đông cũng như hè là bộ complê trắng khoác ngoài chiếc sơ- mi cổ hồ cứng đã lỗi thời. Alan Penn, luật sư của Paige Taylor, là sự tương phản với Venable, một con người rắn chắc, năng nổ, lừng danh bới tài gỡ tội cho các thân chủ của mình. Hai luật sư này không bao giờ thiếu cơ hội để đối mặt nhau trước toà án và quan hệ của họ là sự nể trọng nhau miễn cưỡng và ngờ vực nhau hoàn toàn. Venable ngạc nhiên khi thấy Alan Penn đến gặp ông vào tuần trước khi phiên xử bắt đầu. - Hãy cảnh giác với những tay thầy cãi có tài. - Anh đang mưu tính chuyện gì thế, Alan? - Nghe đây, tôi chưa bàn với thân chủ của tôi, nhưng giả sử, chỉ giả sử thôi, tôi có thể thuyết phục cô ta nhận tội để xin giảm án và đỡ cho nhà nước một khoản án phí, thì sao? - Anh định thương lượng với tôi đấy à, Alan? - Gus Venable với tay xuống bàn giấy, lục lọi - Chẳng thấy cuốn lịch chết tiệt của tôi đâu cả. Hôm nay ngày bao nhiêu nhỉ? - Mùng 1 tháng Sáu. Sao? - Khoan nào, tôi cứ tưởng phải là Giáng sinh cơ đấy nếu không anh đã chẳng hỏi xin một món quà như vậy. - Gus… Venable nhoài người về phía trước. - Anh biết không, Alan, bình thường thì tôi có thể bị anh thuyết phục rồi đấy. Nói thật, bây giờ tôi khoái đi câu ở Alaska hơn. Nhưng câu trả lời là không. Anh biện hộ cho một tên sát nhân tàn nhẫn đã vì tiền mà giết một người bệnh bất lực. Tôi đề nghị án tử hình. - Tôi nghĩ cô ta vô tội, và tôi… - Không, anh không nghĩ thế đâu. Và không ai có thể làm cho bất cứ ai nghĩ như thế. Trường hợp rõ mười mươi rồi. Khách hàng của anh tội lỗi như Cain 1 vậy. - Chưa đâu, chừng nào bồi thẩm đoàn chưa kết tội. - Họ sẽ, - Gus để một khoảng lặng, - họ sẽ kết tội thôi. Sau khi Alan Penn ra về, Gus Venable ngồi nghĩ lại về cuộc đối thoại vừa xảy ra. Việc Penn đến gặp ông là một dấu hiệu của sự thất bại. Penn hẳn đã hiểu mình ít có cơ thắng nổi vụ này. Venable nghĩ về những chứng cớ không thể chối bỏ mà ông đang nắm cùng các nhân chứng ông sẽ gọi ra thẩm vấn và ông thấy hài lòng. Không còn nghi ngờ gì nữa, bác sĩ Paige Taylor sẽ vào phòng hơi ngạt. .. Mời các bạn đón đọc Không Có Gì Mãi Mãi của tác giả Sidney Sheldon.
Bầy Chó Riga - Mankell Henning
“Bầy chó Riga”, cuốn sách thứ ba trong series truyện trinh thám của Henning Mankell, nhà văn trinh thám nổi tiếng Thụy Điển đã được Nhã Nam cho ra mắt bạn đọc Việt Nam. Nếu là người yêu thích truyện trinh thám, chắc chắn bạn đã biết đến Henning Mankell qua hai tác phẩm trước đây của dịch giả Cao Việt Dũng:  “Tường lửa” cuối năm 2006 và “Chậm một bước” giữa năm 2007.  Kể từ khi “Tường lửa”, tác phẩm đầu tiên của Henning Mankell - tác giả trinh thám hàng đầu Bắc Âu được Nhã Nam giới thiệu ở Việt Nam đến nay đã 4 năm, thời gian quá dài để chờ đợi một món quà quý giá. Tôi nhớ khi cho ra mắt “Tường lửa”, Nhã Nam đã thông báo cả ba tiểu thuyết hay nhất của Henning Mankell viết về thanh tra Kurt Wallander đã được Cao Việt Dũng chuyển ngữ và sẽ sớm ra mắt. Vậy mà phải mất gần 4 năm chúng ta mới tiếp tục được đón nhận thêm một luồng hơi thở mới của dòng văn trinh thám Bắc Âu... Nói như vậy để bạn thấy, tôi đã mong mỏi cuốn sách “Bầy chó Riga” này như thế nào. Thanh tra Kurt Wallander và các cộng sự phải đối mặt với một vụ án khá hóc búa: điều tra về cái chết của hai