Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khải Hoàn Môn - Erich Maria Remarque

Tinh hoa văn học của nhân loại nào cũng cần được khám phá và tái khám phá. Mỗi tác phẩm lớn là một sự kỳ diệu và mỗi lần ta tìm đến là thực hiện những cuộc phiêu lưu hoan lạc. Đến với tác phẩm “Khải hoàn môn” là chúng ta đang bước vào cánh cửa thứ nhất của Tủ sách tinh hoa văn học  - cánh cửa với những tác phẩm được dịch trọn vẹn và giới thiệu cả tác giả lẫn tác phẩm trong bối cảnh văn hoá những đặc điểm thiết yếu - cánh cửa Kiệt Tác. *** Khải Hoàn Môn là một trong những thiên tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nhà văn Đức hiện đại Eric Maria Remarque (1896-1970), mà các bạn đọc ở nước ta đã có dịp làm quen qua các bản dịch như phía Tây không có gì lạ, Một thời để yêu và một thời để chết, Chiến hữu (tức Ba người bạn), v.v... Cũng như nhiều tác phẩm lớn khác của Remarque, Khải Hoàn Môn là một thiên tự sự hiện thực chủ nghĩa đầy cảm xúc và suy tư sâu sắc về thân phận của con người trong xã hội phương Tây hiện đại, với những cuộc chiến tranh đế quốc đẫm máu và những hậu quả có tính hủy hoại sâu xa đối với cơ cấu xã hội và đối với tâm hồn con người, với những tấm bi kịch và những cảnh sa đọa tiêu biểu của “Buổi hoàng hôn Chư Thần” (Gotterdam-merung), như tác giả thường gọi thời kỳ suy sụp của nền văn minh tư sản Tây Âu. Khải Hoàn Môn chính là tác phẩm chứa đựng ở mức tập trung nhất những đặc trưng của nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa trong văn nghiệp của Remarque. Ở đây tác giả đã chọn một đối tượng miêu tả có thể coi là tối ưu đối với chủ đề của ông: thân phận của người trí thức Đức chống phát xít phải trốn ra nước ngoài sống vất vưởng trong tình trạng bất hợp pháp. Bác sĩ Ravic là một nhân cách được un đúc nên bằng những phẩm chất tiêu biểu của Tiền văn minh Tây phương hiện đại. Anh mang trong người những đức tính tốt đẹp và những nhược điểm tai hại mà người trí thức thừa hưởng của một Tiền văn hóa dựa trên tinh thần dân chủ tư sản. Anh là một người thầy thuốc có tài năng tìm thấy lẽ sống chính của mình trong lao động nghề nghiệp. Trong hoàn cảnh cư trú bất hợp pháp, anh phải làm thuê cho một giáo sư nổi tiếng về phẫu thuật nhưng bất tài và vô liêm sỉ, chịu nhận một số tiền thù lao rẻ mạt, miễn sao được làm cái nghề mà anh yêu thích. Hoàn cảnh này càng làm tăng thêm cái thế cô độc, bơ vơ và cái tâm trạng cay đắng của con người tứ cố vô thân ấy giữa cái xã hội tư bản đang bước vào cuộc thế chiến thứ hai. Anh sống thầm lặng chờ ngày thất bại của phát xít Đức, cái ngày anh sẽ có thể trở về nước để làm một người công dân hữu ích như cũ, nhưng anh không biết mình phải làm gì để cho ngày ấy chóng đến hơn, mặc dầu anh coi chế độ Quốc xã như kẻ thù riêng của anh, một kẻ thù không đội trời chung mà anh căm thù sâu sắc. Tình cờ gặp lại tên Gestapo đã từng giết chết bạn bè anh và tra tấn anh dã man, Ravic quyết tâm tìm cách giết hắn. Nhưng khi đã thực hiện được ý đồ, anh không biết còn phải làm gì nữa: cuộc phục thù dừng phắt lại ở bình diện cá nhân. Trong cảnh lưu lạc, anh đã tìm thấy một tình bạn và một tình yêu - cũng là những con người cô đơn, lạc loài như anh. Và tâm hồn nhân hậu, giàu tình thương xót của anh cũng đã tìm thấy chút hạnh phúc trong khi anh đem mình hiến dâng một cách hào phóng và vô tư cho những tình cảm đó, cũng như trong khi anh tự hiến dâng cho những bệnh nhân nghèo hèn mà anh bao giờ cũng tận tình cứu chữa. Nhưng cuộc tình dang dở của anh chỉ đem lại cho anh một bến ghé tạm thời, và con dao mổ của anh có cứu sống được sinh mệnh của những con người nghèo khổ thì cũng chỉ để trả họ về với kiếp sống đọa đày mà anh không thấy có cách gì làm thay đổi. Bị giam cầm trong chủ nghĩa cá nhân, anh không thấy được cội nguồn sâu xa của những tệ nạn mà anh ghê tởm, của những nỗi khổ của dân nghèo mà anh chân thành thương xót: anh ngại ngần và tự thấy mình xa lạ đối với cái lý tưởng duy nhất có thể cứu vớt họ và đem lại cho anh một lẽ sống thực sự, có thể giải thoát anh ra khỏi cảnh cô đơn vô hy vọng: lý tưởng cách mạng vô sản. Lẽ ra, anh có đủ những phẩm cách để tìm thấy con đường đó: anh là một người lao động chân chính, là một người có tinh thần nhân đạo sâu sắc, lại là một con người bị khủng bố ở tổ quốc và bị bóc lột tàn tệ ở nơi đất khách quê người. Nhưng cũng như phần đông những người trí thức tiểu tư sản, anh không phân biệt được thực chất của những nền chuyên chính khác hẳn nhau về cơ bản. Những con người thuộc giới anh e sợ mọi sự chuyên chính có thể xung đột với sự tự do cá nhân vốn là nguyên nhân chính dựa đến tình trạng cô đơn đáng buồn của họ. Thân phận và tâm trạng của cả một tầng lớp trí thức Tây Âu trong những tháng ngày hòa bình cuối cùng trước cuộc thế chiến thứ hai đã được mô tả một cách hết sức chân xác và sinh động trong Khải Hoàn Môn. Thật ra, bản thân tác giả cũng bất lực trước việc tìm ra lối thoát cho mình và cho những nhân vật mà mình xây dựng để gửi gắm tâm sự của mình vào đấy. Nhưng tinh thần nhân đạo chân thành của ông, tình thương không bờ bến của ông đối với những con người hèn mọn bị xã hội tư bản chủ nghĩa đày đọa, và thái độ trung thực trong trẻo như pha lê của ông đã làm cho ông tạo nên được một áng văn hiện thực chủ nghĩa sâu xa có sức làm rung chuyển những cảm xúc sâu xa nhất của người đọc, mà đồng thời cũng cho phép ta hiểu đúng tâm trạng của những con người bị chủ nghĩa cá nhân đẩy vào tình trạng cô đơn không có lối thoát. *** Tác giả Erich Maria Remarque (1898 – 1970), sinh ra trong một gia đình bình dân tại Osnabrũck, miền Tây nước Đức. Từ nhỏ, Remarque luôn ngưỡng mô mẹ - bà Ana Maria, trong khi lại tỏ ra xa lánh cha – ông Peter Remarque. Ông Peter Remarque bình sinh chỉ là người thợ đóng sách nghèo. Sự vất vả, túng bẩn của gia đình đã khiến cậu bé Remarque mới hơn mười tuổi đã phải tự kiếm sống bằng việc dạy kèm piano. Và cậu phải luôn làm cật lực để bù vào khoản thù lao mà hầu như tháng nào cậu cũng phải xin ứng trước. Dấu ấn những năm tháng cơ cực sau này được nhà văn ghi lại trong nhiều tác phẩm của ông. Tốt nghiệp trung học, Remarque vào đại học Munster , nhưng chưa học xong ông đã bị gọi nhập ngũ và chiến đấu ở mặt trận phía tây. Khoảng thời gian giàu sinh ra tử trong lửa đạn này là nguồn tư liệu quý giá cho ông viết cuốn tiểu thuyết đầu tay. Những điều ông đã kinh qua ít nhiều đều được miêu tả trong cuốn sách ấy. Những tác phẩm tiêu biểu: Phía Tây không có gì lạ; Khải hoàn môn; Ba Người Bạn Đường về; Tia lửa sống; Bia mộ đen; Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết … Hầu hết các tác phẩm đều mang khuynh hướng phê phán và tố cáo xã hội mãnh liệt đồng thời miêu tả sức hủy hoại kinh hoàng của cuộc chiến tranh đế quốc đối với thể chất và tinh thần của con