người chưa rõ tung tích trên một chiếc xuồng cứu hộ trôi dạt vào bờ biển Mossby Strand, Thụy Điển. Khi Wallander bắt đầu hướng mũi điều tra đến các nước Đông Âu thì ông nhận được thông tin từ Latvia. Thiếu tá Liepa, một quan chức cao cấp trong ngành cảnh sát của nước này được cử đến Thụy Điển để hỗ trợ công tác điều tra. Thời gian ngắn ngủi Liepa lưu lại Thụy Điển không ngờ cũng là lần gặp gỡ cuối cùng của Wallander với viên thiếu tá cận thị gầy gò nhưng để lại cho ông nhiều thiện cảm. Cái chết của Liepa do bị ám sát ngay sau khi quay về nước lại chính là nguyên nhân đưa Wallander lần đầu tiên đến với Latvia, đến với thủ đô Riga, nơi mà sau đó xảy ra rất nhiều biến cố không chỉ trong việc điều tra vụ án này mà còn cả với đời sống tình cảm của Wallander. *** Sống tại Thụy Điển thanh bình, Wallander hoàn toàn xa lạ với Latvia, nước láng giềng có chế độ chính trị đang trong giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ của những năm 1991-1992. Như tác giả bộc bạch trong phần Tái bút: “Đối với nhà văn, tự thân việc viết ra một cuốn sách với cốt truyện diễn ra trong một bối cảnh xa lạ là rất phức tạp”... Nhưng chính điều này đã cho thấy tài năng vượt bậc của tác giả Henning Mankell. Xuyên suốt trong gần 400 trang sách, bạn sẽ rất hồi hộp và nôn nóng muốn ngay lập tức cùng nhân vật chính, thanh tra Wallander nhanh chóng đi hết hành trình của cuộc điều tra. Cuốn sách không dàn xếp những tình huống giật gân, gay cấn; không đi sâu vào miêu tả chi tiết vụ án, cũng không kể lại tỉ mỉ những tội ác gây kinh hoàng, nhưng tác giả Henning Mankell đã hoàn toàn lôi cuốn người đọc. Và đây chính là thành công nhất của một tác giả trinh thám. Khác với hai cuốn sách trước mà bạn đọc đã biết, vụ án này diễn ra chủ yếu tại Riga, thủ đô của Latvia.  Tại đây, mặc dù ngôn ngữ bất đồng, hoàn toàn không có cộng sự và không có bất cứ mối liên hệ nào để có thể dẫn đường, chỉ với sự giúp đỡ của Baiba Liepa, vợ của thiếu tá Liepa và những người khác, bằng kinh nghiệm và tài năng Wallander đã dần dần vén tấm màn bí ấn xung quanh cái chết của viên thiếu tá đáng kính và hai kẻ xấu số được phát hiện tại bờ biển Mossby Strand, nơi khởi đầu của vụ án này. Cuộc điều tra ngoài phạm vi Thụy Điển đã góp phần phơi bày thực trạng hỗn loạn của xã hội Latvia đang trong cơn chuyển mình; sự lũng đoạn, tha hóa của ngành cảnh sát khi những người nắm giữ chức vụ quan trọng của bộ máy an ninh lại bị đồng tiền thao túng hay trở thành kẻ hai mang, phục vụ cho những mục đích chính trị riêng… Diễn biến khám phá vụ án cũng đồng hành cùng diễn biến tâm lý của Wallander. Bạn sẽ được chia sẻ những suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật trong những tình huống cân não, hay đôi khi chỉ là những suy nghĩ miên man, những độc thoại về cuộc sống và hạnh phúc, sự đối diện với cái chết, với cuộc sống nhàm chán...  Trải qua một trong những sự kiện lớn lao, nguy hiểm nhất từng xảy ra trong cuộc đời, nhưng khi vụ án được khám phá, Wallander lại không được hưởng niềm vui chiến thắng. Tại Riga, trái tim tưởng như băng giá của ông được sưởi ấm bởi Baiba Liepa, vợ góa của người đồng nghiệp Latvia - người phụ nữ ngay từ lần gặp đầu tiên đã khiến ông không thể quên. Chẳng có một “kết thúc có hậu” nào bởi cuối cùng người phụ nữ ấy, rốt cục, có lẽ cũng chỉ là giấc mơ hạnh phúc của Wallander.  Gấp lại cuốn sách tuyệt vời này, tôi không thể không đặt ra một câu hỏi cho dịch giả Cao Việt Dũng và Nhã Nam: vụ án của “Bầy chó Riga” xảy ra 6 năm trước vụ án của “Tường lửa”, nơi mà bạn đọc Việt Nam đã được làm quen với thanh tra Wallander, với nỗi buồn cô đơn nhớ nhung Baiba Liepa của nhân vật chính. Có lý do nào giải thích cho sự hoán đổi thứ tự này không nhỉ? Phải chăng đây là chủ ý của dịch giả: để cho bạn đọc trước hết được làm quen với Wallander, người lúc nào cũng cô đơn và buồn bã, sau đó chúng ta mới được biết ông đã làm quen với người phụ nữ này như thế nào...   Dù thế nào chăng nữa, chắc chắn “Bầy chó Riga” và “Tường lửa”, “Chậm một bước” sẽ là món quà quý giá giành cho các bạn yêu sách. *** Bầy chó  Riga, cuốn thứ hai trong series tiểu thuyết trinh thám về Thanh tra Kurt Wallander, là nơi viên cảnh sát Thụy Điển gặp những sự việc và con người sẽ còn ám ảnh suốt phần đời còn lại của ông. Một lần hiếm hoi ra khỏi thành phố nhỏ bé của mình để nhận lấy một nhiệm vụ không ai hay biết, không đồng sự và không có chi viện, Wallander lúng túng trong nỗ lực xoay xở tại một đất nước vùng Baltic đang trong cơn chuyển mình hỗn loạn. Chỉ có thể dựa vào khả năng suy đoán, Wallander lần mò đi tìm một bằng chứng tưởng chừng như không tồn tại nhưng lại có tầm quan trọng đặc biệt với tương lai cả một đất nước. Và trên hành trình đầy sợ hãi ấy, ông đã gặp một người kể từ nay giữ một vị trí không thể phai mờ trong đời sống tình cảm của ông: Baiba Liepa. Bộ sách về Kurt Wallander đã khiến Henning Mankell đến với độc giả của trên 30 thứ tiếng, mang lại rất nhiều giải thưởng văn học (trong đó có giải Gold Dagger, giải The Glass Key, giải Gumshoe…); nhiều cuốn đã được dựng thành phim điện ảnh và phim truyền hình tại nhiều nước.  *** “Lối viết kiệm lời, cách xây dựng nhân vật tài tình, bầu không khí sôi sục và sự gay cấn lúc nào cũng mạnh mẽ.” - The Times Literary Supplement “Một câu chuyện về giới cảnh sát đầy lôi cuốn và suy tư, không cho người đọc buông sách xuống ngay từ trang đầu tiên.” - Irish Independent “Một câu chuyện đầy ắp văn hóa địa phương… Cốt truyện đủ chất bất ngờ, Wallander, như vẫn luôn luôn vậy, làm người ta rối trí và rất mực sắc sảo.” - Los Angeles Times Book Review Mời các bạn đón đọc Bầy Chó Riga của tác giả Mankell Henning.
Ký Ức Nửa Đêm - Sidney Sheldon
Sách Nói Ký Ức Nửa Đêm   Cuốn tiểu thuyết Kí ức nửa đêm mô tả quá trình phục hồi trí nhớ và quay trở lại xã hội thượng lưu của cô gái Catherine. Đan xen vào đó là những câu chuyện tình tay ba, những vụ thanh toán lẫn nhau cũng như con đường tiến thân đầy tội lỗi của những ông chủ như Constantin Demiric. Tất cả chỉ xoay quanh việc thỏa mãn dục vọng cùng những khát khao quyền lực, tiền bạc của con người. Thế nhưng rồi tất cả đều phải trả giá cho chính mình, gieo nhân nào gặt quả ấy. Là tác giả của rất nhiều cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất trong năm, nữ văn sĩ Mỹ Sidney Sheldon luôn được người đọc chào đón nồng nhiệt mỗi khi một cuốn tiểu thuyết của bà xuất hiện. Ký ức vốn tập trung những điều có thật và cả sự tưởng tượng về những việc xảy ra trong quá khứ. Ký