người. *** TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC Tinh hoa văn học của nhân loại nào cũng cần được khám phá và tái khám phá. Mỗi tác phẩm lớn là một xứ sở kỳ diệu và mỗi lần ta tìm đến là thực hiện một cuộc phiêu lưu hoan lạc. Dịch thuật, giới thiệu và biên khảo về những tác phẩm tinh hoa sẽ mở ra các lối cổng dẫn vào những cảnh tượng văn chương khác nhau, qua những không gian và thời gian vừa hiện thực vừa kỳ ảo. Khát vọng hiểu biết và vui thú trong đời là bản tính của con người ở mọi nơi và mọi thời. Các tác phẩm văn chương thật sự vĩ đại đều mang lại hai điều đó: vui thú và hiểu biết. Nhưng hiểu biết là niềm vui hiếm khi tự đến một cách dễ dãi. Cần đón đợi và hồi đáp. Mọi tác phẩm tinh hoa cần được đón đợi và hồi đáp trong niềm hân hoan có tên là “ĐỌC”. ĐỌC. Cầm sách lên và đọc. Trong sách có bạn hiền, có người đẹp, có mọi thứ. Do vậy, chúng tôi chủ trương TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC, xem đó như cửa ngõ của hiểu biết và niềm vui. CÓ NĂM CỬA: • Kiệt Tác: Mỗi Kiệt tác sẽ được dịch trọn vẹn và giới thiệu cả tác giả lẫn tác phẩm trong phối cảnh văn hóa những đặc điểm thiết yếu. • Tuyển: Tuyển chọn những tác phẩm ngắn của một tác giả, một nền văn học hay một chủ đề mang tính điển mẫu (thuộc vòng đời hay vòng mùa) • Kiến Thức: Những kiến thức mà người đọc hiện đại cần có: trào lưu văn học, các nền văn học, thể loại... được trình bày gọn nhẹ, dễ tiếp nhận. • Nghiên Cứu: Các công trình chuyên sâu về một vấn đề văn học, một tác giả thiên tài, lý luận phê bình... • Mới: Về các hiện tượng văn học mới xuất hiện của nước ngoài đang gây chú ý hoặc đoạt các giải thưởng lớn... Mong ước chúng tôi là TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC sẽ tiến bước bền vững và được đón nhận thân tình. Tủ sách được biên soạn và dịch thuật từ những nhà giáo, dịch giả và nhà nghiên cứu có uy tín và tâm huyết với văn chương.   Mời các bạn đón đọc Khải Hoàn Môn của tác giả Erich Maria Remarque.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Đứa Trẻ Đuổi Theo Tinh Tú
Đuổi theo tinh tú… Cũng không khác gì hái sao trên trời, ngụ ý những ước mơ không thể chạm tới. Biết không chạm tới mà vẫn mải miết theo đuổi, là hành động thường chỉ bắt gặp ở tâm hồn không chịu tuyệt vọng như trẻ thơ. Người ngoài nhìn vào thấy rất ngẩn ngơ, nhưng ấm lạnh ra sao chỉ người trong cuộc biết. Giống như người đàn ông vợ chết, cả quãng đời còn lại chỉ ráo riết tìm đường xuống địa ngục phục sinh nàng… Giống như cô bé vì chút tình mới chớm với một anh chàng, mà nồng nhiệt băng mình vào hành trình không thấy ngày mai dưới lòng đất… Bởi nếu không buông bỏ nhịp sống an toàn dù chỉ chốc lát, để đuổi theo những ước mơ dù vô vọng nhất và đối mặt với cảm xúc của mình ở chặng cuối hành trình, thì cuộc đời họ cũng không còn ý nghĩa gì nữa. Tiếp tục đề tài chia ly, nhưng không đẩy nhân vật lên trời cao như Tiếng gọi từ vì sao xa hay trải ra trên trần như 5 centimet trên giây, lần này câu chuyện của Shinkai Makoto lại dắt tất cả xuống lòng đất, sang thế giới đang mai một bên kia… *** Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú hay câu chuyện về những con người tìm về một giấc mơ Trong quá khứ, đã từng có một Shinkai Makoto dịu dàng, dung dị và tối giản vô cùng vô tận ở những bộ phim, câu chuyện ngắn như Kanojo to kanojo no neko – Nàng và con mèo của nàng. Nhưng hiện tại, lại có một Shinkai Makoto khiến người ta đắm say với các thước phim tráng lệ như một bữa tiệc của tình tiết hòa quyện với đồ họa, âm thanh. Tuy nhiên, dù giản dị hay tráng lệ, dù hiện thực hay hư ảo, điều cuối cùng điều Shinkai Makoto hướng đến vẫn là tái hiện những cảm thức rất riêng của con người, xã hội Nhật Bản thời hiện đại. Và Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, bộ phim được công chiếu vào năm 2011, một trong các tác phẩm có thời lượng dài nhất của Shinkai cho tới hiện tại, cũng không nằm ngoài tư duy nghệ thuật ấy. Để từ đó, tiểu thuyết cùng tên được Akisaka Asahi chắp bút chuyển thể từ ngôn ngữ điện ảnh sang ngôn ngữ văn chương đã phần nào lưu giữ, tái hiện được trọn vẹn “chất Shinkai Makoto”. Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú review sách Một áng văn đẹp tựa cổ tích Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, cuốn sách nhỏ chưa đầy 200 trang có một tựa đề đầy thơ mộng, rất gợi, rất thơ, đủ mang tới cho độc giả nhiều suy tư cùng liên tưởng. Tại sao lại là “những đứa trẻ”? “Những đứa trẻ” ở đây là chỉ những đối tượng nào? “Tinh tú” là gì? Là một ngôi sao cụ thể hay là hình ảnh mang ý nghĩa biể tượng nào đó. Và những đứa trẻ kia, vì lý do gì lại phải đuổi theo tinh tú, hành trình ấy sẽ diễn ra như thế nào, có thật thuận lợi, kết quả chúng có thể hoàn thành được tâm nguyện của mình? Quả thực, từ một tiêu đề đầy tính gợi hình, gợi tả, Shinkai Makoto đã mở ra cả một không gian truyện tựa như cổ tích. Ngay chính trong lòng đất nước Nhật Bản thời hiện đại, có một mảnh đất tựa rêu phong phủ kín: Mizonofuchi. Mảnh đất ấy, lại ở ngay phía trên một thế giới dưới lòng đất đang mỗi lúc một suy tàn: Agartha. Cho nên, Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, câu chuyện đấy cứ bảng lảng như thực như hư trong những lời kể, trong những dòng không gian xáo trộn, trong những dòng tâm trạng hay những kí ức, suy tưởng vụn vỡ của con người. Không gian sáng tác tựa như cổ tích, dòng thời gian chảy trôi của các tình tiết cũng như một câu chuyện huyền thoại được viết bằng bút pháp hiện đại. Bởi thời gian ở Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú là một dòng thời lưu có nhiều xáo trộn, đan xen giữa hiện thực – quá khứ; vừa là sự tỉnh lược trong những lời trần thuật, vừa là sự kéo dài mỗi khoảnh khắc, mỗi đêm khó khăn, vất vả của cuộc trình giữa hai thầy trò Asuna – Morisaki. Từ đó, mà cốt truyện dần thành hình và độc giả, không chỉ hiểu về nội dung mà còn hiểu sâu về tư tưởng, tình cảm người viết gửi gắm vào tác phẩm, ngay từ các con chữ đầu tiên, xuất hiện trên tựa đề. Nhật Bản những năm đầu thế kỷ XXI, một thị trấn như bị lãng quên, dòng thời gian như ngưng đọng, nơi đấy, có một cô bé 11 tuổi tên Asuna, dịu dàng, tốt bụng nhưng luôn rụt rè, nhút nhát. Hàng ngày, sau khi tan học, Asuna đều đến mỏm đá cao nơi bìa rừng để bắt sóng cho chiếc radio tinh thể. Tại đây, ngày nọ, Asuna gặp gỡ một cậu bé tên Shun, cư dân của vùng đất dưới lòng đất Agartha. Tình bạn chớm nở giữa hai đứa trẻ và Shun đã cứu Asuna thoát khỏi nanh vuốt một con quái vật. Tuy nhiên, lần đầu gặp gỡ cũng là lần cuối chia tay, Shun chết ngay sau đêm ấy. Và trong buổi học sau đó, Asuna lại được nghe thầy giáo Morisaki nhắc tới mảnh đất Agartha, nơi có thể hồi sinh được người chết. Rồi như định mệnh, Asuna gặp gỡ em trai Shun – Shin, người đến mặt đất lấy lại