ức của Catherine chất chứa nỗi đau và cả niềm hạnh phúc. Cô đã bị người chồng phản bội, bị trở thành mục tiêu oan uổng cho những mưu mô thấp hèn. Một điều lạ là những kẻ xấu liên can đến cô đều bị giết. Họ âm mưu thanh toán lẫn nhau để rồi cuối cùng bị giết bởi chính âm mưu của mình. Còn Catherine, người phụ nữ xinh đẹp với ước mơ đơn giản, chỉ mong cầu một mái ấm và một tình yêu chân chính. Cô như con nai vàng giữa bầy sói dữ. Tuy nhiên, cuối cùng cô đã sống sót nhờ vào những hình ảnh của ký ức. Nó như một lời cảnh báo cho những gì sắp xảy ra quanh cô. *** Sidney Sheldon, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết thuộc hàng Best-selling được người đọc Việt Nam yêu thích như "Nếu còn có ngày mai", “Âm mưu ngày tận thế”, "Thiên thần nổi giận"... Warren Cowan, một trong những cố vấn của Sheldon cho biết nhà văn từ trần vào chiều ngày 30/12 tại Bệnh viện Eisenhower ở Rancho Mirage (Mỹ) vì bệnh viêm phổi. Vợ ông, bà Alexandra, con gái Mary Sheldon đồng thời cũng là một nhà văn, đã có mặt bên cạnh Sheldon trong lúc lâm chung. Cowan xúc động nói: “Tôi đã mất một người bạn lâu năm và thân thiết nhất. Trong suốt những năm tháng được làm việc cùng Sheldon, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai đó nói một từ không hay về ông”. Sidney Sheldon từng có thời gian làm việc tại Hollywood và là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa và phim truyền hình nổi tiếng. Tuy nhiên, bước sang 50 tuổi, tức là vào khoảng những năm 1967, ông lại chuyển sang viết tiểu thuyết và nổi tiếng với hàng chục tác phẩm ăn khách nhất hành tinh, được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới. Những cuốn sách của Sheldon, như “Thiên thần nổi giận”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai” đã khiến tên tuổi của nhà văn Mỹ luôn tồn tại trong lòng bạn đọc. Ông là một nhà văn có tài thực thụ. Bằng cách viết và diễn tả tình tiết câu chuyện rất ly kỳ với giọng văn hóm hỉnh nhưng đầy trí tuệ, những tác phẩm của Sheldon thường nói về những nhân vật thành đạt, nổi tiếng nhưng không có thật và thường là phụ nữ. Trong một cuộc phỏng vấn năm 1982, Sheldon tâm sự: “Tôi cố gắng viết những tác phẩm để người đọc không thể đặt chúng xuống. Tôi viết để khi người đọc đọc tới cuối chương, họ phải đọc thêm một chương nữa”. Giải thích lý do tại sao có quá nhiều phụ nữ là các nhân vật chính trong các tác phẩm của ông, Sheldon nói: “Tôi thích viết về những người phụ nữ tài giỏi, và quan trọng hơn, là họ vẫn đầy quyến rũ, nữ tính. Phụ nữ có một sức mạnh vô cùng to lớn - đó là nét quyến rũ và người đàn ông không thể làm gì nếu thiếu điều này”. Không giống như những nhà văn khác thường sử dụng máy chữ hoặc máy tính để viết tác phẩm, Sheldon thường đọc ra 50 trang truyện mỗi ngày cho thư ký hay máy thu âm ghi lại. Sau đó, ông sửa bản sáng tác vào ngày hôm sau và cứ tiếp tục công việc như vậy cho tới khi tác phẩm của ông dài từ 1.200 tới 1.500 trang. Sheldon nói: “Tôi đọc và sửa lại bản viết cuối cùng từ 12 tới 15 lần. Có thể tôi chỉ dùng cả năm để sửa lại bản viết đó”. Sidney Sheldon sinh ngày 11/2/1918 tại Chicago, Illinois dưới tên Sidney Schechtel, trong một gia đình có bố là người Do Thái gốc Đức, mẹ là gốc Nga. Ông bắt đầu việc viết lách ngay từ khi còn rất nhỏ. Lên 10 tuổi, cậu bé Sheldon đã kiếm được 10 USD cho một bài thơ. Thời trai trẻ, Sheldon từng làm nhiều nghề để kiếm sống trong khi là sinh viên tại Northwestern University và tham gia một nhóm chuyên viết những vở kịch ngắn. *** Đêm nào, nàng cũng nằm mơ, la hét rồi tỉnh dậy. Nàng cảm thấy như đang lênh đênh ở giữa mặt hồ rộng lớn trong cơn giông tố khủng khiếp, có một người đàn ông và một người đàn bà đang đè đầu nàng dìm xuống nước băng giá để cho nàng chết đuối. Mỗi lần bừng tỉnh như vậy tâm hồn hoảng loạn, nàng cố lấy lại hơi thở và mồ hôi toát ra đầm đìa. Nàng không biết nàng là ai và nàng không còn trí nhớ về dĩ vãng. Nàng nói tiếng Anh - nhưng nàng cũng chẳng biết nàng là người nước nào và vì sao nàng lại đến đây, đất Hy Lạp này, sống trong tu viện Carmelite nhỏ bé, nơi đã che chở cho nàng. Rồi thời gian cứ trôi đi, những ký ức quá khứ cứ thoáng hiện như nhử trêu nàng, những ý nghĩ mơ hồ, những hình ảnh mờ ảo hiện lên rồi lại tan đi nhanh chóng không cho nàng tóm chặt được nó, giữ nó và ngắm nghía nó. Những hình ảnh đó xuất hiện đột nhiên ở một lúc nào đó chộp vào đúng lúc nàng không có chút đề phòng, và làm nàng lẫn lộn hết cả. Lúc mới đầu, nàng còn tự đặt ra những câu hỏi. Các bà xơ ở Carmelite rất tử tế và hiểu nàng nhưng hình như họ được lệnh phải im lặng, và chỉ có một người được phép nói với nàng là Xơ Theresa, người nhiều tuổi nhất và là Mẹ Bề trên yếu đuối. - Xơ có biết con là ai không? - Không, con của ta ạ, - Xơ Theresa trả lời. - Làm sao con lại được đến nơi đây? - Ở chân những quả núi kia có một cái làng tên là Ioanina. Con ở trong một con thuyền nhỏ lênh đênh trên mặt hồ khi trời giông bão, cái năm ngoái ấy. Con thuyền đang chìm nhưng nhờ ơn Chúa, hai trong các xơ của con đã thấy và cứu sống con. Họ đã mang con về đây? - Nhưng… trước đó, con từ đâu đến hở Xơ? - Xin lỗi con, ta không biết. Nàng không thể thoả mãn với những điều đó. - Đã có ai hỏi gì về con? Đã có người nào muốn tìm con? Xơ Theresa lắc đầu. - Không có ai cả, con ạ. Nàng muốn oà khóc vì thất vọng. Nàng lại cố nhớ một lần nữa. - Báo chí… họ phải có chuyện về việc ta mất tích. - Như con biết. Chúng ta không được phép liên hệ với thế giới bên ngoài. Chúng ta phải theo ý của Chúa, con ạ. Chúng ta phải cám ơn Người về những ban ơn của Người. Con còn sống. Và đó là tất cả những gì mà nàng có thể biết được. Thời gian đầu, nàng quá yếu đuối để có thế hiểu được những điều đã xảy ra với mình, nhưng dần dà, sau nhiều tháng qua đi, nàng đã lấy lại được nghị lực và sức khỏe. Khi nàng đã khỏe hơn để có thể đi loanh quanh, suốt ngày nàng cúi mình trong khu vườn đầy hoa thuộc phần đất của tu viện, dưới ánh sáng ấm cúng đã toả khắp Hy Lạp như trong một thiên đường huyền ảo, với cả những làn gió nhẹ thổi qua, mang theo hương vị thơm ngon của những quả chanh và những chùm nho. Bầu không khí ở đây thật thần tiên và tĩnh mịch, tuy vậy nàng vẫn cảm thấy không yên. Ta đã bị lạc, nàng nghĩ vậy và chẳng ai chú ý. Tại sao? Ta có làm điều gì độc ác chăng? Ta là ai? Ta là ai? Ta là ai? Những hình ảnh lại tiếp tục xuất hiện, không theo một đòi hỏi nào cả. Một buổi sáng, nàng chợt tỉnh vì nhìn thấy mình trong buồng với một người đàn ông trần truồng đang