viên tinh thể Shun để lại. Cô bé, vì quá đỗi kinh ngạc trước sự giống nhau giữa Shin – Shun và nhất là với khao khát cứu sống lại người bạn quá cố, đã cố gắng theo chân cậu bé tới mảnh đất xa lạ kia. Giữa đường, họ gặp cuộc tập kích của những kẻ cũng ôm ấp mưu đồ tới Agartha, trong đó có thầy Morisaki, người đang mang tâm nguyện hồi sinh vợ. Ba con người, mang ba nỗi niềm, tiến đến Agartha, miền đất trong truyền thuyết, nơi lưu dấu những tri thức cổ xưa, nơi cất giữ những bí ẩn cổ đại nhất của nhân loại, nơi ẩn chứa những sức mạnh nằm ngoài tầm với, sự hiểu biết của con người. Và cũng như rất nhiều câu chuyện cổ tích khác, Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, từ mảnh đất của truyền thuyết, với những huyền thoại được thêu dệt, mà con người gửi gắm vào đấy ước mơ, hi vọng. Ước mơ hồi sinh người đã mất, ước mơ được gặp người quá cố, ước mơ tìm về một phần ký ức đã xa, ước mơ được sống những giây phút chẳng còn cô đơn, phiền muộn. “Tinh tú”, vì thế, đâu chỉ tượng trưng cho bầu trời đêm lấp lánh ánh sao trong lần đầu Asuna và Shun gặp gỡ. Đó còn là biểu tượng cho những giấc mơ đẹp, có phần xa xôi nhưng người ta vẫn mãi kiếm tìm, mãi đuổi theo, mãi vươn đến. Bởi, còn đuổi theo tinh tú, con người còn mục đích để tiếp tục sống, tiếp tục hướng đến ngày mai. Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú review Câu chuyện cổ tích, nhưng cũng là câu chuyện của thực tại Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, câu chuyện đẹp tựa giấc mơ cổ tích ấy như gieo vào lòng người đọc những xúc cảm rất thơ, rất mộng của một thời thơ bé ta vẫn từng mơ: xứ sở dưới lòng đất, nơi biến khát vọng con người thành hiện thực, những loài sinh vật chỉ là tưởng tượng hay các cuộc phiêu lưu căng thẳng, kịch tính. Nhưng khi tỉnh dậy từ trong giấc mộng được Shinkai Makoto cùng Akisaka Asahi chắp cánh, hẳn mỗi độc giả, mỗi chúng ta, đều nhận ra rằng: Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, tưởng như cổ tích mà lại là câu chuyện hết sức đời thường, đời thường đến nỗi quá đỗi dung dị. Như đã nói, những tác phẩm của Shinkai Makoto, dù trước kia hay bây giờ, dù hiện thực hay hư ảo, đều chuyên chở ở đó những tầm sâu văn hóa và tâm thức rất riêng của con người Nhật Bản thời hiện đại. Và Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú cũng không nằm ngoài tư duy nghệ thuật ấy Shinkai. Dẫu rằng phần lớn dung lượng cuốn sách nhắc đến Agartha, một địa danh không có thực; nhưng không vì thế mà bóng hình Nhật Bản với vẻ đẹp cổ kính, trang nghiêm trong cảnh sắc thiên nhiên, trong những dấu tích văn hóa, sinh hoạt đời thường của con người trở nên phai nhạt. Quê hương cô bé Asuna sinh sống, thị trấn Mizonofuchi, nơi có trường tiểu học Mizonofuchi như ngưng đọng lại những trầm tích thời gian, lịch sử của một nước Nhật giàu truyền thống. “Ngôi trường bằng gỗ được dựng từ đầu thời Chiêu Hòa, cổ kính, đượm màu thời gian”. Và chính cái tên Mizonofuchi – nghĩa đen tức đáy sâu cũng như gói ở đó bao lắng đọng của cả vật chất lẫn tinh thần của mỗi bước chuyển thời gian ở xứ sở này. Ngọn núi ở Obuchi, mũi đất cô bé Asuna vẫn thường đến để thu bắt tín hiệu cho chiếc radio tinh thể có ý nghĩa biểu tượng như chiếc cổng Tori trong văn hóa Nhật Bản: nối liền hai không gian, gắn kết những chiều thời gian để mở ra hai thế giới vẫn luôn song song tồn tại. Và ngay chính vùng đất truyền thuyết Agartha, cũng mang dáng dấp một Nhật Bản cổ xưa, với những nét đẹp truyền thống, những tri thức cổ đang dần đến bờ vực mai một, thất truyền giữa dòng xoáy của thời gian, của lòng người. Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú Trong một câu chuyện gợi nhiều liên tưởng tới không gian văn hóa đặc trưng của xứ sở mặt trời mọc, thì nhân vật hiện lên, cũng mang nét riêng. Đó là những con người hiện đại đều cùng chung tâm thức giữa cuộc khủng hoảng căn cước: cô đơn vô định giữa cuộc đời, mãi kiếm tìm cái tôi bản ngã hay một lẽ sống, tồn tại trong cuộc sống hay mọi người xung quanh. Họ khao khát được khẳng định chính mình, khao khát được công nhận nhưng đồng thời, họ cũng e sợ, rụt rè trong những mâu thuẫn, giằng xé nội tâm gay gắt giữa được và mất. Như cô bé Asuna đã cô đơn biết bao trong cuộc sống của hai mẹ con mà người mẹ luôn bận rộn công việc, không có thời gian dành cho cô bé. Asuna khát khao được kết bạn, được nói lên tiếng nói cá nhân từ thẳm sâu trái tim nhạy cảm. Nhưng mãi cô bé chẳng nói được, vì sợ hãi mà Asuna, cứ dần khép chặt lại cánh cửa con tim. Hay như cậu bé Shin, mãi đuổi theo bóng hình người anh trai thiên tài mà cậu bé như quên đi mất, bản thân cũng là một cá nhân độc lập, có suy nghĩ, có cuộc sống riêng. Và đấy còn là người thầy Morisaki, sẵn sàng đánh đổi tất cả, chỉ để hồi sinh người đã khuất; người thầy đó, như bao năm qua vẫn luôn ôm ấp một bóng ma để làm lẽ tồn tại cho cuộc đời nhiều thương đau. Mỗi con người, mỗi cảnh ngộ, dù già hay trẻ, dù trải đời hay chưa thì đó đều là một mảnh ghép để hoàn thiện bức tranh về Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú. Hay có thể nói chăng, chính là con người, nên dù mãi đuổi theo niềm mơ ước riêng của cá nhân, dẫu có xa xôi, dẫu có viển vông, thì đấy vẫn là ước mơ, đích đến cho con người ta sống, tồn tại, vươn lên dưới bầu trời. Shinkai Makoto – từ ngôn ngữ điện ảnh đến ngôn ngữ văn chương. Điểm mạnh dễ nhận thấy nhất trong phim của Shinkai Makoto sau hàng loạt tác phẩm như Tiếng gọi từ vì sao xa, 5cm/s, Khu vườn ngôn từ… là ở mảng đồ họa trong ngôn ngữ điện ảnh. Các thước phim của ông, đều là bữa tiệc thịnh soạn của hình ảnh, âm thanh, ánh sáng, từ đó mà đầy cảm xúc của người xem đến cao trào. Đó là ưu điểm; song cũng là một sự thách thức cho các nhà văn, khi chuyển thể sáng tác của Shinkai Makoto từ ngôn ngữ điện ảnh sang ngôn ngữ văn chương. Bởi văn chương, chỉ có thể dùng ngôn từ để tái hiện lên những gì vốn là hình ảnh, âm thanh mà thôi. Và với Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, Akisaka Asahi đã phần nào đáp ứng được thử thách khó khăn đấy. Một cuốn sách dung lượng không quá dài nhưng lại để tái hiện một bộ phim có chiều dài gần hai tiếng. Ngôn từ cô đọng, kể, tả, tạo điểm nhấn vào những sự kiện khá đắt giá: lúc Asuna gặp Shun, Asuna và thầy Morisaki những ngày đầu ở Agartha, khoảnh khắc ba con người đem ba vọng ước trên mảnh đất huyền thoại đối mặt với điều ước cải tử hoàn sinh… Để rồi, dẫu không thể mang tới cho độc giả một bữa tiệc của hình ảnh, âm thanh như thế mạnh của điện ảnh; thì Akisaka Asahi, vẫn mang tới cho người đọc một tác phẩm, đủ gợi hình, gợi tả về những giấc mơ đã xa, và về cả những khát khao trong hiện tại lẫn tương lai. Mọt Mọt Mời các bạn đón đọc Những Đứa Trẻ Đuổi Theo Tinh Tú của tác giả Asahi Akisaka & Makoto Shinkai & Lan Hương (dịch).