cởi quần áo nàng. Phải chăng là một giấc mơ? Hay có điều gì đã xảy ra trong quá khứ đối với nàng? Người đàn ông đó là ai? Có phải rằng nàng đã lấy một người nào đó trước đây? Nàng đã có chồng rồi ư? Nàng không mang nhẫn cưới. Trong thực tế nàng không có một sở hữu gì khác ngoài những lệnh theo thói quen ở Carmelite mà Xơ Theresa đã ban cho nàng, một cái ghim cài áo, một con hoàng anh có đôi mắt mầu ngọc bích và sải cánh rộng. Nàng chỉ là một người vô danh, một người lạ sống giữa những kẻ lạ. Chẳng có ai giúp đỡ nàng, không có nhà nghiên cứu tâm thần nào có thể bảo cho nàng rằng trí óc của nàng đã bị rối loạn, và chỉ có thể yên ổn nếu ngăn cách hẳn với quá khứ khủng khiếp. Và rồi những hình ảnh lại đến, nhanh hơn và nhanh hơn. Cứ như là trí óc của nàng tự dưng rơi vào một trò chơi ghép hình vĩ đại, với các tấm hình rời rạc phải xếp vào đúng chỗ của nó. Nhưng những tấm hình này chẳng có nghĩa gì cả. Nàng như thấy một cảnh trường quay chật những người mặc quân phục. Họ như đang chuẩn bị làm một cuốn phim. Ta có là một diễn viên không? Một người lính đưa cho nàng một bó hoa. Cô phải trả tiền cho những bông hoa này đấy nhé, anh ta cười. Sau đó hai đêm, nàng lại mơ về cùng một người đàn ông. Nàng đã chào tạm biệt người đó tại sân bay, và khi tỉnh dậy, nàng đã thổn thức vì đã để mất ông ta. - Không còn có những giấc mơ thanh bình những lần sau đó. Toàn là mộng mị. Đó là những mảnh vụn của đời nàng, quá khứ của nàng. Ta phải tìm ra ta là ai. Hiện ta là ai. Và vào lúc nửa đêm, đột nhiên, một cái tên lóe ra trong tiềm thức nàng - Catherine - tên mình là Catherine Alexander. ... Mời các bạn đón đọc Ký Ức Nửa Đêm của tác giả Sidney Sheldon.
Sứ Giả của Thần Chết - Sidney Sheldon
Sidney Sheldon, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết thuộc hàng Best-selling được người đọc Việt Nam yêu thích như "Nếu còn có ngày mai", “Âm mưu ngày tận thế”, "Thiên thần nổi giận"..., đã từ trần ở tuổi 89. Warren Cowan, một trong những cố vấn của Sheldon cho biết nhà văn từ trần vào chiều ngày 30/12 tại Bệnh viện Eisenhower ở Rancho Mirage (Mỹ) vì bệnh viêm phổi. Vợ ông, bà Alexandra, con gái Mary Sheldon đồng thời cũng là một nhà văn, đã có mặt bên cạnh Sheldon trong lúc lâm chung. Cowan xúc động nói: “Tôi đã mất một người bạn lâu năm và thân thiết nhất. Trong suốt những năm tháng được làm việc cùng Sheldon, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai đó nói một từ không hay về ông”. Sidney Sheldon từng có thời gian làm việc tại Hollywood và là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa và phim truyền hình nổi tiếng. Tuy nhiên, bước sang 50 tuổi, tức là vào khoảng những năm 1967, ông lại chuyển sang viết tiểu thuyết và nổi tiếng với hàng chục tác phẩm ăn khách nhất hành tinh, được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới. Những cuốn sách của Sheldon, như “Thiên thần nổi giận”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai” đã khiến tên tuổi của nhà văn Mỹ luôn tồn tại trong lòng bạn đọc. Ông là một nhà văn có tài thực thụ. Bằng cách viết và diễn tả tình tiết câu chuyện rất ly kỳ với giọng văn hóm hỉnh nhưng đầy trí tuệ, những tác phẩm của Sheldon thường nói về những nhân vật thành đạt, nổi tiếng nhưng không có thật và thường là phụ nữ. Trong một cuộc phỏng vấn năm 1982, Sheldon tâm sự: “Tôi cố gắng viết những tác phẩm để người đọc không thể đặt chúng xuống. Tôi viết để khi người đọc đọc tới cuối chương, họ phải đọc thêm một chương nữa”. Giải thích lý do tại sao có quá nhiều phụ nữ là các nhân vật chính trong các tác phẩm của ông, Sheldon nói: “Tôi thích viết về những người phụ nữ tài giỏi, và quan trọng hơn, là họ vẫn đầy quyến rũ, nữ tính. Phụ nữ có một sức mạnh vô cùng to lớn - đó là nét quyến rũ và người đàn ông không thể làm gì nếu thiếu điều này”. Không giống như những nhà văn khác thường sử dụng máy chữ hoặc máy tính để viết tác phẩm, Sheldon thường đọc ra 50 trang truyện mỗi ngày cho thư ký hay máy thu âm ghi lại. Sau đó, ông sửa bản sáng tác vào ngày hôm sau và cứ tiếp tục công việc như vậy cho tới khi tác phẩm của ông dài từ 1.200 tới 1.500 trang. Sheldon nói: “Tôi đọc và sửa lại bản viết cuối cùng từ 12 tới 15 lần. Có thể tôi chỉ dùng cả năm để sửa lại bản viết đó”. Sidney Sheldon sinh ngày 11/2/1918 tại Chicago, Illinois dưới tên Sidney Schechtel, trong một gia đình có bố là người Do Thái gốc Đức, mẹ là gốc Nga. Ông bắt đầu việc viết lách ngay từ khi còn rất nhỏ. Lên 10 tuổi, cậu bé Sheldon đã kiếm được 10 USD cho một bài thơ. Thời trai trẻ, Sheldon từng làm nhiều nghề để kiếm sống trong khi là sinh viên tại Northwestern University và tham gia một nhóm chuyên viết những vở kịch ngắn. Sheldon từng thú nhận ông suýt tự tử vào năm 17 tuổi. Năm 17 tuổi, Sheldon quyết định thử vận may tại Hollywood. Công việc ban đầu duy nhất mà Sheldon nhận được là đọc kịch bản phim tại Universal Studio với giá 22 USD/ tuần. Trong khi đó, ban đêm ông viết kịch bản phim riêng của mình và bán lại cho Universal với giá 250 USD. Sau thế chiến thứ 2, từ một phi công của Lực lượng không quân Mỹ, Sheldon giải ngũ và về làm việc cho sân khấu kịch Broadway - nơi đánh dấu những bước đi quan trọng trong sự nghiệp viết văn của ông. Cũng tại đây, Sheldon nhận giải Tony award cho kịch bản hay nhất cho “Redhead”. Với hơn 300 triệu ấn bản được bán, Sheldon không chỉ là một trong những nhà văn “lão làng” của Mỹ mà còn có ảnh hưởng lớn trong nền văn học thế giới. Ông từng đoạt giải Oscar với kịch bản hay nhất cho phim “The Bachelor and the Bobby-Soxer” (1957), giải Tony Award cho vở nhạc kịch “Rehead” (1957) nổi tiếng của sân khấu kịch Broadway và giải Emmy cho “Dream of Jeannie” (1967) Tại Việt Nam, nhiều tác phẩm của Sheldon đã được dịch và xuất bản như “Âm mưu ngày tận thế”, “Bầu trời sụp đổ”, “Người lạ trong gương”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai”, “Kế hoạch hoàn hảo”, “Cát bụi thời gian”…. *** Tiểu thuyết kiếm cơm của Sidney Sheldon, như những cái nồi hơi ướt át sẽ tan nhanh vào không khí, chẳng đọng lại được gì nhiều cho mai sau. Nhưng trước khi qua đời, ông vẫn được coi là một trong những nhân vật kiệt xuất cuối cùng của thời kỳ hoàng kim trong nền văn học bình dân Mỹ.   Lần cuối cùng tôi gặp Sidney Sheldon là khi ông tham gia một bữa tiệc sang trọng tại Beverly Hills. Tôi còn nhớ, hôm đó, một tác giả có tuổi đã tẽn tò bước đến bên ông, cúi đầu, bày tỏ sự kính trọng của mình rồi rụt rè đưa cho nhà văn bậc thầy một bản thảo cuốn sách mới viết về cái chết của một ngôi sao Hollywood.   