Dạo Bước Phố Đêm
Một cậu con trai đặc biệt để ý một cô gái có mái tóc đen. Cậu đã lặng lẽ đeo đuổi cô từ một đêm ở Ponto-cho, đến hội chợ sách cũ tại đền Shimogamo, rồi đến cả lễ hội trường. Dù họ học cùng một trường đại học, là bạn bè khóa trên khóa dưới, nhưng cô gái không bao giờ nhận ra cảm xúc của cậu. Dù hai người họ “ngẫu nhiên gặp gỡ” bao nhiêu lần, cô vẫn chỉ nói, “Tình cờ quá anh nhỉ!” Hàng loạt sự kiện hiếm khi xảy ra đã xảy ra, bao nhiêu con người kì lạ đầy cá tính đã tụ tập lại, giúp cảm xúc hai phía tìm được đến điểm hẹn chung. Đây là một tác phẩm văn học đáng yêu thuộc thể loại huyền ảo và pop romance. Cũng là một tác phẩm xuất sắc đã đoạt giải Yamamoto Shuguro và xếp vị thứ 2 trong giải Honya. *** Dạo bước phố đêm Câu chuyện dưới đây không phải của tôi, mà của cô ấy. Để giành giật vai chính trên cõi đời đông đảo diễn viên này, người ta chẳng ngần ngại giở đủ mọi chiêu trò, trong khi cô ấy thì, không mất chút hơi sức nào cũng chiếm hết ánh đèn sân khấu của đêm đó. Bản thân cô chẳng hề nhận ra điều ấy, thậm chí đến tận bây giờ cũng không. Đây là thiên du kí về một đêm ngẩng đầu sải chân bước đi trong hơi men của cô, đồng thời là ghi chép về nỗi chua chát của tôi khi chẳng thể giành được vai chính, đành cam chịu với thân phận hòn đá ven đường. Thưa các bạn độc giả, hãy đọc kĩ và thưởng thức vẻ đáng yêu của cô ấy cũng như sự ngu ngốc của tôi, nhấm nháp hương vị quyến rũ hấp dẫn không thua gì thạch hạnh nhân của cuộc sống, cho đến khi chúng ngấm sâu vào tim nhé. Xin hãy cổ vũ cho cô ấy. Các bạn có biết “Nắm đấm thân thiện” là gì không? Ví dụ, khi có chuyện gì đó xảy ra mà phải đấm vào má người khác, người ta sẽ siết chặt nắm tay. Quan sát thật kĩ bàn tay ấy nhé. Có thể nói ngón cái bọc bên ngoài hệt như một phụ kiện kim loại giúp bốn ngón còn lại khít vào nhau. Chính nhờ ngón cái mà nắm tay đó mới trở thành một nắm đấm thực sự, hoàn toàn đập nát khuôn mặt cũng như lòng tự trọng của đối phương. Lịch sử đã chỉ ra một lẽ tất nhiên là bạo lực sẽ chỉ sinh ra bạo lực mà thôi. Sự thù ghét sinh ra dựa trên ngón tay cái sẽ lan rộng khắp thế giới như lửa cháy trên đồng cỏ. Trong hỗn loạn và đau thương kéo tới ngay sau đó, tất cả những điều tốt đẹp mà ta cần bảo vệ đều sẽ trôi đi theo dòng nước. Nhưng, hãy nới lỏng nắm đấm và chỉnh cho bốn ngón tay còn lại bọc lấy ngón cái mà xem. Khi ấy, nắm đấm vốn trông hung hãn, gồ ghề sẽ trở nên có vẻ rụt rè hơn, đáng yêu hệt như nắm tay của chú mèo mời khách. Chẳng ai có thể dồn hết nỗi căm hận vào một nắm tay nhìn hài hước như vậy cả. Từ đó, chuỗi bạo lực sẽ bị ngăn chặn, mang lại sự yên bình cho thế giới và gìn giữ những điều tốt đẹp ít ỏi còn sót lại. “Nếu nhét ngón cái vào trong thì dù có muốn cũng không siết chặt nắm tay được. Ngón cái bị giấu đi đó chính là tình yêu đấy anh.” Cô nói với tôi như thế. Ngày cô còn bé, chị cô đã dạy cho cô cách tạo “Nắm đấm thân thiện” và dặn, “Em nghe này, là con gái thì không được đụng đâu đấm đó. Song, trên thế giới rộng lớn này, người có đạo đức chuẩn mực và học thức cao lại chẳng được mấy ai, còn đâu chỉ toàn một lũ không ngu xuẩn cũng thối nát, hoặc vừa ngu xuẩn vừa thối nát, thế nên sẽ có những lúc dù em không muốn thì vẫn phải dùng đến nắm đấm, lúc ấy cứ dùng ‘Nắm đấm thân thiện’ chị đã dạy. Một nắm đấm bình thường không có tình yêu, nhưng ‘Nắm đấm thân thiện’ thì có. Sử dụng ‘Nắm đấm thân thiện’ tràn ngập tình yêu và cư xử dịu dàng với tất cả mọi người, em sẽ mở ra một cuộc sống tươi đẹp và hài hòa.” Một cuộc sống tươi đẹp và hài hòa. Những lời ấy đã khiến trái tim cô rung động. Vì thế, cô có một sở trường gọi là “Nắm đấm thân thiện”. Hôm đó là một ngày cuối tháng Năm, sắc xanh căng tràn của cây lá đã phần nào nhạt bớt. Một cựu thành viên câu lạc bộ hồi đại học của tôi là anh Akagawa quyết định tổ chức đám cưới. Nghe đâu tiệc chỉ mời những người thân quen. Tuy hầu như chưa nói chuyện với anh lần nào, tôi vẫn đến dự cưới coi như tỏ lòng kính trọng người thuộc hàng sư phụ mình. Ngoài tôi ra còn vài thành viên khác của câu lạc bộ, trong đó có cả cô ấy. Anh Akagawa hình như cũng là sư phụ của cô ở một môi trường khác. Trên con đường tăm tối từ ngã tư Shijo-Kiyamachi đi xuống dọc bờ sông Takase, có một nhà hàng ba tầng bằng gỗ mang phong cách cổ điển phương Tây đang hắt ánh sáng ấm áp lên hàng cây ven sông. Ánh đèn đã ấm áp, bên trong còn ấm áp hơn. Hoặc nên nói là nóng. Cô dâu chú rể trông rất xứng đôi. Họ thề ước sẽ bên nhau trọn đời, rồi chú rể bế cô dâu lên hôn để chụp ảnh. Sự nhiệt tình ấy lập tức đốt thành than tất cả những người có mặt ở đây, nóng bỏng đến mức ngay cả Chúa vốn điềm nhiên cũng phải e sợ. Nghe nói chú rể làm việc cho chi nhánh của một ngân hàng ở Karasuma Oike, cô dâu là nhân viên nghiên cứu của công ty chế biến rượu ở Fushimi, cả cô dâu lẫn chú rể đều là mẫu người không bận tâm ý kiến của cha mẹ nên đến tận bây giờ hai nhà vẫn chưa gặp nhau lần nào; nghe nói tình yêu của họ chớm nở từ những ngày đầu của năm nhất đại học, trải qua bao gian truân thăng trầm, vượt qua bao đồi núi mới đến được với nhau, vân vân. Các thiên tình sử thường tẻ ngắt, lại thêm chẳng hề quen biết cô dâu chú rể nên tôi càng thấy nhàm chán, đành giết thời gian bằng cách tập trung ăn uống và quan sát cô gái ngồi ở góc bàn. Cô đang nhìn chòng chọc vào một cái vỏ ốc sên cạnh chiếc đĩa lớn, ra chiều thích thú lắm. Dù không hiểu cái vỏ ốc ấy có gì hấp dẫn, việc ngắm cô vẫn làm tôi thấy vui. Cô ấy là đàn em của tôi trong câu lạc bộ. Có thể nói tôi đã yêu cô ngay từ cái nhìn đầu tiên, nhưng vẫn chưa có dịp nào nói chuyện thân thiết. Mặc dù đã nghĩ đêm nay chính là cơ hội trời cho, song, bởi thất bại trong việc tìm cách ngồi cạnh cô ấy nên bao nhiêu kế hoạch của tôi đều ngâm nước nóng cả. Bỗng nhiên người chủ trì đứng dậy, “Tiếp theo đây là bài phát biểu của chú rể Akagawa Yasuo và cô dâu Todo Naoko. Xin mời hai bạn.” Thì ra tên cô dâu là Todo Naoko à? Giờ tôi mới biết. Tiệc cưới ở nhà hàng kết thúc, khách khứa từ từ tràn ra đường. Trong dòng người đang vui vẻ chuẩn bị kéo nhau đi tăng hai, tôi đảo mắt như chim ưng săn mồi, tìm xem liệu sợi chỉ đỏ nối giữa tôi và cô ấy có rơi đâu đó trên đường hay không. Tiếc thay tôi phải thất vọng tràn trề khi thấy cô cúi đầu chào những người khác và rời đi một mình. Hình như cô đang định về nhà. Đã vậy thì tôi chẳng việc gì phải đi tiếp tăng hai cả. Thế là tôi rời khỏi đám người, đuổi theo cô. Tôi không nói nổi thành lời mấy câu như “Em ơi đừng về vội, ở lại uống với anh một ly đã nào”, nhưng cứ phải bám theo cô trước đã. Bên hông nhà ga Hankyu Kawaramachi gần Shijo-Kiyamachi, có một cậu thanh niên đang chơi guitar và khán giả say sưa lắng nghe, những gã đàn ông mặc Âu phục đen đi vòng quanh tán tỉnh các cô gái trên đường, già trẻ gái trai tấp nập tới lui với khuôn mặt đỏ bừng, mong muốn tìm được chỗ nghỉ chân tiếp theo. Tôi đã nghĩ cô sẽ rẽ về hướng cầu Shijo, không ngờ cô trầm ngâm một chút xong vẫn tiếp tục đi theo hướng Bắc. Đằng sau hàng cây xanh um tươi tốt rợp bóng bên bờ sông Takase hắt ra ánh sáng màu cam của một tiệm cà phê lâu đời tên Muse. Trước cửa tiệm, cô làm động tác giậm chân như một con robot, có vẻ đang thầm củng cố quyết tâm làm một điều gì đó. Rồi, cô ưỡn ngực và rẽ vào một hẻm nhỏ. Tôi mất dấu cô ở đấy. Trước mắt tôi là một con hẻm bé tẹo đáng ngờ với các cửa hiệu đèn mờ bị những tòa nhà cao tầng đa dịch vụ bao quanh. Chẳng thấy bóng dáng cô đâu nữa. Cứ bị làm phiền bởi lời mời mọc của những gã đàn ông ở các cửa hiệu hai bên đường, tôi đành phải ra khỏi con hẻm. Chỉ trong chớp mắt, tôi đã để vuột mất cơ hội bắt chuyện với cô ấy. Thế nên, bây giờ tôi sẽ rời khỏi sân khấu, để cô bắt đầu chuyến dạo chơi trong đêm của mình. Và từ đây, cô ấy sẽ là người kể chuyện. Mời các bạn đón đọc Dạo Bước Phố Đêm của tác giả Tomihiko Morimi & Đỗ Phan Thu Hà (dịch).