Hai người họ đều xúng xính trong những bộ trang phục cầu kỳ và được là ủi kỹ. Với lối chưng diện đó, Sheldon xứng đáng được gọi là "bảnh bảo" - một từ ông rất thích dùng trong các tiểu thuyết của mình. Nhưng ánh mắt của những thực khách có mặt tại bữa tiệc không nấn ná lâu ở Sheldon, người ta còn mải bàn luận về điều gì đó vừa đọc được trên tạp chí In Touch.   Sheldon có thể là một tài năng bậc thầy trong việc phóng các tiểu thuyết của mình lên bảng xếp hạng best-seller nhưng ngày hôm đó, ông thực sự không nhận được nhiều sự quan tâm, chú ý. Những ai đã đọc sách của Aimee Bender, Dave Eggers và Nick Hornby tất nhiên sẽ không bao giờ đọc bất cứ thứ gì Sheldon viết. Nhưng tôi tự hỏi, không biết bao nhiêu người say mê Mật mã Da Vinci từng lén lút mở những "chiếc nồi hơi" mà Sheldon "sản xuất" ra. Sheldon qua đời, nghĩa là thời đại huy hoàng của nền văn học bình dân Mỹ mất đi một trong những cây bút cuối cùng.   Sinh năm 1917, Sheldon thuộc về một thế hệ nhà văn tôn sùng (và cả ghen tỵ nữa) với những tên tuổi nổi tiếng trên văn đàn Mỹ như Steinbeck và Hemingway. Nhưng họ cũng là những người sẵn sàng dựa vào chút tài năng của mình để biến văn đàn thành một sàn kinh doanh nhằm hốt bạc. Thực chất, mẫu hình của Sheldon là Irving Wallace và Harold Robbins. Và những cụm từ được dùng nhiều nhất trong các điếu văn dành cho ông như "ướt át, vô giá trị" đã chứng tỏ, ông là tác giả điển hình của những cuốn tiểu thuyết được người ta ưỡn ẹo đọc trên bãi biển hoặc cạnh các bể bơi.   Những trang viết của Sheldon chưa từng làm hài lòng các nhà phê bình chân chính. Không một đứa con tinh thần nào của ông cơ hồ sống được thêm 100 năm nữa kể từ thời điểm này. Có chăng, lúc đó, ông chỉ còn được người ta nhắc đến như một ví dụ điển hình cho những tác giả từng lọt vào danh sách best-seller của Mỹ. Chính vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi trong bộ sưu tập giải thưởng của Sydney Sheldon, dù đã có giải Oscar và Tony, sẽ không bao giờ có thể có thêm một Pulitzer. Nhưng con số 300 triệu bản sách của ông được tiêu thụ tại 180 quốc gia không hẳn là con số vô nghĩa.   Ít nhất, Sheldon cũng phải có những ảnh hưởng nhất định trên văn đàn Mỹ. Dan Brown có thể phá vỡ kỷ lục cũ của Sheldon với cuốn Mật mã Da vinci 53 tuần năm trên bảng xếp hạng best-seller nhưng Brown chắc chắn mắc nợ người đàn ông đã tạo ra cái mà các nhà phê bình gọi là "thứ rác rưởi lắm người đọc".   Sheldon học ở trường đời nhiều hơn là ở các trường học. Dù trải qua rất nhiều nghề nhưng viết lách vẫn là mục đích hướng tới của ông. Từ một người đọc bản thảo với thu nhập 17 USD mỗi tuần, ông dần trở thành một tác giả kịch bản, nhà văn. Trước khi chết, tải sản của ông lên tới 3 tỷ USD - một con số mà cả Dan Brown lẫn J.K. Rowling đều khó lòng mà theo kịp.   Thế nhưng, ở tuổi 17, sau khi đã trải qua rất nhiều lỗi lầm trong đời. Bi quan với khả năng trở thành nhà văn của mình, Sidney Sheldon rơi vào trầm cảm và đã tìm cách tự vẫn. Nhưng bố ông kịp xuất hiện trước khi nhà văn kịp nhấm nháp một lô thuốc ngủ với rượu whisky. Nếu không, thế giới sẽ không biết đến một "hiện tượng Sidney Sheldon".   Mời các bạn đón đọc Sứ Giá của Thần Chết của tác giả Sidney Sheldon.