Đời Bình An (1972)
Thể loại: Tình cảm lãng mạn, truyện vừa, thời chiến, HE... Số chương: 5 chương full Lần đầu gặp nhau, không hiểu sao anh ấy lại la tôi, thế nhưng sau lại cứu tôi. Lần thứ hai gặp nhau, anh lại mở lời với tôi, nhưng lại hỏi một câu mà tôi chẳng biết nên trả lời thế nào. Anh nói:  - Tôi muốn đồng chí Hoa bày tỏ với người đồng chí thầm thương. Làm sao mà tôi nói được, người tôi thầm thương vừa mới nói như vậy xong, sao tôi có thể bày tỏ bây giờ. Nhưng mà anh không biết tôi có tình cảm với anh sao?! Đến lần gặp thứ mấy cũng không nhớ nữa, anh hôn tôi xong lại hỏi: "Đồng chí Hoa đồng ý nhập hộ khẩu vô nhà tôi không?" với lời hứa "cho em sống đời bình an". Rồi đêm tân hôn, tôi ôm anh khóc lớn, nói anh hứa không bắt nạt em mà! Anh cười bảo, khờ quá làm chuyện vợ chồng thì đàn bà phải đau... Câu chuyện tình đáng yêu và dễ thương của cô quân y với anh chàng Tiểu đội trưởng, lấy bối cảnh năm 1972 trước ngày giải phóng mùa xuân năm 1975. Về thanh xuân, về tình yêu và tình vợ chồng trong thời chiến, đáng trân trọng lẫn gìn giữ. Cùng những sự kiện nổi bật diễn ra ở miền Nam suốt 3 năm trước khi đất nước thống nhất, như Mùa hè đỏ lửa hay việc Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa... ...... *Tư liệu tham khảo: Wiki tiếng Việt "Chiến tranh Việt Nam". *** Đó là đầu xuân 1972, năm ấy tôi mười tám tuổi, làm y tá trong quân y rồi theo phẫu sư đoàn đóng trong rừng An Giang dưới miền Tây. Tôi băng bó và chăm sóc vết thương cho nhiều thương binh cả nam lẫn nữ nhưng chung quy tôi vẫn là đứa con gái mới lớn, chưa từng tiếp xúc gần gũi với đàn ông, dù bác sĩ giao việc gì tôi cũng cố gắng làm hết, duy cái chuyện lau rửa vết thương nơi chỗ kín cho nam thương binh nằm liệt giường thì tôi không làm được! Tôi cố chấp lắc đầu trước mặt bác sĩ, và trước mặt anh chàng Tiểu đội trưởng. Tiểu đội hơn chục người vừa bị địch xung kích, mấy đồng đội của anh ta bị thương nặng do trúng đạn hoặc trúng bom mới được khiêng về đây hai hôm trước. Đây là lần đầu chúng tôi giáp mặt nhau. Anh ta cao phải tới thước tám, thân hình to lớn trong áo bộ đội lấm đất, đầu đội nón kết, khuôn mặt sáng sủa ưa nhìn với nước da hơi ngăm, ánh mắt hướng vào tôi nghiêm nghị khó chịu: - Tại sao đồng chí không làm? - Tiểu đội trưởng, em là gái chưa chồng, chỗ đó của đàn ông... sao em có thể? - Đã gia nhập quân ngũ, chấp nhận làm y tá thì đồng chí phải săn sóc thương binh dù với mọi vết thương, ở bất cứ vị trí nào. Đồng đội tôi xả thân chiến đấu, còn đồng chí ở đây phân biệt nam nữ, vậy có đúng không? Tôi nhìn anh ta, thầm nghĩ ngoài chiến trường có cái khổ của chiến trường, nơi quân y cũng có cái khó của quân y, anh ta tại sao không thể thông cảm cho một đứa con gái mới làm y tá hơn một năm như tôi? Bác sĩ đứng giữa khó xử, anh Khánh từ đâu chạy lại, bảo để anh làm giúp tôi vì anh là y tá nam, sẽ dễ hơn! Tôi thấy anh cười gật đầu với mình, liền nói câu cảm ơn. - Đồng chí cứ vậy sao thành y tá thành thạo được? Tôi không thích đứa con gái suốt ngày chỉ biết khóc khi ở ngoài chiến trường khói lửa này. Tiểu đội trưởng quay lưng rời đi, tôi bặm môi, chị Miên đứng kế bên an ủi: - Thôi để ý chi, người ta là Tiểu đội trưởng, đòi hỏi nghiêm khắc là chuyện thường. Nghe đâu, tiểu đội anh ta cũng khá lắm đó. Giỏi vậy sao bị địch xung kích bị thương tới mấy người? Tôi không nói ra lời đó chỉ quay lại công việc của mình, trước khi rời lán, tôi còn nghe loáng thoáng chị Miên nói với anh Khánh, Tiểu đội trưởng hình như tên Khởi! Tôi biết anh ta đề cập đến chuyện khi nãy tôi đứng trong góc bếp khóc thầm. Tôi khóc vì nhớ nhà chứ không phải vì tôi sợ! Tía tôi hi sinh trong một lần làm nhiệm vụ, mùa đó miền Tây địch bắn phá cầu đường dữ dội hòng ngăn tiếp tế từ quân ta, tía tôi cùng mấy đồng chí giao thông chung vai quyết giữ đường lên biên giới. Cả đời tía tôi bảo vệ những con đường, những vòng bánh xe chở quân, chuyển hàng từ hậu cần ra tiền tuyến. Má có mình tôi, hồi đó đi làm ruộng má đau đẻ giữa chừng. Má nói lúc mở mắt ra thì nghe tiếng tôi khóc rồi, xung quanh thấy mấy bông dại nở nhụy, thế là đặt luôn cái tên Nhụy Hoa. Nhiều người đọc trại, cứ gọi tôi là nhị này nhị nọ miết. Má bảo tôi hãy như hoa dại, kiên cường khoe sắc, cả đời vui vẻ hồn nhiên. Mong mỏi của má khó thành khi năm mười bảy, tôi xin má đi bộ đội, má không nói gì ngoài việc đồng ý. Má biết thời chiến tranh, những lứa thanh niên luôn xung phong đi bộ đội, góp sức mình trong việc giải phóng nước nhà. Má bảo tôi cẩn thận với con trai, đừng quên nhiệm vụ của mình, môi trường quân đội kỷ luật, đứa con gái như tôi sẽ được rèn giũa nghiêm khắc. Tôi kiên quyết là vậy, thế mà ngày ra đi nước mắt chảy mãi không ngừng. Tôi chọn quân y, chẳng cần phải ra tận chiến trường cầm súng giết địch, ở đây tôi có thể chăm sóc cho nhiều người, giúp họ xoa dịu những cơn đau do chiến tranh bom đạn khốc liệt gây ra. Tôi học trong lớp y tá quen được nhiều đồng chí nữ, có người đang độ xuân xanh cũng có người đã lấy chồng đẻ con. Lớp học nam nữ học chung, và tôi biết anh Khánh. Người đen nhẻm, tốt tính, hay cười. Anh chăm lo cho tôi lắm, tôi xem anh như anh trai. Cái duyên thế nào khi khóa học trôi qua, tôi với anh lại về cùng một đơn vị, thế là thân càng thêm thân. Tôi hay gửi thư cho má, lúc đầu ở đây tôi nhớ nhà lắm, dần dần thì nguôi ngoai. Quân y làm việc liên tục, ca trực không lúc nào ngơi nghỉ, nhiều đêm vừa đặt lưng xuống chiếu nhắm mắt chưa bao lâu đã nghe tiếng bom dội lại, biết ngay thể nào cũng có thương binh chở đến. Hơn một năm, qua những ca trực vất vả tới sáng, tôi cũng quen rồi. Chiều chiều ngơi tay chút, chị Miên rủ tôi qua lán mấy anh nam nói chuyện cho vui. Nơi đây chỗ nào tôi cũng dám đi, riêng có chỗ này thì e dè, vì mỗi lần tới đây đều thấy toàn đàn ông con trai, họ thấy tụi tui lại chọc ghẹo liên tục. Vài lần tôi từ chối mà chị Miên có chịu đâu, bảo anh Khánh ở bển trông em qua đấy hoài! Tôi sang đó chỉ nói được dăm ba câu với ảnh, chẳng làm gì khác. Hôm nay qua tới nơi, tôi không những thấy mấy anh quân y mà còn vài bộ đội chiến đấu với cả Tiểu đội trưởng tên Khởi kia. Nhóm bộ đội thân thiện nói râm ran kể đủ thứ chuyện đánh Mỹ, anh chàng Tiểu đội trưởng ở trong lán, lâu lâu nhìn ra ngoài và vừa thấy tôi lại quay mặt đi. Chị Miên để ý người ta hay sao mà cứ hỏi: - Ảnh ít nói quá hả? - Anh Khởi cũng hòa đồng lắm, không xét nét cấp trên cấp dưới, bình thường thì vui vẻ nhưng ra tới chiến trường thì nghiêm túc dữ thần. - Ảnh nhiêu tuổi, có vợ chưa? - Mới ngoài hai mươi, chưa vợ. Nhiều cô đòi thương mà ảnh từ chối hoài hà. - Thế chị hỏi kỹ vậy, định hỏi cưới Tiểu đội trưởng tụi này hả? - Ờ thì ảnh gật cái là tui hỏi cưới liền! Chị Miên bông đùa, ai nấy đều cười rần rần trước tánh bạo dạn của chị. Từ trong lán Tiểu đội trưởng đi ra, tôi thấy mọi người lập tức im bặt, chắc sợ đội trưởng la cho một trận vì biết nãy giờ mình trở thành mục tiêu bị bàn tán cỡ nào. - Tôi vô rừng có chút việc, mấy đồng chí ngồi đây coi mắt tới đồ đạc giúp tôi. - Đồ quan trọng lắm hả Tiểu đội trưởng? - Mấy cái đó mất, tôi không làm lại được. Dõi theo bóng dáng anh ta khuất sâu trong rừng, mọi người tiếp tục câu chuyện dở ban nãy. Tự dưng tôi tò mò nhìn vô lán, trên chiếc bàn nứa ọp ẹp là một cuốn sổ cũ, mấy lá thư rồi vài thứ lỉnh kỉnh. Tôi nghĩ chắc thư tình của anh ta. Không khí đang vui vẻ thì thình lình máy bay đến. Đằng sau những ngọn cây cao vút, bọn địch ập tới chẳng khác gì sấm sét. Một bộ đội liền đứng dậy nói rõ ràng nhưng không quá lớn: "Chúng đánh tọa độ đó!", một thứ ánh sáng lạnh chớp giật, đất bên dưới rùng mình một cái. Tất cả chúng tôi nằm sát xuống nín thở, tiếp theo đất đá cùng mấy cành cây lớn từ trên đầu đổ ào xuống. Máy bay địch vẫn ở trên cao, hết đợt này lại đến đợt khác! Loạt bom không thả trực tiếp xuống chỗ này, mà cách một khoảng nhưng đủ để rung chuyển mấy cái lán dựng siêu vẹo tại đây. Không ai bảo ai, chúng tôi lập tức đi tìm chỗ nấp. Trong đầu tôi khi ấy bất giác nhớ tới Tiểu đội trưởng, phía rừng nơi anh ta vừa đi về gần với chỗ đánh tọa độ của địch, không biết anh ta may mắn thoát được không. Rồi mắt liếc nhanh về bàn nứa, có mấy thứ đồ quan trọng anh ta nói giữ hộ. Mặc xung quanh cây lớn đổ ào, tôi chui vô lán, quýnh quáng lấy cuốn sổ với thư từ, kèm theo vài thứ khác. Một tiếng bom dội ầm, tôi giật mình thụp xuống, chợt có ai đó nắm vội tay tôi kéo giật lại, nhìn qua mới phát hiện là Tiểu đội trưởng. "Chạy mau!", anh ôm chặt lấy tôi chạy vội ra khỏi lán. Máy bay địch còn quay mòng trên đầu kèm theo từng đợt pháo sáng rực. Tìm được khe đá an toàn, anh ta đẩy tôi vào bên trong núp, còn mình đứng nửa thân ngoài nửa thân trong. Tiếng ầm ầm dội ở ngoài, địch bắn hai mươi ly nghe rát cả tai. Khe đá chật chội tối om, và tôi cảm nhận hơi ấm truyền vào lòng bàn tay mình. Vai tôi với vai Tiểu đội trưởng đụng nhau, tay anh ta vẫn nắm chặt tay tôi, đây là lần đầu tiên tôi tiếp xúc gần gũi với con trai đến vậy. Tôi nhìn sang bên, ánh sáng yếu ớt của buổi chiều cùng pháo sáng trên cao giúp tôi nhìn rõ bóng dáng to lớn đang che chắn ngoài cửa khe. Vị đội trưởng trong tấm áo bộ đội mạnh mẽ lẫn quyết liệt khi bảo vệ tôi. Hình ảnh đó như đập vào trong tâm trí tôi, rất lâu về sau... Máy bay cuối cùng cũng bay đi. Bắt đầu nghe âm thanh lào xào, chắc mọi người đã trở lại dãy lán, tôi với Tiểu đội trưởng cũng đi ra. Không bị dội bom nhưng cành cây đổ xuống làm vài cái lán bị sụp. Chúng tôi nhanh chóng chạy về chỗ lán của phẫu sư đoàn, may chỗ này chưa bị thiệt hại nhiều. Đứng một lúc, tôi phát hiện vai phải của Tiểu đội trưởng chảy máu, màu đỏ thấm đẫm vải áo. - Tiểu đội trưởng, anh bị thương rồi kìa! - Vết thương nhẹ thôi, không sao. - Rồi anh ta nhìn tôi - Nghe tiếng máy bay, tôi chạy vội về thấy ai nấy đều tìm chỗ nấp, sao đồng chí còn chạy vô lán? Bấy giờ mới sực nhớ, tôi đưa ra cái túi vải cũ sờn mà ban nãy kịp bỏ đồ vào trong đó, trả lại cho anh ta và nói rõ: - Hồi nãy anh đi có nhờ coi giúp những thứ này, anh nói rất quan trọng nên em mới quay vô lán để lấy cho anh. Tôi thấy Tiểu đội trưởng ngây người một thoáng, vẻ mặt giống kiểu vừa bất ngờ vừa ngạc nhiên, tiếp theo anh ta đón lấy cái túi vải rồi mở ra xem, tôi nghĩ là mình đã lấy đủ hết. Sau đó anh ta nhìn lại tôi, giọng dường như nhẹ nhàng hơn chút: - Đây là nhật ký của tôi với mấy lá thư gia đình gửi, vài kỷ vật của đồng đội, đúng là quan trọng nhưng không đến mức khiến đồng chí phải mạo hiểm như vậy. Nghe anh ta nói thế bất giác tôi thấy chàng trai này hiền lành đến lạ, lúc này trông anh thật khác với sáng nay khi quở trách tôi. - Tại em nghĩ chạy vô lấy ít đồ chắc cũng không sao. - Đồng chí nhỏ nhắn vậy mà gan lớn quá. - Nhưng hồi sáng Tiểu đội trưởng nói em chỉ biết khóc. Thật tình tôi chỉ buột miệng nhắc lại thôi, nào ngờ Tiểu đội trưởng trở nên khó xử liền đưa tay lên gãi đầu, nhưng anh ta quên mất mình đang đội nón kết thành ra càng thêm bối rối, tôi trông thế mà buồn cười vô cùng. - Sáng nay tôi không đúng khi nặng lời với đồng chí. Tôi thấy đồng đội đau đớn vì bị thương nên sốt ruột, không thông cảm khi đồng chí là một cô gái. - Cái đó em hiểu, điều em không thích là Tiểu đội trưởng nói em chỉ biết khóc. - Ban nãy thấy đồng chí liều mình thì tôi biết cô can đảm cỡ nào rồi. Không nghĩ Tiểu đội trưởng khó tính đó lại khen mình, tôi ngượng ngùng cười. - Đồng chí tên gì? - Nhụy Hoa, cái tên nghe hơi buồn cười, má đẻ em trong bụi hoa dại nên đặt vậy. - Tôi thấy cũng hay, thế đồng chí biết tên tôi chưa? - Nghe mọi người nói Tiểu đội trưởng tên Khởi. - Phong Khởi, là nổi gió đó. Đồng chí thấy ở đâu nổi gió thì ở đấy có tôi. - Tiểu đội trưởng cũng biết nói đùa nghen. - Quê đồng chí Hoa ở đâu? - Em ở Vĩnh Long. - Ủa vậy là đồng hương rồi, tôi cũng ở Vĩnh Long đây. Tôi nghe tiếng anh cười khẽ, cùng lúc một đồng chí bộ đội đi tới hỏi về hành trình ngày mai, anh gật đầu xong quay qua tôi nói rằng: - Mai tiểu đội tôi phải rời khỏi đây, chẳng biết chúng ta có còn gặp lại không. - Quân y tụi em thường đâu có ở một nơi, chỗ này bị địch đánh tọa độ lần thứ ba rồi, có lẽ sẽ phải dời đi chỗ khác. Phong Khởi tỏ vẻ tiếc nuối, mà cũng lạ, lòng tôi cũng mang chút nuối tiếc. - Thôi, trong thời chiến gặp gỡ nhau vậy cũng là cái duyên. Đồng chí bảo trọng, mong có ngày gặp lại, đến lúc đó hi vọng đồng chí trở thành y tá giỏi giang. - Tiểu đội trưởng, anh cũng bảo trọng. Tôi dứt lời, Phong Khởi liền đưa tay lên mái tóc rối của tôi, khoảnh khắc ấy tim tôi đập nhanh kỳ lạ. Mãi đến khi anh lấy xuống một bông hoa dại vô tình vướng vào tóc lúc nào chẳng hay, thả rơi nó vào lòng bàn tay tôi. Anh cười, nhìn thật duyên, đôi mắt long lanh hơn cả những vì sao trên trời đang dần về đêm. Lúc anh quay đi, tôi không hiểu cảm giác xao xuyến này của mình là gì... Chỉ biết rằng, tôi đã ép khô bông hoa dại ấy, cất vào sổ tay giữ cho riêng mình. Hôm sau, Phong Khởi cùng tiểu đội lên đường, còn rất nhiều những trận chiến đang chờ đợi họ. Phẫu sư đoàn chúng tôi cũng chuyển đến chỗ khác. Sau lần đó, lòng tôi tràn đầy hi vọng lẫn chờ đợi, dẫu thứ mình đợi thật mơ hồ. Thời chiến, gặp gỡ rồi chia xa là điều rất hiển nhiên. Không ai trong chúng tôi biết được định mệnh phía trước của mình là gì, sẽ ra sao. Dù vậy, những con người mang trong mình trái tim thanh xuân này vẫn tiếp tục hành trình gian khổ vì lý tưởng lẫn khát vọng về một tương lai hòa bình. ...[Và năm ấy, xảy ra một sự kiện lớn, đó là Chiến dịch Xuân - Hè, còn gọi là "Mùa hè đỏ lửa 1972", bước ngoặt vô cùng quan trọng gần như thay đổi cục diện chiến tranh miền Nam bấy giờ. Chiến dịch kéo dài gần một năm, bắt đầu từ tháng ba năm 1972 đến tháng giêng năm 1973 do Quân Giải phóng miền Nam hòng chống lại chính phủ Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa. Cuộc tấn công diễn ra với quy mô lớn, tiến thẳng vào tuyến phòng ngự quan trọng ở Quảng Trị - Thừa Thiên Huế, Bắc Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ. Thời điểm đó mây Quảng Trị nhuộm một màu đỏ, Tây Nguyên khói lửa ngày đêm, những con đường miền Tây ngập tràn lửa đạn, một phần các tỉnh Bình Long, Phước Long, Tây Ninh được giải phóng với mười tám tháng ròng rã của chiến dịch Nguyễn Huệ trước khi Hiệp định Paris 1973 được ký kết.] ... Thắng trận nhưng thương vong cũng không ít. Ngoài tiền tuyến bộ đội chiến đấu ngày đêm, nơi hậu cần quân y chúng tôi không biết một ngày phải tiếp nhận bao nhiêu thương binh, trải qua bao nhiêu cuộc phẫu thuật xuyên đêm. Kỳ lạ thay, dù mệt mỏi đến đâu, hay trong những giấc ngủ chập chờn, thì tôi vẫn luôn nhớ về một hình bóng rất xa xôi. Nhớ ngày hôm đó, hình ảnh chàng trai đẩy tôi vào khe đá và đứng chắn bên ngoài bảo vệ, nhớ nụ cười của anh, đôi mắt sáng lấp lánh, cả bông hoa dại anh lấy xuống từ mái tóc tôi... Thời chiến đầy gian khổ mà cũng kỳ diệu thay, người ta có thể mang trong mình bóng hình không bao giờ gặp lại, hay một lời hứa chưa từng được nói ra, vậy mà vẫn chẳng cách nào quên được. Mời các bạn đón đọc Đời Bình An (1972) của tác giả Võ Anh Thơ.
Chú Hãy Ngủ Với Tôi
Chú Hãy Ngủ Với Tôi của tác giả Võ Anh Thơ là tựa truyện ngôn tình, sắc, hài hước. Câu chuyện kể về cô là Đỗ Như, xuất thân là một thiên kim tiểu thư của dòng họ Đỗ, tròn hai mươi tuổi, lạnh lùng ngang bướng, không còn muốn sống vì mắc bệnh tim và bị người yêu bỏ rơi. Còn anh là Tôn Duy, một anh chàng nhân viên kế toán bình thường, năm nay ba mươi tuổi, hơi nóng tính và dễ cáu gắt, đã có vợ. Do số phận sắp đặt, “băng” với “lửa” tình cờ gặp nhau. Để rồi tiếp đến một bản hợp đồng tình nhân được tạo nên: một tuần một đêm, với tám điều khoản trong hợp đồng ngoại tình. *** BẢN HỢP ĐỒNG NGOẠI TÌNH BÊN A: Họ và tên: Đỗ Như Chiều cao: 1m58 Nhóm máu: O Số CMND: 0244 XX XXX Ngày tháng năm sinh: 03/01/1994 Địa chỉ: (bí mật) Nghề nghiệp: sinh viên ngành quản trị kinh doanh Điện thoại: 0977 XXX XXX Một vài điều về bản thân: Cô chủ của họ Đỗ, mẹ là giám đốc công ty mỹ phẩm Hoàng Hiệp. Lạnh lùng kiêu ngạo, ngang bướng và tinh ranh. Thích màu xám (màu trung hoà giữa "trắng sáng" & "đen tối"). Hay mỉm cười, tỏ ra ngây thơ khi muốn lợi dụng người khác để đạt mục đích... Bị bệnh tim. Thất tình vì bồ đá. BÊN B: Họ và tên: Tôn Duy Chiều cao: 1m8 Nhóm máu: B Số CMND: 0244 XX XXX Ngày tháng năm sinh: 19/04/1984 Địa chỉ: (bí mật) Nghề nghiệp: nhân viên kế toán Điện thoại: 0163 XXX XXX Một vài điều về bản thân: Chàng trai có vẻ ngoài bình thường, nóng tính hay cáu gắt nhưng đôi khi khá trầm. Thích những màu nhạt vì tạo cảm giác dễ chịu. Những khi bắt buộc ai làm điều gì thì tỏ ra mặt nghiêm. Hiện đang làm kế toán ở Hoàng Hiệp. Đã kết hôn. Gia đình có mẹ già bệnh, bốn em gái đi học. Nay Bên A và Bên B đồng ý lập Bản hợp đồng ngoại tình kéo dài hai tháng. Hai bên phải tuân thủ đúng tám điều khoản được đặt ra trong hợp đồng. Nếu một trong hai bên vi phạm thì... TỰ XỬ! Đây là hợp đồng tự lập không có hiệu nghiệm trước pháp luật. Ký tên, sao ra hai bảng để mỗi bên giữ một bảng và đều có giá trị như nhau. *** TÁM ĐIỀU KHOẢN TRONG BẢN HỢP ĐỒNG NGOẠI TÌNH 1. Tự nguyện trao thân. 2. Quan hệ đúng số lần quy định: một tuần một đêm. 3. Không được can thiệp vào cuộc sống riêng tư của đối phương. 4. Bên B không được có tình cảm với bên A. 5. Trong lúc quan hệ, cấm bên B hôn bên A. 6. Bên B phải luôn bảo vệ và làm vui lòng bên A. 7. Bên A tuyệt đối không được đuổi việc bên B. 8. Quyền kết thúc hợp đồng thuộc về bên A. ------ Thời đại ngày nay, giới trẻ song hành cùng sex. Có những con người vì quá cô đơn và lạc lối không biết tìm mình ở đâu đã tìm đến sex như một cách giải phóng những xúc cảm tồi tệ, kinh khủng trong chính bản thân. Nhưng đáng buồn, sex chỉ để lại cho họ nỗi đau chồng chất nỗi đau. Một con đường tăm tối không lối thoát. Liệu, sex có phải giải pháp hay giúp giới trẻ tìm đến hạnh phúc chân chính?... Tình yêu không phải chỉ có sỏi đá, cũng không phải chỉ có xác thịt. Đó là sự hoà nguyện giữa tâm hồn lẫn thể xác. Mời các bạn đón đọc Chú Hãy Ngủ Với Tôi của tác giả Võ Anh Thơ.